Tác giả: Sir Edwin Arnold
Pháp dịch: Léon Sorg
Việt dịch: Đoàn Trung Còn
Xuất bản: Tịnh Xá Minh Đăng Quang
Phật Lịch 2530
LỜI NÓI ĐẦU
- Ân Phật lớn lao chẳng nghĩ lường
Cũng vì bác ái với lòng thương
Xả thân tuổi trẻ tìm chân lý
Cầu đạo chẳng màng bậc Đế vương.
Vợ đẹp, con yêu đành gác lại
Cha già, mẹ yếu đoạn tình thương
Nguyện tu đắc quả tròn ngôi vị
Cứu độ quần sanh khỏi lạc đường.
Kính chúc vạn vật thái bình, âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh tổng giai thành Phật đạo.
- Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Mùa Phật đản 2529
Đức Pháp chủ GHPGTGKSTG
Hòa thượng Thích Giác Nhiên
- Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thật vậy, đức Phật Thích Ca có sống đời cách nay hai ngàn rưỡi năm. Tuy là hàng vương giả sang trọng, nhưng ngài hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, nhứt là ngài thường đoái tưởng tới hạng bình dân, tới hạng nghèo hèn, chia bát cơm manh áo do họ thân tặng, uống chén nước bát sữa do bàn tay lem luốc của họ kính dâng. Nhân các dịp gần gũi thân mật ấy, ngài đem lý từ hòa, hỷ xả mà giáo hóa họ, đem lẽ tiến hóa mà cảm thông họ. Nhờ vậy, vào thời buổi ấy, ở Ấn độ, người ta sống một đời sống rất hạnh phúc, kẻ lê thứ thì kính mến nhà trí thức, nhà tôn giáo, nhà cai trị, nhà quân quyền. Còn kẻ bề trên nhờ hấp thụ Phật lý mà đem lòng thương tưởng lê dân, cộng tác với Phật trong việc thanh bình đất nước: người người trở nên hòa lạc, thân ái từ tâm tư đến ngôn ngữ và hành vi vậy.
Chẳng những riêng đối với loài người trong các giai cấp, mà đối với hạng thú cầm sống trong cảnh đọa lạc hoặc trong cảnh kém tiến hóa, đối với các linh hồn bị trừng phạt nơi cảnh thấp vì đã lỡ lạc lầm, cùng đối với các Thần Tiên đương hưởng phước ở cảnh cao nhờ trước đã sống đời một cách phước thiện, đức Phật cũng hằng tiếp xúc với họ để an ủi họ hoặc để nâng chí họ trên đường tiến tu tiến đức.
Khi xem qua quyển sách nầy, quí bạn sẽ thấy rằng giáo lý của Phật không phải là mê tín, không phải là dị đoan. Mà là một nền Đạo đầy đủ, đáng tôn, đáng kính, thuần lương, ôn hòa, rất hợp với tư tưởng của đa số các nhà trí thức ngàn đời. Trong đó, có chứa thuyết trung dung, lẽ luân thường của Khổng Tử, lý vô vi thanh tịnh của Lão Tử, lẽ huyền bí, tín ngưỡng và giải thoát của Gia Tô, lý tu thân chỉnh tâm của các nhà triết học Hy lạp, nhứt là những lẽ cao siêu về sinh vật, về vũ trụ, mà các nhà khoa học gần đây đều công nhận và các nhà khoa học hiện nay đương tìm tòi thêm ra để biện minh cho rành rẽ.
Vả lại, quyển "Ánh Sáng Á Châu" nầy có cái đặc sắc là không thần quyền hóa đức Phật, không đề cao địa vị thánh thần của ngài, mà đặt ngài vào vị trí một Người, cùng cảm những mối cảm của nhân gian, nhưng biết kiềm chế các mối cảm ấy để thoát ly khỏi lãnh vực cảm xúc, trìu mến mà trở nên tự tại, giải thoát và giải thoát cho đời.
Như lúc Thái tử sắp bước ra khỏi thâm cung, bấy giờ người vợ hiền đang ngủ yên, thì có mấy câu:
Trượng phu thôi chẳng bao giờ nằm đây!"
Ba lần Ngài cất bước đi,
Ba lần trở lại, ấy vì Da Du...
Còn hơn yêu chỗ vui cầu của ta,
Nhưng nay đành phải lìa xa,
Tầm phương cứu vợ, cứu cha, cứu đời.
Không còn đụng chạm thịt hồng nữ nhơn.
Tại sao lúc nọ đứng gần,
Để cho vợ cũ ân cần ôm hôn?
Ngài rằng: Quảng đại tâm hồn
Cũng còn luyến ái như phồn nhỏ nhen.
Mặc dầu cao nhã đáng khen,
Chớ đem giải thoát làm phiền người ta.
- Sài Gòn, tháng năm dương lịch 1965
Phật tử ĐOÀN TRUNG CÒN
- Sài Gòn, tháng năm dương lịch 1965