Kinh Phật tự thuyết

LỜI GIỚI THIỆU

Kinh Udana, được dịch là Phật tự thuyết kinh, nghĩa là những kinh này đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh đột khởi, không ai thỉnh Phật thuyết. Cũng có khi dịch là Vô vấn tự thuyết nghĩa là không có người hỏi đức Phật tự nói. Có khi được dịch là “Những lời cảm hứng”, nghĩa là lời nói đột khởi, do cảm xúc mạnh thúc đẩy, khi đức Phật tự mình chứng kiến những sự việc xảy ra xung quanh. Theo tập Upanishads, chữ Udàna có nghĩa là các hơi thở sinh mệnh (pràna, apàna, sumàna, vyàna, udàna), ở trung tâm cổ họng được phát ra.

Tập này gồm tám chương.  Mỗi chương có 10 kinh. Như vậy có tám mươi kinh tất cả. Để tiện tìm kiếm, khi viết I, 2 thời hiểu là chương I, kinh số 2, khi ghi IV, 7, thời hiểu là chương IV kinh 7 v.v... Mỗi kinh gồm hai phần, phần đầu văn xuôi, ghi nhận một câu chuyện do đức Phật chứng kiến hay do các tỷ kheo kể lại, và phần thứ hai là lời cảm hứng của đức Phật, phần lớn là bằng những bài kệ (gàthà) chỉ có 1, 2 bài kinh Udàna được chép bằng văn xuôi.

Trước hết là một số kinh do liên hệ đến đời sống của đức Phật, như ba kinh đầu, Phẩm Bồ Đề diễn tả đức Phật khi mới thành đạo, ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề, suy tưởng đến lý 12 nhân duyên, thuận  chiều và nghịch chiều rồi nói lên lời cảm hứng. (xem I, 1, 2, 3). Kinh II, 1 nói đến tích đức Phật ngồi nhập định gặp mưa to gió lớn, có con rắn Mucalinda quấn thân mình chung quanh đức Phật để che chở cho Ngài. Kinh IV, 5 đề cập đến đức Phật bị các vị xuất gia, tại gia, vua chúa đến làm phiền nhiễu nên Ngài bỏ đi vào núi một mình và sống với một con voi, con voi này cũng bị đàn voi quấy rầy nên đến sống một mình với đức Phật. Sự tích khi đức Phật từ bỏ thọ hành và tuyên bố sau ba tháng sẽ nhập Niết bàn được kinh VI, 1 diễn tả. Và cũng được diễn tả là bữa cơm cuối cùng do thợ rèn Cunda cúng dường đức Phật. Sau bữa cơm ấy, đức Phật nhuốm bệnh và không bao lâu đức Phật nhập Niết bàn. Những sự tích trên giúp chúng ta có thêm một số tài liệu về lịch sử đức Phật.

Song song với các sự tích về đời sống đức Phật, tập Udàna nói đến khá nhiều về các đệ tử của đức Phật, như  Sàriputta, Moggallàna, Kaccàna, Subbùti, Mahakassapa, Nanda... Mahakassapa bị bệnh tu định luôn 7 ngày để trị bệnh ( Kinh III, 7): Nanda ban đầu mê các tiên nữ nên tu hành, sau bị các đồng Phạm hạnh chỉ trích nên tinh tấn tu hành chứng được quả A la hán (III, 2). Sàriputta ngồi nhập định bị quỷ Dạ xoa đánh trên đầu (IV.4, 7), 500 tỷ kheo do Yasoja cầm đầu làm ồn bị đức Phật đuổi đi, sau tinh tấn tu hành, chứng được quả A la hán (III, 3). Đức Phật khen tôn giả Lakunlaka Bhaddiya trong dung sắc xấu xí nhưng đã chứng quả giải thoát (VII, 5); Tôn giả Dabba Mallaputta nhập định hỏa giới tự thiêu trước chúng Tăng, không để lại tro tàn gì (VIII, 9, 10).

Tiếp đến là các đệ tử gia, như nữ cư sĩ  Visàkhà hai lần đến yết kiến đức Phật, một lần vì có sự việc cần phải giải quyết với Vua Pasenadi (II, 9), một lần có đứa cháu trai chết nên đến báo cáo đức Phật (VIII, 8). Sự tích 500 cung nữ của Vua Udena, trong ấy có Sàmavati bị chết thiêu cũng được đề cập. Vua Pasenadi nước Kosala được nói đến nhiều lần và một lần vua hỏi đức Phật có thể biết được các người tu hành có chứng qua hay không, thời đức Phật trả lời với những người như Vua Pasenadi sống trong dục lạc, khó lòng biết được quả chứng của các nhà tu hành. (VI, 2). Bao giờ cũng vậy, giữa đức Phật và các ngoại đạo cũng có những va chạm, những xung khắc, và các tích này được nghe nhận khá nhiều trong tập Udàna. Trước hết là sự kiện khi Như Lai chưa xuất hiện thời các ngoại đạo được quần chúng cung kính cúng dường, nhưng khi Như Lai xuất hiện, thời sự cung kính cúng dường bị chấm dứt (Vi, 9; II, 9). Cũng vì vậy, ngoại đạo thù hằn đức Phật và chúng Tăng, giết kỹ nữ tên Sundarì đem chôn ở Jetavana để vu oan cho chúng Tăng (IV, 8). Và dân chúng ở Thùma do ngoại đạo xúi dục đổ cỏ và rác xuống giếng để ngăn đức Phật không được uống nước (VII, 9). Thường thường đức Phật dùng một vài hình ảnh châm biếm để nói đến các ngoại đạo. Chúng ta nhớ câu chuyện các người mù rờ voi, diễn tả các ngoại đạo mỗi người chấp chặt chủ thuyết của mình (VI, 4). Cũng mỉa mai là câu chuyện một du sĩ ngoại đạo, tìm dầu cho vợ mình sắp sinh đẻ, vào kho vua uống quá nhiều dầu để đem dầu về cho vợ, nhưng vì uống quá nhiều nên bị đau đớn, lăn lộn, khốn khổ (II, 6). Ngoài ra nhiều vấn đề xã hội, rất bình thường cũng được nói đến. Như đức Phật thấy đứa con nít hành hạ con rắn (II, 3), các dân chúng Vương xá tranh nhau người kỹ nữ (VI, 8), dân Sàvatthi quá đắm say về dục (VII, 3, 4) cũng được đức Phật đề cập và nói lên lời cảm hứng.

Trong 80 kinh của tập Udàna, 80 trường hợp được ghi nhận là đức Phật thốt lên những lời cảm hứng, sau khi cảm thấy xúc động trước một số sự kiện, và chính những lời cảm hứng mới thật là quan trọng trong tập Udàna này. Vì đây là dịp đức Phật nói lên quan điểm của mình đối với những sự việc đã xảy ra ở xung quanh; và chính những quan điểm ấy đã trở thành những giáo lý chính đức Phật đã giảng dạy và trình bày. Chúng ta đã tìm được những pháp và tùy pháp đức Phật đã thuyết giảng ngay qua các lời cảm hứng ấy.

Trước hết là lý 12 nhân duyên hay lý duyên khởi được trình bày ba lần, trong ba kinh đầu I, 1, 2, 3, thuận chiều, nghịch chiều, thuận chiều và nghịch chiều, từ vô minh duyên  hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc cho đến duyên sanh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Quá trình sanh tử của con người, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai được khéo cô động trong thuyết duyên khởi Bao giờ cũng vậy, đức Phật nhắm trong dây truyền sanh tử hai pháp dục và ái rất là quan trọng. Và do vậy nhiều lời cảm hứng đề cập đến dục và ái. Trong kinh VII, 4, dân chúng Sàvatthi quá đắm say về dục nên đức Phật đã than:

“ Bị mù bởi các dục,       

Bị lưới dục bao phủ,

Bị ái dục bao trùm,         

Lại còn bị trói buộc,

Bởi trói buộc phóng dật,

Như cá mắc miệng lưới,

Chúng đi đến già chết,

Như con bên bú sữa,

Đi đến với mẹ nó”.

Với ái, có thân yêu là có đau khổ. Khi Visakhà đến than với đức Phật có đứa cháu trai mới chết, đức Phật đã nói: “Những ai có 100 quả thân yêu là có 100 đau khổ; 90 người thân yên là 90 người đau khổ... cho đến 1 người thân yên là 1 người đau khổ (VIII, 8)

“Sau than và đau khổ,    

Sai biệt có ở đời,

Duyên thân ái chúng có,

Không thân ái chúng không.

Do vậy, người an lạc,     

Người không có sầu muộn

Là những ai ở đời,

Không có người thân ái,

Do vậy ai tha thiết,

Được không sầu, không tham,

Chớ làm thân, làm ái,

Với một ai ở đời”.

Dục và ái đã có mặt, thời có sanh y, có sự tiếp nối một đời sống, nên có sanh y là có đau khổ:

“Giữa làng, tại núi rừng,

Cảm thọ khổ và lạc,

Chớ quy về tự mình,        

Chớ quy về người khác.

Các xúc được cảm thọ,

Là do duyên sanh y.

Với vị không sanh y.

Do đâu, xúc cảm thọ”. (II, 4)

Khi đức Phật từ bỏ thọ hành (VI, 1) Ngài muốn cắt đứt mọi hành động sanh hữu:

“ Bậc ẩn sĩ từ bỏ,

Các hành động sanh hữu,

Sanh hữu có cân lượng,

Sanh hữu không cân lượng.

Ưa thích hướng nội tâm,

Thật định tỉnh an tỉnh,

Phá đổ ngã sanh hữu,

Như cởi thoát áo giáp.”

Trong những kinh, đức Phật tán thán các đệ tử tu thiền định vì đó là con đường đưa đến giải thoát. Trong kinh III, 5, Ngài Mục Kiền Liên ngồi thiền định tu thân hành niệm được đức Phật nói lên cảm hứng:

“Thân hành niệm an lập,

Sáu xúc xứ chế ngự,

Tỷ kheo thường thiền định,

Tự chứng tri Niết bà.”

Trong kinh III, 4, Ngài Xá Lợi Phất ngồi thiền định, để niệm trước mặt, không xa Thế Tôn bao nhiêu và Thế Tôn nói lên cảm hứng:

“ Như ngọn núi bằng đá,

Không động khéo an trú,

Cũng vậy vị tỷ kheo,

Đoạn diệt được ngu si,

Như ngọn núi bằng đá,

Không có bị giao động.”

Ngài Tu Bồ Đề (Subhùti), tu định không tầm (avitakkamsamàdhim) và được Thế Tôn tán thán và nói lời cảm hứng:

“Với ai tâm quét sạch,

Nội tâm khéo cắt đứt,

Không còn chút dư tàn,

Vượt qua ái nhiễm ấy.

Đạt được tưởng vô sắc,

Vượt khỏi bốn ách nạn,

(Kinh Vi, 7)

Nhưng đức Phật ấy nhận thấy đối với chúng sanh, khó thấy là vô ngã, khó thấy là sự thật. Nên đức Phật thường dạy cho các đệ tử một cái nhìn “vô ngã”.

“Trên dưới, khắp tất cả

Được giải thoát hoàn toàn,

Không còn có tùy quán

Cái này chính là tôi”

Giải thoát vậy vượt giòng,

Trước chưa tầng vượt qua,

Không còn có rơi rớt,

Vào sanh tử thọ sanh.”

Mục đích cuối cùng của sự tu hành là giải thoát Niết bàn và trong tập Udàna có nhiều kinh và lời cảm hứng đề cập đến trạng thái Niết bàn, một trạng thái khó lấy danh từ để diễn tả

Bàhiya Darucìriya tu tập, tưởng mình đã chứng quả A la hán nhờ đức Phật dạy cho: “Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri... Như vậy, này Bàhiya, nhà ngươi cần phải học tập. Vì rằng này Bàhiya, như với ngươi, trong thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya ngươi không là chỗ ấy. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau” (kinh I, 10).

Đoạn sau đây cũng là đoạn diễn tả Niết bàn trong lời cảm hứng bằng văn xuôi (VIII, 1).


“Này các tỷ kheo, có xứ này (Àyatana), tại đấy không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có hư không vô biên xứ; không có thức vô biên xứ; không có vô sở hữu xứ; không có phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có đời này; không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các tỷ kheo. Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”

Đoạn tiếp cũng diễn tả trạng thái Niết bàn: “Này các tỷ kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vị. Này các tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời dở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không  bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sự sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi”. (VIII, 3)

Đây cũng là lời cảm hứng của Phật về trạng thái Niết bàn giải thoát: “Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động, cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời không có thiên về. Không có thiên về, thời không có đến và đi. Không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Không có diệt và sanh, thời không có đời này, không có đời sau, không cô đời ở giữa. Đây là sự đoạn diệt khổ đau”. (VIII, 4)

Như vậy trong tập Udàna này, ngang qua các câu cảm hứng do đức Phật thuyết lên một số giáo lý căn bản được đề cập một số pháp môn tu hành được đề cao và mục đích tối hậu trong sứ mệnh hoằng pháp của đức Phật cũng được diễn tả đến.

Phật lịch 2526

TP. HỒ Chí Minh, ngày 10/12/1982

Tỷ kheo THÍCH - MINH - CHÂU

Viện Trưởng Viện Phật Học Vạn Hạnh

716, Nguyễn kiệm - Phú nhuận,

 

 

KINH PHẬT TỰ THUYẾT

hay

“LỜI CẢM HỨNG”

CHƯƠNG MỘT:  PHẨM BỒ ĐỀ

(I) (Vd. 1)

““Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bời sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ Đề, khi mới chứng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy ra khỏi định ấy, trong đêm canh thứ nhất, khéo thuận chiều tác ý lý duyên khởi. Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Tức là duyên vô minh, có các hành; Duyên các hành, có thức; Duyên thức, có danh sắc; Duyên danh sắc, có sáu xứ; Duyên sáu xứ, có xúc; Duyên xúc, có thọ; Duyên thọ có ái; Duyên ái, có thủ; Duyên thủ, có hữu; Duyên hữu, có sanh; Duyên sanh, có già chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này,  trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

1. “Thật sự, khi các pháp,

Có mặt, hiện khởi lên

Đối vị Bà la môn,

Nhiệt tâm hành thiền định

Khi ấy, với vị ấy,

Các nghi hoặc tiêu trừ

Vì quán tri hoàn toàn,

Pháp cùng với các nhân”.

(II) (Ud. 2)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà, trên bờ sông Neraujarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới chứng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi kiết già thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh giữa, khéo nghịch chiều tác ý lý duyên khởi: “Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là, do vô minh diệt nên hành diệt; Do hành diệt, nên thức diệt; Do thức diệt, nên danh sắc diệt; Do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt; Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt; Do xúc diệt, nên thọ diệt; Do thọ diệt, nên ái diệt; Do ái diệt, nên hữu diệt; Do hữu diệt, nên sanh diệt; Do sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

2. “ Thật sự khi các pháp,

Có mặt, hiện  khởi lên,

Đối vị Bà la môn,

Nhiếp tâm, hành thiền định

Khi ấy, với vị ấy,

Các nghi hoặc tiêu trừ,

Vì đã biết hoàn toàn,

Sự tiêu diệt các duyên ([1])”.

(III) (Ud 2)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới chứng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một  thế ngồi kiết già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh cuối cùng, khéo thuận chiều và nghịch chiều tác ý lý duyên khởi: “Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Tức là duyên vô minh có các hành. Duyên các hành có thức... Duyên sanh, có già chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là tập khởi của khổ uẩn này. Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt, nên thức diệt... Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

3. “Thật sự khi các pháp,

Có mặt hiện khởi lên,

Đối vị Bà la môn,

Nhiệt tâm hành thiền định.”

Quạt sạch cá ma quân,

Vị ấy đứng, an trú,

Như ánh sáng mặt trời,

Chói sáng khắp hư không”

(IV) (Ud. 3)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bàng Ajapala, khi mới chứng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ,  Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy ra khỏi định ấy. Có một Bà la môn thuộc giòng họ Huhunka ([2]) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên lời chào hỏi, sau khi nói lời chào hỏi thân hữu, rồi đứng một bên. Đứng một bên, Bà la môn ấy nói với Thế Tôn: “Tôn giải Gotama, cho đến như thế nào là Bà la môn, và những pháp nào tác thành Bà la môn?” “Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

4. “Vị Bà la môn nào,

Loại trừ các ác pháp,

Không kiêu, không uế nhiễm,

Tự ngã khéo chế ngự,

Vệ Đà không thông đạt,

Phạm hạnh được viên thành,

Vị Bà la môn ấy,

Có thể nói lên được,

Lời Phạm ngữ đúng pháp,

Vị ấy ở đời này,

Không hề có mạn tâm ([3])

Bất cứ ở nơi nào,”

(V) (Ud. 3)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá vệ) tại Jetavana (Kỳ đà lâm), khu vườn ông Anàthapindika ( Cấp Cô độc). Lúc bấy giờ, tôn giả Sàriputta (Xá lợi phất), tôn giả Mahàmoggallàna (Đại Mục kiền liên) tôn giả Mahàkassaka (Đại Ca diếp), Tôn giả Mahàkaccayàna (Đại Ca chiên diên), tôn giả Mahàkotthita (Đại Câu thi la), tôn giả Mahàkappina (Đại Kiếp tân na), tôn giả Mahàcunda (Đại Thuần đà), tôn giả Anuruddha (A Na  luật đà) tôn giả Revata ( Ly Bà đa), tôn giả Devadatta (Đề Bà đạt đa) tôn giả Ànanda (A nan) đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy các Tôn giả ấy từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với các tỷ kheo: “Này các tỷ kheo, các Bà la môn này đang đi đến. Này các tỷ kheo, các Bà la môn này đang đi đến.” Khi được nói vậy, một tỷ kheo, thọ sanh là Bà la môn, bạc Thế Tôn : “Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là Bà la môn, và có bao nhiêu pháp, tác thành Bà la môn?” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

5. “Sau khi loại ác pháp,

Ai thường hành chánh niệm,

Kiết sử đoạn, giác ngộ,

Những vị ấy ở đời,

Thật là Bà la môn”.

