2. Tương Ưng La-đà, Kinh 113-134

2. TƯƠNG ƯNG LA-ĐÀ [1]

KINH 113. HỮU LƯU [2]

 [37c6] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú ở tại núi Ma-câu-la [3]. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà [4], vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Như Thế Tôn nói, ‘hữu lưu.’ [5] Vậy, thế nào gọi là hữu lưu? Và thế nào gọi là hữu lưu diệt [6]?”

Phật bảo La-đà:

“Hay thay câu hỏi của Ông! Ta sẽ vì ông mà nói. Nói hữu lưu, tức là, những kẻ phàm phu ngu si, không học, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì không biết như thật nên, đối với sắc lại ái lạc, tán thán, chấp chặt, đắm nhiễm. Do duyên ái lạc sắc nên có thủ; duyên thủ nên có hữu; duyên hữu nên có sanh; duyên sanh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ tăng trưởng; như vậy là tập khởi của thuần một khối khổ lớn. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là hữu lưu.

“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Do biết như thật nên, đối với sắc kia không khởi lại ái lạc, tán thán, chấp chặt, đắm nhiễm. Vì không lại ái lạc, tán thán, chấp chặt, đắm nhiễm nên, sắc ái diệt; do ái diệt nên thủ diệt; do thủ diệt nên hữu diệt; do hữu diệt nên sanh diệt; do sanh diệt nên già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não thuần một tụ khổ lớn như vậy diệt. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là những lời dạy của Như lai về hữu lưu, và hữu lưu diệt.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 114. ĐOẠN TRI [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú ở tại núi Ma-câu-la [8]. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà [9], vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch, như Thế Tôn nói, ‘Biến tri [10] sắc; biến tri thọ, tưởng, hành, thức.’ Bạch Thế Tôn, vậy thế nào là biến tri sắc; biến tri thọ, tưởng, hành, thức?”

Phật bảo La-đà:

“Hay thay câu hỏi của Ông! Ta sẽ vì Ông mà nói. Đối với sắc mà ưu, bi, khổ não hết, ly dục, diệt, tịch tĩnh; [38a] đó gọi là biến tri sắc. Đối với thọ, tưởng, hành, thức mà ưu, bi, khổ, não hết, ly dục, diệt, tịch tĩnh; đó gọi là biến tri thọ, tưởng, hành, thức.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 115. ĐOẠN SẮC KHỔ [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo đến chỗ Tôn giả, cùng thăm hỏi nhau rồi, ngồi lui qua một bên. Họ hỏi Tôn giả La-đà:

“Vì sao thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

Tôn giả La-đà trả lời:

“Vì tôi muốn đoạn trừ khổ, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”

Lại hỏi:

“Thầy vì muốn đoạn trừ những thứ khổ nào, nên phải theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Vì muốn đoạn trừ cái khổ về sắc, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh. Vì muốn đoạn trừ cái khổ về thọ, tưởng, hành, thức nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngoại đạo nghe Tôn giả nói những lời như vậy, tâm họ không vui, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, chỉ trích rồi bỏ đi.

Bấy giờ, Tôn giả La-đà biết các xuất gia ngoại đã ra đi rồi, liền tự nghĩ: ‘Vừa rồi, ta đã nói những lời như vậy, há không hủy báng Thế Tôn chăng? Nói như đúng như thuyết chăng? Nói đúng như pháp, hay là thuận thứ của pháp chăng? Sẽ không bị người khác đến nạn vấn, chỉ trích, làm cho bế tắc chăng?”

Vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, Tôn giả La-đà đến chỗ Phật, làm lễ sát chân Phật, rồi ngồi sang một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, những gì con đã nói không lỗi lầm chăng? Không hủy báng Thế Tôn chăng? Nói như đúng như thuyết chăng? Nói đúng như pháp, hay là thuận thứ của pháp chăng? Sẽ không bị người khác đến nạn vấn, chỉ trích, làm cho bế tắc chăng?”

