CHÙA ĐẬU

ngaivukhacminhchuadau.jpg ngaivukhactruongchuadau.jpgLúc đó ở phía Nam kinh thành như có luồn linh khí, Quách Thông theo lệnh Vua về tới đất Gia Phúc thấy thế đất trong tựa dáng hình một đôi hoa sen đang nở tỏa sáng. Người xưa cho rằng hoa sen là nơi Đất Phật bèn cho lập Chùa đặt tên là Thành Đạo Tự, rước Đại Thánh Pháp Vũ Đại Bồ Tát về thờ nên gọi là Pháp Vũ Tự. Do nhà Vua chọn đất làm Chùa và chỉ dành cho bậc Vua Chúa đến lễ. Người dân chỉ được lễ trong 3 ngày hội nên gọi là Chùa Vua. Bồ Tát hiện thân nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc chí sĩ cầu nghiệp lớn được đậu, người dân trồng cây được đơm hoa kết trái, từ đó trong dân gian gọi là Chùa Đậu...Ở Việt Nam có Xá Lợi của Tổ Sư Từ Đạo Hạnh, Tổ Không Lộ Thiền Sư (Nguyễn Minh Không), Tổ Giác Hải Thiền Sư, Tổ Đơn Điền Thiền Sư và hiện hai pho tượng toàn thân Xá Lợi đặc biệt giá trị hy hữu nhất của nước Việt Nam còn tồn tại, thờ tại Chùa Đậu.

CHÙA ĐẬU

Đại Đức Thích Thanh Nhung

 

Chùa Đậu tên chữ là “Thành Đạo Tự”, nằm ở cuối làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 24km về phía Nam.

Chùa có 5 tên gọi:

1.      Thành Đạo Tự

2.      Pháp Vũ Tự

3.      Chùa Vua

4.      Chùa Bà

5.      Chùa Đậu

Chùa thờ Đức Pháp Vũ, một trong Tứ Pháp nguồn gốc ở Hà Bắc. Theo sử sách để lại khi Tứ Pháp xuất hiện thì mối liên quan giữa đạo pháp dân tộc được hình thành từ đó.

Mảnh đất quý của Chùa này cũng là nơi hiển thân của Bồ Tát Pháp Vũ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử đã ghi lại đậm nét của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Bởi thế từ xa xưa ngôi Chùa này đã từng có các triều đại Vua, Chúa lui tới để lễ bái, cầu đảo, cầu cho quốc thái dân an đều rất linh ứng, nên gọi là “Quốc Đảo” các hàng chí sĩ đến đây đều cầu nguyện cho đăng khoa, công danh rạng rỡ, sự nghiệp viên thành, người nông dân thì cầu nguyện cho sức khỏe, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu nên các Vua Chúa cho xây dựng, sửa sang và phong tặng “Đệ nhất đại danh lam.” Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hòa đời thứ 5 thì ngôi Chùa này được tôn tạo vào thời Lý (thế kỷ thứ XI).

Theo cuốn “Sách Đồng” hiện còn lưu giữ tại Chùa, thì ngôi Chùa này có từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ 3 sau TL tức gần 2000 năm).

Phật giáo du nhập vào Việt Nam bằng hai con đường: đường thủy và đường bộ. Nói tới lịch sử Phật Giáo Việt Nam người ta không thể quên được câu chuyện được thần Thánh hóa về nguồn gốc phát sinh Tứ Pháp.

Đất nước Việt Nam ở vùng nhiệt đới. Tứ Pháp ra đời là phù hợp với nguyện vọng của người dân Việt Nam. Cuốn “Sách Đồng” ở Chùa cho biết, ngay từ buổi đầu, nền Phật Giáo Việt Nam đã tiếp thu và hấp thụ tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn Độ.

Tứ Pháp ra đời mang chủng tử của một Thiền Tăng đã đắc đạo người Thiên Trúc. Mẹ là nàng Man Nương người Việt Nam.