(VI) (Ud. 4)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Vương xá, tại Trúc lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ tôn giả Mahakassapa trú ở hang Pipphali, đau bệnh khổ đau, bệnh trầm trọng. Rồi tôn giả Mahàkassapa sau một thời gian, thoát khỏi bệnh ấy ([4]). Rồi tôn giả Mahàkassapa thoát khỏi bệnh ấy suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi vào Vương xá để khất thực”. Lúc bấy giờ,  khoảng năm trăm thiên nhân, đang cố gắng sửa soạn để tôn giả  Mahàkassapa gạt bỏ năm trăm thiên nhân ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Vương xá để khất  thực. Đi ngang những con đường những người nghèo, con  đường những người ăn xin (kapanavisikhà), con đường những người thợ dệt (pesakàravisikhà). Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

6. “Ai sống không nhờ người,

Không được người biết đến ([5])

 Sống tự mình chế ngự,

An trú trên lõi cây,

Các lậu hoặc đã đoạn,    

Sân hận được trừ diệt,

Vị ấy được ta gọi,

Là vị Bà la môn.”

(VII) (Ud.4)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Pàtali ([6]) tại Ajakalàpaka, chỗ ở của Dạ xoa Ajakalàpa. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong đêm tối đen, và trời mưa từng hột xuống. Rồi Dạ xoa Ajakalàpaka muốn làm cho Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, ba lần nói lên gần Thế Tôn tiếng gào thét (akkulapakkuhkam) của mình là Akkulopakkulo: “Này Sa môn, có con quỉ cho ngươi” Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

7. “Khi nào Bà la môn,

Đối với pháp của mình,

Đã đạt được bờ kia,

Vị ấy vượt qua được,

Ac quỉ yêu ma này.”

(VIII) (Ud.5)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ tôn giả  Sangamàji đã đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji nghe được tin tôn giả Sangamàji đã đến Sàvatthi. Nàng liền dắt người con đi đến Jetavana. Lúc bấy giờ tôn giả Sangamàji đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. Rồi người vợ trước đây của tôn giả Sangamàji đi đến tôn giả Sangamàji, sau khi đến, nói lên với tôn giả Sangamàji: “Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi với đứa con nhỏ”. Khi nghe nói vậy, tôn giả Sangamàji giữ im lặng. Lần thứ hai, người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji nói với tôn giả Sangamàji: “ Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ”. Lần thứ hai, tôn giả Sangamàji giữ  im lặng. Lần thứ ba, người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji nói với tôn giả Sangamàji: “Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!” Lần thứ ba, tôn giả Sangamàji giữ im lặng. Rồi người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji đặt đứa nhỏ trước mặt tôn giả Sangamàji rồi bỏ đi, nói rằng: “Này Sa môn, đây là đứa con trai của Sa môn. Hãy nuôi dưỡng nó!” Tôn giả Sangamàji không có ngó đến đứa nhỏ ấy, cũng không nói gì. Rồi người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji, sau khi đi không xa, ngó lui lại (apalokentì) thấy tôn giả Sangamàji không có ngó đứa con nhỏ ấy, cũng không có nói, thấy vậy liền suy nghĩ: “Sa môn này không muốn đến người con”, liền trở lui lại, cầm lấy đứa con rồi ra đi. Thế Tôn  với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy cử chỉ thô bạo (vippakàram) ([7]) như vậy của người vợ trước kia của tôn giả Sangamàji. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

8. “ Không hoan hỷ nàng đến.

Không sầu muộn màng đi,

Giải thoát khỏi ái phược,

Là Sangamàji,

Ta gọi người như vậy,

Là vị Bà la môn”.

(IX) (Ud 6).

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Gayà, tại Gayasìsa. Lúc bấy giờ,  nhiều kẻ bện tóc, trong những đêm gió lạnh lùng mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặn xuống và nổi lên (trong nước), làm việc lặn xuống nổi lên tưới nước và tế lửa (aggim juhanti), nghĩ rằng: “Với hành động này, được thanh tịnh” Thế Tôn thấy nhiều kẻ bện tóc ấy, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặn xuống và nổi lên (trong nước) làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: “Với hành động này, được thanh tịnh.” Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

9. “ Thanh tịnh không có nước,

Ở đây nhiều người tắm ([8])

Trong ai có chân thật,

Lại thêm có chánh pháp,

Người ấy là thanh tịnh,

Người ấy là Phạm chí”.

(X) (Ud 6)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn  trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika, Lúc bấy giờ,  Bàhiya Dàruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, được phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: “Với ai là bậc A la hán hay đang đi trên con đường A la hán, Ta là một trong những vị ấy”. Rồi một thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàcuciri và nói như sau: “Này Bàhiya, ngươi không phải là A la hán, hay đang đi trên con đường A la hán. Ngươi không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này ngươi có thể trở thành A la hán hay đang đi trên con đường đưa đến A la hán” - “Nhưng ai là những vị A la hán hay đang đi trên con đường A la hán?” - “Này Bàhiya, có thành phố tên là Sàvatthi trên những quốc độ phương Bắc. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc A la hán, Chánh đẳng giác. Vị ấy là bậc A la hán, và thuyết pháp đưa đến quả A la hán.”

“Rồi Bàhiya Dàruciriya, được thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều tỷ kheo đang đi kinh hành giữa trời. Bàhiya Dàcuciriya đi đến các tỷ kheo ấy, sau khi đến nói như sau: “Thưa các tôn giả, nay Thế Tôn ở đâu, bậc A la hán Chánh đẳng giác? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác”- “ Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà để khất thực”. Rồi Bàhiya Dàruciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tín, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng (uttamadamatha samatham) giống như một con voi được điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.”  Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya Dàruciriya: “Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực”. Lần thứ hai Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn : “Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lâu dài.” Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Màhiya Dàruciriya: “Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực”. Lần thứ ba, Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn: “Thật khó biết... hạnh phúc lâu dài!” - “ Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ  tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri ([9]). Như vậy, này Bàhiya, nhà ngươi cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với ngươi, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chi là cái nge; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, ngươi không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.” Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya Dàruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya Dàruciriya lời giáo giới tóm tắc này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya. Thế Tôn sau khi khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều tỷ kheo, thấy Bàhiya Dàruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các tỷ kheo: “Này các tỷ kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya Daruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các tỷ kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các ngươi đã qua đời!” - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các vị tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn,  sau khi đặt xác thân của Bàhiya Dàruciri lên trên cái chòng, đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn  rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn : “Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya Dàruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng cho vị ấy. Sanh thú cho vị ấy là gì? Đời sau vị ấy là gì? “- “này các tỷ kheo, hiền trí là Bàhiya Dàruciriya đã  nhập Niết bàn (parinibbuto)”. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này “ :

“ Chỗ nào nước và đất,

Lửa, gió không chấp trước,

Tại đây, sao ([10]) không chói,

Mặt trờ không chiếu sáng,

Tại đây trăng không chiếu,

Tại đấy u ám không,

Khi ẩn sĩ Phạm chí,

Tự mình với trí tuệ.

Thể nhập ([11]) vào chánh pháp

Vị ấy được giải thoát,

Khỏi sắc và vô sắc,

Khói an lạc đau khổ.”

“ Lời cảm hứng này được Thế Tôn thuyết giảng và tôi được nghe như vậy”.

 

 

CHƯƠNG HAI: PHẨM MUCALINDA

(I) (Ud. 10)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Uruvela, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Mucalinda, khi Ngài mới chứng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn, trong bảy ngày, ngồi một thế ngồi kiết già, thọ hưởng lạc giải thoát. Lúc bấy giờ,  một cơn giông tố lớn trái mùa khởi lên và trong bảy ngày, trời mưa (vaddalika) gió lạnh, bầu trời u ám (duddinì). Rồi thần rắn Mucalinda ra khỏi chỗ ở của mình, với thân cuốn vòng quanh bảy vòng thân của Thế Tôn, và đứng thẳng, (vihacca) dơ cao các mang lớn (phanam) trên đầu (Thế Tôn ) với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn khỏi lạnh! Mong Thế Tôn khỏi nóng! Mong Thế Tôn khỏi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng, các loài bò sát.” Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy. Rồi Mucalinda, vua các loài rắn, sau khi biết trời đã sáng tỏ, (viddham) mây đã được thoát đi, cởi mở thân mình khỏi thân Thế Tôn, biến dạng (patisumharivà) thân sắc của mình, hóa hiện thân sắc một thanh niên đứng trước Thế Tôn, chấp tay đảnh lễ Thế Tôn. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

1. “Viễn ly là an tạc,

Với người hết tri túc

Với người có nghe pháp

Với người có chánh kiến

Không sân là an lạc

Những ai ở trên đời,

Đối hữu tình chúng sanh

Biết tự chế, ngăn ngừa.

Ly tham là an lạc

Vượt các dục ở đời;

Ai nhiếp phục ngã mạn,

Đây an lạc tối thượng.”

(II) (Ud.10)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,  nhiều vị tỷ kheo, sau bữa ăn, đi khất thực trở về, ngồi họp tại hội trường, và câu chuyện này được khởi lên:”

“ Này chư Hiền, giữa hai vị vua này, vua Seniya Bimlisàra ở Magdha (Ma kiệt đà), và vua Pasenadi xứ ở Kosala, ai giàu có hơn, ai tài sản lớn hơn, ai kho tàng lớn hơn, ai quốc độ lớn hơn, ai xe cộ lớn hơn, ai sức mạnh lớn hơn, ai thần lực lớn hơn, ai uy lực lớn hơn?” Rồi câu chuyện này giữa các tỷ kheo ấy, chưa được chấm dứt. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các tỷ kheo: “Này các tỷ kheo, ở đây, nay các ngươi ngồi hội họp với câu chuyện gì? Và câu chuyện gì giữa chừng chưa chấm dứt giữa các ngươi?”- “Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, đi khất thực trở về... câu chuyện này được khơi lên... ai uy lực lớn hơn? Câu chuyện này giữa chúng con, bạch Thế Tôn chưa chấm dứt, thời Thế Tôn đã đến.”

“Này các tỷ kheo, thật không thích đáng cho các ngươi, những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại nói câu chuyện như vậy. Này các tỷ kheo, khi các ngươi hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Đàm luận về chánh pháp hay giữa sự im lặng của bậc thánh ([12]). Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

2. “ Dục lạc gì ở đời,

Kể cả thiên lạc này,

Không bằng phần 16,

Lạc do ái đaọn diệt.”

(III) (Ud. 11)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana khu vườn ông Anàthapindika, Lúc bấy giờ một số đông đưá trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy, giữa Sàvatthi và Jetavana. Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bág đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy giữa Sàvatthi và Jetavana nhiều đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

3. “Ai làm hại với trượng

Kẻ tìm lạc cho mình,

Người ấy sau khi chết,

Không tìm được an lạc,

Đối chúng sanh muốn lạc,

Ai không hại với trượng,

Kẻ tìm lạc cho mình,

Đời sau tìm được lạc.”

(IV) (Ud.13)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Chúng tăng cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Các du sĩ ấy, không kham nhẫn được. Thế Tôn và chúng tỷ kheo được kính trọng, khi nào gặp các tỷ kheo ở làng và ở trong rừng, với những lời nói không tốt lành, thô ác, mắng nhiếc, phỉ báng, công kính não hại chúng. Rồi một số đông tỷ kheo, đi đến Thế Tôn, sau khi đến  đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng,... dược phẩm trị bệnh. Chúng tỷ kheo cũng được cung kính tôn trọng... dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính, tôn trọng... dược phẩm trị bệnh. Rồi,  bạch Thế Tôn, các ngoại đạo du sĩ ấy, không kahm nhẫn được Thế Tôn và chúng tỷ kheo được kính trọng... não hại chúng.”  Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “  

4. “Giữa làng, tại núi rừng

Cảm thọ khổ và lạc,

Chớ quy về tự mình,

Chớ quy về người khác,

Cảm xúc được cảm thọ,

Là do duyên sanh y.

Với vị không sanh y, ([13])

Do đâu, xúc cảm thọ”

(V) (Ud.13)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,  một nam cư sĩ, tên là Icchànangalaka đi đến Sàvatthi, vì một vài công việc phải làm, Nam cư sĩ ấy, sau khi làm công việc xong ở Sàvatthi, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn  rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn  nói với nam cư sĩ ấy đang ngồi một bên: “Đã lâu rồi, này nam cư sĩ, ngươi tạo nên cơ hội này (imam pariyàyam akàsi) ([14]), tức là đến đây” - “Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con muốn yết kiến Thế Tôn. Nhưng con bị bận bịu ([15]) bởi những công việc phải làm này khác, nên con không thể đi yết kiến Thế Tôn được.  Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

5. “Ai lão luyện ([16]) chánh pháp,

Được nghe nhiều chánh pháp

Không xem bất cứ gì,

Là an lạc của mình.

Hãy xem, não hại thay,

Những ai có sở hữu,

Khiến cho con người này,

Bị trói buộc người khác”.

(VI) (Ud. 13)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Vàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,  thanh nữ trẻ Bà la môn, vợ của một du sĩ có thai sắp sinh (upanjannà). Vợ của du sĩ ấy nói với du sĩ: “Này Bà la môn, hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!” Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo nói với nữ du sĩ: “Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng!” (bhotiyà). Lần thứ hai, nữ du sĩ nói với du sĩ: “Này Bà la môn, hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!” Lần thứ hai du sĩ nói với nữ du sĩ: “Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng!” Lần thức ba, nữ du sĩ nói với du sĩ: “Này Bà la môn hãy đi và đem dầu về. Tôi cần dùng khi sanh con!” Lúc bấy giờ,  tại một (kothàyàre) của vua Pasenadi nước Kosala, một Sa môn hay Bà la môn có thể uống bơ hay dầu cho đến thỏa thích, nhưng không được mang đi. Người du sĩ ấy suy nghĩ: “Tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala... không được mang đi. Vậy ta hãy đi đến kho của vua Pasenadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về đến nhà, mửa (uggiritvàna) ([17]) dầu ấy ra và ta cho nữ du sĩ dùng khi sanh con.” Rồi du sĩ ấy đi đến nhà kho của vua Pasenadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về nhà không có thể mửa lên hay mửa xuống. Có cảm thọ khổ đau, nhói đau, đau khốc liệt thống khổ, lăn lộn qua lại (àvattati pariratti). Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy người du sĩ ấy cảm thọ khổ đau, nhói đau khốc liệt, thống khổ, lăn lộn qua lại. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

6. “An lạc thay là người

Không có gì sở hữu,

Người chánh tri hiểu biết ([18])

Không có gì sở hữu.

Hãy xem não hại thay,

Những ai có sở hữu, ([19])

Khiến cho con người này,

Bị trói buộc người khác”.

(VII) (Ud. 14)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,  con trai độc nhất của một nam cư sĩ, khả ái, đáng yêu bị mệnh chung. Rồi nhiều nam cư sĩ, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ươt, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các cư sĩ ấy đang ngồi một bên. “Này các cư sĩ, sao các ngươi, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, lại đến đây, trong lúc quá sớm như vậy? “ Khi được nói vậy, người cư sĩ ấy thưa với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, người con trai độc nhất của con khả ái, khả ý đã mệnh chung. Do vậy chúng con với áo ướt đẫm, với tóc ướt đẫm đã đến đây trong lúc quá sớm!” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

7. “Bị khả ái, dễ thương

Trói buộc (và chi phổi)

Rất nhiều chư Thiên chúng         

Và nhiều hạng con người

Đau khổ ([20]) và héo mòn ([21])

Bị thần chết nhiếp phục.

Ngày đêm không phóng dật,

Từ bỏ dung sắc đẹp,

Vị ấy đào gốc khổ,

Mồi nhử của ác ma,

Thật khó vượt qua được”.

(VIII) (Ud.15)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Kundiyàya ([22]), trong rừng Kundithàna. Lúc bấy giờ,  Suppavàsà, con gái của vua xứ Koliya có thai đến bảy năm, và nay bị đau đẻ (mulhagabbhà) đến ngày thứ bảy. Dầu nàng cảm giác những cảm thọ  khổ đau, nhức nhói, khốc liệt, thống khổ, này vẫn duy trì ba niệm “Thế Tôn thật là bậc Chánh đẳng giác, Ngài thuyết pháp để đoạn tận đau khổ này. Chúng đệ tử của bậc Thế Tôn  ấy là khéo hành trì, Chúng hành trì để đoạn tận đau khổ này. Thật sự an lạc là Niết bàn. Tại đấy đau khổ này. Thật sự an lạc là Niết bàn. Tại đấy khổ đau này không có mặt.” Rồi Suppavàsà, con vua Koliya gọi người chồng của mình: “Này phu quân (ayyaputta), hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến nhân danh tôi, với đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú và thưa: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não,  khinh an, khỏe mạnh, lạc trú.” Rồi hãy nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya có thai đến bảy năm, và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy. Dầu nàng cảm giác những cảm thọ... tại đấy khổ đau này không có mặt!” - “Thật là tốt lành” ([23])

Koliyaputta đáp với Suppavàsà, con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, sau khi đứng một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà con gái vua Koliya cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn... lạc trú... tại đấy khổ đau này không có mặt”. - “ Mong rằng Suppavàsà, con gái vua Koliya được an lạc không bệnh, sanh đứa con không có bệnh hoạn! Với lới nói này của Thế Tôn, Suppavàsà con gái Koliya được an lạc không bệnh, đẻ đứa con trai không bệnh.” - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn, “ Koliyaptta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi trở về nhà của mình. Koliyaputta thấy Suppavàsà con gái vua Koliya được an lạc, không bệnh, sanh đứa con trai không bệnh, thấy vậy liền suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay, thần lực và đại uy lực của Thế Tôn! khiến cho Suppavàsà, con gái vua Koliya này, với lời nói của Thế Tôn, được an lạc, không bệnh, sanh con trai không bệnh!” Nghĩ vậy, Koliyaputta hoan hỷ, thích thú, tâm sanh hỷ lạc. Rồi Suppavàsà con gái vua Koliya, bảo người chồng của mình: “Hãy đi, này phu quân, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy. Nàng được an lạc, không bệnh, và sanh đứa con trai không bệnh. Nay nàng muốn mời chúng tỷ kheo dùng cơm trong bảy ngày. Mong Thế Tôn hãy nhận lời thọ bảy bữa cơm của Suppavàsà với chúng tỷ kheo”. - “Thật là tốt lành”, Koliyaputta đáp lại Suppavàsà, con gái vua Koliya đi đến  Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và nói như sau: “Suppavàsà, có thai đến bảy năm... đến ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh. Nay nàng muốn mời chúng tỷ kheo... với chúng tỷ kheo!”