Phật bảo La-đà:  

“Những gì ngươi nói đều là lời thật, không hủy báng Như lai, nói như lời dạy của Ta, nói như pháp, nói pháp và thứ pháp. Vì sao? Này La-đà, sắc là khổ; vì muốn dứt cái khổ này nên, xuất gia tu phạm hạnh. Thọ, tưởng, hành, thức là khổ, vì muốn dứt những cái khổ này nên xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh 116 Tri khỔ [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ tôn [38b] giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:

“Vì những lý do gì mà Thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Vì mục đích biết khổ [13] nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các ngoại đạo nghe La-đà nói những lời như vậy, tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trách mắng rồi ra đi.

Bấy giờ vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân phật rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Sắc là khổ. Vì để biết nó là khổ nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh. Thọ, tưởng, hành, thức là khổ. Vì để biết thức là khổ nên, theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 117. ĐOẠN ƯU KHỔ [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:

“Vì những lý do gì mà Thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Vì đối với sắc muốn dứt hết ưu, bi, não, khổ, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh. Vì đối với thọ, tưởng, hành, thức muốn dứt hết ưu, bi, não, khổ, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy quở mắng rồi ra đi.

Bấy giờ là buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không [38c] hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Này La-đà, sắc là ưu, bi, não, khổ. Vì muốn dứt hết nó nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh. Thọ, tưởng, hành, thức là ưu, bi, não, khổ vì muốn dứt hết chúng nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 118. NGÃ TẬN [15]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo đi đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:

“Vì những lý do gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Ở nơi sắc thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kết sử trói buộc [16], muốn dứt bỏ cái chấp thấy này, ly dục, diệt, tịch tĩnh. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kiết sử trói buộc, muốn dứt bỏ cái chấp thấy này, ly dục, diệt, tịch tĩnh, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy quở mắng rồi ra đi.

Bấy giờ là buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngội lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Ở nơi sắc thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kết sử trói buộc, vì muốn dứt bỏ cái chấp thấy này, ly dục, diệt, tịch tĩnh. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kiết sử trói buộc, muốn dứt bỏ cái chấp thấy này, ly dục, diệt, tịch tĩnh, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 119 ĐOẠN HƯU LẬU [17]

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngọai đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà [39a] rằng:

“Vì những lý do gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Sắc hữu lậu, chướng ngại, bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh. Thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, chướng ngại bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy quở mắng rồi ra đi.

Bấy giờ là buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Vì sắc hữu lậu, chướng ngại, bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh. Thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, chướng ngại bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 120. THAM NHUẾ SI [18]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo đi đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:

“Vì những lý do gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Vì mục đích ở nơi sắc mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si; ở nơi thọ tưởng, hành, thức mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si, nên tôi theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy quở mắng rồi ra đi.

Bấy giờ là buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, [39b] nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Vì mục đích ở nơi sắc mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si; ở nơi thọ tưởng, hành, thức mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si, nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 121. TẬN DỤC ÁI HỶ [19]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Khi ấy, có một số đông chúng xuất gia ngoại đạo đi đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:

“Vì những lý do gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

La-đà trả lời:

“Ở nơi sắc mà có dục, ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức sắc mà có dục, ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh, nên tôi theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Khi các xuất gia ngọai đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy quở mắng rồi ra đi.

Bấy giờ là buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:

“Bạch Thế Tôn, con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp chăng?”

Phật bảo La-đà:

“Những lời ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như lai, không khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp, nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Ở nơi sắc mà có ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức sắc mà có ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh, nên theo Như lai xuất gia tu phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 122. MA [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Bấy giớ Thế Tôn nói với La-đà:

“Những gì thuộc về sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, hãy quán sát tất cả chúng do ma tạo ra; và những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc là quá [39c] khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, hãy quán sát tất cả chúng cũng đều do Ma [21] tạo ra.”

Phật bảo La-đà:

“Sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Lại hỏi:

“Này La-đà, nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, không.”

Phật bảo La-đà:

“Đa văn Thánh đệ tử nơi năm thủ uẩn này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không có gì để chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 123. TỬ DIỆT [22]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Bấy giớ Thế Tôn nói với La-đà:

“Những gì thuộc về sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều là pháp chết; và những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều là pháp chết [23].”

