Tàng thức và giáo lí Tứ đế

tu deĐạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ, là đạo diệt khổ. Giải thoát khổ đau cho con người là mục đích của đạo Phật. Từ các giáo lý nền tảng nhất như Tứ diệu đế cho đến sau này khai triển mà ở đây đề cập với ý niệm về Tàng thức trong Duy thức học, tất cả, dù thiên diễn mênh mông cũng không ngoài mục đích ấy.

Từ cổ chí kim, trong lịch sử nhân loại, mọi sự vận động của khoa học, triết học, xã hội đều nhằm cố gắng đi tìm bản chất của con người và thế giới. Nhưng họ đã bế tắc, bởi lẽ những sự vận động ấy chỉ thuần duy lý của tư duy hữu ngã mà không gắn liền với thực tại. Vì thế, vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, chưa giải quyết được một cách rốt ráo.

Khổ đau của con người là một sự thật hiện hữu rõ ràng. Chúng sinh sở dĩ không ra khỏi vòng luẩn quẩn của luân hồi đau khổ vì không nhận chân thế nào về bản chất của khổ, nguyên nhân và con đường đi đến sự diệt khổ. Không nhận chân, điều đó có nghĩa là đau khổ ở thế gian, chủ yếu là thế gian nội tâm hơn là thế gian bên ngoài. Ngoại cảnh là phản ảnh của nội tâm. Cho nên Tàng thức trong Duy thức học cũng là một bước triển khai trên lãnh vực nội tâm để lý giải, hiển bày rõ hơn về bốn sự thật mà giáo lý Tứ đế – bài pháp đầu tiên, nền tảng căn bản đạo học của Phật giáo đã thuyết minh.

Trong Tương ưng bộ V, kinh Chuyển pháp luân, trang 424, Phật dạy: “Thế nào là Tứ Thánh đế? Đó là Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế và Khổ diệt đạo Thánh đế.

Thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

Thế nào là Khổ tập Thánh đế? Chính là ái đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là Dục ái, Hữu ái và Vô hữu ái.

Thế nào là Khổ diệt Thánh đế? Chính sự đoạn diệt ly tham không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.
Thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế? Tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”.
Trên đây là những khẳng định cô đúc, súc tích nhất của Tứ Thánh đế. Thánh đế là chân lý cao cả, là sự kiện hiển nhiên không thể tranh luận. Gọi là Thánh đế, vì đây là con đường dẫn đến bậc Thánh, được đức Thích-ca đã chứng ngộ, khai thị, thi thiết, kiến lập, phân biệt hiển lộ rộng rãi. Bốn chân lý được gọi là cao quý nhất, rõ ràng, vì không có chân lý nào trước và sau đó cao quý hơn. Như xác nhận chắc thật của tôn giả A-nậu-lâu-đà trước lúc đức Như Lai nhập Niết-bàn: “Bạch đức Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà Ngài dạy: Khổ thì thật là khổ không thể làm cho vui lên; Tập là nguyên nhân của khổ thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; Diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt đã thì kết quả cũng diệt; Đạo là phương pháp diệt khổ  nên thật là Đạo, không có Đạo nào khác hơn”.
Do đó, nếu thấy rõ Tứ Thánh đế thì đó là dấu hiệu báo trước của sự giác ngộ như thật về Tứ Thánh đế. Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, đây là điềm đi trước, đây là tướng báo trước mặt trời sắp mọc tức là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đây là điềm đi trước, đây là tướng báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh đế, tức là chánh tri kiến”. Vì vậy, từ lòng thương tưởng của đức Phật, mỗi đế đã được cắt nghĩa qua ba chuyển: đó là thấy rõ và chỉ cho chúng sanh thấy rõ khổ đau (thị chuyển); khích lệ chúng sanh thấy rõ khổ đau (khuyến chuyển); rồi khẳng định có sự chứng ngộ hay chứng đạt, dứt trừ hết khổ đau (chứng chuyển). Mỗi đế có ba chuyến như thế bốn đế thành mười hai hành tướng. Chính “chứng chuyển” là một khích lệ lớn từ tự thân đức Thế Tôn đối với chúng ta là toàn bộ chúng sanh. Bởi lẽ Ngài chẳng phải là một đấng thần linh mơ hồ nào, mà trước đó Ngài cũng là một chúng sanh, là một con người. Cho nên, qua đó, với Tứ diệu đế, ta có bốn nhiệm vụ thi hành là: Khổ nên biết, Tập nên đoạn, Diệt nên chứng và Đạo nên tu.
