24. Kinh kiên cố

24. KINH KIÊN CỐ

[101b15] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Na-lan-đà, [1] trong rừng Ba-bà-lị-yểm,[2] cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.

Bấy giờ, có người con trai trưởng giả, tên gọi Kiên Cố[3], đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, con trai trưởng giả Kiên Cố bạch Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn giáo sắc các Tỳ-kheo, nếu có Bà-la-môn, Trưởng giả tử hay Cư sĩ đến, hãy hiện thần thông[4], hiển thị pháp thượng nhơn[5].”

Phật nói với Kiên Cố:

“Ta không bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ[6]. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên tự mình bày tỏ.”

Kiên Cố, con trai trưởng giả, lại bạch Phật:

“Cúi mong Thế Tôn giáo sắc các Tỳ-kheo, nếu có Bà-la-môn, Trưởng giả tử hay Cư sĩ đến, hãy hiện thần thông, hiển thị pháp thượng nhơn.”

Phật lại nói với Kiên Cố:

“Ta không bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên [101c] tự minh bày tỏ.”

Khi ấy Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng:

“Con đối với pháp thượng nhơn không có gì nghi ngờ. Nhưng thành Na-lan-đà này, quốc thổ thịnh vượng, nhân dân đông đúc, nếu ở đó mà hiện thần túc, sẽ ích lợi cho nhiều người. Phật và Chúng Tăng khéo hoằng hóa đạo.”

Phật nói với Kiên Cố:

“Ta không bao giờ dạy các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, cho Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên tự bày tỏ. Vì sao vậy? Có ba loại thần túc. Những gì là ba? Một, thần túc; hai, quán sát tâm người; ba, giáo giới[7].

“Thế nào là thần túc? Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo tập[8] vô lượng thần túc, có thể từ một thân biến thành vô số; từ vô số thân hiệp trở lại thành một thân; hoặc xa, hoặc gần, núi, sông, vách đá, thảy đều tự tại vô ngại, như đi trong hư không. Ở giữa hư không mà ngồi kết già y như chim bay. Ra, vào lòng đất y như trong nước. Hoặc đi trên nước như đi trên đất. Mình bốc khói, lửa, như đống lửa lớn. Tay sờ mặt trời, mặt trăng. Đứng cao đến Phạm thiên. Nếu có trưởng giả hay cư sĩ đã có tín tâm thấy Tỳ-kheo hiện vô lượng thần túc, đứng cao đến Phạm thiên, sẽ đi đến các trưởng giả, cư sĩ chưa có tín tâm khác, mà nói rằng: ‘Tôi thấy Tỳ-kheo hiện vô lượng thần túc, đứng cao đến Phạm thiên.’ Trưởng giả hay cư sĩ kia, những người chưa có tín tâm, nói với những người đã có tín tâm rằng: ‘Tôi nghe nói có thần chú cù-la[9] có khả năng hiện vô lượng thần biến như vậy..., cho đến, đứng cao đến Phạm thiên.”

Phật bảo Kiên Cố, con trai trưởng giả:

“Những người chưa có tín tâm kia nói như vậy há không phải là hủy báng sao?”

Kiên Cố đáp:

“Đó thật sự là lời hủy báng vậy.”

Phật nói:

“Ta vì vậy không giáo sắc các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, mà chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên tự bày tỏ. Như vậy, này con trai trưởng giả, đó chính là loại thần túc mà các đệ tử Ta thị hiện.

“Sao gọi là thần túc quán sát tâm người? Ở đây, Tỳ-kheo hiện vô luợng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghĩ trong tâm chúng sanh; những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết. Nếu có trưởng giả hay cư sĩ đã có tín tâm thấy Tỳ-kheo hiện vô lượng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghĩ trong tâm chúng sanh; [102a] những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết, sẽ đi đến các trưởng giả, cư sĩ chưa có tín tâm khác, mà nói rằng: ‘Tôi thấy Tỳ-kheo hiện vô lượng thần túc quán sát; quán sát những pháp được nhớ nghĩ trong tâm chúng sanh; những việc được làm trong xó tối cũng có thể nhận biết.’ Trưởng giả hay cư sĩ kia, những người chưa có tín tâm, nói với những người đã có tín tâm rằng: ‘Tôi nghe nói có thần chú càn-đà-la[10] có khả năng hiện vô lượng thần biến như vậy... cho đến, đứng cao đến Phạm thiên.”

Phật bảo Kiên Cố, con trai trưởng giả:

“Những người chưa có tín tâm kia nói như vậy há không phải là hủy báng sao?”