“Lúc bấy giờ một nam cư sĩ khác đã mời chúng tỷ kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu, ngày mai dùng cơm người cư sĩ ấy là người hộ trì cho tôn giả Moggallàna. Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Mahà Moggallàna: “Này Moggallàna, hãy  đến người cư sĩ, sau khi đến, nói với người cư sĩ ấy như sau: “ Này hiền giả, Suppavàsà con của vua Koliya... có thai đến bảy năm... đến ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc... Nay nàng muốn mời chúng tỷ kheo... với chúng tỷ kheo. Hãy để cho Suppavàsà tổ chức bảy ngày cơm trước. Sau sẽ đến lượt người hộ trì cho người!” - “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn !” Tôn giả Mahà Moggallàna vâng đáp Thế Tôn đi đến người cư sĩ ấy,  sau khi đến nói với người cư sĩ: “Này hiền giả, Suppavàsà... Hãy để cho Suppavàsà con của Koliya tổ chức bảy ngày cơm trước sau sẽ đến phiên ngươi!”- “Thưa tôn giả, nếu tôn giả bảo đảm (patibhogo) ([24]) cho con ba pháp về tài sản, về thọ mạng, về lòng tin, hãy để cho Suppavàsà, con gái của vua Koliya tổ chức trước, rồi sau đến phiên con.”

“Này hiền giả, về hai pháp Ta sẽ bảo đảm cho ngươi, về tài sản và về thọ mạng. Còn về lòng tin, thôi ngưoi phải tự bảo đảm!”- “Thưa tôn giả, nếu tôn giả bảo đảm cho con hai pháp, về tài sản và về thọ mạng, hãy để cho Suppavàsà con gái vua Koliya tổ chức bảy ngày cơm trước. Rồi sẽ đến phiên con.” Rồi tôn giả Mahà Moggallàna, sau khi thuyết phục (Sannàpetvà) được người cư sĩ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn : “Bạch Thế Tôn, cư sĩ ấy đã được con thuyết phục. Hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya tổ chức bảy ngày cơm trước. sau sẽ đến phiên người cư sĩ ấy!” Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya trong bảy ngày mời chúng tỷ kheo với Thế Tôn là bậc cầm đầu, tự tay mời và làm cho thỏa mãn ([25]) với những món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và khiến cho đứa trẻ đảnh lễ Thế Tôn và toàn thể chúng tỷ kheo. Rồi tôn giả Sàriputta nói với đứa trẻ: “Này đứa trẻ, con có kham nhẫn được không? Con có nuôi sống được không? Con có đau khổ gì không?” - “ Thưa tôn giả, từ đâu con có thể kham nhẫn? Từ đâu con có thể nuôi sống, từ đâu con không có đau khổ? Con đã sống bảy năm trong các ghè đầy máu!” Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, nghĩ rằng: “Con ta đang nói chuyện với vị tướng quân về pháp, hoan hỷ, tín thọ, với tâm hỷ lạc”. Rồi Thế Tôn nói với Suppavàsà, con gái vua Koliya: “Này Suppavàsà, ngưo8i có muốn một người con trai khác như vậy không?” - “ Bạch Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

8. “Không vui, giả dạng vui,

Không ái, giả dạng ái,

Khổ đau giả dạng lạc.

Nhiếp phục kẻ phóng dật.”

(IX) (Ud. 18)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Đông viên, ngôi lầu của mẹ Migàra.”

“Lúc bấy giờ,  Visàkhà mẹ của Migàra có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala và vua Pasenadi nước Kosala chưa có quyết định về việc ấy (na yathàdhippàyam) Rồi Visàkhà, mẹ của Migàra vào buổi sáng sớm đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàra đang ngồi một bên: “Bạch Thế Tôn con có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala... về việc ấy.” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

“ Mọi tùng thuộc ([26]) là khổ.

Mọi chủ quyền là lạc,

Chung dùng ([27]) làm não hại.

Trói buộc khó vượt qua.” ([28])

(X) (Ud.18)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Anupiya tại rừng xoài. Lúc bấy giờ, tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường (abhikhanam) hay nói lên lời cảm hứng”:

“ Ôi an lạch thay! Ôi an lạch thay!” Một số đông tỷ kheo nghe tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, thường nói lên lời cảm hứng: “Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!” Nghe vậy, các tỷ kheo ấy suy nghĩ: “Không gì nghi ngờ (nissamsayam) chư Hiền, tôn giả Bhaddiya con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ,, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì tôn giả nhớ đến an lạc ấy, nên khi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây... thường nói lời cảm hứng: “Ôi an lạch thay! Ôi, an lạc tháy!” Rồi một số đông tỷ kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn,  tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha khi đi đến rừng,... nói lên lời cảm hứng: “Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!... không có nghi ngờ gì nữa... sống Phạm hạnh không có hoan hỷ... Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!” Rồi Thế Tôn bảo một tỷ kheo: “Này tỷ kheo, hãy đi và nhân danh Ta nói với Bhaddiya, con của Kaligodha: “Thưa hiền giả, bậc Đạo sư gọi hiền giả!” - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, vị tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha, sau khi đến, nói với tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha: “Thưa hiền giả. bậc Đạo sư gọi hiền giả, “ - “Thưa vâng, hiền giả”, tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha vâng đáp tỷ kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đang ngồi một bên”:

“ Có thật chăng,  này Bhaddiya, ngươi đi đến khu rừng... Ôi, an lạc thay!”- “Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” - “Do thấy mục đích gì đi đến khu rừng... an lạc?” - Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt  người khéo bảo vệ. Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ,  ngoài nước cũng có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ (bhìto, ubbiggo, ussankì, utrato). Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu (pannaloma), nhẹ nhàng (paradavutta?) ([29]), tâm như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến khu rừng... con nói lên lời cảm hứng... an lạc.” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này” :

 

10. “Với ai, trong nội tâm,

Không có lòng phẫn nộ,

Vượt qua hữu phi hữu ([30]),

Vị ấy thoát sợ hãi,

An lạc, không sầu muộn,

Chư thiên không thấy được.”

 

 

 

k

 

CHƯƠNG BA: PHẨM NANDA

(I) (Ud. 21)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,  một tỷ kheo ngồi không xa Thế Tôn, ngồi kiết già, lưng thẳng, chịu đựng sự đau đớn, kết quả nghiệp về trước, nhói đau, cực khổ, thống khổ, chánh niệm, tỉnh giác, không có sầu não. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

1. “Tỷ kheo bỏ mọi nghiệp

Tẩy sạch bụi làm trước,

An trú, không ngã sở,

Không cần nói với người ([31])

(II) (Ud.21)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anathapindika. Lúc bấy giờ,  tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau với nhiều tỷ kheo: “Này các hiền giả, tôi sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục! “Một tỷ kheo  khác đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì nói như sau... tôi sẽ hoàn tục”. Rồi Thế Tôn bảo một tỷ kheo: “Này tỷ kheo, hãy đi và nhân danh Ta bảo tỷ kheo Nanda: “Hiền giả Nand, bậc Đạo sư gọi hiền giả”. -” Thưa vâng bạch Thế Tôn”. Tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến tôn giả Nanda, sau khi đến nói với tôn giả Nanda: “Hiền giả Nanda, bậc Đạo sư gọi hiền giả!”- “Thưa vâng, hiền giả”, tôn giả Nanda vâng đáp vị tỷ kheo ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với tôn giả Nanda đang ngồi một bên: “Có thật chăng này Nanda, ngươi nói như sau với nhiều tỷ kheo: “Này các hiền giả tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ... tôi sẽ hoàn tục!” - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”- “Nhưng này, không hoan hỷ cái gì, ngươi sống Phạm hạnh, khiến ngươi không chịu nổi sống Phạm hạnh, từ bỏ học tập, ngươi sẽ hoàn tục!”- Bạch Thế Tôn, khi con từ bỏ gia đình, một Thích ca nữ, cô gái đẹp trong nước, với tóc chải mới nửa phần, ngó nhìn con và nói: “Quý tử (ayyaputta) hãy về gấp!” Bạch Thế Tôn, vì con không thể quên nàng, nên con sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, con không có thể chịu nổi đời sống Phạm hạnh, sau khi từ bỏ họp tập, con sẽ hoàn tục”. Rồi Thế Tôn cầm tay tôn giả Nanda, như người lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, như vậy biến mất ở Jetavana, và hiện ra tại cõi trời Ba mươi ba. Lúc bấy giờ, khoảng 500 Thiên nư đi đến để hầu hạ Thiên chủ Sakka, và chúng được gọi là “có chân như chim bồ câu (kakutapàdinì”. Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo tôn giả Nanda: “Này nanda, ngươi có thấy 500 Thiên nữ này, có chân như chim bồ câu không? “- “Thưa vâng, bạch Thế Tôn” - “này Nanda, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ai đẹp đẽ hơn, hay ai đáng ưa nhìn hơn, hay ai khả ái hơn, Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước hay 500 Thiên nữ có  chân như chim bồ câu này?” - “Bạch Thế Tôn, ví như một con khỉ cái bị thương (palutthamakkatì) tai mũi bị chặt đứt,  Cũng vậy là Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, nếu đem so sánh với 500 Thiên nữ có chân như chim bồ câu này, không thể ước lường so sánh, không bằng một phần nhỏ, không thể so sánh với chúng. Năm trăm Thiên nữ này đẹp hơn, đáng ưa nhìn hơn, khả ái hơn”. - “Hãy hoan hỷ, này Nanda! Hãy hoan hỷ, này Nanda! ta đền (pàtibhoga) cho ngươi năm Thiên nữ có chân như chim bồ câu ấy!” - “Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đền cho con 500 Thiên nữ chó chân như chim bồ câu, thời bạch Thế Tôn, con sẽ sống hoan hỷ trong đời sống Phạm hạnh”. Rồi Thế Tôn cầm cánh tay của tôn giả Nanda, như người lực sĩ...  đang duỗi ra, như vậy biến mất ở chư thiên cõi trời Ba mươi ba hiện ra ở Jetavana. Các tỷ kheo được nghe: “Tôn giả Nanda, em Thế Tôn, con của bà dì sống Phạm hạnh vì mục đích thiên nữ. Chúng nói Thế Tôn có hứa đền 500 thiên nữ với chân như chim bồ câu”. Rồi các tỷ kheo bạn của tôn giả Nanda gọi tôn giả Nanda là người làm thuê( bhataka) là người buôn bán (upakkitaka): “Tôn giả Nanda là người làm thuê, tôn giả Nanda là người buôn bán. Vì mục đích thiên nữ, tôn giả Nanda sống Phạm hạnh. Thế Tôn có hứa đền cho 500 thiên nữ có chân như chim bồ câu!”   Rồi tôn giả Nanda, bị bực phiền (attiyamàno), tủi nhục (hàràyamàno), chán ngấy (jigucchiyamàno), bởi bị gọi là người làm thuê, là người buôn bán, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tự tín, không bao lâu, do mục đích gì thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ấy, ngay trong hiện tại vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết : “Sanh đã tận Phạm hạnh đã thành. Việc nên làm đã làm, không trở lui trạng thái này nữa”. Tôn giả Nanda trở thành một vị A la hán nữa. Rồi một thiên nhân, khi đêm  đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến bạch Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên thiên nhân ấy bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, tôn giả Nanda con trai của bà dì, do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu giải thoát”. Trí khởi lên nơi Thế Tôn: “Nanda, do đoạn trừ các lậu hoặc... vô lậu tâm giải thoát”. Rồi Tôn giả Nanda, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên tôn giả Nanda bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có hứa đền cho con 500 thiên nữ với chân như chim bồ câu. Bạch Thế Tôn, con xin giải tỏa cho Thế Tôn lời hứa (etasmà patissavà) đền ấy.”- “Này Ananda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của ngươi: “Do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại... tuệ giải thoát”. Laị nữa, một thiên nhân có báo cho Ta tin ấy: “Bạch Thế Tôn, tôn giả Nanda... tuệ giải thoát”. Vì rằng, này Nanda, tâm của ngươi được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ, nên Ta được giải thoát khỏi lời hứa này.” Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

2. “Ai vượt khỏi bùn này

Đè bẹp ([32]) gai của dục,

Đạt được si đoạn diệt

Vị Tỷ kheo như vậy

Không cảm thọ khổ lạc!”

(III) (Ud.24)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, khoảng 500 tỷ kheo do Yasoja cầm đầu, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các tỷ kheo mới đến ấy,  trong khi chào thăm các tỷ kheo sở tại, sắp đạt sàng tọa, sửa soạn y bát (Patisàmayamànà), gây đến tiếng ồn ào to lớn này là gì, như tôn giả Ananda: “Này Ananda, tiếng ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giật cá (maccham vilopa)?”- “Bạch Thế Tôn, có 500 tỷ kheo này, cầm đầu là Yasoja đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các tỷ kheo mới đến ấy... gây nên tiếng ồn ào to lớn” - “Này Ananda hãy nhân danh Ta nói với các tỷ kheo ấy: “Bậc Đạo sư gọi các tôn giả”. - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn  đi đến các tỷ kheo ấy, sau khi đến nói với các tỷ kheo ấy “Bậc Đạo sư gọi các tôn giả!”- “Thưa vâng, hiền giả”, các tỷ kheo  ấy vâng đáp tôn giả Ananda, đi đến Thế Tôn  sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các tỷ kheo ấy đang ngồi một bên: “Này các tỷ kheo, tiến ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giựt cá?”. Tôn giả Yasoja bạch Thế Tôn:” Bạch Thế Tôn, có 500 tỷ kheo này đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các tỷ kheo mới đến này... gây nên tiếng ồn ào to lớn, “- “Này các tỷ kheo, hãy đi đi! Ta đuổi các ngươi (panànemi), các ngươi không xứng đáng được sống ([33]) gần Ta!” - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Ngài, dọn dẹp, sàng tọa, cầm y bát, đi đến dân chúng Vajjì, tiếp tục bộ hành giữa dân chúng Vajji, rồi đi đến con sông Vaggamudà, sau khi đến, dựng lên chòi lá trên sông Vaggamudà, an cư mùa mưa tại chỗ ấy. Rồi tôn giả Yasoja, sửa soạn an cư bảo các tỷ kheo: “Thưa các hiền giả, Thế Tôn đuổi chúng ta, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng ta, vì khởi lên lòng từ mẫn đối với chúng ta. Này như hiền, chúng ta hãy sống cho thật đúng pháp, chúng ta sống như thế nào để Thế Tôn có thể hoan hỷ!” - “Thưa vâng, hiền giả”, các tỷ kheo vâng đáp tôn giả Yasoja. Rồi các tỷ kheo ấy sống viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,  và trong thời gian an cư, tất cả đều giác ngộ ba minh ([34]). Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Sàvatthi cho đến khi vừa ý, liều bộ hành đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành đến Vesàli. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Đại lâm, tại ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn với tâm của mình tác ý đến tâm các tỷ kheo ở trên bờ sông Vaggumudà, gọi tôn giả Ànanda: “Như có hào quang, này Ànanda là phương này, như có ánh sáng, này Ànanda là phương này. Tại phương ấy, các tỷ kheo đang sống trên bờ sông Vaggumudà. Thật là không nhàm chán (Appatikukasi) cho Ta nếu được đi và tác ý đến phương ấy. Này Ànanda, hãy gửi một sứ giả đến các tỷ kheo ở trên bờ sông Vaggumudà và nói: “Bậc Đạo sư cho gọi các Tôn giả! Bậc Đạo sư muốn gặp các tôn giả!”- “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn, đi đến một tỷ kheo, sau khi đến, nói với tỷ kheo ấy: “Hãy đi này hiền giả, Hãy đi đến các tỷ kheo ở trên bờ sông Vaggumudà, sau khi đến, nói với các tỷ kheo ấy như sau: “Bậc Đạo sư cho gọi các tôn giả!” - “Thưa vâng, hiền giả”, vị tỷ kheo ấy vâng đáp tôn giả Ànanda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy vị ấy biến mất ở ngôi nhà có nóc nhọn tại Đại lâm, và hiện ra trước mắt các tỷ kheo ở trên bờ sông Vaggumupà. Rồi tỷ kheo ấy nói với các tỷ kheo ở trên bờ sông Vaggamudà: “Bậc Đạo sư gọi các tôn giả! Bậc Đạo sư muốn gặp các tôn giả”- “Thưa vâng, hiền giả”, các tỷ kheo ấy vâng đáp vị tỷ kheo ấy, sau khi dọn dẹp sàng tọa, cầm y bác, ví như một nhà lực sĩ... co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy các tỷ kheo ấy biến mất ở trên bờ sông Vaggamudà, và hiện ra ở Đại lâm, tại nhà có nóc nhọn, trước mặt Thế Tôn. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi trong thiền định bất động ([35]) (ànanjena). Các tỷ kheo ấy suy nghĩ: “Nay Thế Tôn đang an trú trong loại an trú nào?” Rồi các tỷ kheo  ấy suy nghĩ: “Thế Tôn nay đang an trú trong loại an trú bất động”. Rồi tất cả (các tỷ kheo ấy) ngồi xuống trong định bất động. Rồi tôn giả Ànanda khi đêm đã gần mãn, canh một đã gần qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế Tôn: “Đêm đã gần tàn, canh một đã gần qua. Các tỷ kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn  hãy chào đón (patisammodatu) các tỷ kheo mới đến”.  Được nghe nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ hai, tôn giả Ànanda, sau khi đêm đã gần mãn, canh giữa đã gần qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn. Canh giữa đã gần qua. Các tỷ kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các tỷ kheo mới đến!” Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ ba, tôn giả Ànanda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ ([36]), từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên, chấp tay hướng về Thế Tôn, và bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm da94 có bộ mặt hoan hỷ, các tỷ kheo mới đến ngồi đã lâu... Thế Tôn hãy chào đón các tỷ kheo mới đến”. Rồi Thế Tôn xuất khỏi định ấy bảo tôn giả Ànanda: “Nếu người có hiểu biết, này Ànanda, ngươi sẽ không nói như vậy. Này Ànanda, Ta và 500 tỷ kheo này tất cả đang nhập định bất động”. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

3. “Ai đã thắng gai dục,

Nắng, gia hại trói buộc,

Vị ấy đứng bất động,

Như núi (vững an trú)

Vị tỷ kheo như vậy.