Khổ đế là diệu đế thứ nhất, được trình bày trước hết là trong hai cặp nhân quả thế gian và xuất thế gian của Tứ diệu đế.
Khổ – Duḥkha – là một thuật ngữ bao hàm nhiều nghĩa, như sự bức bách khó chịu… sự khổ đau trong thế giới hữu tình chứa đựng nhiều vị chua, cay, đắng, chát, đem lại cảm giác khổ đau bất an.
Có ba nghĩa của sự khổ: thứ nhất là nghĩa vật chất sinh lý (khổ theo nghĩa thông thường); thứ hai là nghĩa tâm lý tinh thần; và nghĩa thứ ba mang tính triết học như Phật nói: cái gì vô thường là khổ. Ứng trên ba nghĩa này về sự khổ, mà Phật giáo có ba khái niệm khổ (tisro-duḥkhatāḥ, 三苦): khổ khổ (duḥkha-duḥkhatā, 苦苦), hoại khổ (vipariṇāma-duḥkhatā, 壞苦) và hành khổ (saṃskāra-duḥkhatā, 行苦).
Khổ khổ là cảm giác khổ về thân tâm hiện tiền, cảm giác khổ dễ nhận thấy như: sinh, già, bệnh, chết, xa người mình thương, gần người mình ghét, cầu không được…
Hoại khổ được hiểu là nỗi khổ tiếp theo sau niềm vui tàn tạ. Hành khổ là nỗi khổ sâu xa thầm kín của tất cả chúng sinh. Đó là sự chuyển biến ngấm ngầm trong từng sát-na, nó bao trùm cả vô thường (anitya, 無常), khổ (duḥkha, 苦), sự trống rỗng giả tạm (śūnya, 空, không), không có một thực thể cố định (anātman, nir-ātman, 無我, vô ngã). Cho nên Hành khổ mang ý nghĩa sâu sắc hơn hai nghĩa trên, vì ở đó nói lên được cội rễ nỗi khổ thế gian, đó là sự chấp ngã. Như định nghĩa trên, chấp thủ lấy thân tâm năm uẩn này là ta, là của ta, là tự ngã của ta, đó là mầm mống sinh khởi ái dục, đưa đến vô vàn đau khổ mà ở diệu đế thứ hai được trình bày tường tận.
Tập đế (samudaya-satya, 集諦) – chân lý cao cả về sự phát sinh hay nguồn gốc của Duḥkha, bao hàm tất cả những yếu tố gì sinh khởi, phát triển, kéo dài, liên hệ đến phiền não hữu lậu pháp. Những yếu tố ấy tựu trung mang một trong những bốn nghĩa: nhân (hetu, 因), tập (samudaya, 集), sinh (prabhava, 生) và duyên (pratyaya, 緣).
