ĐỨC ĐỘ & TÀI NĂNG TRONG HẠNH NGUYỆN HOẰNG PHÁP

 

Theo suy nghĩ riêng, một trong những vấn đề cốt lõi của hoằng pháp là trực tiếp đưa được nền tảng giáo lý đến với công chúng, với nhiều giai tầng xã hội khác nhau. Công việc này đòi hỏi tài năng và đức độ của từng cá nhân được tin tưởng giao phó trọng trách quan trọng này. Trên đức độ và tài năng còn có một tiêu chí thiết yếu khác cũng không kém phần quan trọng, đó là lòng yêu đạo pháp thiết tha. Thiếu yếu tố này ý nghĩa của những sự cố gắng hoằng pháp sẽ khó đạt hiệu quả như ý muốn.

Nói đức độ, chúng ta phải hiểu theo nghĩa nào đây đối với một hành giả hoằng pháp, ngoài ý nghĩa đức độ truyền thống Phật giáo? Vấn đề này với tầng lớp đội ngũ hoằng pháp trẻ càng trở nên cần thiết. Nó sẽ bổ sung cho nhau, đúc kết nên một nền tảng đạo đức lớn, đó là ĐẠO ĐỨC CỦA HOẰNG PHÁP.

Trên cục diện xã hội ngày nay, với những tiến bộ nhiều mặt của thời đại, đi kèm theo bên cạnh là sự tha hóa lối sống, băng hoại đạo đức xã hội, vô hình trung tự nó phân lập từng tính cách riêng biệt và khoanh vùng thể chế mang cả hai hình thái tích cực lẫn tiêu cực.

Người mang sứ mạng hoằng pháp tự hóa thân và đi vào sâu trong từng thể chế phân lập ấy, biết dựa vào hoàn cảnh để vun bồi, tự lập nên tính cách đạo dức theo từng bối cảnh thâm nhập. Điều này có nghĩa rằng những khuôn mẫu đạo đức truyền thống, tùy theo vùng miền và hoàn cảnh xã hội mình thâm nhập mà uyển chuyển, thậm chí đổi khác cho tương xứng. Dù mang tính chất nhất thời, đó cũng là việc làm cần thiết.

Đạo đức hoằng pháp vượt lên trên tông môn, định kiến tông phái và truyền thống tu học kinh điển. Có thể một hình thức tu học nào đó xét thấy phù hợp với nơi hoằng pháp mà theo truyền thống tông môn hay khả năng nhận thức của mình lâu nay không chấp nhận, thì cũng vì ích lợi chung, vì sự tiến bộ của quần chúng nơi nầy, chúng ta cũng nên mạnh dạng thực thi bằng ý thức thuận duyên. Tự xem mình cũng là bạn đồng hành với họ trong một cung cách, hình thức tu học đó.

Thực tế đau lòng đã chỉ cho chúng ta thấy được những hành động do thiếu cung cách ĐẠO ĐỨC HOẰNG PHÁP này mà ra, khiến quần chúng Phật tử ngơ ngác, nhưng có lẽ nguy hiểm nhất là vô tình tạo ra những hình ảnh tương phản , giữa chùa này chùa nọ, giữa thầy nọ thầy kia, để rồi -nhất là đối cới thành phần sơ cơ và nặng nhiều ái lụy – sẽ không ngần ngại cho rằng đây sai đây đúng, thầy này tu sai thầy nọ tu đúng.

Đã có một dạo, giữa Thiền và Tịnh độ, Đại thừa và Tiểu thừa v.v… tạo ra một khỏang cách trong kiến thức của không ít quần chúng Phật tử một cách hết sức vô lý. Thậm chí có nơi đối kháng nhau lộ liễu. Vì đâu nên nỗi ? Cũng không khó lắm để tìm ra câu trả lời.

Thiếu đạo đức hoằng pháp, điều này cũng đồng nghĩa với thiếu mục đích, lý tưởng cao quý tối hậu, thì chuyện gì cũng có thể xảy ra mà hậu quả phải gánh chịu đó chính đạo pháp thân yêu của chúng ta. Cuối cùng, tự chúng ta vẽ nên một bức tranh Phật giáo bị xé lẻ; không đồng nhất, có chăng chỉ là những mãng chấp vá, chông chênh, tạo cảm giác không an toàn cho những ai muốn tìm cầu Phật đạo lúc ban đầu.

Đội ngũ hoằng pháp ngày nay trẻ trung, năng động và tràn đầy nhiệt huyết, rất đáng vui mừng, nhưng đó đây vẫn còn có không ít vị tăng trẻ mang sứ mệnh hoằng pháp mà để chính tính khí sinh học này lấn lướt, vượt trội quá những phát ngôn, bài viết truyền thông; thể hiện cái tôi quá nhiều. Họ đã vô tình tạo nên một viễn cảnh mà trong đó tâm lý e ngại, mất dần niềm tin rất to lớn với hình ảnh một vị hoằng pháp trẻ cũng là hính ảnh tươi sáng của đạo pháp ở tương lai.

Liên tưởng đến vấn nạn cải đạo của ngoại giáo đang gây nhức nhối hiện nay. Đây là một vấn nạn mà có lẽ Phật giáo chúng ta đã và đang là nạn nhân to lớn nhất trong quá khứ lẫn hiện tại, chưa có dấu hiệu kết thúc. Một thách thức mang tính chất sống còn, không đơn giản chỉ là ý thức của mỗi tu sĩ tín đồ vì nó sẽ dễ bị dẫn dắt tới cái bẫy chực chờ sẵn là xung đột tôn giáo. Người mang sứ mệnh hoằng pháp – nhất là các hoằng pháp trẻ, nghĩ sao về vấn nạn này.