Lạc khổ không giao động”.

(IV) (Ud. 27)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ tôn giả Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Thế Tôn thấy tôn giả Sàriputta ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Rồi sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:”

4. “Như ngọn núi bằng đá

Không động khéo an trú,

Cũng vậy vị tỷ kheo,

Đoạn diệt được ngu si,

Như ngọn núi bằng đá,

Không có bị giao động”.

(V) (Ud.27)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Maha Moggallana ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nội tâm khéo an trú thân hành niệm. Thế Tôn thấy tôn giả Maha Moggallàna ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nội tâm khéo an trú thân hành niệm. RồiThế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

5. “Thân hành niệm an lập,

Sáu xúc xứ chế ngự,

Tỷ kheo thường thiền định,

Tự chứng tri Niết bàn”

(VI) (Ud.28)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ,  tôn giả Pilindavaccha, thường hay gọi các tỷ kheo với danh từ bần tiện (vasala). Rồi một số đông Lúc bấy giờ, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn: “Tôn giả Pilindavaccha thường hay gọi các tỷ kheo với danh từ bần tiện.” Rồi Thế Tôn bảo một tỷ kheo: “Hãy đi này tỷ kheo, và nhân danh Ta, bảo tỷ kheo Pilindavaccha, sau khi đến nói với Pilindavaccha: “Bậc Đạo sư gọi hiền giả!” - “Thưa vâng, hiền giả”, tôn giả Pilindavaccha vâng đáp tỷ kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với tôn giả Pilindavaccha đang ngồi một bên: “Có thật chăng, này Vaccha, ngươi thường gọi các tỷ kheo với danh từ bần tiện?” - “Thưa có, bạch Thế Tôn”. Rồi Thế Tôn  sau khi tác ý đến đời sống trước của Pilindavaccha, liền bảo các tỷ kheo: “Này các tỷ kheo, chớ có bực phiền (ujjhayitha) với tỷ kheo Pilindavaccha. Này các tỷ kheo,  không phải vì   trong lòng có sân hận mà Vaccha thường gọi các tỷ kheo với danh từ bần tiện. Này các tỷ kheo, tỷ kheo Vaccha trong 500 năm nối tiếp nhau (abbokinnàni) ([37]) đã sanh trong gia đình Bà la môn, Danh từ bần tiện đã lâu ngày được chứa chấp (ajjhàcinno) trong vị ấy. Do vậy, Vaccha thường gọi tỷ kheo với danh từ bần tiện”. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

6. “Trong ai không man trái,

Không mạn, tham đoạn tận,

Không ngã sở, không dục,

Phẫn nộ được trừ diệt,

Tự ngã thành mát lạnh ([38])

Vị ấy là Phạm chí,

Là Sa môn tỷ kheo”

(VII) (Ud.29)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha ( Vương xá) tại Veluvana (Trúc lâm. Tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ,  tôn giả Mahakassapa, trú ở hang Pipphali, ngồi một thế ngồi kiết già trong bảy ngày, sau khi nhập vào một loại thiền định. Rồi tôn giả Mahakassapa, sau bảy ngày, xuất khỏi định ấy. Tôn giả Maha Kassapa sau khi  xuất xuất khỏi định ấy, suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi vào Ràjagaha để khất thực!” Lúc bấy giờ 500 chư Thiên đang cố gắng lo cho tôn giả Maha Kassapa được đồ ăn khất thực. Rồi tôn giả Mahakassapa sau khi khước từ 500 thiên nhân ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực. Lúc bấy giờ, thiên chủ Sakka muốn cúng dường đồ ăn khất thực cho tôn giả Mahakassapa, hóa thân làm người thợ dệt (pesakàrivannam) đang dệt chỉ (tantam vinàti) Sujàta, thiếu nữ Asura đang làm cho đầy cái thoi (vàsaram pureti). Rồi tôn giả Mahakassapa, sau khi đi từng  nhà khất thực ở Ràjagaha, đi đến trú xứ của thiên chủ Sakka. Thiên chủ Sakka thấy tôn giả Mahakassapa từ xa đi đến, sau khi thấy liền ra khỏi nhà, tiếp đón, lấy bát từ nơi tay cầm đem vào nhà, bới cơm từ nơi nồi, đựng đầy bát và đưa lại cho tôn giả Mahakassapa. Đồ ăn khất thực ấy gồm có nhiều loại canh, nhiều loại món ăn, nhiều loại canh,  gia vị, món ăn trộn lẫn với nhau (anekasùparasabyanjano). Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: “Ai là chúng sanh này, lai có thần lực  uy lực như vậy?” Rồi tôn gaỉ Mahakassapa suy nghĩ: “Chính là thiên chủ Sakka”, sau khi biết vậy, nói với thiên chủ Sakka: “Này Kosiya, chính ngươi đã làm sự việc này. Chớ làm như vậy nữa!” - “Thưa tôn giả Kassapa, mục đích của chúng tôi là được phước. Điều chúng tôi cần làm là được phước.” Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi đảnh lễ tôn giả Mahakassapa, thân phía hữu hướng về Ngài bay lên trên hư không, và ở giữa hư không nói lên ba lần cảm hứng: “Ôi bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa! Ôi bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa!” Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghe giữa hư không thiên chủ Sakka nói lên ba lần lời cảm hứng: “Ôi bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa!” Ôi bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa!” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

7.” Vị tỷ kheo khất thực.

Tự sống không nhờ người,

Chư thiên thương vị ấy

Thường an tịnh chánh niệm”

(VIII) (Ud.30)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindíka. Lúc bấy giờ, nhiều tỷ kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi hội họp tại rạp tròn có cây kareri ([39]) và câu chuyện sau đây được khởi lên: “

Tỷ kheo đi khất thực, thưa các hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng thân được cảm giác xúc khả ái. Thưa các hiền giả, tỷ kheo khất thực, được cung kính tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính (apacito) khi đi khất thực. Vậy này Chư hiền, chúng ta hãy là người đi khất thực. Thỉnh thoảng, mắt chúng ta được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai chúng ta được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi chúng ta được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi chúng ta được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng thân chúng ta được cảm giác xúc khả ái. Chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi chúng ta sẽ đi khất thực”. Câu chuyện này giữa các tỷ kheo ấy chưa được nói xong, thời Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đấn rạp tròn với cây Karerí, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi Thế Tôn nói với các tỷ kheo: “Này các tỷ kheo, nay các ngươi ngồi ở đây nói câu chuyện gì? và câu chuyện gì giữa các ngươi chưa được nói xong?”- “Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về,  chúng con ngồi hội họp tại rạp tròn có cây Kareri, và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa chúng con: “Tỷ kheo đi khất thực, thưa các hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái... chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, khi chúng ta sẽ đi khất thực!” Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện giữa chúng con chưa được nói xong, thời Thế Tôn đến”- “Này các tỷ kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các ngươi, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, khi các ngươi nói lên câu chuyện như vậy. Khi các ngươi ngồi hộp họp với nhau, này các tỷ kheo, có hai công việc cần phải làm: “Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh!” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

8. “Vị tỷ kheo khất thực

Tự sống không nhờ người

Chư thiên thương vị ấy,

Nhưng nếu tỷ kheo ấy,

Y tựa vào danh vọng

Chư thiên không có thương”.

(IX) (Ud.31)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều tỷ kheo... (như kinh trên)... câu chuyện này khởi lên: “Này Chư hiền, ai biết nghề gì? Ai học tập nghề gì? Nghề gì là tối thượng?” Ở đây, một số người nói như sau: “Huấn luyện voi là nghề tối thượng”. Một số người nói như sau: “Huấn luyện ngựa là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Làm xe là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề bắn cung là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề đao kiếm là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề ấn hiệu ([40]) là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề tính toán ([41]) là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề  ước lượng là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề viết bài là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề làm thơ là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề phỏng đoán các nguyên nhân tự nhiên ([42]) là nghề tối thượng!” Một số người nói như sau: “Nghề  điều khiển bộ máy quốc gia ([43]) là nghề tối thượng!”. Đây là câu chuyện được xảy ra giữa các tỷ kheo ấy chưa được nói xong. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều... (xem III, 8)... chưa được nói xong. Ở đây, bạch Thế Tôn... khởi lên”. Này hiền giả, ai biết nghề gì... nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề tối thượng”. Bạch Thế Tôn, đây là câu chuyện xảy ra giữa chúng con chưa được nói xong, rồi Thế Tôn đã đến” - “ Này các tỷ kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các ngươi... khi các ngươi ngồi hội họp với nhau, có hai công việc cần phải làm: “Nói pháp hay giữa im lặng của bậc Thánh”. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

9. “Ai sống không nghề nghiệp

Nhẹ nhàng, muốn lợi ích,

Các căn được chế ngự,

Toàn diện được giải thoát,

Không nhà, không ngã sở,

Không dục, giết Ac ma,

Vị tỷ kheo như vậy,

Sống cô độc một mình”.

(X) (Ud. 32)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sống Neranjarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới thành Chánh giác, Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết già, hưởng thọ giải thoát lạc. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, từ định ấy xuất khởi, nhìn đời thấy các chúng sanh với Phật nhãn, bị thiêu đốt với nhiều loại thiêu đốt, bị nhiệt não bởi nhiều loại nhiệt não, bởi tham, bởi sân, bởi si. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

10. “Đời này bị thiêu đốt,

Chi phần bởi cảm xúc,

Tự mình nói rõ lên,

Chứng bệnh (của chính mình)

 Bởi vì nó nghĩ đến

Do đó bị đổi khác.

Bị đổi khác vì hữu,

Bị lệ thuộc vì hữu,

Đời này hữu chi phổi,

Lại hoan hỷ với hữu.

Khi nào có hoan hỷ,

Ở đấy có sợ hãi,

Với ai có sợ hãi,

Đấy tức là đau khổ.

Chính do đoạn diệt hữu,

Phạm hạnh này được sống”.

“Những Sa môn hay Bà la môn nào đã tuyên bố rằng sự giải thoát khỏi hữu là do hữu, Ta nói rằng tất cả những vị ấy không giải thoát khỏi hữu”.

“ Những Sa môn hay những Bà la môn nào đã tuyên bố rằng sự xuất ly khỏi hữu là do phi hữu, tất cả những vị ấy, Ta tuyên bố rằng chúng không nương tựa nơi hữu ([44])”.

“Do duyên sanh y (Upadhi) ([45]), khổ này được sanh khởi. Chính do đoạn diệt tất cả sanh y, khổ không có hiện hữu”.

11. “Hãy xem đợi rộng này,

Bị vô minh chi phối,

Các sanh loại được sanh

Ưa thích được sanh khởi

Không thoát được sanh hữu.

Với ai đối sanh hữu,

Tất cả mọi thời, xứ,

Tất cả sanh hữu này,

Vô thường, khổ biến hoại.

Như vậy, thấy như thật

Với chơn chánh trí tuệ,

Hữu ái được đoạn tận,

Phi hữu ái hoan hỷ (?)

Đoạn diệt ái hoàn toàn,

Ly tham, diệt, hoàn toàn,

Như vậy là Niết bàn.

Tỷ kheo ấy mát lạnh

Không chấp thủ tái sanh,

Nhiếp phụ được Ma vương

Trận chiến đã chiến thắng,

Vị tỷ kheo như vậy

Vượt qua mọi sanh hữu”.

 

CHƯƠNG BỐN: PHẨM MEGHIYA

(I) (Ud. 34)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Càlikà, tại núi Càlikà. Lúc bấy giờ tôn giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn. Rồi tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, con muốn vào làng Jantu để khất thực” - “Này Meghiya, hãy làm những gì ngươi nghĩ là hợp thời!” Rồi tôn giả Meghiya, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng Jantu để khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikàla, sau khi đến, bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà, thấy rừng xoài đẹp đẽ, khả ái thấy vậy tôn giả Meghiya suy nghĩ: “Thật đẹp đẽ thay, khả ái thay rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần. Nếu Thế Tôn cho phép ta, ta sẽ đến rừng xoài này để tinh cần (hành trì). Rồi tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi xuống một bên, tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: “Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực ở Jantu xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikàla, sau khi đến,  con bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàla, con thấy ngôi rừng xoài đẹp đẽ, khả ái, thấy vậy, con suy nghĩ: “Thật đẹp đẽ thay, khả ái thay rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần. Nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần (hành trì)”. Được nói vậy, Thế Tôn nói với tôn giả Meghiya: “Hãy chờ đợi, này Meghiya. Chúng ta chỉ có một mình, chờ cho đến khi một tỷ kheo khác đến !” Lần thứ hai, tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn đối với Thế Tôn, không gì cần phải làm thêm nữa, không có cộng thêm (paticayo) vào việc đã làm. Nhưng đối với con, bạch Thế Tôn, có việc cần phải làm thêm nữa, có việc công thêm vào việc đã làm. Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài này để tinh cần tu hành”. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với tôn giả Meghiya: “Hãy chờ đợi này Meghiya! Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một tỷ kheo khác đến”. Lần thứ ba, tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn không có gì cần phải làm thêm nữa, không có gì cộng thêm vào việc đã làm... con sẽ đi đến ngôi rừng xoài này để tinh cần tu hành” - “Này Meghiya, khi ngươi nói tinh cần thời Ta có thể nói gì được! Này Meghiya, nay ngươi hãy làm những gì ngươi nghĩ là hợp thời!” Rồi tôn giả Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài đi đến rừng xoài ấy, sau khi đến, đi sâu vào rừng xoài ấy, và ngồi trú ban ngày dưới một gốc cây. Trong khi tôn giả Meghiya trú trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tầm ác, không thiện hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Rồi tôn giả Meghiya suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay. Ta vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại bị ba tầm ác không thiện này xâm nhập (anvàsanno) tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm”. Rồi tôn giả Meghiya vào buổi chiều từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: “Ở đây, bạch Thế Tôn trong khi con sống trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tầm ác không thiện hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Bạch Thế Tôn, rồi con suy nghĩ như sau: “Thật vi diệu thay... hại tầm” - “Này Meghiya, khi tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến sự thuần thục ( paripakkàya). Thế nào là năm? Ở đây thiện bạn hữu ([46]), thiện thân hữu là pháp thứ nhất, này Meghiya, khiến tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, tỷ kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Đây là pháp thứ hai, này Meghiya, khiến tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, phàm có những câu chuyện nào nghiêm túc (abhisullekhikà), thích ứng khai mở tâm (cetovivaranasappàyà), đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về hoà hợp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu chuyện về giới luật, câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện vậy có thể được không có khó khăn, có thể được không có mệt nhọc, có thể được không có phí sức. Đây là pháp thứ ba, này Meghiya, khiến cho tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, vị tỷ kheo sống tinh cần tinh tấn, để đoạn tận các pháp không thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện, kiên trì, cương quyết, không từ bỏ ánh nặng đối với pháp thiện. Đây là pháp thứ tư, này Meghiya, khiến cho tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, vị tỷ kheo có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ, đi đến thẩm sát sanh diệt, với thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau. Đây là pháp thứ năm, này Meghiya, khiến tâm thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Này Meghiya, đây là năm pháp khiến tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục”.

“ Này Meghiya, với vị tỷ kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị ấy sẽ giữ giới, sẽ sống  chế ngự với sự chế ngự của giới bổ Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu tập trong các học pháp. Với vị tỷ kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, sẽ giới giới, sẽ sống chế ngự... tu tập trong các học pháp, được chờ đợi là phàm có những câu chuyện nào nghiêm túc, thích ứng, khai mở tâm, sẽ đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn. Như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về hoà hợp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới luận, câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ ([47]), câu chuyện về giải thoát. câu chuyện về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện như vậy có thể có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được được không phí sức. Với vị tỷ kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị ấy sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận các pháp không thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện. Với vị tỷ kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị tỷ kheo sẽ có trí tuệ, đầy đủ trí đi đến thẩm sát sanh diệt, với thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau”.

“ Lại nữa, này Meghiya, với vị tỷ kheo khéo an trú trong năm pháp nàn, bốn pháp cần phải tu tập thêm: Bất tịnh cần phải tu tập để đoạn tận tham; Từ cần phải tu tập để đoạn tận sân; Niệm hơi thở vô hơi thở ra cần phải tu tập để trừ khử tầm tư; Vô thường tướng cầp phải tu tập để nhổ lên kiêu mạn: Tôi là. Này Meghiya, với ai có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an trú. Với ai có tưởng vô ngã, vị ấy đạt được sự nhổ lên kiêu mạn: Tôi là. Niết bàn ngay trong hiện tại. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

1. “Các tầm nhỏ tế nhị,

Hiện hành ý hoan hỷ,

Do không biết đến chúng,

Tâm động chạy nhiều đời

Nếu biết chúng tầm tư

Nhiệt tâm và chánh niệm,

Chế ngự được tư tưởng,

Khi ý không hoan hỷ ([48])

Bậc Chánh giác bỏ chúng,

Không còn chút dư tàn ([49])”.

(II) (Ud. 37)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại Upavattana, trong ngôi rừng Pàla của dân chúng Mallà. Lúc bấy giờ nhiều tỷ kheo, đang sống trong những cốc ở trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu, tháo động, kiêu căng, giao động, lắm mồm, lắn miệng, làm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng. Thế Tôn thấy số đông các tỷ kheo ấy, đang sống trong những cốc ở trong rừng, tháo động, kiêu căng, giao động, lắm mồm, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loại, các căn thả lỏng. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

2. “Với thân không hộ trì,

Với tà kiến chi phổi,

Bị hôn trầm thụy miên,

Nhiếp phục và chế ngự,

Kẻ ấy bị rơi vào,

Uy lực của ma vương.