Nhân là những điều làm nhân đưa đến quả khổ. Tập là những điều tập hợp lại đưa đến quả khổ. Sinh là những cái có khả năng làm phát hiện Khổ đế. Và duyên là những gì làm duyên cho khổ được hình thành. Trong đó, khát ái (taṇhā, 渴愛) được xem như nguyên nhân chính yếu, trực tiếp và dễ thấy nhất của khổ mà tham (lobha, 貪), sân (pratigha, dveṣa, 瞋), si (moha, mūḍha, 癡) là bản chất biểu hiện qua thân, khẩu, ý, tạo nghiệp luân hồi muôn kiếp. Nhưng Ái không phải là nguyên nhân đầu tiên. Theo Duyên khởi, chính ái (tṛṣṇā, 愛) do thọ (vedanā, 受) sinh, thọ do xúc (sparśa, 觸) sinh, xúc do hành (saṃskāra, 行) sinh… Khổ đau do khát ái, như thế cũng có nghĩa là do mười hai nhân duyên hay năm thủ uẩn mà tập khởi. Sự chấp thủ năm uẩn vô hình trung là biểu tướng của vô minh, ý niệm sai lầm về ngã từ năm thủ uẩn. Và trong vòng luân hồi có bốn loại thức ăn (atvāra āhārāḥ, 四食) theo nghĩa duyên (ở trên) để hữu tình tiếp tục sống và tồn tại. Trong đó, tư niệm thực là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, tái sinh, tương tục, tăng trưởng, tạo nên nguồn gốc của sự sống và tiếp tục tiến tới trước những nghiệp thiện và bất thiện. Khi hiểu được tư niệm thực sẽ hiểu được ba hình thức khát ái: dục ái (khao khát khoái lạc giác quan), hữu ái (khao khát sự hiện hữu) và vô hữu ái (khao khát sự không hiện hữu).
Nói tóm, vô minh, ái, thủ, hành nghiệp, v.v… đều là những sự thật về nguyên nhân của Khổ, không có nguyên nhân nào khác.
Ta thấy nguyên nhân của Duḥkha nằm ngay trong bản chất Duḥkha, nên đến diệu đế thứ ba – Khổ diệt Thánh đế (nirodha-satya) – chính là sự trừ diệt nguyên nhân của Khổ. Cho nên trạng thái niết-bàn chỉ được định nghĩa một cách gián tiếp qua việc phủ nhận những gì nội dung của Tập đế như: ái tận niết-bàn, thủ diệt niết-bàn, uẩn diệt niết-bàn, vô ngã niết-bàn. Hay ngược lại, niết-bàn là tham, sân, si diệt, hoặc thức diệt, hành diệt, vô minh diệt… Và điều căn trọng khi nhận thức niết-bàn đó là cảnh giới giải thoát, thoát ly ngôn ngữ khái niệm, vượt ngoài các phạm trù đối lập của nhị nguyên, nói rõ hơn, niết-bàn không còn nằm trong phạm vi nhân quả. Đó không phải là kết quả của con đường. Công phu tu tập để đoạn diệt ái chỉ là con đường dẫn đến niết-bàn mà thôi. Điều này thấy rất rõ, khi trong các bộ luận, chư Tổ đã phân tích về cặp nhân quả xuất thế Diệt đế và Đạo đế. Đạo đế được coi là hữu vi, hữu lậu, ngầm mang ý nghĩa chỉ là phương tiện đưa đến vô lậu. Trong khi Diệt đế gọi là vô vi, vô lậu, nằm ngoài mọi biểu đạt của ngôn từ, khái niệm. Và con đường đi về giải thoát ấy chính là nội dung của Khổ diệt đạo Thánh đế, bao hàm toàn bộ giáo lý tu tập Phật giáo được xây dựng trên nền tảng căn bản của giới, định, tuệ mà hầu hết các kinh nói nhiều đến Bát thánh đạo như là một phương hướng chung cho tất cả các con đường về niết-bàn.
Nói cách khác, các pháp môn hành trì đều bao hàm trong Bát thánh đạo. Và tất cả tựu trung đều mang ý nghĩa sau:
– Đạo (mārga, 道): Con đường của tinh thần, của hành động, của tâm niệm; con đường dẫn đến ly dục, ái tận, niết-bàn.
– Như (nyāya, 如): Con đường đúng như chánh pháp, đúng chánh lý, có thể thành tựu được.