Phật bảo La-đà:

“Sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Lại hỏi:

“Này La-đà, nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, không.”

Phật bảo La-đà:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi năm thủ uẩn này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không có gì để chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: [39c] tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 124. CHÚNG SANH [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la.

Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nói: ‘chúng sanh.’ Vậy thế nào là chúng sanh?” [25]

Phật bảo La-đà:

“Ở nơi sắc mà nhiễm đắm triền miên, do đó gọi là chúng sanh [26]. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức mà nhiễm đắm triền miên, nên gọi là chúng sanh.”

Phật bảo La-đà:

“Ta nói, ở nơi cảnh giới của sắc, hãy phá sập, tiêu diệt. Ở nơi cảnh giới của thọ, tưởng, hành, thức phá sập, tiêu diệt; đoạn tận ái dục. Ái tận thì khổ tận. Khổ tận, Ta nói đó là tận cùng biên tế của khổ [27].

“Giống như trong làng xóm, những trẻ con trai gái chơi đùa, nhóm đất lại tạo thành nhà cửa, thành quách. Tâm chúng yêu thích, say đắm. Khi tâm yêu thích chưa hết, ước muốn chưa tan, nhớ nghĩ chưa dứt, thèm khát chưa tiêu, thì tâm chúng luôn luôn có sự yêu thích, giữ gìn và bảo là thành quách của ta, nhà cửa ta. Đối với những đống đất kia mà lòng yêu thích hết đi, ước muốn không còn, nhớ nghĩ đã dẹp, thèm khát đã tan, thì tay xô, chân đạp, khiến cho tiêu tán. Cũng vậy, này La-đà, đối với sắc mà phá sập, tiêu diệt; đoạn tận ái dục. Ái tận thì khổ tận. Khổ tận, ta nói đó là tận cùng biên tế của khổ.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 125. HỮU THÂN [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la.

Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Lành thay, Thế Tôn! Mong hãy vì con mà nói tóm lược pháp yếu. Sau khi nghe pháp rồi, con sẽ ở một mình nơi vắng vẻ, sống không buông lung, chuyên tâm suy nghĩ về mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mình mặc nhiễm y [29], chánh tín xuất gia học đạo, sống không gia đình, nổ lực siêng năng tu các phạm hạnh, ngay trong đời này, tự tri, tự tác chứng, biết rằng: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, phật bảo La-đà:

“Lành thay, La-đà, Ông có thể ở trước Phật hỏi ý nghĩa này! Hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“La-đà, nên biết, hữu thân, tập khởi của hữu thân, diệt tận của hữu thân, con đường đưa đến diệt tận của hữu thân. Những gì là hữu thân? Năm thủ uẩn: [40b] sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Thế nào là tập khởi của hữu thân? Đương lai hữu ái [30], câu hữu với tham và hỷ, ái lạc nơi này nơi kia [31]. Đó gọi là tập khởi của hữu thân.

“Thế nào là sự diệt tận của hữu thân? Đương lai hữu ái [32], câu hữu với tham và hỷ, ái lạc nơi này nơi kia, hoàn toàn bị đoạn trừ, vất bỏ, nhổ sạch, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ. [33] Đó gọi là sự diệt tận của hữu thân.

“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân? Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân. Hữu thân, nên biết. Tập khởi của hữu thân, nên đoạn. Diệt tận của hữu thân nên chứng. Con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân, nên tu.

“Này La-đà, đa văn Thánh đệ tử đối với hữu thân hoặc biết, hoặc đọan; đối với sự tập khởi của hữu thân hoặc biết, hoặc đọan; đối với sự diệt tận của hữu thân hoặc biết, hoặc chứng; đối với con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân hoặc biết, hoặc tu, này La-đà, đó gọi là đoạn trừ ái, xả ly ái, chuyển đổi kết sử, đình chỉ mạn, chứng đắc hiện quán [34], cứu cánh biên tế khổ.”

Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành, rời chỗ ngồi đứng dậy làm lễ rồi cáo lui.