Do vậy hộ trì tâm,

Sở hành chánh tư duy,

Đặt chánh kiên hàng đầu,

Rõ biết tánh sanh diệt,

Nhiếp phục và chế ngự,

Hôn trầm và thụy miêm

Vị tỷ kheo như vậy,

Từ bỏ mọi ác thú”

(III) (Ud. 38)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Kosala với đại chúng  tỷ kheo, rồi Thế Tôn, từ con đường bước xuống, đi đến một gốc cây, sau khi đến  ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Hỏi một kẻ chăn bò đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn: với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ người chăn bò đang ngồi một bên ấy. Rồi người chăn bò ấy, sau khi được Thế Tôn, với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho phấn khởi, bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời, ngày mai đến dùng cơm với chúng tỷ kheo” Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi người chăn bò ấy, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Rồi người chăn bò ấy, sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi dự trữ  sẵn sàng một số lớn cơm sữa đặc và bơ tươi (appodakapàyàsa), và báo thời giờ cho Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời, cơm đã sẵn sàng!” Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của người chăn bò ấy, với chúng tỷ kheo, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi  người chăn bò ấy, tự tay mời, làm cho thỏa mãn chúng tỷ kheo với đức Phật là vị cầm đầu, với cơm sữa đặc và bơ tươi. Rồi người chăn bò, khi đức Phật đã dùng xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp, ngồi xuống một bên, Thế Tôn với pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ, người chăn bò đang ngồi một bên, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, có người đoạt mạng sống người chăn bò ấy tại biên giới của làng. Rồi một số đông tỷ kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, hôm nay chúng tỷ kheo với đức Phật là vị cầm đầu đã được người chăn bò ấy tự tay mời ăn và làm cho thỏa mãn với cơm sữa đặc và bơ tươi. Người chăn bò ấy, bạch Thế Tôn, đã bị một người đoạt mạng sống tại biên giới của làng.” Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

3. “Nếu có độc ác gì,

Kẻ thù hại người thù,

Tâm định hướng tà vạy,

Còn làm ác hơn nữa”

(IV) (Ud. 39)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, tại Vejuvana chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ tôn giả Sàripatta và tôn giả Mahamoggallàna trú ở động chim bồ câu (Kapotakandarà). Lúc bấy giờ tôn giả Sàriputta, trong đêm có sáng trăng (Junhàyarattiyà), ngồi giữa trời với tóc mới được cạo xong, đang nhập định. Rồi hai dạ xoa là bạn với nhau đang đi từ phương nam lên phương bắc vị một vài công việc. Các dạ xoa ấy thấy tôn giả Sàriputta trong đêm có sáng trăng, ngồi giữa trời với tóc mới cạo xong (navoropitehi kesehi). Thấy vậy, một dạ xoa nói với dạ xoa thứ hai: “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu (patibhàti) vị Sa môn này”. Được nghe nói vậy, vị dạ xoa này nói với vị dạ xoa ấy: “Chớ có làm, này bạn, không làm gì được (àsàdesi) với vị Sa môn! Này bạn, Sa môn ấy vị đại (ulàro), có đại thần lực, có đại uy lực”. Lần thứ hai, vị dạ xoa ấy nói với vị dạ xoa này: “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị Sa môn này”. Lần thứ hai, vị dạ xoa này nói với vị dạ xoa ấy: “Chớ có làm, này bạn. Không làm gì được với vị Sa môn ! Này bạn, Sa môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực”. Lần thứ ba, vị dạ xoa ấy, nói với vị dạ xoa này: : “Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị Sa môn này”. Lần thứ ba, vị dạ xoa này nói với vị dạ xoa ấy: “Chớ có làm, này bạn. Không làm gì được với vị Sa môn ! Này bạn, Sa môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực”. Rồi dạ xoa ấy không nghe theo (anàdiyitvà) Dạ xoa này liền đánh trên đầu tôn giả Sàriputta.  Với cái đánh ấy,  có thể làm ngã (osàdeyya) con voi bảy (sattaratanam) đến tám khuỷu tay cao hay làm bể tan (padàleyya) ngọn núi lớn. Ngay lúc ấy, dạ xoa ấy hét lớn: “Tôi bị cháy! Tôi bị cháy!” và rơi vào đại địa ngục”.

“Tôn giả Mahàmoggallàna với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy tôn giả Sàriputta bị đánh trên đầu, thấy vậy liền đến tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói với tôn giả Sàriputta: Mong rằng hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng hiền giả có thể chịu đựng (yàpanìyam). Mong rằng hiền giả không có đau đớn!” - “Này hiền giả Moggallàna, tôi có thể kham nhẫn! Hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng! Hiền giả Moggallàba, nhưng đầu tôi có đau”- “Thật vi diệu thay, hiền giả Sàriputta! Hiền giả Sàriputta thật có thần lực lớn, thật có uy lực lớn! Ở đây, thưa hiền giả Sàriputta, có con dạ xoa đánh trên đầu hiền giả, đánh thật mạnh. Với cái đánh ấy, có thể làm ngã con voi bảy đến tám khuỷu tay cao, hay làm bể tan ngọn núi lớn”. Và tôn giả Sàriputta đã nói như sau: “Này hiền giả Moggallàna, tôi có thể kham nhẫn! Này hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng! Nhưng tôi có hơi đau đầu!” - “Thật vi diệu thay, hiền giả Moggallàna! Thật hy hữu thay hiền giả Moggallàna! Có đại thần lực là tôn giả Mahàmoggallàna, Có đại uy lực, vì rằng hiền giả có thể thấy được dạ xoa. Nhưng tôi nay không thấy được một con quỉ đói (pamsu pisàcakam) ([50]) Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, nghe được câu chuyện như vậy giữa hai vị long tượng ấy. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: “

4. “Tâm ai như tảng đá,

An trú không giao động.

Không tham vật khả ái,

Đáng phẫn nỗ, không sân,

Tâm ai tu như vậy,

Từ đâu khổ đến được”.

(V) (Ud. 41)

“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Thế Tôn sống bị các tỷ kheo, tỷ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo quấy rầy Àkinno) bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: “Nay Ta sống bị các tỷ kheo, tỷ kheo ni... quấy rầng, vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Vậy ta hãy sống một mình, xa rời đại chúng”. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực ở Kosambi xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, liền dọn dẹp (samsàmetvà) sàng toạ của mình, cầm y bát, không nói cho (anàmantetvà) thị giả biết, không báo cho (anapaloketvà) chúng tỷ kheo biết, một mình không có người thứ hai ra đi, bộ hành hướng đến Pàlileyyaka, tiếp tục bộ hành và đi đến Pàlileyyaka. Tại đấy, Thế Tôn sống ở Pàlileyyaka, khóm rừng Rakkhita, dưới gốc cây Sàla Bhadda. Rồi một con voi, bị các con voi, các con voi cái, các con voi con hatthikalàrehi ([51]) các con voi còn bú (hatthicchàpakehi) quấy rầy, ăn cỏ với đầu ngọn bị cắt đứt, ăn các cành cây bị gẫy (obhaggobhagga) uống nước bị vẫn đực (àvilàni), khi hụp lặn xong lên khỏi nước (ogàha cassauttinnassa) nó bị các con với cái cọ xát thân hình (upanighamsantiyo), vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Rồi con voi ấy suy nghĩ:

***

 

 

 

(II) ( Ud. 47)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jelavana, chỗ khu vườn ông Anàthapindika. Rồi tôn giả Ànanda, vào buổi chiều, từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi một bên. Ngồi một bên, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn:” Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn. Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn. Thọ mạng ít thay, bạch Thế Tôn, là mẹ của Thế Tôn ! Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày, mẹ Thế Tôn mệnh chung, được sanh ở cõi trời Tusita (Đâu suất) “_” Chính là như vậy, này Ànanda ! Thọ mạng ít thay là mẹ vị Bồ tát. Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày mẹ Thế Tôn mệnh chung, được sanh ở cõi Tusita ! Thọ mạng ít thay là các bà mẹ của các Bồ tát. Sau khi sanh bảy ngày, các bà mẹ của Bồ tát mệnh chung và được sanh lên chư Thiên Tusita. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời kệ này:”

2. “ Tất cả hữu tình nào,                         

Sẽ có mặt ở đời,

Tất cả chúng sẽ đi,                                              

Sau khi bỏ sắc thân.

Hiểu tất cả là vậy,                                               

Bậc thiện sanh ([52]) nhiệt tâm.

Sống đời sống Phạm hạnh”.

(III) ( Ud. 48)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagha ( Vương xá), Veluvana (Trúc lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, một người bệnh hủi tên là Suppabuddha, nghèo đói, ăn xin (mannussakapano), khốn cùng (varàko). Lúc bấy giờ, Thế Tôn vời đại hội chúng đoanh vây, đang ngồi thuyết pháp. Người hủi Suppabuddtha thấy từ đàng xa đại hội chúng đang tụ hội, thấy vậy liền suy nghĩ: “ Không nghi ngời gì nữa, ở đấy, có thể có chia phần cái gì ăn được, loại cứng hay loại mềm. Vậy ta hãy đi đến đại chúng ấy, mong rằng ta sẽ được chút gì ăn được, loại cứng hay loại mềm.” Rồi người hủi Sappabuddha đi đến đại chúng ấy. Người hủi Suppabuddha thấy Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng đang đoanh vây xung quanh, thấy vậy liền suy nghĩ :” Ở đấy, không có cái gì ăn được, loại cứng hay loại mềm để chia phần. Sa môm Gotama này đang thuyết pháp cho hội chúng. Vậy ta hãy nghe pháp.” Rồi Thế Tôn, với tâm của mình duyên với tâm của toàn thể hội chúng tác ý rằng :” Ở đấy, ai có thể hiểu được pháp.” Thế Tôn thấy người hủi Suppabuddha đang ngồi trong hội chúng, thấy vậy liền suy nghĩ :” Ở đấy, người này có thể hiểu pháp.” Vì người hủi Suppabuddha, Thế Tôn tuần tự (anupubbikatham) thuyết pháp, tức là thuyết bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về Thiên giới, thuyết về sự nguy hiểm, sự hạ liệt ([53]) sự ô nhiểm của các dục, sữ lợi ích của xuất ly ([54]). Khi Thế Tôn biết tâm của người hủi Suppbuddha đã sẵng sàng, đã nhu thuận không còn chướng ngại, được phấn khởi, được tin thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã chứng ngộ ([55]), tức là khổ, tập, diệt, đạo. Cũng như tấm vải thuần bạch, được gội rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhộm, cũng vậy chính tại chỗ ngồi này. pháp nhãn ([56]) xa trần ly cấu khởi lên trong tâm người hủi Suppabuddha :” Phàm cái gì được khởi lên tất cả đều bị đoạn diệt.” Khi ấy người hủi Suppabuddha thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tin (vesàrajjappatto), không y cứ nơi ngươi (aparapaccayo) đối với lời dạy của đức Bổn sư, từ chỗ ngồi đứng dậy đu đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi cuống một bên, người hủi Suppabuddha  bạch Thế Tôn :” Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn. Như người dựng đứng lại những gì bị quăng, ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp quy y chúng tỷ kheo mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử từ nay cho đến mạnh chung, con trọn đời quy ngưỡng.” Rồi người hủi Suppabuddha được Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tin thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lệ Thế Tôn thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Rồi một con bò con ( gàvi tarunavakhà) hút vào người hủi Suppabuddha và đoạt mạng sống. Rồi nhiều tỷ kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, người hủi tên Suppabuddha được Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ đã mạnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì ? Tương lai của vị ấy thế nào ?”_” Này các tỷ kheo, hiền trí là người hủi Suppabuddha, đã thực hành tùy pháp đúng pháp, không có làm phiền nhiễu ta với những tranh luận về pháp. Người hủi Suppabuddha sau khi đoạn tận ba kiết sử, đã chứng được quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, chắc chắn đạt được Chánh giác.” Khi nghe nói vậy một tỷ kheo bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn do nhân gì, do duyên gì, người hủi Suppabuddha lại là người nghèo đói, là người ăn xin, là người khốn cùng ?”_” Thuở xưa, này các tỷ kheo, người hủi Suppabuddha là con một nhà triệu phú ở Ràjagaha khi đi ngang qua một khu vườn, nó thất đức Phật độc giác Tagarasikhi đang đi vào thành khất thực. Thấy vậy, nó suy nghĩ :” Ai là người hủi này lại đi dạo chơi” và nó nhổ nước miếng (Nitthulitvà) và xây lưng phía trái (apasayàmato ?) ([57]) rồi bỏ đi. Do hành động này của nó được thuần thục, nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm nghìn năm, nó bị nấu trong địa ngục. Do sự thành thục thêm nữa của nghiệp ấy, chính tại Ràjagala này, nó là một người nghèo đói, là người ăn xin, là người khốn cùng ! Nay nó, do y cứ vào pháp luật được Như Lai thuyết giảng, nó được lòng tin, nó được giới, nó được nghe pháp, nó được từ bỏ, nó được trí tuệ, sau khi thân hoại mạng chung, nó được sanh thiện thú, thiên giới, đời này, được cộng trú với chu Thiên ở cõi Ba mươi ba. Tại đấy, vị ấy chói sáng hơn các chư thiên khác về dung sắc và danh xưng.” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

3. “ Như người có mắt nhìn,                   

Cố gánh tránh lồi lõm,

Cũng vậy kẻ tri tránh,                             

Điều ác giữa đời này”

(IV) (Ud. 51)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vười ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều thiếu niên, giữa Sàvatthi và Jetavana, đang hành hạ (bàdhenti) các con cá. Rối Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy nhiều thiến niên giữa Sàvatthi và Jetavana đang hành hạ (bàdhenti) các con cá, thấy vậy đi đến các thiếu niên ấy, sau khi đến nói với chúng :” Này các thiếu niên, các em có sợ đau khổ không ? Các em không ưa thích khổ phải không ?” _ “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chúng con sợ đau khổ. chúng con không ưa thích khổ “. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

4. Nếu ngươi không ưa khổ,                   

Dầu bất cứ chỗ nào,

Chớ làm các nghiệp ác,                          

Trước mặt hay sau lưng.

Nếu ngươi làm, sẽ làm,                           

Các nghiệp ác, bất hiện,

Ngươi không giải thoát khổ,                   

Dầu nhảy vọt và chạy ([58])

(V) (Ud, 51)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Dubbàràma, trong lần mẹ của Migàrà. Lúc bấy giờ Thế tôn, vào ngày trai giới (uppsatha) đang ngồi có chúng tỷ kheo đoanh vây. Rồi tôn giả Ananda, sau khi đêm đã gần mãn, canh một sắp qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế tôn :” Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn canh một đã sắp qua ; chúng tỷ kheo ngồi đã lâu Bạch Thế tôn, Thế Tôn thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng tỷ kheo “. Khi được nói vậy. Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ hai, tôn giả Ànanda, khi đêm đã gần mãn, canh giữa đã sắp qua. Chúng tỷ kheo ngồi đã lâu :” Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng tỷ kheo”. Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng. Lần thứ ba, tôn giả Ànanda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã sắp qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã nở nụ cười, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, cháp tay hướng đến rồi bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã sắp qua, rạng đông đã ló dạnh, đêm đã nở nụ cười, chúng tỷ kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng tỷ kheo” _ “ Này Ànanda, hội chúng không thanh tịnh “. Rồi tôn giả Mahà Moggallana suy nghĩ :” Vì người nào. Thế Tôn nói :” Này Ànanda, hội chúng này không thanh tịnh !” Rồi tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình tác ý đến tâm toàn thể chúng tỷ kheo. Tôn giả Mahà Moggallàna thấy một người ác giới, theo ác pháp, không thanh tịnh, sở hành động nghi ngờ, hành động được che đậy, không phải Sa môn tự xưng là Sa môn, không theo Phạm hạnh tự xưng là Phạm hạnh, nội tâm hủ hóa, đầy ứ dục vọng, một đống rác ô uế (kasambujàtam) đang ngồi giữa chúng tỷ kheo, thấy vậy từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến người ấy, sau khi đến nói với người ấy :” Hiền giả hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy người. Người không được cọng trú với chúng tỷ kheo “. Người ấy giữ im lặng. Lần thứ hai, tôn giả Moggallàna nói với người ấy :” Hiền giả hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy ngươi. Ngươi không được cọng trú với chúng tỷ kheo “. Lần thứ hai, người ấy im lặng. Lần thứ ba, tôn giả Mahà Moggallàna. Lần thứ ba, người ấy im lặng. Rồi tôn giả Mahàmoggallàna, nắm tay người ấy, dắt tay khỏi ngoài cửa, gài then cửa lại, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn :”Bạch Thế Tôn, người ấy đã được con đuổi ra rồi Hội chúng nay thanh tịnh. Bạch Thế Tôn. Thế Thế Tôn hãy thuyết giảng giới bổn Pàtimokkha cho chúng tỷ kheo.” _ “ Thật vi diệu thay, Moggallàna ! Thật hy hữu thay, Moggallàna ! cho đến khi bị cầm tay, người ngu si ấy mới đi ra.” Rồi thế Tôn bảo các tỷ kheo :” Này các tỷ kheo, bắt đầu từ nay Ta sẽ không làm Uposatha nữa, Ta sẽ không tụng đọc giới bổn Pàtimokka nữa. Bắt đầu từ nay, các ngươi hãy làm Uposotha, các ngươi hãy tụng đọc giới bổn. Sự kiện không có được, này các tỷ kheo, cơ hội không có được là Như Lai có thể làm Uposatha với hội chúng không thanh tịnh, có thể đọc giới bổn. Này các tỷ kheo, biển lớn có tám pháp vi diệu hy hữu này, do thấy chúng thấy chúng. Các A tu la (Asurà) thích thú biển lớn. Thế nào là tám ?”.

“ Này các tỷ kheo, biển lớn tuần tự xuôi (anupubbarino), tuần tự thuận hướng (anupubbapono), tuần tự sâu dần (anupubbapabbàno) không có thình lình (àyatakena) như một vực thẳm. Vì rằng, này các tỷ kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vựa thẳm. Này các tỷ kheo, đây làsự vi diệu, chưa từng có thứ nhất. Do thấy vậy, thấy vậy, các A tu la thích thú biển lớn.”