– Hành (pratipad, 行): Những pháp môn có thể thực hành được và hợp lý.
– Xuất (nairyāṇika, 出): Có khả năng đưa ra khỏi sinh tử luân hồi, có khả năng dứt sạch phiền não.
Trên đây là khái lược về Tứ thánh đế. Trước khi đi vào phân tích nội dung, tính chất vận hành của Tàng thức trong sự tương quan của nó với giáo lý Tứ đế, thiết tưởng, ở đây ta cũng cần điểm qua về lập trường của Duy thức học.
Nếu Tứ diệu đế chỉ ra sự thật của thế và xuất thế, thì trong một tương quan rất gần, Duy thức học là môn học chuyên khảo sát thực tại trên phương diện hiện tượng. Hiện tượng của những hành tướng tâm lý được trình bày một cách khúc chiết bởi sự chứng ngộ của chư Tổ sư. Qua sự khảo sát đó, giáo lý Duy thức giúp ta nhìn thẳng vào bản chất thực tại từ quan điểm hiện tượng học mà Tàng thức (藏識) là tận cùng biên giới của sư khảo sát ấy.
Chúng ta đang sống trong phạm trù phân biệt của khái niệm, của hiện tượng. Với những lý tính của Tàng thức sắp trình bày sẽ chỉ ra những sai lạc của nhận thức khái niệm hoá thói quen vọng tưởng mê lầm xưa nay của chúng sinh dẫn đến khổ đau.
Quá trình nhận thức ấy là cả một hệ thống tâm lý phức tạp, vận hành sâu nhiệm mà Duy thức thuyết minh với Bát thức tâm vương và các điều kiện tâm lý phụ trợ phối hợp. Luận Duy thức tam thập tụng (Triṃśikā-vijñapti-mātratā-siddhi, 唯識三十論頌) của Bồ-tát Thế Thân (Vasubandhu, 世親) cô đọng thành ba tướng năng biến mà Tàng thức còn gọi là A-lại-da thức (ālaya, 阿賴耶識), tức tướng năng biến thứ nhất đóng vai trò nền tảng cho hoạt động của hai tướng năng biến kia đưa ra, chiếu kiến, phát hiện bên ngoài. Hành tướng của Tàng thức được mô tả như sau:
Đệ nhất năng biến thức,
Sơ A-lại-da thức,
Dị thục nhất thiết chủng
Bất khả tri chấp thọ,
Xứ liễu thường dữ xúc,
Tác ý, thọ, tưởng, tư,
Tương ưng duy xả thọ,
Thị vô phú, vô ký,
Xúc đẳng diệc như thị,
Hằng chuyển như bộc lưu,
A-la-hán vị xả.



Thức năng biến thứ nhất này có ba tên chia theo ba tướng: tự tướng, nhân tướng và quả tướng.
Thứ nhất là A-lại-da (ālaya, 阿賴耶), tên gọi chỉ tự tướng, tức tướng “tàng” của nó. Có ba nghĩa: 1. Năng tàng (能藏): Khả năng dung chứa những chủng tử; 2. Sở tàng (所藏): Chỗ chứa đựng, cất giấu hạt giống các pháp; 3. Ngã ái chấp tàng (我愛執藏): là nghĩa mà tướng năng biến thứ hai, tức thức Mạt-na thứ bảy vin chặt làm tự ngã, chấp chặt ngã tướng sâu đậm không cho mất.
Thứ hai là tên Nhất thiết chủng (一切種), để chỉ về nhân tướng; tức tướng nhân của nó nhóm các hạt giống sinh ra vạn pháp, tướng nắm giữ hạt giống các pháp chẳng chung với các thức khác.
Thứ ba là tên Dị thục (異熟), để chỉ tướng quả báo của thức này. Vì nó làm chủ động đi lãnh thọ nhân quả báo. Thức này dẫn sinh các cõi tùy nghiệp thiện ác.