Kiên Cố bạch Phật:

“Đó thật sự là lời hủy báng vậy.”

Phật nói:

“Ta vì vậy không giáo sắc các Tỳ-kheo hiện thần túc, pháp thượng nhân, mà chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên tự bày tỏ. Như vậy, này con trai trưởng giả, đó chính là loại thần túc quán sát mà các đệ tử Ta thị hiện.

“Thế nào là giáo giới thần túc? Này con trai trưởng giả, nếu Như Lai, Chí chơn, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, mười hiệu đầy đủ, ở giữa chư Thiên, Người đời, Ma hoặc Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, mà tự thân chứng ngộ, rồi giảng thuyết cho người khác, với lời khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối thảy đều chơn chánh, nghĩa vị thanh tịnh, phạm hạnh đầy đủ. Nếu có trưởng giả hoặc cư sĩ, sau khi nghe, ở trong đó phát sanh tín tâm. Khi đã có tín tâm, vị ấy ở trong đó quán sát, suy nghĩ rằng: ‘Ta không nên sống tại gia. Nếu sống tại gia, trói buộc liên miên, không thể thanh tịnh tu hành phạm hạnh. Nay ta hãy cạo bỏ râu tóc, bận ba pháp y, xuất gia tu đạo, đủ các công đức, cho đến thành tựu ba minh, diệt trừ những sự tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí. Vì sao vậy? Ấy là do tinh cần, ưa sống một mình chỗ thanh vắng, chánh niệm, chánh tri, mà được vậy. Này con trai trưởng giả, đó là giáo giới thần túc mà Tỳ-kheo của Ta thị hiện vậy.”

Bấy giờ, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng:

“Có Tỳ-kheo nào thành tựu ba thần túc ấy không?

Phật nói với con trai trưởng giả:

“Ta không nói phần lớn các Tỳ-kheo đều thành tựu ba thần túc ấy. Nhưng, này con trai trưởng giả, có một Tỳ-kheo[11] của Ta ở trong chúng này thầm suy nghĩ rằng: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’. Tỳ-kheo ấy phút chốc hướng vào con đường thiên giới,[12] đi đến chỗ Tứ thiên vương,[13] hỏi Tứ thiên vương rằng: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’

“Này con trai trưởng giả, Tứ thiên vương kia trả lời Tỳ-kheo rằng: ‘Tôi không biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu. Trên tôi còn có trời, gọi là Đao-lị, vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ.[102b] Trời kia có thể biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu.’

“Tỳ-kheo nghe xong, phút chốc hướng theo thiên đạo, đi lên trời Đao-lị, hỏi Chư Thiên: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’ Chư thiên Đao-lị trả lời: ‘Tôi không biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu. Bên trên còn có trời, gọi là Diệm-ma,[14] vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ. Trời ấy có thể biết.’ Tỳ-kheo liền lên đó hỏi, nhưng nơi ấy vẫn không biết.

“Lần lượt như thế, lên Đâu-suất,[15] lên Hóa Tự Tại,[16] lên Tha Hóa Tự Tại thiên,[17] thảy đều nói: ‘Tôi không biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu. Bên trên còn có trời, gọi là Phạm-ca-di[18], vi diệu đệ nhất, có đại trí tuệ. Trời ấy có thể biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu.’Tỳ-kheo ấy phút chốc hướng vào Phạm đạo[19]. Lên đến đây, Tỳ kheo hỏi chư thiên Phạm thiên: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’ Vị Phạm thiên kia trả lời Tỳ-kheo: ‘Tôi không biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu. Nay có Đại Phạm Thiên vương, đấng Vô Năng Thắng, thống lãnh một nghìn thế giới, phú quý, tôn quý, hào quý, hoàn toàn được tự tại, có khả năng tạo hóa mọi vật, là cha mẹ của chúng sanh. Ngài có thể biết bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu.’ Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo kia liền hỏi ngay rằng: ‘Ngài Đại Phạm Thiên vương kia hiện đang ở đâu?’ Vị trời ấy đáp: ‘Không rõ Đại Phạm nay đang ở đâu. Nhưng theo ý tôi mà xét, Ngài sẽ xuất hiện giây lát.’ Chưa bao lâu, Phạm vương hốt nhiên xuất hiện. Này con trai trưởng giả, Tỳ-kheo kia đến Phạm vương và hỏi: ‘Thân này, với bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’ Đại Phạm vương kia nói với Tỳ-kheo: ‘Ta là Đại Phạm, là đấng Vô năng thắng, thống lãnh một nghìn thế giới, phú quý, tôn quý, hào quý, hoàn toàn được tự tại, có khả năng tạo hóa mọi vật, là cha mẹ của chúng sanh.’ Tỳ-kheo kia khi ấy nói với Phạm thiên vương: ‘Tôi không hỏi việc ấy. Tôi hỏi, bốn đại: đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu.’

