Người Nữ Trong Đạo Phật

chu_co_dieu_de_thuong_3.jpg...Mùa an cư thứ năm sau ngày thành đạo, đức Phật cho phép thành lập Giáo hội Ni. Những thử thách buổi đầu của Ngài là những lời giáo huấn vô ngôn cho bản chất Ni chúng. Vượt qua nó, và chứng tỏ khả năng giải thoát của mình, là công hạnh của Di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chư vị Thánh Ni.

Tập Trưởng lão Ni kệ gồm những bài ca chứng đạo, khúc hát chiến thắng của những người đã đặt xuống gánh nặng sanh tử. Chúng ta xúc động khi lật từng trang Kinh. Những mảnh đời khác nhau, những tâm tư khác nhau đã hội tụ trong biển Phật pháp.

...Sư trưởng Chùa Huê Lâm, người đầu tiên vận động thành lập Ni Bộ Việt Nam, bậc Thầy hướng đạo cho sinh hoạt Ni chúng miền Nam từ thập niên 60 có nói: Ni giới mình yếu ớt lắm. Thầy sẽ trở lại để độ Ni.

“Nguyện làm Ni để độ Ni.” Một đại nguyện phát xuất từ hùng lực và bi mẫn.

Người Nữ Trong Đạo Phật

Như Đức

Giáo huấn

Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) một hôm đang hầu chuyện với đức Phật, bỗng nghe tin Hoàng hậu hạ sanh công chúa, nhà Vua tỏ vẻ không vui. Thấy thế đức Phật khuyên nhủ: Đại vương! Một bé gái có thể còn quý hơn con trai. Khi lớn lên cô bé có thể là một người trí tuệ và phẩm hạnh vẹn toàn. Là một người vợ hiền, biết kính trọng mẹ chồng. Sẽ là mẹ của một quân vương vĩ đại. Thật thế, đứa con của một người vợ cao thượng sẽ trở thành một người hướng đạo chơn chánh cho quốc gia.

Câu nói của đức Phật, từ đó như một bằng ban khen, bảo đảm giá trị cho người nữ. Phá tung thành kiến, với lý luận suy diễn. Ngài cho thấy, nếu được giáo dục toàn vẹn về trí tuệ và đạo đức, con gái cũng đáng quý không thua con trai.

Ca dao Việt Nam xác định:

“Trai mà chi, gái mà chi,

Con nào có nghĩa, có nghì là hơn.”

Một lần khác đức Phật dạy dỗ cho Sujàta, con dâu của trưởng giả Cấp Cô Độc. Cô này vốn sanh trưởng trong một gia đình giàu có, khi về nhà chồng rất hống hách, ngang ngược. Đức Phật cho gọi cô lên, giải thích về bảy hạng vợ trên thế gian; lưu ý rằng có những người vợ quấy rối, và những người vợ hiền thục. Cuối cùng Phật hỏi: Này Sujata, đó là bảy hạng vợ, con thuộc hạng nào?

Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy nghĩ rằng từ nay con thuộc về hạng vợ hiền.

Phương trời cao rộng

Mùa an cư thứ năm sau ngày thành đạo, đức Phật cho phép thành lập Giáo hội Ni. Những thử thách buổi đầu của Ngài là những lời giáo huấn vô ngôn cho bản chất Ni chúng. Vượt qua nó, và chứng tỏ khả năng giải thoát của mình, là công hạnh của Di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chư vị Thánh Ni.

Tập Trưởng lão Ni kệ gồm những bài ca chứng đạo, khúc hát chiến thắng của những người đã đặt xuống gánh nặng sanh tử. Chúng ta xúc động khi lật từng trang Kinh. Những mảnh đời khác nhau, những tâm tư khác nhau đã hội tụ trong biển Phật pháp.

Tỳ kheo Ni Mutta, con gái dòng Bà la môn, sau khi tu tập Thiền quán, chứng quả vị A La Hán tuyên bố:

“…Hỡi này giải thoát Ni!

Ta thoát được sống chết!

Những gì dẫn tài sanh,

Được nhổ lên tận gốc!”

Dhammadinnà đi đến với chúng Ni trong một chiếc kiệu vàng. Sau khi nhập thất, chế ngự, thân, miệng, ý, Ngài chứng quả A La Hán. Với biệt tài vô ngại, Ngài được đức Phật công nhận là người thuyết pháp đệ nhất trong các Tỳ kheo Ni. Bài kệ chứng đạo mở ra một phương trời cao rộng.