Thể của thức năng biến thứ nhất không phân biệt thiện hay ác và không bị phiền não ngăn che, nên tánh nó thuộc về vô phú vô kí. Và năng lực chuyển biến của A-lại-da mạnh như thác nước đổ dốc. Từ vô thỉ đến giờ niệm niệm sinh diệt không hề gián đoạn, mà hằng chuyển; nghĩa là luôn luôn phát triển và tồn tại. Nó vừa làm nền cho các thức khác vận hành và bản thân nó cũng hằng chuyển. Trong ý nghĩa này cũng nói lên được ý niệm về Hành khổ của Khổ đế.
Nhưng sức vận hành chuyển biến ấy như thế nào?
Trước hết, cảnh sở duyên của nó là chấp thọ và xứ. Vì chấp thọ chỉ cho chủng tử và thân căn. Thức này có công năng giữ gìn chủng tử của các pháp và duy trì thân hữu căn để sinh ra giác thọ. Còn xứ là khí thế gian, là toàn thế giới và chúng sinh đều do đệ bát thức biến ra và giữ gìn mãi không cho mất.
Như vậy, A-lại-da hay Tàng thức bảo trì chủng tử ảnh tượng sinh mệnh hữu tình và thế giới vật lý. Đối tượng của A-lại-da là danh sắc (nāma-rūpa, 名色). Vì A-lại-da gồm có trong tự thân nó chủ thể (năng tàng) và đối trị (sở tàng) luôn luôn biến chuyển. Dù trong trạng thái tiềm ẩn của chủng tử, các pháp cũng chuyển biến (nghĩa hành) mọi phân biệt đều phát xuất do sự triển chuyển của “như thị, như thị” biến từ Tàng thức chứa nhóm các chủng tử mà có. Chủng tử sinh hiện hành, hiện hành lại sinh kiến phần, tức năng phân biệt và tướng phần sở phân biệt. Từ đó phân biệt lưu liên sinh khởi không ngừng nghỉ. Từ lúc sinh khởi đến chín muồi, chủng tử trải qua nhiều lần biến đổi phức tạp. Như nhãn thức nhờ có chủng tử nên khi gặp các duyên căn (indriya, 根), cảnh (viṣaya, 境), tác ý (manaskāra, 作意) mà khởi ra kiến phần (見分) và tướng phần (相分) để nhìn nhận mọi vật. Kết quả nhìn nhận mọi vật ấy là từ nơi chủng tử được trợ duyên sinh ra. Kiến phần, tướng phần lần lượt nhiều tầng đến thành thục, gọi là như thị biến của giai đoạn một nhiều tầng:
“Do nhất thiết chủng thức,
Như thị như thị biến,
Dĩ triển chuyển lực cố,
Bỉ bỉ phân biệt sinh”.
(Luận Tam thập tụng, kệ 18)
Khi ấy, nếu chủng tử yêu thích thì tác ý theo Nhãn thức tâm vương (cakṣur-vijñāna) mà khởi hiện hành ưa thích. Nếu chủng tử không ưa thích thì khởi hiện hành ghét bỏ. Đó là mầm mống tạo nghiệp (ái).
Từ chủng tử ra hiện hành, đó là quá trình do khả năng phát hiện của A-lại-da, tức tính năng trì (能持) và năng biến (變). Sự phát hiện ấy tuân theo nguyên tắc nhân duyên và nghiệp báo. Tất cả những nghiệp nhân đã tạo điều kiện hiện hữu trong A-lại-da ở thế tiềm tàng, nhưng tất cả vẫn tiếp tục sinh hoạt dưới định luật nghiệp báo. A-lại-da là tổng thể của những thứ đó. Đến đây, A-lại-da được nhận định là bản thân của nghiệp. Tất cả nghiệp nhân đều ở trong A-lại-da và ngầm chuyển động trong đó. Khi nghiệp nhân chín muồi thì một giai đoạn mới phát hiện. Lúc này A-lại-da có tên gọi là dị thục thức (vipāka-vijñāna) – thức của sự chín muồi các nghiệp nhân trong quá trình chuyển biến.
