Mười điều thiện - phần 2

Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống hằng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm. Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả.

6. KIÊN NHẪN

Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống hằng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm. Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả.

Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ ta có tâm chấp Ngã vì ta muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự tính. Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi. Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của mình. Ta quên là còn có nhiều yếu tố khác, nhiều nhân duyên liên hệ khác. Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỉ người trên quả đất nầy, và quả đất nầy chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và còn có hằng ha sa số các tinh cầu khác nữa. Vì tư lợi của mình, ta quên đi những điều ấy. Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ý mình ngay lập tức. Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ. Đó là một vòng tròn oái oăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận.

Lòng kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được. Đôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại nầy. Nếu ta không thể chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta càng thêm đau khổ. Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, thì sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội. Như khi ta đấm tay vào một vật cứng, tay ta sẽ bị đau. Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta sẽ không thấy đau. Phản kháng hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau.
 


Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ có thể nhìn thấy sự vật thay đổi, chuyển động và trôi theo dòng chảy. Có những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng cũng bình thường. Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay chúng không có ý nghĩa gì nữa với ta. Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra. Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một phần của dòng đời lên xuống.



Những đức tính nầy chỉ có thể vun trồng trên mãnh đất mầu mỡ của nội tâm. Nội tâm ẩn náo bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng, trong khi kiên nhẫn và xuất ly cần có để đối trị với ngã mạn, vì tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã.



‘Nội tâm’ trong ngôn ngữ Phật giáo có nghĩa là sự suy gẫm thậm sâu về ba đặc tính trên: vô thường, khổ và vô ngã. Chúng không ngừng xảy ra. Chỉ có sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại. Ta thường tìm cách trốn tránh chúng. Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản kháng lại chúng. Ta từ chối sự hiện hữu của chúng, và luôn nghĩ ra đủ mọi cách để trốn tránh chúng. Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu. Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu.



Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính mình. Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả. Nếu không có kiên nhẫn với chính mình, tức là ta không biết tự quí trọng mình. Ta phóng đại về khả năng của mình, sự quan trọng của mình, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức giận. Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không cần ngủ nghĩ. Đủ thứ ‘phải’. Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiều kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ.



Tuy nhiên cũng không nên đồng hóa tính kiên nhẫn với sự dễ dãi. Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng. Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm gì cũng vô ích, là một điều không đúng sự thật. Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh. Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính. Dầu biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn.



Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của mình và nói: ‘Dơ rồi. Nhưng ta có thể làm được gì chứ? Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ’. Đó là một thí dụ cực đoan. Giống như một người nhìn quanh phòng rồi nói: ‘Phòng dơ quá. Mà phòng nào rồi cũng dơ". Hay có người quan sát nhà mình rồi nói: ‘Nước sơn đã bạc màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu’. Đó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm. Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: ‘Oi, còn làm gì được nữa? Ai không tham lam, sân hận’ và rồi để mọi việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.



Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người mình, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều nầy cũng chẳng ích lợi chi. Tất cả mọi thứ đều cần thời gian. Từ vô thủy ta đã lập đi lập lại những tánh xấu nầy. Ta cần phải có thời gian để thay đổi. Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì không.



7. CHÂN THẬT



Tiếp theo là chân thật, và đức tính nầy có nhiều khía cạnh. Đầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật. Đó là giới luật thứ tư - không nói dối. Nhưng còn hơn thế nữa. Ta cần phải tự khám phá mình với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm. Đó là một việc khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết lỗi mình, không phải của người. Tìm lỗi của người không khó. Lỗi của người khá hiển nhiên. Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là điều khó làm, ta cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.



Điều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn mình. Khi câu hỏi đầu tiên được trã lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trã lời đó, ‘Tại sao tôi lại hành động như thế? Tại sao tôi lại có những cảm thọ đó? Tại sao tôi phản ứng như thế?’ Cuối cùng các câu trã lời đều đưa về một ‘cái ngã’, nếu ta đã tự phân tích mình đầy đủ.



Các phản ứng dễ dãi như ‘Ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm gì khác hơn’, hay ‘Đó là nghiệp của tôi rồi’, không ích lợi gì. Cả hai thái độ đều vô hiệu quả, vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gở sự bám víu vào cái ngã.



Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta. Ta phải đặt một tấm gương trước mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà là để theo dõi sự hình thành của tâm sinh lý của ta. Tấm gương đó gọi là chánh niệm. Đôi khi cách người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực vì có cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công việc chính của ta lả phải tự chất vấn mình thôi.



Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật tức là biết được bốn sự thật cao quý (tứ diệu đế) và đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao quý đó có nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn nội tâm: sự thật về khổ, sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân; sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế), nghĩa là sự giải thoát; và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế), đó là bát chánh đạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.



Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát. Người ta có thể đi tìm chân lý bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học. Có nhiều lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người nầy và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt lý thuyết của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng không thể nào đem lại sự thỏa mãn hoàn toàn.



Đi tìm chân lý là một điều nên làm, người trẻ nên đeo đuổi theo chân lý và người già không nên ngừng nghỉ. Đáng buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có bị gián đoạn. Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì mục đích sinh tồn, đến nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của họ. Họ không còn đủ năng lực hay ý chí. Thật đáng tiếc khi người trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, còn người già thì không còn đủ năng lực. Như Bernard Shaw đã nói: "Tuổi trẻ bị lãng phí bởi những người trẻ tuổi".



Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc tìm kiếm chân lý, dù chỉ một phút. Nếu ta tiếp tục kiếm tìm, thì chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng chân lý không thể là một sản phẩm của loài người. Chân lý phải có tính cách toàn cầu. Phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một loại người nào, một tầng lớp xã hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia, tôn giáo nào. Chân lý phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người tuyệt đối, mãi mãi - không chỉ tạm thời, cho một nhóm người nào đó thôi.



Chân lý phải là sự thật tuyệt đối, chứ không phải tương đối. Chân lý tuyệt đối nằm trên những khổ đau và kiếm tìm của con người. Nó nằm trong những cuộc kiếm tìm của tâm linh và chân lý chỉ có thể tìm được trên các con đường tâm linh. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều. Nó có ngày mai và hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và tôi không muốn, tiềm ẩn trong đó. Trong đó có cá tính ‘của tôi’ và cá nhân ‘của tôi’ mà ‘tôi’ muốn khẳng định và ‘tôi’ muốn bành trướng. Điều đó chỉ có tính cách tương đối và không phải là chân lý tuyệt đối có thể làm thỏa mãn mọi người. Ai đó phải chịu thiệt thòi trong thế giới đó. Chân lý tuyệt đối bỏ qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá nhân, ta sẽ nhận ra rằng những gì được coi là ‘tôi’, ‘của tôi’ là một sai lầm và những gì là ‘anh’, ‘của anh’ cũng là một hiểu lầm đáng tiếc. Không có tha nhân để ta lo ngại, sợ hãi. Tất cả chỉ là một dòng chảy và thể chất chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Chân lý tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào. Nó có tính cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con đường bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính nầy tạo nên sức mạnh bên trong ta, và để phá vở sự thật tương đối, tìm ra chân lý tuyệt đối, ta cần phải có rất nhiều sức mạnh.



8. QUYẾT TÂM



Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp là sự quyết tâm. Không có quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được gì. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy cũng cần có quyết tâm. Tuy nhiên có việc đòi hỏi nhiều quyết tâm hơn các việc khác, thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi Thiền không có gì hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không mang lại kết quả tức thời



Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết quả tức thời. Nhấn một cái nút, tức thì các số tiền mua sắm được tổng cộng ngay. Nhấn một cái nút khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ. Nhấn một nút nữa, đèn được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức. Xã hội chúng ta, hơn bao giờ hết, đòi hỏi các kết quả ngay tức thời. Đó là lý do tại sao các viên thuốc giảm đau được người ta ưa thích hơn các loại thuốc đông y thường cần thời gian lâu hơn mới có công hiệu.



Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm bảo. Muốn tu Thiền, ta cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên cường. Tâm yếu đuối không thể có quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ, định tĩnh thì trái lại. Mỗi khi ngồi xuống tọa Thiền, ta cần phải quyết tâm ngồi một chổ, không nhúc nhích, để giữ tâm ở yên một chổ, để chú tâm vào việc ta đang làm.



Trong đời sống hằng ngày, ta cũng cần có quyết tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ cơ hội, thì cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta cần phải làm một cái gì đó. Phải có quyết tâm bạn mới đến Thiền viện để học Thiền, vì ở nhà thì thoải mái hơn rồi.



Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện trong ta. Ai cũng biết điều tốt xấu. Nếu không, thế giới nầy càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta đều có tính quyết tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những đức tính nầy là những người bạn tốt của mình. Ta phải cố gắng gần gủi chúng, ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng là những nguyên liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, bình an và không thể thiếu trong sự phát triển tâm linh.



Đó là tất cả những gì cuộc đời có thể mang đến cho ta: sự phát triển tâm linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc giả tạm nguy hiểm vì chúng lôi kéo ta vào sự buông xuôi. Khi ta đã hiểu rõ ràng như thế, thì quyết tâm sẽ phát khởi để ta đem việc phát triển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Để làm được điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu. Ta có thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những gì xảy ra cho ta đều có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một căn bịnh, chết chóc, sự ác tâm của người, mất tài sản, thân thọ khổ, hay mất tình yêu, danh vọng. Sự bám víu vào người khác, lo lắng cho họ cũng cho ta một bài học. Không nên coi thường gì cả, mà hãy sử dụng mọi thứ để tu học, phát triển.



Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc đời nầy không có gì giá trị cho ta, trừ sự phát triển tâm linh và giải thoát cuối cùng. Không cần phải thay đổi cách sống của mình, nhưng cần phải thay đổi thái độ, hành động, nhận thức về những gì xảy ra quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang đến cho ta hạnh phúc vì trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường đạo. Như thế quyết tâm tự nạp năng lượng cho mình. Quyết tâm bình thường đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một quyết tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường tâm linh, nó không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn vì nó mang lại niềm vui cho người có quyết tâm.



9-10. TÂM TỪ & TÂM XẢ



Hai đức tính cuối cùng: từ bi và hỉ xả, bạn đã được nghe nói đến nhiều. Đã được nhắc đến ở những chương trước. Xả là tình cảm đáng được trân trọng nhất. Nó giúp ta đoạn diệt ảo tưởng về Ngã. Nếu ta không thực biết rằng chính Ngã chấp đã tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, thì ta không thể thực sự phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta không thể có tâm an bình. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.



Mười nghiệp thiện nầy cần được phát triển đời nầy qua đời khác, liên tục cho đến khi chúng đủ sức mạnh để đưa ta đến con đường cao quí, con đường giúp ta có cái nhìn nội tâm về Tứ Diệu Đế ở trọng tâm của bánh xe Phật pháp.



 

Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)