Sau khi đức Thế Tôn đã dạy như vậy rồi, Tỳ-kheo La-đà một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh suy nghĩ về mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca-sa, chánh tín, xuất gia, học đạo, sống không gia đình, nổ lực siêng năng tu các phạm hạnh, ngay trong đời này, tự tri, tự tác chứng, biết rằng: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Thành bậc A-la-hán, tâm khéo giải thoát.

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh 126. MA [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:

“Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát tất cả chúng đều là ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát tất cả chúng đều là Ma.

“Này La-đà, ý ngươi nghĩ thế nào, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thướng.”

Lại hỏi:

“Vô thường có phải là khổ chăng? “

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng [40c] như vậy.

“Cho nên này La-đà, đa văn Thánh đệ tử, đối với sắc sanh tâm nhàm chán; đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh tâm nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên không thích, vì đã không thích nên giải thoát, và giải thoát tri kiến: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 127. MA PHÁP [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:

“Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần tất cả chúng đều là Ma, tạo tác của Ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật bảo La-đà:

“Này La-đà, ý ngươi nghĩ thế nào, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thướng.”

Lại hỏi:

“Vô thường có phải là khổ chăng? “

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, không.”

“Vì vậy, này La-đà, đa văn Thánh đệ tử, đối với sắc nên sanh tâm nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên không thích, vì đã không thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh thứ ba cũng như vậy, nhưng có chỗ khác là:

Phật bảo La-đà: Đa văn Thánh đệ tử ở nơi năm thủ uẩn này mà quán sát là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Khi đã quán sát, đối với các pháp trên thế gian đều không có gì để mà chấp giữ. Vì không có gì để chấp giữ nên không dính mắc; vì không dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết “Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 128. TỬ PHÁP [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:

 [41a] “Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát tất cả chúng đều là pháp chết. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Ngoài ra như đã nói kinh trên.

KINH 129. PHI NGÃ PHI NGÃ SỞ [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:

“Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát tất cả chúng đều là pháp đoạn tận [39]. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy đối với sắc mà sanh nhàm chán; đối với thọ, tưởng, hành, thức mà sanh nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên không thích, vì không thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, Tỳ kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

(Phẩm này gồm 13 kinh, có tiêu đề nhưng không có nội dung)

Cũng như kinh “Ta quán sát pháp đoạn tận,” các kinh tiếp theo cũng vậy, gồm:

Quán sát diệt pháp,

Quán sát khí xả pháp (vứt bỏ),

Quán sát vô thường pháp,

Quán sát khổ pháp,

Quán sát không pháp,

Quán sát phi ngã pháp,

Quán sát vô thường-khổ-không-phi ngã pháp,

Quán sát bệnh pháp,

Quán sát ung pháp (ung nhọt),

Quán sát thích pháp (gai nhọn),

Quán sát sát pháp (giết hại),

Quán sát sát căn bản pháp,

Quán sát bệnh, ung (ung nhọt), thích pháp (gai nhọn), sát (giết hại), sát căn bản.

Các kinh này được cho là có nội dung tương đồng với các kinh Pāli:

S. 23. 20. Vayadhamma;

 - 21. Samudayadhamma;

 - 22. Nirodhadhamma.

KINH 130. ĐOẠN PHÁP [40]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo La-đà:

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; quán sát tất cả chúng đều là pháp đoạn tận [41]. Đã quán sát như vậy rồi, đối với sắc, dục tham được đoạn trừ. Dục tham đã được đoạn trừ rồi, Ta nói đó là tâm khéo giải thóat. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Cũng vậy, có 14 kinh, nội dung như trên.

KINH 131. ĐOẠN PHÁP [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy có [41b] Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo La-đà:

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; quán sát tất cả chúng đều là pháp đoạn hoại [43]. Đã quán sát như vậy rồi, thì đối với sắc, dục tham được đoạn trừ. Dục tham đã được đoạn trừ rồi, thì Ta nói đó là tâm khéo giải thóat. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 132. CẦU ĐẠI SƯ [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Muốn đoạn trừ năm thủ uẩn, phải cầu Đại sư. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Muốn đoạn trừ năm thủ uẩn này, thì phải cầu Đại sư.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

Cũng như kinh “Đương đoạn,” các kinh tiếp theo cũng vậy, có tên như sau:

Đương thổ (hãy nhả ra);

Đương tức (hãy đình chỉ);

Đương xả (hãy xả bỏ);

 

Cũng như kinh “Cầu Đại sư,” các kinh sau đây có nội dung tương đồng (có 59 kinh):

Cầu Thắng sư (bậc thầy cao cả)

Thuận thứ sư (bậc thầy thuận theo thứ lớp),

Giáo giới giả (người răn dạy),

Thắng giáo giới giả (người răn dạy bậc nhất ),

Thuận thứ giáo giới giả (người răn dạy thuận theo thứ lớp),

Thông giả (người thông suốt),

Quảng thông giả (người thông suốt rộng rãi),

Viên thông giả (người thông suốt tròn đầy),

Đạo giả (người dẫn đường),

Quảng đạo giả (người dẫn đường rộng rãi),

Cứu cánh đạo giả (người dẫn đường rốt ráo),

Thuyết giả (người thuyết giảng),

Quảng thuyết giả (người thuyết giảng rộng rãi),

Thuận thứ thuyết giả (người thuyết giảng theo thứ lớp),

Chánh giả (người chân chánh),

Bạn giả (người đồng hành),

Chân tri thức giả (người quen biết chân thật),

Thân giả (người thân cận),

Mẫn giả (người thương xót),

Bi giả (người từ bi)

Sùng nghĩa giả (người sùng nghĩa),

An ủy giả (người an ủi),

Sùng lạc giả (người sùng lạc?),

Sùng xúc giả (người sùng xúc?)

Sùng an ủy giả (người sùng sự an ủi),

Dục giả (người muốn?)

Tinh tấn giả (người tinh tấn),

Phương tiện giả (người phương tiện, tinh tấn),

Cần giả (người chuyên cần),

Dũng mãnh giả (người dõng mãnh),

Cố giả (người kiên cố),

Cường giả (người mạnh mẽ),

Kham năng giả (người có khả năng),

Chuyên giả (người tinh chuyên),

Tâm bất thối giả (người tâm không thối lui),

Kiên chấp trì (người giữ gìn chắc chắn),

Thường tập giả (người thường tu tập),

Bất phóng dật giả (người không buông lung),

Hòa hiệp giả (người hòa hợp),

Tư lương giả (người suy xét),

Ức niệm giả (người nhớ nghĩ),

Giác giả (người tỉnh giác),

Tri giả (người biết),

Minh giả (người sáng suốt),

Huệ giả (người trí tuệ),

Thọ giả (người lãnh thọ),

Tư duy giả (người tư duy),

Phạm hạnh giả (người phạm hạnh),

Niệm xứ giả (người có niệm xứ),

Chánh cần giả (người có chánh cần),

Như ý túc (người được như ý túc),

Căn giả (người được căn),

Lực giả (người được lực),

Giác phần giả (người được giác phần),

Đạo phần giả (người được đạo phần),

Chỉ giả (người được chỉ),

Quán giả (người được quán),

Niệm thân giả (người được niệm thân),

Chánh ức niệm (người được chánh ức niệm) [45]

KINH 133. TẬP [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào tập cận [47] với sắc, bị Ma chi phối [48], rơi vào tay Ma, theo ước muốn của Ma, bị Ma trói buộc, không thoát ra khỏi sợi dây trói của Ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào không tập cận sắc, những Sa-môn, [41c] Bà-la-môn ấy không không bị Ma chi phối, không rơi vào tay Ma, không chạy theo ước muốn của Ma, sẽ không bị Ma trói buộc, thoát sợi dây trói của Ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,

 

Cũng như kinh “Tập cận,” các kinh sau đây có nội dung giống vậy:

Tập trước giả (quen thói đam mê),

Vị giả (hảo vị ngọt),

Quyết đinh trước giả (đam mê thành tánh cố định),

Chỉ giả (dừng nghỉ),

Sử giả (sai sử),

Vãng giả (đi đến),

Tuyển trạch giả (lựa chọn),

Bất xả (không xả),

Bất thổ (không nhả ra),

“Những Sa-môn, Bà-la-môn nào như vậy không bị Ma chi phối” như nói ở kinh trên. Như đã nói ở trên.