“ Lại nữa, này các tỷ kheo, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ (velam nàlirattati), Vì rằng, này các tỷ kheo, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Này các tỷ kheo, đây là sự vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy vậy, các A tu la thích thú biển lớn”.

“ Lại nữa, này các tỷ kheo, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng (vàheti) trên bờ hay vất lên đất liền. Vì rằng, này các tỷ kheo, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ (tiramvàheti) hay vất lên đất liền (thalam ussàdeti ). Này các tỷ kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, các A tu la thích thú biển lớn. “

“Lại nữa, này các tỷ kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciravati, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên cũ, trở thành biển lớn. Vì rằng phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng... trở thành biển lớn. Này các tỷ kheo, đây là vi diệu thứ tư...thích thú biển lớn”.

“Lại nữa, này các tỷ kheo, phàm có những giòng nước gì (Sarantiyo) ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa rơi xuống, nhưng không gì vậy biển lớn được thấy có giảm tăng. Này các tỷ kheo vì rằng, phàm có những giòng nước gì chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà biển được thấy có giảm tăng. Này các tỷ kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ năm...thích thú biển lớn.”

“Lại nữa, này các tỷ kheo, biển lớn chỉ có một vị là mặn. Này các tỷ kheo, đây là vi diệu, chưa từng có thứ sáu...thích thú biển lớn.”

“Lại nữa, này các tỷ kheo, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này như trân châu (muttà) ma ni châu (mani) lưu ly ( veluriyo) xa cừ (sankho), ngọc bích (sila), san hô (pavàlam), bạc, vàng, ngọc đỏ (lohitanko), mã não (masàragallam). Vì rằng, này các tỷ kheo, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này như trân châu, ma ni châu, lưu ly, xa cư, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Này các tỷ kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy...thích thú biển lớn.”

  “Lại nữa, này các tỷ kheo, biển lớn là trú xứ các loại sinh vật ( bhuta) lớn. Tại đây có những sinh vật này như các con ti mi, tumingalà, timirangalà ( 3 loại timi, timigalà, timiramingalà). Những loại Asurà ( A tu la) các loại Nàga, các loại gandhabhà. Trong biển lớn có các loại hữu tình dài 100 do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do tuần. Vì rằng, này các tỷ kheo, biển lớn là trú xứ các sanh vật lớn...Năm trăm do tuần, này các tỷ kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám. Do thấy vậy, thấy vậy, các A tu la thích thú biển lớn.”

“ Cũng vậy, này các tỷ kheo, có tám pháp vi diệu chưa từng có trong pháp và luật này, do thấy chúng, thấy chúng, các tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này. Thế nào là tâm ?”

“ Ví như, này các tỷ kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vựa thẳm. Cũng vậy này các tỷ kheo, trong Pháp và luật, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục (kiriyà) là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí (annàpativedba) thình lình (àyatakena). Này Paharada, vì rằng trong pháp và luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không cò sự thể nhập chánh trí thình lình. Này các tỷ kheo, Này các tỷ kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất. Do vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, biển lớn đứng một chỗ không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này các tỷ kheo, khi các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các tỷ kheo, vì rằng các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các tỷ kheo trong pháp và luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này Pahàràda, biển lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng trên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy này các tỷ kheo, người nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi vhe đậy, không phải là Sa môn nhưng tự nhận là Sa môn, không sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham đục, tánh tình bất định. Chúng tăng không sống chung với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dần cho người ấy có ngồi giữa chúng tỷ kheo tăng, nhưng người ấy sống xa chúng tăng và chúng tăng sống xa người ấy. Vì rằng này các tỷ kheo, người ấy là ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất tịnh...và chúng tăng sống xa nó. Này các tỷ kheo, trong các pháp và luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracatì, sông Sarabhù, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các tỷ kheo, có bốn giai cấp này : Sát đế ly, Bà la môn, Phệ xá, Thủ đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong pháp và luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ  bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích tử. Này các tỷ kheo, trong pháp và luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, phàm có những giòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà biển lớn thấy có giảm tăng. Cũng vậy, này các tỷ kheo, nếu có những tỷ kheo nhập vào Niết bàn giới, không có dư y, Niết bàn giới cũng không vì vậy được thấy co giảm tăng. Này các tỷ kheo, nếu có nhiều tỷ kheo nhập vào Niết bàn giới không có dư y, Niết bàn giới không vì vậy, được thấy có giảm tăng. Này các tỷ kheo, trong Pháp và luật này, đây là vi diệu thứ năm. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, biển lớn cũng có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này các tỷ kheo, pháp này cũng chỉ có một vị là vị giải thoát. Này các tỷ kheo, trong Pháp và luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, biển lớn có nhiều châu báu, ở đấy có những chấu báu này, như trân châu, ma ni châu, lưu ly, xa cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Cũng vậy, này các tỷ kheo, Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, thánh đạo tám ngành. Này các tỷ kheo. Vì rằng Pháp và luật này có nhiều châu báu này như bốn niệm xứ...thánh đạo tâm ngành. Này các tỷ kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Ví như này các tỷ kheo, biển lớn là trú xứ các loại sinh vật lớn, tại đấy có những sinh vật như các con timi, Timigala, timramingalà, những loại Asurà, các loài Nàgà, các loài Gandhabbà. Trong biển lớn có các loài hữu tình dài 100, 200, 300, 400, 500 do tuần, Cũng vậy này các tỷ kheo, Pháp và Luật này là trú xứ của các sinh vật lớn. Ở đấy có những sinh vật này. Bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A la hán, bậc đã hướng đến chứng ngộ A la hán. Này các tỷ kheo, vì rằng Pháp và Luật này là trú xứ của các sinh vật lớn. Ở đây có những sinh vật này...quả A la hán, Này các tỷ kheo, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám. Do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.”

“ Này các tỷ kheo, đây là tám pháp vi diệu, chưa từng có trong Pháp và Luật này, do thấy vậy, thấy vậy, tỷ kheo thích thú trong pháp và luật này.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong khi ấy, nói lên lời cảm hứng này.”

5” Che kín trời có mưa,                          

Mở rộng, trời không mưa.

Do vậy, hãy mở rộng                              

Cái gì bị che kín.

Như vác sẽ không mưa.”

(VI) (Ud, 57)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Mahàkaccàna trú ở giữa dân chúng Avantì, gần Kurataghara, trên ngọn núi tên Pavatta. Lúc bấy giờ nam cư sĩ Sana Kotikanna là thĩ giả của tôn giả Mahàkaccàna. Rồi nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền tịnh, tư tưởng nhu sau được khởi lên :” Như tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cão bỏ rây tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình “. Nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ tôn giả rồi ngôi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikauna thưa tôn giả Mahàkaccàna :” Thưa tôn giả, ở đây trong khi con độc cư thiền tịnh... sống không gia đình.” Thưa tôn giả, tôn giả hãy xuất gia cho con”. Nghe nói vậy, tôn giả Mahàkaccana nói với nam cư sĩ Sona Kotikanna :” Này Sona, thật khó thay đời sống Phạm hạnh, ăn một bữa ăn, nằm một mình cho đến trọn đời. Này Sona, tại đây hãy sống trong gia đình, chú tâm vào lời dạy của Phật, tạm thời hiện tại (Kàlaguttam) sống Phạm hạnh, ăn một ngày một bữa, nằm ngủ một mình. Như vậy lòng ham muốn xuất gia của nam cư sĩ Sona Kotikanna được giảm nhẹ bớt “. Lần thứ hai, trong khi độc cư thiền tịnh...sống không gia đình.” Lần thứ hai nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến tôn giả Mahàkaccàna...hãy xuất gia cho con.” Lần thứ hai, tôn giả Mahàkaccàna nói vớinam cư sĩ Sona Kotipanna :” Này Sona, thật khó thay... được giảm nhẹ bớt.” Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền tịnh...sống không gia đình “. Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến tôn giả Mahàkaccàna và thưa...hãy xuất gia cho con.” Rồn tôn giả Mahàkaccàna xuất gia cho nam cư sĩ Sona Kotikanna. Lúc bấy giờ, tại Avantisudakbhinàpatha, có ít tỷ kheo. Rồi tôn giả Mahàkaccàna, sau ba kỳ an cư mùa mưa, một cách khó khăn, một cách mệt nhọc tu tập được một nhóm 10 tỷ kheo và trao đại giới cho tôn giả Sona.”

“ Rồn tôn giả Sona, sau khi an cư mùa mưa cô độc thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên :” Ta chưa được thấy tận mặt Thế Tôn, tuy rằng ta có nghe Thế Tôn là vị như vậy như vậy. Nếu vị giáo thọ sư của ta cho phép ta sẽ đi đến yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác “. Rồi tôn giả Sona vào buổi chiều từ độc cư thiền tịnh đứng dậy, đi đến tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ tôn giả Mahàkaccàna rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Sona thưa với tôn giả Mahàkaccàna :” Thưa tôn giả, trong khi con độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên :” Ta chưa được thấy tận mắt Thế Tôn...Cháng đẳng giác “ _ “ Lành thay, lành thay Sona ! Hãy đi này Sona, để yết kiến Thế tôn, bậc A la hán, Cháng đẳng giác. Này Sona, người sẽ thấy Thế Tôn khả ái, khởi dậy lòng tin, các căn an tịnh, tâm ý thanh tịnh, đã đạt được an chỉ chế ngự tối thượng, bậc long thượng được điều phục, hộ trì, các căn nhiếp phục. Sau khi thấy, hãy nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não nhẹ nhàng, khỏe mạnh, an ổn không “ _ “ Thưa vâng, tôn giả”, tôn giả Sona hoan hỷ tin thọ lời dạy của tôn giả Mahàkaccàna, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ tôn giả Mahàkaccàna, thân bên hữu hướng về tôn giả dọn dẹp sáng tọa, cầm y bát bộ hành hướng đến Sàvatthi, tiếp tục bộ hành đi đến Sàvatthi, Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika, đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Sona bạch Thế Tôn :” Bậc giáo thọ sư của con, bạch Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ, hỏi thăm...có an ổn không ?” _ “ Này tỷ kheo, người có kham nhẫn được không ? Ngươi có sống (dễ dàng) không ? Đi đường đến đây có mệt không ? Khất thực có mệt mỏi không ? “ _ “ Bạch Thế Tôn, con có thể kham nhẫn ! Bạch Thế Tôn, con có thể sống dễ dàng ? Bạch Thế Tôn, con đi đường không có mệt nhọc ! Khất thực không có mệt nhọc “. Rồi Thế Tôn bảo tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy sửa soạn sàng tọa cho tỷ kheo mới đến này”. Tôn giả Ànanda suy nghĩ :” Thế Tôn bảo ta :” Này Ànanda, hãy sửa soạn sàng tọa cho tỷ kheo mới đến này”. Như vậy Thế Tôn muốn ở chung một chỗ với tôn giả Sona ấy “. Nên chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy tôn giả Ànanda sửa soạn sàng tọa cho tôn giả Sona. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi ở ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào tịnh xá. Tôn giả Sona, sau khi ngồi ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào tịnh xá. Rồi Thế Tôn sau đêm đã gần sáng, thức dậy, Thế Tôn với tôn giả Sona :” Hãy ([59]) nói pháp cho các tỷ kheo “ _ “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn “, tôn giả Sona vâng đáp Thế Tôn, đọc thuộc lòng ([60]) 16 phần của phẩm tám một cách đầy đủ. Rồi Thế Tôn, sau khi tôn giả Sona chấm dứt tụng đọc của mình. Thế Tôn cám ơn và nói :” Lành thay, lành thay tỷ kheo ! Tỷ kheo đã khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì toàn bộ 16 phần trong phẩm thứ tám. Người được đầy đủ thiện ngôn ([61]) minh bạch, phát ngôn rõ ràng, ý nghĩa minh xác (atthassa vinàpaniyà). Này tỷ kheo, ngươi có bao nhiêu tuổi an cư mùa mưa ?” _ “ Bạch Thế Tôn, con có một tuổi an cư mùa mưa !” _ “ Này các tỷ kheo, vì sao ngươi lại để chậm nhu thế ?” _ “ Bạch Thế Tôn, đã lâu con thấy sự nguy hại trong các dục, sự bó buộc của đời sống gia đình, nhiều phận sự, nhiều công việc phải làm “. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này “.

6 “ Thấy nguy hại ở đời,                         

Biết pháp không sanh y.

Bậc thánh không ưa ác,                          

Bậc tịnh không ưa ác.

(VII) (Ud. 60)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jatavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Kankharevata ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, tự mình quán sát  sự thanh tịnh do vượt qua được nghi ngờ. Thế Tôn thấy tôn giả Kankharevata ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, tự mình quán sát  sự thanh tịnh do vượt qua đượt nghi ngờ. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lời cảm hứng này “.

7. “ Phàm những nghi hoặc gì,                          

Đời này hay đời sau,

Tự mình chưa cảm thọ,                                       

Hay người khác cảm thọ.

Người hành thiền từ bỏ,                                      

Hoàn toàn tất cả chúng,

Nhiệt tâm hành Phạm hạnh.”

(VIII) (Ud. 60)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagàha ( Vương xá), tại Veluvana (Trúc lâm) chỗ nuôi các con sóc. Lúc bấy giờ, tôn giả Ànanda trong ngày trai giới, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực. Devadatta thấy tôn giả Ànanda và nói với tôn giả Ànanda :” Bắt đầu từ hôm nay, Ta sẽ làm lễ Uposatha (trai giới) và sẽ tác thành các tăng sự, khác với Thế Tôn, khác với chúng tỷ kheo.” Rồi tôn giả Ànanda, sau khi đi khất thực ở Ràjagaha, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi cuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực. Bạch Thế Tôn, Devadatta thấy con đi khất thực ở Ràjagatha. thấy vậy liền đi đến con và nói :” Bắt đầu từ hôm nay hiền giả Ànanda... khác với các chúng tỷ kheo ! “ Hôm nay, bạch Thế Tôn. Devadatta sẽ phá hòa hợp tăng, làm lễ Uposatho và hành các tăng sự.” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lời cảm hứng này “.

8.” Dễ làm là việc lành,                          

Đối với kẻ làm lành.

Khó làm là việc ác,                                             

Đối với kẻ làm lành.

Dễ làm việc ác,                                       

Đối với kẻ làm ác,

Khó làm là việc ác,                                             

Đối với các bậc Thánh “

(IX) (Ud. 61)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn bộ hành giữa dân chúng Kosala cúng với đại chúng tỷ kheo. Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên Bà la môn, không xa Thế Tôn bao nhiêu, cùng những lời nhiếc mắng (Saddàyamàrùpà) ([62]) vượt đà quá xa ( atikkamanti), Thế Tôn thấy nhiều thanh niên, không ca bao nhiêu, dùng những lời nhiếc mắng, vượt đà quá xa. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lời cảm hứng này.

9. “ Lời nói của kẻ trí,                             

Khi bối rối luống cuống ([63])

Rơi vào nhiều đề tài,                               

Nhiều lãnh vực (sai khác).

Chúng muốn miệng mở rộng,                 

Cái gì dẫn dắt chúng.

Chúng đâu có biết rõ.”

(X) (Ud. 61)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Cùlapanthaka ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng để niệm trước mắt, Thế Tôn thấy tôn giả Cùlapanthaka ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng để niệm trước mắt, Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lời cảm hứng này.

10. “ Với thân, tâm an trú,                                  

Đứng, ngồi hay nằm xuống,

Tỷ kheo an trú niệm,                               

Trước sau ([64]) được thù thắng,

Trước sau được thù thắng,                                 

Vượt tầm mắt Ác ma. “

 

CHƯƠNG SÁU : PHẨM SANH RA ĐÃ MÙ

((I) (Ud. 62)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli tại Đại lâm, chỗ ngôi nhà có móc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Vesàli để khuất thực. Khất thực ở Vesàli xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, Thế Tôn gọi tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy cầm tọc cụ, Ta sẽ đi đến điện Càpàla để nghỉ ban ngày” _” Thưa vâng, bạch Thế Tôn” tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn, cầm tọa cụ và đi sau lưng Thế Tôn, Thế Tôn đến gần đền Càpàla, khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẳn. Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, khả ái thay Vesàli ! Khả ái thay đền Udena ! Khả áithay đền Gotamaka ! Khả ái thay đền Sattambaka ! Khả ái thay đền Càpala. Này Ànanda, những ai đã tu tập bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cẫ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành, thời nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ànanda, nay Như Lai đã tu tập bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cổ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành. Này Ànanda, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần còn lại !” Nhưng tôn giả Ànanda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp. Thiện thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người”. Vì tâm tôn giả bị Ma Vương ám ảnh. Lần thứ hai...Lần thứ ba Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, khả ái thay Vesàli ! khả ái thay đền Udenna ! khả ái thay đền Gotamaka ! khả ái thay đền Sattambaka ! khả ái thay đền Bahyputta ! khả ái thay đền Sàrandada ! khả ái thay đền Càpali !...nhưng tôn giả Ànanda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy lại cho đến trọn kiếp ! Thiện thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạch cho loài Trời và loài người !” Vì tâm tôn giả bị Ma Vương ám ảnh (pariyutthicitto). Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda : Này Ànanda, hãy đi và làm những gì, nhà ngươi nghĩ là hợp thời !”_” Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ngồi xuống một gốc cây không xa bao nhiêu”.

“ Tôn giả  Ànanda ra đi không bao lâu, Ac Ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền đứng một bên, Ac Ma nói với Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ ! Thiện thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay  đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đấy là lời Thế Tôn đã nói.” _” Này Ac Ma, Ta sẽ chưa diệt độ, khi nào những tỷ kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng (viyattà) được huấn luyện, đạt được tự tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành chánh pháp và tùy pháp, sống chánh hạnh (sàmìcipatipannà), sống tùy pháp, sau khi học hỏi giáo lý từ thầy của mình ; khi nào chúng chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai mở, phân thích rõ ràng chánh pháp ; khi nào có tà đạo khởi lên chúng chưa có thể sau khi chất vấn, khéo hàng phục một cách đúng pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu”.