Chính tập khí là chủng tử các nghiệp và chủng tử là tập khí của hai thủ: năng thủ (grāhaka, 能取, là kiến thủ, hay phiền não chướng, ngã chấp) và sở thủ (grāhya, 所取, tướng thủ, tức sở tri chướng, là pháp chấp). Hai thủ ấy chung nhau làm duyên nên báo thân dị thục đời này vừa hết thì lại tiếp tục sinh ra các báo thân dị thục đời sau và mãi mãi vô cùng tận:
“Do chư nghiệp tập khí,
Nhị thủ tập khí câu,
Tiền dị thục ký tận,
Phục sinh dư dị thục”.
(Luận Tam thập tụng, kệ 19)
Vì tập khí (vāsanā, 習氣) là khí sắc ấn tượng sinh lưu triển chuyển của các chủng tử câu sinh từ vô thỉ kiếp trở lại, nên mang tính bền bỉ khó biết, khó thấy ở nơi tạo tác các nghiệp: phước nghiệp (puṇya-karma, 福業), phi phước nghiệp (a-puṇya-karma, 非福業) và bất động nghiệp (不動業); và do bởi nhị thủ: kiến thủ (năng thủ), tướng thủ (sở thủ) hoặc danh sắc (tâm và vật) cũng là tâm vương, tâm sở cấu kết với sắc tướng thành một năng lực chuyển động không ngừng, trùng trùng điệp điệp hằng sa biến hiện trong ba đường sáu nẻo. Đấy là chìa khoá của hành trình sinh tử luân hồi kiến lập từ nội thức (Tàng thức) phóng ra hoạt cảnh là tướng trạng thế gian.
Trong mười hai nhân duyên, ý niệm dùng để giải thích nghiệp báo và luân hồi khi phần thức được hiểu là thức căn bản, tức là tàng thức này. Vì A-lại-da là nguồn gốc của danh sắc hoặc năm uẩn (pañca-skandha, 五蘊). Khi dùng danh từ A-lại-da, ta nói tới chân như trong trạng thái nhiễm (tương đồng nghĩa Như Lai tại triền của Khởi tín). Chân như, theo quan niệm Phật giáo về thực tánh mầu nhiệm của hiện hữu, tự thân của thế giới hiện tượng, như nước biển là bản chất của sóng biển. Đứng trên phương diện bản thể thanh tịnh, nó được gọi là chân như; đứng trên phương diện trạng thái nhiễm, nó được gọi là A-lại-da thức. Cho nên, chữ Thức (vijñāna, 識) trong mười hai nhân duyên được hiểu là A-lại-da, chứ không được hiểu là các thức khác. Bởi nhiều lý do, trong đó có lý do A-lại-da là thức căn bản của mọi thức khác. Cái sức mạnh đó khiến cho nước chân như nổi thành sóng A-lại-da, được gọi là Hành (saṃskāra, 行), tức là những tác động vô thức của ý chí sinh tồn (tương đồng nghĩa Tư niệm thực) theo hướng Vô minh. Mà chính vì sự thiếu giải thoát, thiếu trí tuệ nên có những vô thức đó; nghĩa là vì Vô minh nên mới có Hành. Từ đây cho thấy, tại sao Phật giáo chủ trương “Duy tuệ thị nghiệp” và Duy thức học gọi là quá trình chuyển Thức thành Trí (jñāna, 智). Chỉ có trí tuệ mới chấm dứt được khổ đau của mê lầm. Vì thế, Niết-bàn theo Duy