Thành công của Tín, Hành, Nguyện đã làm cho Man Nương trở thành Đức Thánh Mẫu sinh Thái tử đúng như câu kệ của Thiền Tăng đã đọc.

“Hình hài như đạo thứ

Tâm không cảnh cũng không

Lần lữa chưa giác ngộ

Ứng vạn vật duyên cùng. (Trích Sách Đồng)

Người Việt Nam đã thừa kế và phát huy được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn Độ, nhưng vẫn mang bản sắc riêng của dân tộc.

Qua bốn ngồi Chùa thờ bốn vị Bồ Tát (Tứ Pháp), đã toát lên tính nguyên thủy và đại thừa Phật Giáo, Chùa Thiền Định, Chùa Thành Đào, Chùa Phi Tướng, Chùa Trí Quả. Trong Tứ Pháp, Đức Pháp Vân là chị cả, phần quyết định là Đức Pháp Vũ.

Tục ngữ Việt Nam có câu:

“Quý vật tầm Quý nhân.”

Lúc đó ở phía Nam kinh thành như có luồn linh khí, Quách Thông theo lệnh Vua về tới đất Gia Phúc thấy thế đất trong tựa dáng hình một đôi hoa sen đang nở tỏa sáng. Người xưa cho rằng hoa sen là nơi Đất Phật bèn cho lập Chùa đặt tên là Thành Đạo Tự, rước Đại Thánh Pháp Vũ Đại Bồ Tát về thờ nên gọi là Pháp Vũ Tự. Do nhà Vua chọn đất làm Chùa và chỉ dành cho bậc Vua Chúa đến lễ. Người dân chỉ được lễ trong 3 ngày hội nên gọi là Chùa Vua. Bồ Tát hiện thân nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc chí sĩ cầu nghiệp lớn được đậu, người dân trồng cây được đơm hoa kết trái, từ đó trong dân gian gọi là Chùa Đậu.

Để tả cảnh đẹp và công đức vô lượng, vô biên của Chùa Đậu, Sĩ Nhiếp có thơ rằng:

Đồng bằng bát ngát nở tòa sen

Phật ngự trang nghiêm tựa động tiên

Đất phúc xây lên cung nguyệt điện

Trời Nam riêng hẳn cảnh thiên nhiên

Lô hương khói tỏa tan niềm tục

Hồ ngọc trăng soi rõ cửa Thiền

Công đức từ bi bao xiết kể

Công lao vô lượng lại vô biên. (Trích Sách Đồng)

Trải qua nhiều thời đại bút tích lưu lại còn in đậm nén trên bia đá tại Chùa, công nhận là nơi linh thiêng ứng nghiệm, nước cầu dân khẩn đều được linh ứng, đúng như lời thơ tả: Phật ngự trang nghiêm trên tòa sen, nơi đất phúc của đạo tâm, trời Nam dành riêng cho cảnh đẹp nơi đây, nén hương khói tỏa làm tan hết những gì mệt nhọc, ô trược của trần tục, chỉ thấy một niềm an lạc giải thoát, cửa Thiền là nơi thanh tịnh như hồ nước phẳng lặng trong suốt chẳng khác gì ngọc, ánh trăng dịu hiền tỏa sáng cửa Thiền môn.

Nếu ngày xưa người Việt Nam tự hào đã hấp thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn Độ thì hơn 300 năm về trước, có hai Thiền sư Việt Nam đắc đạo tại Chùa. Các Ngài đã để lại Toàn Thân Xá Lợi.

Xá Lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không bị không khí thời gian bào mòn. Quy luật của vũ trụ là: Vật chất chỉ có thể biết đổi từ dạng này sang dạng khác mà Phật Giáo còn gọi là: Thành, Trụ, Hoại, Không. Xá Lợi không bị chi phối bởi không gian, thời gian và quy luật của vũ trụ. Chính vì vậy là một vật báu, là một quốc bảo được cung kính thiên liêng như một đức Phật sống.

