MỘT TRONG NHỮNG NGUYÊN NHÂN ĐỂ THÀNH PHẬT



Thuở ấy, Phật đang thuyết pháp trên núi Linh Thứu thì Đề-bà-đạt đa cùng vua A Xà Thế âm thầm bàn kế hại Ngài và chúng đệ tử.

A Xà Thế ra lịnh cấm không cho nhân dân tin theo Phật, nếu thấy chúng tăng đi khất thực thì không ai được phép cúng dường.

Lúc đó Xá Lợi Phất dẫn dầu chúng tăng đi sang nước khác, chỉ còn lại Phật và 500 chúng đệ tử La-hán ngụ lại trên núi.

Đề-Bà-Đạt-Đa bàn với A Xà Thế:

- Hiện giờ kề cận Phật chỉ có 500 đệ tử, sáng sớm mai chúng ta có thể thỉnh ổng vào thành thọ trai, khi đó tôi sẽ mang theo 500 con voi, cho voi uống rượu say xong, chờ Phật đi tới, tôi sẽ thả bầy voi ra cho chúng dẫm nát ổng như tương! Tới hồi đó thì tôi có thể làm giáo chủ, làm thầy thiên hạ... tha hồ uốn nắn mọi người ...

A Xà Thế nghe xong, liền đi mời thỉnh Phật ngày mai vào thành thọ thực. Phật đã biết tỏng mưu kế họ, vẫn nhận lời.

A Xà Thế về cung, cho Đề-Bà-Đạt-Đa hay là Phật đã chịu đến, thế là họ liền tiến hành mưu kế đã định.

Hôm sau, đến giờ thọ trai Phật cùng 500 vị La-hán đi vào thành, thì bỗng thấy 500 con voi say hùng hổ xông ra, sức chúng mạnh đến nổi cây đổ tường xiêu, khách đi đường nhìn thấy cũng hồn phi phách tán...

500 vị La-hán liền bay lên không trung, còn có mỗi mình A Nan đứng cạnh Phật. Khi bầy voi xông vào Phật, Phật khởi đại bi tâm, xòe tay ra, năm ngón tay Ngài phóng ra hào quang ngũ sắc, ánh từ quang vừa chiếu đến mình voi thì chúng bỗng tỉnh rượu, bị lòng từ của Phật làm xúc động, chúng cùng quì mọp xuống, không dám ngẩng đầu lên, mắt rươm rướm lệ, tỏ ý sám hối.

Nhà vua, các quan và dân chúng chứng kiến cảnh này thảy đều kinh ngạc, càng thêm tôn kính và tin tưởng Phật.

Thế là Phật ung dung đi vào cung điện, bình thản cùng 500 vị đệ tử La-hán thọ trai. Thọ thực xong A Xà Thế hướng về Phật sám hối. Phật bảo nhà vua và mọi người hiện diện ở đó rằng:

- Từ xưa đến nay người ta thường vì lợi lộc quyền thế mà tạo đại tội... rồi cứ thế bị khổ báo buộc mãi không thể thoát...rất ít người tỉnh táo trước nó để không hành động mê muội.

Rồi Phật dạy:

Vì ganh nên hủy báng nhau
Kế gian hảm hại bày bao nhiêu trò
Vu oan, trét trấu bôi tro
Hại người đức hạnh, nhu hòa, nhẫn cao.
Hại người, mình càng lún sâu
Chìm trong nẽo ác biết ngày nào ra
Sống cần bác ái vị tha
Nói, làm, hiền thiện mới là chánh chân
Vậy mới xứng hạnh hiền nhân
Đức huân, trai giới siêng năng thực hành
Người muốn bới lỗi, mặc tình!
Tìm đâu ra chỗ để rình, rêu rao...?
Sống mà phẩm hạnh thanh cao
Dù bị phỉ báng có nhằm vào đâu?
Trời người tán thán, cúi đầu
Người bi trí đủ, nghìn sau phụng thờ”.

Rồi Phật kể cho vua A Xà Thế nghe:

“Thuở xưa có một vị quốc vương tính rất thích ăn thịt chim ưng nên thường phái người vào rừng săn chúng. Lúc đó có một con ưng chúa dẫn đầu 500 chim ưng bay xuống tìm thức ăn. Rủi ro, chim ưng chúa bị thợ săn bắt được, còn 500 chim ưng kia hoảng sợ bay lên không kêu vang mà không chịu bỏ đi. Lúc đó có một con chim ưng khác là bạn thân của con ưng chúa, nó không sợ cung tên, cứ bay đuổi theo thợ săn, nó kêu la ai oán đến nỗi thổ

huyết, thợ săn nhìn thấy cảnh này, đâm ra xót thương và cảm động trước nghĩa tình của nó nên thả con ưng chúa ra.

Quốc vương sau khi biết được câu chuyện này, cũng bị tình nghĩa chim ưng làm xúc động, thế làø ông ban hành lịnh cấm, không cho săn giết chim ưng nữa”.

Phật bảo vua A Xà Thế:

- Chim ưng chúa thuở đó, là tiền thân ta. Con chim bay đuổi theo thợ săn, là tiền thân A Nan, bầy chim năm trăm con là 500 vị La-hán thọ trai hiện thời, còn vị quốc vương ghiền ăn thịt chim ưng, là tiền thân ngươi. Gã thợ săn thuở ấy, là Đề-Bà-Đạt-Đa. Từ thuở xa xưa mãi cho đến ngày nay, lúc nào các ngươi cũng muốn hại ta, nhưng nhờ ta hành hạnh đại từ đại bi nên tự giải được ách nạn, ta tuyệt chẳng có chút lòng oán kẻ đã xử ác với mình, do vậy mà được thành Phật...

Phật kể xong câu chuyện, A Xà Thế và quần thần đều hiểu được Phật pháp và có cảm giác như vừa bừng tỉnh cơn mơ.

 

Hạnh Đoan