Ở đây, đạo đức hoằng pháp không cho phép chúng ta đi vào lối sáo mòn, ru ngủ là Đạo nào cũng tốt – Cũng dạy ăn hiền ở lành. Cao hơn chút nữa thì bộc lộ sự tự tin thái quá, khi đứng trước những mối lo âu từ phía những người có chút thiết tha với vận mệnh đạo pháp, cho rằng Phật giáo chúng ta vốn không ganh tị với ai – không nên đồng hóa với các tôn giáo khác – Phật giáo không tranh giành tín đồ v.v… và sau đó, buồn thay, lại gán cho cái tội làm cho ngoại đạo cười! Để rồi như đã nói, chính Phật giáo chúng ta là nạn nhân chấp nhận sự suy tàn không mong đợi. Tất cả những việc làm ý nghĩ của chúng ta xưa nay đều có lợi cho ngoại giáo. Phải chăng họ cải đạo mà có sự giúp sức từ phía chúng ta.

Như thế đạo đức hoằng pháp, tài năng trí tuệ không được phát huy. Những yếu tố đó chính là vốn liếng cần thiết trên mặt trận hoằng pháp, mất tất cả thì hoằng pháp chỉ còn là ngôn từ sáo rỗng. Nói một cách khác là đi hoằng pháp với ai, để làm gì?

Phật giáo trong thời hội nhập, bước những bước dài mà từ thời chấn hưng chư liệt Tổ sư cũng không thể ngờ đến. Vậy tầng lớp trẻ hoằng pháp chúng ta phải biết tận dụng, khai thác triệt để những thuận duyên bên ngoài để công cuộc hoằng pháp mang lại nhiều thành quả xứng tầm thời đại và vóc dáng một tôn giáo đã được thế giới công nhận là một tôn giáo vị đại nhất.

Ở khía cạnh hoằng pháp ở các tự viện ngày nay, chúng ta luôn vui mừng khi nghe đó đây có những đạo tràng được mọc lên, quy tụ được nhiều thành phần xã hội tham gia tu học. Có nơi đã trở thành một địa chỉ luôn cuốn hút, là mô hình được các nơi khác nhân rộng. Đó là những dấu hiệu đáng mừng. Nhưng đó cũng chỉ là dáng vấp bề nổi, phía sau góc khuất đó hãy còn nhiều câu hỏi băn khoăn. Và đây cũng là những đề xuất cấp bách trong bối cảnh hiện tại:

- Trong số lượng tham gia tu học trong mỗi đợt, mỗi kỳ như vậy. Các đạo tràng, các giảng sư đã kêu gọi được mấy ai về nhà treo một lá cờ Phật giáo chỉ một lá thôi nhân mùa Phật Đản?

- Bên cạnh những giáo lý căn bản Phật pháp, các đạo tràng, các giảng sư đã truyền đạt bao nhiêu tỷ lệ kiến thức lịch sử của Phật giáo Việt Nam ?

- Đã có đạo tràng, giảng sư nào đưa vấn đề cải đạo ra, làm một tiết trong thời gian tham gia tu học của Phật tử cư sĩ, để họ làm hành trang tự đề kháng với vấn nạn nguy hiểm này ?

Trên là ba vấn đề thiết yếu bên cạnh kiến thức tu học đơn thuần. Nó liên quan đến vận mệnh tồn suy của đạo pháp thời hiện tại. Tâm lý e ngại, sợ sệt không xứng đáng là hậu duệ tinh thần Phú Lâu Na bất tử. Chúng ta thành công hướng dẫn Phật tử tu học. Điều đó quá rõ ràng, thậm chí có người còn phát tâm xuất gia. Tuy nhiên khi trực tiếp hỏi những người tham gia tu học trong các đạo tràng về sự cải đạo của ngoại giáo, về lịch sử Phật giáo Việt Nam thì không có câu trã lời. Ngay như hỏi Sao lễ Phật Đản mà đạo hữu không treo cờ? Họ trả lời Phật tại tâm,cần chi hình thức. Vấn đề này chúng ta cũng cần suy nghĩ lại.

Hơn nữa, đối với vấn đề cải đạo, trách nhiệm người Hoằng pháp là phải có chương trình kế hoặch cụ thể, nhất là tính thích ứng Phật pháp vào trong đời sống sinh hoạt hằng ngày để thu hút, chuyển hóa mọi người đến đời sống hạnh phúc, an lạc.

Người mang sứ mệnh hoằng pháp, có đạo dức hoằng pháp, có tài năng và tấm lòng tin yêu đạo pháp thiết tha, sẽ luôn không tự bằng lòng với những bước đi hãy còn vướng vấp vì một trở ngại nào đó ngay từ trong tâm thức. Trong khi ngoại cảnh chúng ta đã bước đi những bước khá dài mang dấu ấn của tinh thần Phú Lâu Na bất tận, để đưa Phật giáo tiến xa tỏa rộng ánh sáng từ quang khắp mọi nơi.

VINH QUANG THAY NHỮNG VỊ HOẰNG PHÁP CÓ ĐẠO ĐỨC HOẰNG PHÁP, CÓ TÀI VÀ TIN YÊU ĐẠO PHÁP THIẾT THA.

 

(Trích tham luận Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc năm 2011)

Dương Kinh Thành

Ban Phật Giáo Việt Nam,Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt nam

Theo giaohoiphatgiaovietnam.vn