“ Bạch Thế Tôn, nay có những tỷ kheo, đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành chánh pháp và tùy pháp, sống chánh hạnh sống tùy pháp ; sau khi học hỏi giáo lý từ thầy của mình, chúng tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai mở, phân tích và giải thích rõ ràng chánh pháp. Khi có tà đạo khởi lên, sau khi chất vấn chúng khéo hàng phục một cách đúng pháp, thuyết pháp thần diệu. Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ ; Thiện thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói “ _” Này Ac Ma, Ta sẽ không diệt độ, khi nào những tỷ kheo Ni của Ta. Những Nam cư sĩ của Ta...Những Nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng...chưa có thể thuyết pháp thần diệu” _” Bạch Thế Tôn, nay có những tỷ kheo ni...Những Nam cư sĩ...những nữ cư sĩ đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tự tin...có thể thuyết pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ ! Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói”_” Này Ac Ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thành đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy, cho chư Thiên và loài người” _” Bạch Thế Tôn, nay Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa được khéo giảng dạy cho loài người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ ; Thiện thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.” Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Ac Ma :” Này Ac Ma hãy yên tâm (apposukko), không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ !”

“ Và tại đền Càpala, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, từ bỏ thọ hành, (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa ). Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời đại địa chấn động, ghê rợn, lông tóc dựng ngược, sấm trời vang dậy. Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này”:

1.” Bậc ẩn sĩ từ bỏ,                                 

Các hành động sanh hữu,

Sanh hữu có cân lượng ([65])                                 

Sanh hữu không cân lượng ([66])

Ưa thích hướng nội tâm,                         

Thất định tỉnh an tịnh,

Phá đổ ngã sanh hữu,                             

Như cởi thoát áo giáp ([67])

(II) (Ud. 61)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời ([68])Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Đông Viên, lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn vào buổi chiều, từ độc cư thiền tịnh đứng dậy và đến ngồi tại một ngôi nhà nhỏ ở phía ngoài”.

“ Rồi vua Pasenada nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ bảy vị bện tóc, bảy vị Ni kiền tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y (ekasàta) và bảy vị du sĩ, với nách đầy lông, với móng tay dài, mang các dụng cụ khất sĩ ([69]), đã đi ngang qua Thế Tôn không xa bao nhiêu.”

“ Rồi vua Pasenadi nước Sosala, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, quỳ xuống trên đầu gối tay mặt, chấp tay hướng về bảy vị bện tóc, bảy vị Ni kiền tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị du sĩ ấy, nói lên ba lần tên của mình :” Thưa chư tôn giả con là vua Pasendi nước Kosala !”

“ Rồi cua Pasenadi nước Kosala, khi bảy vị bện tóc, bảy vị Ni kiền tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y, và bảy vị du sĩ ấy đã đi qua không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên “:

“ Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, có phải những tôn giả ấy là những vị A la hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A la hán?”

“ Thưa Đại vương, khi Đại vương còn là cư sĩ trong khi còn sống với gia đình, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc ([70]) quen dùng các loài chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sám, thọ hưởng vàng và bạc thời Đại vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A la hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A la hán quả. Thưa Đại vương, chính phải cộng trú (samvàsena) mới biết được giới đức của một người và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được ([71]), phải có tác ý không phải không có tác ý ; phải có trí tuệ không phải với ác tuệ. Thưa Đại vương, chính phải có liên hệ (sabbyohàrena. Tập sớ và S. samvahàrena) mới biết được sự thanh liêm (soseyyam) của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải có trí tuệ không phải với ác tuệ. Thưa Đại vương, chính trong thời gian bất hạnh (àpudàsa) mới biết được sự trung kiên (thàmo) của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được ; phải có tác ý, không phải không tác ý ; phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.”

“ Thưa Đại vương, chính phải đàm luận (sàkacchà) biết được trí tuệ của một người, và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được ; phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.”

“ Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn ! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn đã khéo nói như sau :” Thưa Đại vương, khi Đại vương còn là cư sĩ...không phải với ác tuệ”. Bạch Thế Tôn, có những trinh thám ([72]) này của con, những người trinh sát (ocarakà) sau khi đi trinh sát mặt trước, chúng đến con. Trước hết chúng báo cáo ([73])

 rồi con mới đúc kết (otarissàmi) (?)”.

“ Bạch Thế tôn, ở đây những người ấy sau khi tẩy sạch bụi và nhớp, sau khi tắm rửa và xoa dầu, sau khi chảy sạch râu tóc, mắc áo vải trắng, chúng được hầu hạ săn sóc và cho thọ hưởng năm dục công đức “.

“Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này”.

2.” Phải siêng năng cố gắng                  

Tại bất cứ chỗ nào,

Chớ trở thành là người,                                      

Tuộc của con người khác.

Chớ có sống ỷ lại,                                                           

Nương tựa vào người khác

Chớ sống nghề buôn bán,                                               

Đem pháp (để kiếm lời)”.

(III) (Ud, 66)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn ngồi quán sát các pháp ác bất thiện của mình được trừ diệt, và các pháp thiện của mình được tu tập, làm cho tăng trưởng. Rồi Thế Tôn sau khi biết các pháp bất thiện của mình đã được trừ diệt, và các pháp thiện của mình được tu tập, được làm cho sung mãn, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:”

3.” Trước có nay không có,                                

Trước không có nay có.

Đã không và sẽ không,                            

Và nay hiện không có ([74])”.

(IV) (Ud, 66)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ một số đông các ngoại đạo sai khác. Các sa môn, Bà la môn, các du sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực. Chúng có quan điểm khác nhau (nànàrucikà), y cứ nương tực vào quan điểm khác nhau. Một số Sa môn, Bà la môn. luận thuyết như sau:” Thế giới là thường còn. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Thế giới là biên tế, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, có quan điểm như sau :” Thế giới là vô biên, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng “. Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Sanh mạng và thân thể là một, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Sanh mạng và thân thể làkhác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Sanh mạng và thân thể là khác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.”.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Như Lai không tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.” Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng “. Chúng sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng kim khí miệng lưỡi :” Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”. Rồi nhiều tỷ kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông ngoại đạo sai khác, các Sa môn, Bà la môn, các du sĩ  ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực...như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”. Này các tỷ kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết không phải mục đích, không biếp pháp, không biết phi pháp. Do chúng không biết mục đích, do chúng không biết không phải mục đích, không phải pháp, không biết phi pháp. Do chúng không biết mục đích, do chúng không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, chúng sống cảnh tranh luận, luận tranh, đấu tranh...như thế này là pháp. Này các tỷ kheo, thuở xưa tại thành Sàvatthi này, có một ông vua. Này các tỷ kheo, ông vua ấy bảo một người :” Này người kia, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi hãy nhóm lại một chỗ tất cả “ _ “Thưa vâng, Đại vương “, này các tỷ kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi, nó giữ lại tất cả, rồi đi đến ông vua ấy, sau khi đến thưa với vị vua ấy :” Thưa Đại vương, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi đã được tu tập lại : _” Này khanh, hãy đưa ra một con voi cho những người mù “ _ “ Thưa vâng, Đại vương, này các tỷ kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, đưa ra một con voi cho những người :” Này các người mù, đây là con voi “. Với một số người mù, nó đưa cái đầu và nói :” Này các người mù đây là con voi “. Đối với một số người mù, nó đưa các lỗ tai con voi và nói :” Này các người mù đây là con voi “. Đối với một số người mù, nó đưa các ngà con voi và nói :” Này các người mù đây là con voi “. Đối với một số người mù, nó đưa cái vòi con voi và nói :” Này các người mù đây là con voi “. Đối với một số người mù, nó đưa cái thân con voi và nói :” Này các người mù đây là con voi “. Đối với một số người mù, nó đưa cái chân... Đối với một số người mù, nó đưa cái lưng... Đối với một số người mù, nó đưa cái đuôi... Đối với một số người mù, nó đưa các long đuôi và nói :” Này các người mù, đây là con voi “. Này các tỷ kheo, rồi người ấy sau khi đưa con voi cho các người mù, đi đến ông vua ấy, sau khi đến tâu với vua ấy :” Thưa Đại vương, con voi đã được các người mù thấy, nay Đại vương hãy làm những gì Đại vương nghĩ là hợp thời !” Rồi này các tỷ kheo, ông vua đi đến các người mù ấy, sau khi đến nói với chúng :” Này các người mù, các ngươi đã thấy con voi chưa ?” _ “ Thưa Đại vương, chúng tôi đã thấy con voi “ _ “ Này các người mù, hãy nói con voi là như thế nào ?” Này các tỷ kheo, những ai được thấy đầu con voi, chúng nói như sau :” Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái ghê !” Này các tỷ kheo, những ai được thấy cái tai con voi, chúng nói như sau :” Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái rổ sàng gạo (seppo) “. Này các tỷ kheo, những ai được thấy cái ngà con voi, chúng nói như sau :” Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái lưỡi cày này “. Những ai... được thấy cái vòi... như cái cày. Những ai... được thấy cái thân... như cái kho chứa (kottho)”. Những ai... được thấy cái chân... như cái cột (thùno)”. Những ai... được thấy cái lưng...như cái cối (adukkthato)”. Những ai...được thấy cái đuôi, chúng nói như sau :” Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái chày “. Những ai được thấy cái nhóm long đuôi, chúng nói như sau :” Thưa Đại vương, con voi là thế này, như cái chổi “ _ “ Con voi các người nói vậy không phải con voi. Con voi không phải vậy. Con voi không phải vậy. Như thế này là con voi.” Cho đến khi chúng đánh lộn nhau bằng tay. Rồi này các tỷ kheo, ông vua ấy hoan hỷ. Cũng vậy, này các tỷ kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt... như vậy là pháp “. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

4 “ Có một số Sa môn                 

     Cùng với Bà la môn,

Chúng chấp trước, giành giật                 

Trong các luận thuyết này,

Chúng tranh luận tranh chấp,                 

Chúng nhìn chỉ một phía “.

(V) (Ud. 69)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jatavana, khu vười ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa môn, các du sĩ trú ở Sàvatthi. Chúng có quan điểm khác nhau. Chúng có kham nhẫn khác nhau. Chúng có sở thích khác nhau. Chúng y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau :” Tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”. Một số Sa môn, Bà la môn... “ Tự ngã và thế giới là vô thường “... có một số.. “ Tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường “ _ “ Tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường...” một số...” Tự ngã và thế giới do tự mình tạo ra “...” Tự ngã và thế giới do người khác tạo ra”...” Tự ngã và thế giới do tự mình và người khác tạo ra”... “ Tự ngã và thế giới không do tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do vô nhân sanh ( tự nhiên) (adhiccasamuppanno) ([75])... “ Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn “... “ Lạc khổ, tự ngã và thế giới là vô thường “... “ Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường”... “ Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường...” Có một số Sa môn, Bà la môn có luận tuyết như sau, quan điểm như sau :” Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không tự mình tạo ra, không người khác tạo ra, do vô nhân sanh.” Chúng sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau, bằng binh khí miệng lưỡi :” Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp “. Rồi nhiều tỷ kheo buổi sáng đắp y, cầm y bát vào Vương xá để khất thực. Khất thực ở Vương xá xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.  Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, có nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa môn, Bà la môn, các du sĩ, trú ở Sàvatthi... Chúng sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi : Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này là pháp” _ “ Này các tỷ kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục, không biết không phải mục đích, không biết pháp, không biếp phi pháp. Do chúng không biết mục đích, do chúng không biết không phải mục đích, do không biếp pháp, do không biết phi pháp, chúng sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi :” Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này là pháp”. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

5. “ Có một số Sa môn                            

Cùng với Bà la môn,

Chúng chấp trước dành dật,                               

Trong các luận thuyết này,

Chúng bị chìm đắm xuống.                                 

Khi đang còn giữa dòng

Chúng không đạt đến được                                 

Đất cứng trên bờ kia.([76])

(VI) (Ud. 70)

( Giống như kinh VI, 5, tức là kinh trước, với đoạn kết luận khác nhau như sau:)

“Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này:”

6. “ Có người ở đời này,                                    

Chấp người làm là ta

Trói buộc (với tư tưởng)                         

Người làm là người khác.

Chúng không biết sự này                                    

Không thấy là mũi tên.

Ai nhìn mũi tên này                                             

Với thận trọng cần thiết (patikacca) ([77])

Người ấy không còn chấp                                   

Người làm chính là ta,

Người ấy cũng không chấp                                 

Người làm là người khác.

Loài người ở đời này,                             

Bị kiêu nạn kiếp phục,

Bị cột bởi kiêu mạn                                             

Bị trói bởi kiêu mạn,

Trong các loại chủ thuyết,                                   

Chúng cạnh tranh luận tranh ([78])

Chúng không thể vượt qua                                  

Luân chuyển trong sanh tử “

( VII) (Ud, 71)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jatavana, khu vười ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ tôn giả Subhùti ([79]) ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nhập định không tầm (avitakkam samàdhin). Thế Tôn thấy tôn giả Subhùti ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nhập định không tầm. Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

7. “ Với ai, tầm quét sạch,                                  

Nội tâm khéo cắt đứt.

Không còn chút dư tàn.                           

Vượt qua ái nhiễm ấy.

Đạt được tưởng vô sắc,                          

Vượt khỏi bốn ách nạn,

Không đi đến thọ sanh”.

(VIII) (Ud, 71)          

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Vương xá, tại Trúc lâm chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, ở Vương xá, có hai nhóm say đắm (sarattà) một người kỹ nữ, tâm bị ám ảnh, chúng cạnh tranh, đấu tranh nhau. Chúng đi đến bằng đánh nhau bằng nắm tay, đánh nhau bằng cục đất, đánh nhau bằng gậy gộc, đánh nhau bằng kiếm. Chúng đi đến chết, đi đến đau khổ gần như chết. Rồi nhiều tỷ kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Vương xá để khất thực. Khất thực ở Vương xá xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, chúng đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, ở Vương xá có hai nhóm say đắm một người kỹ nữ... chúng đi đến chết, đi đến đau khổ gần như chết “. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

8. “ Phàm cái gì đạt được,                                 

Cái gì cần phải đạt.

Cả hai vướng bụi trần ([80])                                   

Với kẻ bị bệnh hoạn,

Học tập chưa thuần thục,                                    

Kẻ tinh chuyên học tập,

Sống giữ gìn giới cấm,                            

Tinh chuyên trú Phạm hạnh

Đây là một cực đoan,                              

Đây là một chủ thuyết

Trong dục không lỗi lầm                         

Là cực đoan thứ hai.

Cả hai cực đoan này ([81])                         

Lầm mộ phần tăng trưởng.

Chính do các tà kiến,                              

Làm tăng trưởng mộ phần.

Những ai không thắng trí,                                   

Cả hai cực đoan này.

Có kẻ bị chìm đắm,                                             

Có kẻ chạy quá mau.

Những ai thắng trí chúng,                                   

Không có suy tư vậy,

Không có tự quá mạn,                            

Chúng không có luân chuyển.

Để được tuyên bố lên ([82])

(IX) (Ud, 72)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, trong đêm tối mịt, với những cây đèn dầu đang chói sáng. Lúc bấy giờ, nhiều loại côn trùng có cách (adhipàtakà) ([83]) Tiếp tục rơi vào trong những đèn dầu ấy và gặp phải tai nạn (anayam). gặp phải hoại diệt (byasanam), gặp phải tai nạn và hoại diệt. Thế Tôn thấy nhiều loại côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào... gặp phải tai nạn và hoại diệt. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

9. “ Chúng chạy gấp vượt qua,              

Nhưng bỏ mất lõi cây,

Chúng làm cho tăng trưởng,                                           

Các trói buộc mới mẻ.

Như các loại côn trùng.                                      

Rơi vào trong ánh sáng.

Có người sống dựa vào ([84])                                            

Điều được thấy được nghe.”

(X) (Ud, 72)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Rồi tôn giả Ànanda, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, cho đến khi nào, các Như Lai không hiện hữu ở đời, bậc A la hán. Chánh đẳng chánh giác, cho đến khi ấy các du sĩ ngoại đạo được cung kính, được tôn trọng, được đảnh lễ, được cúng dường, được tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nhưng đến khi các Như Lai hiện hữu ở đời, bậc A la hán, chánh đẳng giác, cho đến khi ấy, các du sĩ ngoại đạo, không được cung kính, không được tôn trọng, không được đảnh lễ, không được cùng dường, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bạch Thế Tôn nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn trọng, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh ; chúng tỷ kheo cũng vậy “.

“ Đúng như vậy, này Ànanda. Cho đến khi nào, các Như Lai không xuất hiện ở đời... dược phẩm trị bệnh. Nhưng đến khi các Như Lai xuất hiện ở đời... dược phẩm trị bệnh. Này Ànanda, nay Thế Tôn được cung kính... Chúng tỷ kheo cũng vậy”.

“Sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

10.” Con đôm đốm chói sáng                             

Khi mặt trời chưa mọc,

Khi mặt trời mọc lên,                                          

Ánh sáng đôm đốm diệt.

Cũng vậy là ánh sáng,                                        

Của các nhà ngoại đạo,

Khi bậc Chánh đẳng giác,                                              

Chưa xuất hiện ở đời.

Các nhà ưa biện luận,                                         

Không có được ánh sáng ([85])

Cũng vậy đệ tử chúng,                                        

Còn các nhà tà kiến,

Chúng không được giải thoát,                            

Khỏi các sự đau khổ “.

 

CHƯƠNG BẢY : PHẦN NHỎ

(I) (Ud. 74)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi ( Xá vệ) tại Jetavanan (Kỳ viên), khu vườn của ông Anàthapindika ( Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ Sàripatta ( Xá Lợi Phất), với pháp thoại gồm nhiều pháp môn đang trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, tôn giả Lakumthakabhaddiya. Do tôn giả Sàriputta, với pháp thoại gồm nhiều pháp môn trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ nên tâm của tôn giả Lakunthakabhaddiya được giải thoát các lậu hoặc không có chấp thủ. Thế Tôn thấy tôn giả Lapunthakabhaddiya, do tôn giả Sàriputta với pháp thoại gồm nhiều pháp môn trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ nên tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

“ Trên dưới khắp tất cả,                         

Được giải thoát (hoàn toàn),

Không còn có tùy quán,                          

“ Cái này chính là tôi”.

Giải thoát vậy vượt giòng                                   

Trước chưa tầng vượt qua,

Không còn có rơi rớt                                          

Vào sanh hữu thọ sanh.”