thức học, đó là sự chuyển y (āśraya-parivṛtti, 轉依), tức chuyển phiền não chướng (kleśāvaraṇa, 煩惱障) hay ngã chấp (ātma-grāha, 我執) thành đại giải thoát Niết-bàn; chuyển sở tri chướng (jñeyāvaraṇa, 所知障) hay pháp chấp (dharma-grāha, 法執) thành đại Bồ-đề thanh tịnh. Gọi là chuyển y, thì y ở đây tức là ý nghĩa Sở tri y của nhiễm lẫn tịnh trong A-lại-da. Vì rằng, trong Tàng thức dung chứa các hạt nhân nhiễm và tịnh. Mục tiêu của phương pháp Duy thức là làm cho các hạt giống ô nhiễm, bất thiện trong Tàng thức tan biến, diệt tận, trả lại bản tính thanh tịnh, vô nhiễm cho Tàng thức mà thuật ngữ gọi là Bạch tịnh thức hay Vô cấu thức. Đây là ý nghĩa lìa sinh tử không có Niết-bàn. Vì Niết-bàn và sinh tử không hai không khác. Nghĩa này tương đồng hai loại vô trụ xứ niết-bàn (apratiṣṭhita-nirvāṇa, 無住處涅槃) và bổn lai tự tánh thanh tịnh niết-bàn (來自性清淨涅槃). Quá trình này được ví dụ bằng hình ảnh: một khi lá cây, hoa cỏ rơi rụng (tiền ngũ thức gục), cành lá gãy nát (ý thức tiêu), thân cây mục nát rã rời (Mạt-na biến), gốc rễ tàn lụi (A-lại-da băng). Thế là dáng vóc hoạt cảnh không còn. Nhưng tất cả tro bụi của cây dồn vào đất biến thành đất màu (thể của A-lại-da), vì chuyển A-lại-da thức nên thể vẫn còn mãi để tiếp dẫn cao trào đăng quang ngôi vị giải thoát; tức mặt bằng từ vọng đến chơn, vì vọng chuyển xả thì chơn hiển bày – tuệ giác sinh. Có tuệ giác để nhận ra thực tại niết-bàn, chứ niết-bàn không được sinh; không phải là kết quả do công phu xả trừ hai thủ năng, sở mà sinh. Do thế, tuệ giác ấy gọi là xuất thế gian trí, là vô đắc Niết-bàn:
“Nhược thời ư sở duyên,
Trí đô vô sở đắc,
Nhĩ thời trụ Duy thức,
Ly nhị thủ tướng cố.
Vô đắc bất tư nghì,
Thị xuất thế gian trí,
Xả nhị thô trọng cố,
Tiện chứng đắc chuyển y”.
(Sđd, kệ 28-29)
Như vậy, qua sự trình bày Tàng thức và hiện tượng biểu trưng của nó là chủng tử (bīja, 種子), tự nó đã có thể lý giải khổ đau. Chủng tử là khổ đau. Chủng tử là Tập. Và tu tập để giải thoát chính là để nhận ra chủng tử, chuyển hóa và làm rơi rụng chủng tử đến hồi bạch tịnh.
Nếu trong Duy thức học, Tàng thức là trung tâm điểm, từ đó thuyết minh phương pháp khảo sát, thì chủng tử là nội dung chính của sự khảo sát đó. Chủng tử là khách trần (akasmāt-kleśa, 客塵), là kết quả của sự huân tập và hiện hành từ vô thỉ, không phải là bản thể (svabhāva, 自性, tự tánh). Chủng tử chỉ là hiện tượng, hiện tượng rất sâu nhiệm trong tận cùng tâm lý mà phàm phu khó nhận biết, nếu không nhờ sự diễn bày của các bậc Tổ sư chứng ngộ.