KINH 134 BẤT TẬP CẬN [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sa-môn, Bà-la-môn nào không tập cận [50] sắc, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không không bị Ma chi phối, không rơi vào tay Ma, không chạy theo ước muốn của Ma, sẽ không bị Ma trói buộc, thoát sợi dây trói của Ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,

Cho đến “Thổ sắc” lại cũng như vậy. [51]

 


 [1] Quốc dịch xếp vào Tụng 1. Ấn Thuận xếp vào Tụng 7; “34. Tương ưng La-đà,” tổng thể có 133 kinh, nhưng chỉ có 22 kinh có nội dung được truyền. Tương đương Pāli, S. 23. Rādhasamyuttam, Roman iii. 188.

 [2] Đại chánh, quyển 6, kinh 111. Phật quang, quyển 6, kinh 113 Quốc dịch, đồng, kinh 192. Tương đương Pāli, 23. 3. Bhavaneti.

 [3] Ma-câu-la sơn 摩拘羅山. (Pāli: Makula), tên núi ở Kiều-thưởng-di (Pl.: Kosambī).

 [4] La-đà 羅陀. Pāli: Rādha.

 [5] Hữu lưu 有流, dòng chảy của hữu hay tồn tại. Bản Pāli: bhavanetti, lưới của hữu. Sớ giải, đồng nghĩa với bhavarajju: sợi dây thứng của hữu.

 [6] Hữu lưu diệt 有流滅. Pāli: bhavanettinirodha, sự diệt tận của lưới hữu.

 [7] Đại chánh, kinh 112. Pāli, S. 23. 4. Pariññeyya.

 [8]. Ma-câu-la sơn 摩拘羅山. (Pāli: Makula), tên núi ở Kiều-thưởng-di. Bản Pāli nói: Sāvatthinidānam, nhân duyên ở Sāvatthi.

 [9] La-đà 羅陀. Pāli: Rādha.

 [10] Nguyên Hán: đoạn tri 斷知, chỉ cho sự đoạn trừ phiền do nhận thưc toàn diện về bốn Thánh đế. Pāli: pariññeyya.

 [11] Đại chánh, kinh 113.

 [12] Đại chánh, kinh 114. Pāli, S. 35. 81. Bhikkhu.

 [13] Tri khổ 知苦. Pāli: dhukkassa pariññatthaṃ, vì mục đích biến tri khổ.

 [14] Đại chánh, kinh 115.

 [15] Đại chánh, kinh 116

 [16] Ngã kiến, ngã sở ngã mạn sử hệ trước 見我,我所,我慢使繫著. Pāli, thành cú: ahaṃkāra-mamaṃkāra-mānānusayā.

 [17] Đại chánh, kinh 117.

 [18] Đại chánh, kinh 118.

 [19] Đại chánh, kinh 119.

 [20] Đại chánh kinh 120. Pāli, S. 23. 1. Māro; 11. Māro.

 [21] Ma 魔. Pāli: māra, đồng nghĩa maraṇa: sự chết. Sớ giải: māro ti marṇaṃ pucchati, hỏi về Ma, là hỏi về sự chết chết

 [22] Đại chánh, kinh 121. Từ đây trở xuống, trong bản Hán rất ít ghi bài kệ tóm tắt cuối mỗi phẩm, cho nên tên mỗi kinh do người dịch và hiệu chú dựa theo nội dung, một phần dựa theo tên kinh Pāli tương đương.  Pāli, S. 23. 12. Māradhamma.

 [23] Ma pháp 死法, Pāli: māradhamma, ma pháp hay tử pháp. Sớ giải: māradhammo ti maraṇadhammo, pháp của Ma, là pháp thuộc sự chết.

 [24] Đại chánh, Kinh 122. Pāli, S. 23. 2. Satto.

 [25] Pāli: kittāvatā nu kho satti ti vuccati, cho đến mức nào được nói là chúng sanh?