Theo quy luật của đạo Phật, Xá Lợi chỉ để lại trên trái đất 5 - 10% của toàn thân xá loại nên gọi là toái thân Xá Lợi.

Nhưng hai vị Thiền sư đã để lại toàn thân Xá Lợi song tồn tại với thời gian nào đó 10 năm, 200 năm hay 2000 năm…. là do Thiền Sư ấy quyết định, toàn thân Xá Lợi sẽ chuyển về toái thân Xá Lợi.

Phật Giáo ở các nước trên thế giới như Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Tích Lan (Srilanka), Nhật Bản…. cũng đã có những pho tượng để lại toàn thân Xá Lợi.

Như ở Ấn Độ còn pho Sư Tổ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả, ở Tây Tạng có Tháp thờ Xá Lợi của Tổ Sư Liên Hoa Sinh Thượng Nhân Tố Đạt Lai Đạt Ma.

Ở Trung Hoa có Xá Lợi của Đức Lục Tổ Huệ Năng hiện thờ tại Chùa Nam Hoa huyện Khúc Giang tỉnh Quảng Đông. Tại Chùa Vân Môn tỉnh Thiếu Châu thờ Xá Lợi của Tổ Vân Môn Yến Thiền Sư và Xá Lợi của Ngài Từ Hàng Pháp sư.

Ở Nhật bản có Xá Lợi của Tô Nhật Liên Bồ Tát (NiChiren) và Xá Lợi của Tổ Truyền Giáo Đại Sư (DengDainhi).

Ở Việt Nam có Xá Lợi của Tổ Sư Từ Đạo Hạnh, Tổ Không Lộ Thiền Sư (Nguyễn Minh Không), Tổ Giác Hải Thiền Sư, Tổ Đơn Điền Thiền Sư và hiện hai pho tượng toàn thân Xá Lợi đặc biệt giá trị hy hữu nhất của nước Việt Nam còn tồn tại, thờ tại Chùa Đậu.

Đó là một biểu tượng cho hàng Thánh Tăng Việt Nam có những bậc vĩ nhân siêu thoát đã chứng đạt một cách thấu triệt viên mãn giáo lý Phật Đà. Một dân tộc tự hào có nền văn minh sớm và cao cả vì dân tộc ấy còn tồn tại những chứng tích, báu vật, tư liệu văn hóa cổ, hiện được bảo tồn. Tuy nhiên sự khẳng định về giá trị, chứng tích, tư liệu cổ đại tùy theo quan điểm của mỗi quốc gia, của mỗi thời đại. Nhưng những chứng tích ấy thể hiện bằng trí tuệ siêu Việt, vượt không gian, thời gian lên lên tột đỉnh thượng tầng triết học của loài người, thì dù Đông hay Tây học vẫn được tôn thờ và đỉnh cao của sự thành tựu ngự tại nhân sinh.

Toái thân Xá Lợi trên thế giới có rất nhiều, ở Việt Nam có Vua Trần Nhân Tông bỏ ngai vàng xuất gia ở núi Yên Tử, sau Ngài để lại toái thân là những viên ngọc, bồ tát Thích Quảng Đức thiêu thân phát nguyện trái tim bất diệt, hiện nay vẫn còn lưu giữ….

Giáo lý Phật Đà bao gồm 10 pháp môn chính, trong đó 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu hành, ai ngộ được 1 trong 8 vạn 4 ngàn pháp môn đó đều được đắc đạo giải thoát. Theo lời di chúc của Thiền Sư: “Ta vào nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên.” Hết 100 ngày các thiện tín Phật tử mở cửa Am (Tịnh thất), thấy Thiền Sư vẫn ngồi theo thế nhập Thiền và có mùi thơm.