“Trong ai, lòng ước muốn,

Đạt được quả vô sanh

Đã sanh khởi tỏa rộng

Đầy tràn cả tâm ý.

Tâm không bị trói buộc

Trong các dục chi phối

Vị ấy được tên gọi

Là bậc vào Thượng Lưu.

Anopanà, con gái quan thủ kho, vì rất đệp nên có tên Anopanà (không ai sánh nổi) được các bậc vương tôn công tử cầu hôn với lời hứa: “Sẽ nộp sính lễ châu báu nặng gấp tám lần nàng.” Nhưng Anopanà đi đến gặp Phật, nghe thuyết pháp, chứng quả thứ ba tại chỗ ngồi. Sau khi xuất gia trở thành Tỳ kheo Ni, chỉ bảy ngày sau Ngài chứng quả A La Hán.

Khema, Hoàng hậu cảu Vua Bimbisara, tình cờ đến Tinh xá Trúc Lâm. Được Thế Tôn hóa độ, bà chứng quả Dự Lưu. Sau khi xuất gia, chứng quả A La Hán. Đức Phật xếp Ngài vào hàng Thiền quán đệ nhất, và là một trong những bậc thượng thủ Ni thời đó.

Khi nghe đức Phật tuyên bố rằng: “Ba tháng nữa sẽ vào Niết bàn”, Di mẫu đến đảnh lễ Phật và xin phép nhập diệt trước. Ngài trở về Tinh xá, cùng 500 La Hán Ni bay lên hư không, thị hiện 18 phép thần biến rồi cùng vào Niết bàn một lượt. Những vầng Hỏa Quang Tam Muội sáng rực, ánh sáng, nước và lửa cuộn tròn trên không trung. Cảnh tượng huy hoàng thiêng liêng một thuở.

Hai Sa Di Ni chứng kiến cảnh các Thầy nhập diệt, đã nỗ lực Thiền quán cũng chứng A La Hán và vào Niết bàn luôn, đức Phật đưa Xá Lợi của Di mẫu ra trước chúng, nói: Nếu nói đại trượng phu thì Ma Ha Ba Xà Ba Đề là đại trượng phu. Những gì bậc trượng phu làm, bà đều làm tới cả.

Chỉ một câu này thôi, Phật tánh hiển lộ bình đẳng.

Ni giới Việt Nam

Tiếp nối truyền thống chứng đạo và tu đạo. Ni sư Diệu Nhân, đời thứ mười bảy dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, nói kệ dạy chúng trước khi thị tịch:

“Sanh già bệnh chết

Xưa nay lẽ thường

Muốn cầu thoát ra

Mở trói thêm ràng.

Mê đó, tìm Phật

Lầm đó cầu Thiền

Phật, Thiền chẳng cầu

Uổng miệng không lời.”

Bài kệ như một tiếng cười hồn nhiên sảng khoái, làm giật mình những người loanh quanh trong vòng trói buộc. Những tìm kiếm nhọc nhằn xưa nay chỉ là tìm kiếm trong chiêm bao. Chỗ giác ngộ không có nẻo đi về, không tung tích ngôn ngữ.

Thời cận đại, các bậc Ni trưởng dày công khêu đèn, mở đuốc. Từ lớp Gia Giáo Ni đầu tiên tại Chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) cho đến các trường lớp hiện nay, nhiều thế hệ Ni chúng được trưởng dưỡng trong nguồn mạch Tam Tạng, được thấm nhuần giáo pháp vi diệu. Con đường hành hóa của các bậc tiền bối Ni vang dội, Sư trưởng khai sơn Chùa Hải Ân, Sư trưởng khai sơn Chùa Kim Sơn, Sư trưởng khai sơn Chùa Bảo An (Cần Thơ)…những tấm gương khích lệ cho Ni giới. Có một điều gì thâm cảm vô cùng khi nhớ đến Ngài.

Sư trưởng Chùa Huê Lâm, người đầu tiên vận động thành lập Ni Bộ Việt Nam, bậc Thầy hướng đạo cho sinh hoạt Ni chúng miền Nam từ thập niên 60 có nói: Ni giới mình yếu ớt lắm. Thầy sẽ trở lại để độ Ni.

“Nguyện làm Ni để độ Ni.” Một đại nguyện phát xuất từ hùng lực và bi mẫn. Đại nguyện này thay cho lời kết.

(Trích tuần báo Giác ngộ 19/10/1996)