Và vấn đề ngã và vô ngã được nhận rõ ngang qua sự vận hành của Chủng tử. Sự chuyển biến miên tục của chủng tử thức “như một dòng thác” đã nói lên một thực tại không có ngã, không có thực thể bất biến. Cá nhân của giai đoạn sinh mệnh hiện tại không hẳn là một cá nhân của sinh mệnh quá khứ, cũng không hẳn là khác. Dầu cho trong cùng một giai đoạn sinh mệnh cũng đã không có một cái ngã đồng nhất bất biến, không thể có cái tôi đồng nhất trong hai sát-na nối tiếp nhau “không phải cái ấy, cũng không phải cái khác”. Đó là tính cách phi nhất, phi dị của mọi hiện hữu. Vì thế chỉ có dòng sinh diệt liên tục mà không có ngã. Đó là tinh yếu của lý thuyết vô ngã trong Duy thức học.
Sự thật khổ đau của chúng sinh bắt nguồn từ quan kiến sai lầm: sai lầm về một tự ngã thật hữu, trong khi thực tại là duyên sinh vô ngã tính, hay y tha khởi tính của Duy thức. Nhưng sự thật mà không thật gì cả. Do tánh biến kế vọng tưởng phân biệt rồi nhận y tha một cách sai lầm, hoàn toàn không thật có. Đó chỉ là con rắn của người sợ hãi lầm nhận sợi dây trong đêm tối, để rồi khiếp đảm chạy bán sống bán chết. Lực thấy, lực sinh, lực khiếp là tánh của biến kế. Ngày nào tính bản hữu cố chấp ấy còn, ngày ấy không gian tướng vô tận và thời gian sinh tử vô cùng, trôi nổi lặn hụp không bao giờ ngừng nghỉ.
Một khi ánh sáng đủ để nhận thấy sợi dây là sợi dây, thì mọi tác năng xung quanh hình ảnh con rắn và chính nó biến mất. Từ sợi dây sinh sợ hãi và cũng từ nó hết sợ hãi. Thực tại là thực tại, khác chăng chỉ là tâm lý của người giác ngộ và chưa giác ngộ đối với thực tại mà thôi. Và ta thấy, dường như áng sáng và sợi dây cùng là một của thực tướng. Nhưng rõ ràng, sợi dây chẳng phải được sinh ra từ ánh sáng, mà chỉ được thấy rõ để rồi hết sợ nhờ ánh sáng đó. Đạo Phật với tất cả giáo nghĩa được thuyết minh là nội dung và tác dụng của ánh sáng đó mà ở đề tài này là Tàng thức và giáo lý Tứ đế.
Ở đó, chân lý đã được triển khai trọn vẹn. Con người chính mình phải làm chủ mình cả nghiệp quả luân hồi lẫn giá trị giải thoát xuất thế gian. Đó là sự thật chẳng có ai nhúng tay vào. Hãy tự mình khởi hành như một ý nghĩa về pháp Phật: Ehi passiko! – Đến để mà thấy – Hãy đến đây (thực hành) là tự bạn sẽ nhận thấy. Hạnh phúc chân thật đang đợi bạn bên ấy!

 

Định Thông

Chú thích
. Tứ thực (atvāra āhārāḥ, 四食): đoàn thực (s: kavaḍiṃkārāhāra, kavlīkārāhāra, p: kabaliṅkārāhāra, 段食), xúc thực (s: sparśākārāhāra, p: phassākārāhāra, 觸食), tư thực (s: manaḥ-saṃcetanākārāhāra, p: mano sañcetanākārāhāra, 思食), thức thực (s: vijñānākārāhāra, p: viññāṇākārāhāra, 識食).    
. Ngũ uẩn (pañca-skandha, 五蘊) gồm: sắc uẩn (rūpa-skandha, 色蘊), thọ uẩn (vedanā-skandha, 受蘊), tưởng uẩn (saṃjñā-skandha, 想蘊), hành uẩn (saṃskāra-skandha, 行蘊), thức uẩn (vijñāna-skandha, 識蘊).

Nguồn Tập San Pháp Luân 44

 

http://files.myopera.com/levulan/blog/SenhongVuLan2007-1.jpg