 [26] Nhiễm trước triền miên 染著纏綿, định nghĩa từ “chúng sanh”; Pāli (S. iii.190): rūpe kho rādha yo chando yo rāga yā nandi yā taṇhā tatra satto tatra visatto tasmā sattoti vuccati, “ở nơi sắc mà có dục vọng, đam mê, khoái cảm, khát ái; ở đó đắm nhiễm, ở đó đắm nhiểm triền miên, do đó được gọi là chúng sanh.” Theo đây, chúng sanh, satta, được coi như là phân từ quá khứ của sajjati: đắm nhiễm hay cố chấp, bám chặt vào. Thông thường, satta được cho là danh từ phái sinh của động từ căn as: tồn tại, hiện hữu; nên satta được hiểu là “cái ở trong trạng thái đang tồn tại.”

 [27] Hán: tác khổ biên 作苦邊. Pāli: dukkhassa antakaro, chấm dứt sự khổ.

 [28] Đại chánh, kinh 123. Pāli, S. 23. 9-19. Chandarāgo.

 [29] Nhiễm y 染衣, áo nhuộm; đây chỉ ca-sa.

 [30] Đương lai hữu ái 當來有愛; Pāli: taṇhā ponobhavikā, khát ái về đời sống tương lai, khát vọng tồn tại đời sau

 [31] Bỉ bỉ ái lạc 彼彼愛樂, ước muốn sẽ tái sinh vào nơi này hay nơi kia. Pāli, thành cú: tatratatrābhinandī

 [32] Trong bản; đương hữu ái, tức đương lai hữu ái, xem cht. 30 trên.

 [33] Pāli (S. iii. 138): yo tassāyeva taṇhā asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo, khát ái ấy hoàn toàn được ly nhiễm, diệt tận, xả bỏ, xả ly, giải thoát, không chấp tàng.

 [34] Vô gián đẳng, xem cht. 30 kinh 23.

 [35] Đại chánh, kinh 124. Pāli, S. 23. 11. Māro.

 [36] Đại chánh, kinh 125. Pāli, S. 23. 23. Māro.

 [37] Đại chánh, kinh 126. Pāli, S. 23. 24. Māradhamma.

 [38] Đại chánh, kinh 127. Pāli, S.23. 19-22. Khaya.

 [39] Đoạn pháp 斷法. Pāli: khayadhamma.

 [40] Đại chánh, kinh 128. Pāli, S. 23. 31. Khaya.

 [41] Đoạn pháp 斷法; Trong đây, hai kinh liên tiếp đều noid về đoạn pháp, nội dung hoàn toàn gióng nhau, Việt dịch là đoạn tận và đoạn hoại để phân biệt. Cả hai tương đương Pāli là S.23. 31. Khayadhamma, và S. 23. 32. Vayadhamma, nội dung cũng tương đồng, chỉ khác từ khaya: tận diệt (đoạn tận), và vaya: suy diệt (đoạn hoại).

 [42] Đại chánh, kinh 129. Pāli, S. 23. 32. Khayadhamma.

 [43] Xem cht. 41 kinh 130.

 [44] Đại chánh, kinh 130. Pāli, S. 23. 35-46. Māro, v.v…

 [45] Các từ nghĩa liên liên hệ, tham khảo Du-già 83 (tr. 760a17); chú thích theo Ấn Thuận Hội biên.

 [46] Đại chánh, kinh 131.

 [47] Hán: tập 習, dịch ngữ thường tương đương Pāli sevati, thân cận, phục vụ, phụng sự. Kinh tiếp theo, dịch là (bất) tập cận 不習近.

 [48] Hán: Tùy ma tự tại 隨魔自在. Pāli, thành cú: Mārassa vasaṃ gacchanti, chúng nó đi theo (bị chi phói bởi) quyền lực của Ma.

 [49] Đại chánh, kinh 132.

 [50] Xem cht. 2 kinh 131 trên.

 [51] Tức là, chiếu theo kinh 133 và các kinh tiếp theo được liệt kê ở trên, các kinh tiếp theo kinh 134 này có nội tương phản. Nghĩa là, tiếp theo kinh 133 là kinh “Tập trước”, thì tiếp theo kinh 134 ở đây là “Bất tập trước.” Cho đến, “Thổ (nhổ ra)” và tương phản là “Bất thổ”