“Này con trai trưởng giả, Phạm vương kia vẫn trả lời Tỳ-kheo: ‘Ta là Đại Phạm Vương, cho đến, sáng tạo vạn vật, cha mẹ của chúng sanh.’ Tỳ-kheo lại nói: ‘Tôi không hỏi việc ấy. Tôi hỏi, bốn đại vĩnh viễn diệt tận ở đâu.’ Này con trai trưởng giả, Phạm Thiên vương, như vậy đến ba lần, không thể trả lời Tỳ-kheo, bốn đại này vĩnh viễn diệt tận ở đâu. Rồi thì, Đại Phạm Vương bèn nắm lấy tay phải của Tỳ-kheo, kéo ra chỗ kín đáo, nói rằng: ‘Này Tỳ-kheo, nay các Phạm thiên đều bảo rằng ta là trí tuệ bậc nhất, không có gì không biết, không thấy. Vì vậy ta không trả lời Thầy, vì ta không biết, không [102c] thấy, bốn đại này nơi đâu vĩnh viễn diệt tận.’ Rồi lại nói tiếp với Tỳ-kheo: ‘Thầy thật là đại ngu ngốc mới bỏ Như Lai mà đi tra vấn Chư Thiên về việc này. Thầy nên đến Thế Tôn mà hỏi việc này. Như những gì Phật nói, hãy ghi nhớ kỹ.’ Lại bảo Tỳ-kheo: ‘Nay Phật ở tại Xá-vệ, trong vườn Cấp cô độc. Thầy hãy đến đó mà hỏi.’

“Này con trai trưởng giả, bấy giờ, Tỳ-kheo hốt nhiên biến mất khỏi Phạm thiên giới, và trong khoảnh khắc như tráng sĩ co duỗi cánh tay, đến Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà. Tỳ-kheo đi đến chỗ Ta, cúi lạy chân Ta, ngồi sang một bên, bạch Ta rằng: ‘Thế Tôn, nay bốn đại này, đất, nước, lửa, gió, vĩnh viễn diệt tận ở đâu?’

Bấy giờ, Ta nói rằng:

“Tỳ-kheo! Cũng như thương nhơn mang một con ưng[20] vào biển. Ở giữa biển, thả chim ưng bay các phương Đông, Tây, Nam, Bắc trong hư không. Nếu nhìn thấy đất liền, chim bèn dừng trên đó. Nếu không nhìn thấy, chim bay trở về thuyền. Tỳ-kheo, ngươi cũng vậy. Ngươi lên cho đến Phạm thiên để hỏi ý nghĩa đó, cuối cùng không thành tựu mới trở về Ta. Nay Ta sẽ khiến cho ngươi thành tựu ý nghĩa đó.”

Liền nói bài kệ rằng:

Do đâu không bốn đại:

Đất, nước, lửa và gió?[21]

Do đâu không thô, tế,

Và dài, ngắn, đẹp, xấu?

Do đâu không danh-sắc,

Vĩnh diệt, không dư tàn?[22]

Nên đáp: thức vô hình,

Vô lượng, tự tỏa sáng[23];

Nó diệt, bốn đại diệt;

Thô, tế, đẹp, xấu diệt.

Nơi này danh sắc diệt,

Thức diệt, hết thảy diệt.[24]

Khi ấy, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch Phật rằng:

“Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy tên gì? Làm sao ghi nhớ?”

Phật đáp:

“Tỳ-kheo ấy tên là A-thất-dĩ[25]. Hãy ghi nhớ như vậy.”

Bấy giờ, Kiên Cố, con trai trưởng giả, nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 


*  第三分[14]堅固經第五

[1] Na-lan-đà thành 那闌陀城. Pl.: Nālanda.

[2] Ba-bà-lị-yểm lâm 波婆利 掩 林. Pl.: Pāvārikambavana.

[3] Trưởng giả tử Kiên Cố 長者子堅固. Pl.: Kevaddho gahapati-putto.

[4] Thần túc 現神足. Pl.: iddhi-pāṭihāriya, thần biến thị đạo.