Qua mấy chục năm áo vải bị ẩm, rơi rụng khi đó Thiền sự chỉ còn da bọc xương. Các thiện tín đã mặt cho Thiền sư một lớp áo bằng sơn ta, cho đến nay áo đó vẫn còn nguyên nên Thiền sư cũng khen là bền và đẹp. Ta có thể nói rằng: Thiền sư nhập thất tu tập Thiền định, kết hợp với pháp môn tu Tịnh độ, như vậy các Ngài đã Thiền, Tịnh song tu, pháp môn tịch chiếu “Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch.” Bởi thế toàn thân Xá Lợi của hai Thiền sư đã kết thành giới thân bất hoại trường tồn. Vậy nên đệ tử Phật phải hiểu điều căn bản muốn tu tập đạt kết quả là phải có tự lực, song điều thiêng liêng là phải được thừa hưởng tha lực của chư Phật, chư Bồ Tát.

Những thiện tín nào muốn hiểu rõ về toàn thân Xá Lợi xin hãy lui tới chiêm bái hai vị Thiền Sư. Sở nguyện của các Ngài rất muốn lân mẫn với những người sau. Danh hiệu của hai vị Thiền Sư là Tự Đạo Chân và Tự Đạo Tâm. Nếu ghép hai chữ vào ta hiểu là Chân Tâm. Tâm trí của các vị Thiền Sư như muốn nói với chúng ta những điều khẩn khiết. Đức hạnh của các Ngài như mặt trăng soi chung, nước ở đâu là ánh trăng in hình ở đó. “Ngàn sông có nước ngàn trăng hiện, Muôn dặm không mây muôn dặm trời.” Những ai phát tâm tự thấu hiểu điều này.

Khoa học thế giới ngày nay đã tự khẳng định: Muốn ướp xác đồng thời phải thỏa mãn 3 điều kiện:

1.      Phải có thuốc

2.      Phải rút ruột, rút óc

3.      Phải để xác trong hòm kín

Năm 1983, khoa học đã chứng minh rằng Xquang (Thiền sư Tự Đạo Chân pháp danh Vũ Khắc Minh) kết luận rằng:

Không có vết đục đẽo

Không có hiện tượng rút ruột, rút óc và các khớp xương dính chặt với nhau như thể tự nhiên.

Cân nặng 7kg.

Hai Thiền Sư không cần 3 điều kiện nói trên mà vẫn để lại toàn thân Xá Lợi. Các nhà khoa học trong và ngoài nước rất muốn tìm ra “phương pháp ướp xác tinh xảo” của các Thiền Sư. Đề tài nghiên cứu này đối với các nhà khoa học cho đến ngay vẫn là một điều nan giải.

Về kiến trúc, Chùa được xây theo quy mô lớn. Khu chánh điện được thiết kế theo kiểu “nội công, ngoại quốc” khu nội công rất nguy nga lộng lẫy, cột chạm rồng nổi hoa văn rất bay bướm…. Nhưng rất tiết đến nay khu này đã bị cháy không còn nữa. Khu ngoại quốc hiện vẫn còn nhưng đã xuống cấp rất nghiêm trọng.

Chùa Đậu là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là một trong những di sản văn hóa quý và lâu đời của nước ta nói riêng và thế giới nói chung. Chùa là nơi danh lam thắng cảnh được thiên nhiên ưu đãi, có kiến trúc cổ kính, là nơi siêu thoát và thờ các vị Bộ Tát và là quốc bảo thiêng liêng của đất nước, Chùa đã được Bộ Văn Hóa công nhận là di tích “Lịch sử văn hóa.”

Trước đây Chùa đã được nhiều triều đại, nhiều bậc hiền nhân đem tâm công đức trùng tu lại. Ngày nay Bộ Văn Hóa và nhà Chùa cùng nhân dân địa phương đã lập dự án thiết kế với một quy mô lớn, tôn tạo lại di tích lịch sử của dân tộc.

Mong được sự phát tâm công đức của Phật tử thập phương, du khách trong và ngoài nước, để một ngày không xa Chùa Đậu được trùng tu trang nghiêm như xưa.