[5] Thượng nhơn pháp 上人法. Pl.: uttarimanussadhamma.

[6] D 11.: gihīnaṃ odātavasanānaṃ, cho những người tại gia áo trắng.

[7] Thần túc 神 足, trong bản Hán dịch này, từ thần túc được dùng cho hai từ khác nhau. (a) Pl.: iddhi-pāda (Skt. ṛddhi-pāda), thần túc, hoặc nói thần thông 神通, thần biến 神 變 hay như ý túc 如意足. (b) Pl.: pāṭihāriya (Skt. prātihārya), nơi khác dịch là thị đạo 示導 (hướng dẫn, lôi cuốn chú ý). Xem giải thích của kinh đoạn sau. Ở đây, ba loại thần túc: 1. thần túc 神足; 2, quán sát tha tâm 觀察他心; 3, giáo giới 教誡;  hay ba thị đạo, theo Huỳen Trang: 1. thần biến thị đạo 神變示導 (Pl.: iddhi-pāṭihāriya, Skt. ṛddhi- prātihārya), 2. ký tâm thị đạo 記心示導 (Pl.: ādesanā-pāṭihāriya, Skt. ādeśanā-prātihārya), 3. giáo giới thị đạo 教誡示導 (Pl.: anusāsani-pāṭihāriya, Skt. anuśāsana-prātihārya). Xem No 1536 (Tập dị), tr. 389b17.

[8] Tập 習. Pl.: paccanubhoti, thể nghiệm.

[9] Cù-la chú 瞿羅咒 (Pl.?). D 11.: gandhārī vijjā. Trong bản Hán, chú gandhārī (càn-đà-la) này dùng cho thuật đọc ý nghĩ người khác. Sớ giải: có hai loại chú gandhārī, tiểu chú cūḷa-gandhārī và đại chú mahāgandhārī.

[10] Càn-đà-la chú 乾陀羅咒; Pl. gandhāra. D 11: chú gandhāra dùng cho thuật biến hóa. Đọc ý nghĩ người khác bằng chú  maṇikā.

[11] Xem cht. 20.

[12] Thiên đạo 天道. Pl.: devayāniyo maggo, con đường dẫn đến chư thiên (Dục giới).

[13] Tứ thiên vương 四天王. Pl.: Cātumahārājika.

[14] Diệm-ma 焰摩. Pl.: Yāma.

[15] Đâu-suất 兜率. Pl.:Tuṣita.

[16] ḥoa tự tại 化自在. Pl.: Nimmānarati.

[17] Tha Hóa Tự Tại 他化自在. Pl.: Paranimmaitavasavattī.

[18] Phạm-ca-di 梵迦夷: Phạm thân thiên 梵身天(Phạm chúng thiên 梵眾天), tầng thứ nhất trong 3 tầng thuộc Sơ thiền thiên. Pl.: Brahmakāyika.

[19] Phạm đạo 梵道 .             Pl.: brahmayāniyo maggo, con đường dẫn lên Phạm thiên giới.

[20] Ưng 鷹. Pl.: tīradassaiṃ sakunaṃ, con chim tỳm bờ; không nói chim gì. Sớ giải: một con quạ (kāka) hay một con ó (kulala).

[21] D.i 224.: kattha āpo ca paṭhavī tejo vāyo na gādhati ? Nơi nào nước, đất, lửa và gió không trụ vững ?

[22] D.i. ibid.:kattha nāmañ ca rūpañ ca asesaṃ uparujjhati ? Nơi nào danh và sắc hoại diệt không dư tàn ?

[23] D.i. ibid.: viññāṇaṃ anidassanaṃ anantaṃ sabbato pabhaṃ: Thức vô hình, vô hạn, tỏa sáng khắp tất cả. Từ Pali: pabha, trong bản Miến điện. Sớ thích: kenaci anupakkiliṭṭhatāya samanantato phabhassaran’ti, với ai không xcòn phiền não ô nhiễm, người ấy tỏa ssáng khắp nơi. Cũng có bản chép là pahaṃ, hoặc do gốc động từ pajahati: loại bỏ hoàn toàn; hoặc gốc động từ pabhāti: tỏa sáng.

[24] D.i. ibid.: vññāṇassa nirodhena eth’ etaṃ uparujjhatīti: Do thức diệt, nơi (tất cả) cái đó diệt.

[25].    A-thất-dĩ  阿室已. D 11 cũng không nói rõ tên. Cf. Tỳ-bà-sa  52 (tr.271b23): Tôn giả Mã Thắng 馬勝 (Assaji).