(II) (Ud, 74)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Sàripatta, với pháp thoại gồm nhiều pháp môn, đang thuyết trình, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, tôn giả Bhaddiya người lùn ; lại càng nhiệt tình hơn lên khi tôn giả Bhaddiya người lùn là một vị hữu học (sekha). Thế Tôn thấy tôn giả Sàriputta với pháp thoại gồm nhiều pháp môn, là một vị hữu học. Sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

1.” Cắt đứt được luân chuyển,                           

Đạt được sự không dục,

Hoàn toàn được khô cạn,                                               

Nước sông không chảy nữa,

Cắt đứt lưu chuyển đúng,                                                

Là giải thoát đau khổ “.

(III) (Ud, 75)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều người ở Sàvatthi, phần lớn đắm say quá độ về dục, sống say đắm, tham đắm, tham muốn, tham mê, bị trói buộc, bị mê say trong các dục. Rồi một đông tỷ kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, khi đã khất thực trở về, chúng đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngã xuống một bên. Ngồi xuống một bên, chúng bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, những người ở Sàvatthi... bị mê say trong các dục !”  Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

2.” Chúng sanh bị tham đắm                              

Trong các loại ái dục,

Chúng không thấy lỗi lầm                                               

Trong phiền não kiết sử,

Chắc chắn ([86]) các chúng sanh,                          

Tham đắm trong ái dục,

Chúng không vượt qua được,                             

Thác nước rộng và lớn”.

(V) (Ud, 75)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giơ,  nhiều người ở Sàvatthi, phần lớn đắm say quá độ về dục ( như trên III)... trong các dục. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào Sàvatthi để khất thực. Rồi Thế tôn thấy các người ấy ở Sàvatthi... trong các dục. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

3.” Bị mù bởi các dục,                            

Bị bao phủ bởi lưới,

Bị ái dục bao trùm ;                                            

Lại còn bị trói buộc,

Bở trói buộc phóng dật,                          

Như cá mắc miệng lưới

Chúng đi đến già chết                             

Như con bê ([87]) bú sữa ([88]) “.

(V) (Ud, 76)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Lakumtakabhaddiya, đi theo sau lưng nhiều tỷ kheo, đi đến Thế Tôn, Thế Tôn thấy tôn giả Lakumtakabhaddiya đi theo sau lưng nhiều tỷ kheo, xấu xí, khó nhìn, còm lưng (ekotimakam), phần lớn bị các tỷ khoe khinh bỉ (paribhùtarùmpam), thấy vậy nói với các tỷ kheo :” Này các tỷ kheo, các ngươi có thấy chăng người tỷ kheo này từ đàng xa... bị các tỷ khoe khinh bỉ ?” _ “ Thưa có, bạch Thế Tôn “._ “ Tỷ kheo ấy, này các tỷ kheo, có đại thần lực, có đại uy lực, thiền chứng (samàpatti) không dễ gì chứng được thiền chứng ấy trước đây tỷ kheo ấy không thực hành tốt đẹp. Và vì mục đích các thiện nam tử chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị ấy ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú.” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

4.” Bộ phận không khuyết thiếu, ([89])       

Có tán trắng che trên.

Chỉ có một bánh xe,                                                        

Chiếc xe được di chuyển.

Hãy thấy vị ấy đến,                                                         

Không phiền muộn khó khăn ([90])

Giòng nước đã cắt đứt,                                       

Vị ấy không trói buộc.”

(VI) (Ud, 77)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Anàthapindika. ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, suy tư đến sự giải thoát do ái được diệt. Thế Tôn thấy tôn giả Annatakondanna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, suy tư đến sự giải thoát do ái được diệt. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

5.” Rễ không có bén đất,                                    

Không lá, đâu giây leo ?

Bậc trí thoát trói buộc,                            

Ai xứng đáng được khen.

Chư Thiên khen người ấy,                      

Phạm Thiên cũng ngợi khen.”

(VII) (Ud. 77)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi quán sát sự từ bỏ đoạn diệt các hý luận tưởng. ([91]). Rồi Thế Tôn sau khi biết sự từ bỏ, đoạn diệt các tưởng hý luận của mình, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

6.” Với ai các hý luận ([92]),                                  

Không còn có an trú ([93])

Thoát ly được liên hệ,                             

Thoát ly được ảo tưởng ()

Chu Thiên và thế giới,                             

Không thể nào rõ biết,

Sở hàng vị ẩn sĩ,                                      

Đã vượt khỏi tham ái”.

(VIII) (Ud. 77)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvàtthi tại Jetavanan, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, tôn giả Mahàkaccàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, với thân hành niệm khéo an trú trước mặt trong nội tâm. Thế Tôn thấy tôn giả Mahàkaccàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng, với thân hành niệm khéo an trú trước mặt trong nội tâm. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm ứng này :”

7.” Với ai thường thường niệm.                         

Liên tục trú thân hành,

Trước không thể có được,                                               

Với tôi, nay không có.

Sẽ không thể có được,                                         

Với tôi, nay sẽ không,

Tiếp tục trú như vậy,

Đúng thời vượt dục ái ([94])”.

(IX) (Ud, 78)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Mallà cùng với đại chúng tỷ kheo, đi đến làng Bà la môn của dân chúng Malà tên là Thùna Các Bà la môn gia chủ ở Thùna được nghe :” Sa môn Gotama từ giòng họ Thích Ca xuất gia, đang bộ hành gia dân chung Mallà cùng với đại chúng tỷ kheo, nay đã đến Thùna “. Chúng đỗ đầy miệng giếng với cỏ và trấu với ý nghĩa :” Mong rằng các sa môn trọc đầu ấy không có nước uống”. Rồi Thế Tôn từ trên đường bước xuống, đi đến một gốc cây, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta “. Khi được nói vậy, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, nay các giếng ấy bị các gia chủ Bà la môn ở Thùna, lấy đầy miệng với cỏ và trấu với ý nghĩa :” Mong rằng các Sa môn trọc đầu ấy không có nước uống “. Lần thứ hai, Thế Tôn bảo tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta !” Lần thứ hai, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Này các giếng ấy... không có nước uống “ Lần thứ ba. Thế Tôn bảo tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước uống từ nơi giếng này cho Ta :”_ “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn “, tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn, lấy bình bát, đi đến cái giếng ấy. Và cái giếng ấy, khi tôn giả Ànanda đến phun ra tất cả cỏ và trấu khỏi miệng giếng, và nước trong sáng không ô uế, trong lặng, tràn đầy miệng, cho đến như là tràn ra ngoài ([95]). Rồi tôn giả Ànanda suy nghĩ : Thật vi diệu thay ! Thật hy hữu thay là đại thần lực, đại uy lực của Như Lai. Cái giếng này khi ta đến, phun ra tất cả cỏ và trấu khỏi miệng giếng... như là tràn ra ngoài “. Rồi tôn giả Ànanda cầm lấy bát nước, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn :” Thật vi diệu thay ! Thật hy hữu thay là đại thần lực... như là tràn ra ngoài ! Bạch Thế Tôn hãy uống nước. Bạch Thiện Thệ, hãy uống nước !” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

8.” Cần làm gì với giếng,                       

Khi nước có cùng khắp

Chặt đứt ái từ gốc                                   

Cần hành tầm cầu gì ?”

(X) (Ud, 79)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi tại khu vười Ghosita. Lúc bấy giờ vua Udena đang đi ngoài vườn, thời nội cung bị cháy, và 500 nữ nhân bị chết, đứng đầu là Sàmàvati. Rồi nhiều tỷ kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực ở Kosambi xong, sau buổi ăn, sau khi khất thực trở về đi đến Thế Tôn, sau đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi xuống một bên, tỷ kheo ấy bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi vua Udena đi ra ngoài vườn, nội cung bị cháy, năm trăm nữ nhân bị chết, đứng đầu là Sàmàvati ?”_” Này các tỷ kheo, có nữ cư sĩ là bậc Dự lưu, có bậc Nhất lai, có bậc Bất lai. Này các tỷ kheo, tất cảcác nữ cư sĩ ấy mạng chung không phải không có kết quả.” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này “:

9.” Đời bị si trói buộc                             

Được thấy bị tái sanh ([96])

Bị trói bởi sanh y;                                               

Kẻ ngu bị mù vây,

Tự thấy mình thường còn,                                   

Nhưng với ai thấy được,

Sẽ không có vật gì ([97])”.

 

CHƯƠNG TÁM : PHẨM PÀTALIGÀMIYA

(I) (Ud, 80)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Ànathapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang thuyết giảng pháp thoại liên tưởng ( patisannà) đến Niết bàn, cho các tỷ kheo, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Các tỷ kheo ấy chú tâm, tác ý, dồn tất cả tâm tư lắng tai nghe pháp. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này “.

“ Này các tỷ kheo, có xứ này (àyatana), tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có hư không vô biên xứ, không có thức vô biên xứ, không có vô sở hữu xứ, không có phi tưởng phi phi tưởng xứ ; không có đời này, không đời sau, không có cả hai mặt trăng trời. Do vậy, này các tỷ kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có chuyển vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn tận khổ đau.”

(II) (Ud, 80)

( Như kinh trên (I), chỉ khác lời cảm hứng)

1. “ Khó thấy là vô ngã, ([98])                                

Không dễ thấy, sự thật,

Với bậc có hiểu biết,                                           

Kheo xâm nhập được ái.

Với vị đã thấy rõ,                                                

Đâu còn có vật gì.”

(III) (Ud, 80)

( Như kinh trên, chỉ khác lời cảm ứng ).

“ Này các tỷ kheo,  có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị kàm, hữu vi.”

(IV) (Ud, 81)

(Như các kinh trước, chỉ khác lời cảm hứng).

“ Cái gì có nương tựa ([99]) cái ấy có giao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an. Có khinh an thời không có thiên về ([100]). Không có thiên về thời không có đến và đi ; không có đến và đi thời không có diệt  và sanh ; không có diệt và sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”

(V) (Ud, 81)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang bộ hành đi giữa dân chúng Mallà, cùng với đại chúng tỷ kheo, và đã đến Pàvà. Rồi Thế Tôn trú ở Pàvà, tại rừng xoài của thợ rèn Cunda. Thờ rèn Cunda được nghe :” Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Mallà, đã đến Pàvà cùng với đại chúng tỷ kheo, và trú ở Pàvà, trong rừng xoài của ta.” Rồi thợ rèn Cunda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp thoại cho thợ rèn Cunda đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Rồi thợ rèn Cunda sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến dùng cơm với chúng tỷ kheo “. Thế Tôn im lặng nhận lời.”

“ Thợ rèn Cunda, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.”

“ Và thợ rèn Cunda, sau khi đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị, loại cứng, và loại mềm và nhiều thứ Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ) và báo tin cho Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẳn sàng.”

“ Và Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng tỷ kheo đến nhà thợ rèn Cunda, khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda :” Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho Ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng tỷ kheo.”

“ Xin vâng, bạch Thế Tôn”, thợ rèn Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng tỷ kheo các món ăn khác. loại cứng và loại mềm.”

“ Rồi Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda :” Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm Thiên giới, không một người nào trong chúng Sa môn và chúng Bà la môn, giữa những Thiên nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.”

“ Xin vâng, bạch Thế Tôn.” thợ rèn Cunda vâng đáp Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đãnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ rèn, Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.”

“ Sau khi dùng cơm của thợ rèn Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh ly huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm thỉnh giác, nhẫn nại chịu đựng sơn bệnh.”

“ Rồi Thế Tôn nói với tôn giả “:

“ Này Ànanda, chúng ta hãy đi đến Kusinàrà”.

“ Xin vâng, bạch Thế Tôn, “ tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn.”

2.” Dùng cơm Cunda xong,                               

Như vậy tôi được nghe,

Bậc trí cảm bệnh nặng,                           

Bạo bệnh, gần như chết,

Khi ăn loại mộc nhĩ,                                            

Đạo sư bị bệnh nặng.

Khi bệnh được lắng dịu,                         

Thế Tôn nói như sau :

“ Ta nay sẽ đi đến,                                              

Đến Kusinàrà”.

“ Rồi Thế Tôn bước xuống đường, đến một gốc cây và nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ànanda.”

“ Thưa vâng, bạch Thế Tôn, “ tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn và xếp áo Sànghati lại”.

“ Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và nói với tôn giã Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước cho Ta. Này Ànanda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.”

“ Khi được nói vậy, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn vừa mới có khoảng 500 cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay.”

“ Lần thứ hai, Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ànanda, Ta nay đang khát và muốn uống nước”.

Lần thứ hai, tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng 500 cỗ xe đi qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay”.

“ Lần thứ ba, Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ànanda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.”

“ Xin vâng, bạch Thế Tôn.” tôn giả Ànanda, vâng đáp Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục, khi tôn giã Ànanda đến, liền chảy trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục.”

“ Tôn giả Ànanda tự nghĩ :” Thậy kỳ diệu thay, thật hy hữu thay, thần lực và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục.” Sau khi dùng bát lấy nước, Ànanda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài :” Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu ! bạch Thế Tôn thật, là hy hữu. Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động, và vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin thỉnh Thiện Thệ dùng nước !”

“ Và Thế Tôn uống nước “

“ Rồi Thế tôn cùng với đại chúng tỷ kheo đi đến con sông Kakuttha, xuống sông tắm và uống nước, rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với tôn giả Cundaka :” Này Cunda, hãy xếp áo Sanghati làm bốn cho Ta, này Cunda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ”.

“ Xin vâng, bạch Thế Tôn.”tôn giả Cunda vâng lời Thế Tôn và xếp áo Sanghati làm bốn”.

“ Rồi Thế Tôn nằm xuống phía hông bên mặt như dáng điện con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm, tỉnh giác, tác ý đến tưởng ngồi dậy tôn giả Cunda ngồi phía trước Thế Tôn “.

3.” Đức Phật tự đi đến,                          

Con sông Kakutthà,

Con sông chảy trong sáng.                                 

Mát lạnh và thanh tịnh

Vị Đạo sư mỏi mệt.                                             

Đi dần xuống mé sông.

Như Lai đấng vô thượng.                        

Ngự trị ở trên đời.

Tắm xong uống nước xong,                                

Lội qua bên kia sông.

Bậc Đạo sư đi trước,                                          

Giữa Tăng chúng tỷ kheo,

Vừa đi vừa diễn giảng.                            

Chánh pháp thật vi diệu.

Rồi bậc Đại sĩ đến,                                              

Tại khu vực rừng xoài.

Cho gọi vị tỷ kheo,                                              

Tên họ Cundaka :

“ Hãy gấp tư áo lại,                                            

Trải áo cho Ta nằm.”

Nghe dạy, Cundaka,                                           

Lập tức vâng lời dạy.

Gấp tư và trải áo,                                                

Một cách thật mau lẹ,

Bậc Đạo sư nằm xuống,                         

Thân mình thật mệt mỏi.

Tại đây Cundaka,                                                

Ngồi ngay phía trước mặt.”

“ Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ànanda”:

“ Này Ànanda, rất có thể có người làm cho thợ rèn Cunda hối hận”. Này hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho ngươi, thật là tai hại cho người, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ ngươi cúng dường, và nhập diệt.” Này Ànanda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của thợ rèn Cunda”:

“ Này Hiền giả, thật lợi ích cho bạn, thật là công đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt. Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn :” Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Thế nào là hai ? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, hai  là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết bàn giới, không còn đi hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, tôn giả Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ, nhờ hành động này, tôn giả Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp, nhờ hành động này, tôn giả Cunda sẽ được hưởng an lạc, nhờ hành động này tôn giả Cunda sẽ được hưởng danh tiếng, nhờ hành động này, tôn giả Cunda sẽ được hưởng cõi trời, nhờ hành động này tôn giả Cunda sẽ được hưởng uy quyền.”

“ Này Ànanda, cần phải làm cho thợ rèn tiêu tan hối hận.”

“ Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu nghĩa này, liền thốt lời cảm khái như sau “:

4. “Công đức người bố thí,                                 

Luôn luôn được tăng trưởng.

Trừ được tâm hận thù,                            

Không chất chứa chế ngự.

Kẻ chí thiện từ bỏ,                                               

Mọi ác hạnh bất thiện.

Mọi ác hạnh bất thiện.                            

Diệt trừ tham, sân, si.

Tâm giải thoát thanh tịnh.”

(VI) (Ud, 85)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang đi bộ hành giữa dân chúng Magadha ( Ma kiệt đà) cùng với đại chúng tỷ kheo, và đã đến làng Pàtalì. Các nam cư sĩ ở làng Pàtalì được nghe :” Thế Tôn đang đi bộ hành giữa dân chúng Magadha với đại chúng tỷ kheo, và đã đến làng Pàtalì.” Rồi các nam cư sĩ ở làng Pàtalì đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ làng Pàtalì bạch Thế Tôn :” Mong Thế Tôn trú ở giảng đường của chúng con.” Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi các nam cư sĩ ở làng Pàtalì, sau khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi đi đến giảng đường, sau khi đến chúng cho trải thảm toàn bộ giảng đường, sửa soạn các chỗ ngồi, đặt một nghè nước, cho treo đèn dầu, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, các nam cư sĩ ở làng Pàtalì bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, giảng đường đã được trải thảm, các chỗ ngồi đã sửa soạn, ghè nước đã đặt xong, đèn dầu đã được treo Thế Tôn hãy làm những gì Thế Tôn nghĩ là hợp thời.” Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát cùng với chúng tỷ kheo, đi đến giảng đường, sau khi đến rửa chân, bước vào giảng đường, dựa nơi cây cột ở giữa, ngồi hướng mặt về phía đông. Chúng tỷ kheo, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, ngồi xuống dựa vào tường giữa, mặt hướng về phía đông có đức Phật trước mặt. Các nam cư sĩ ở làng Pàtalì, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, dựa vào tường phía đông, mặt hướng về phía tây, và ngồi xuống với đức Phật ở phía trước mặt.”

“ Rồi Thế Tôn bảo các nam cư sĩ ở làng Pàtalì :” Này các gia chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, người phạm giới. Thế nào là năm ? 1) Ở đây, này các gia chủ, người ác giới, phạm giới, do nhân duyên phóng dật, nên hao mất tài sản lớn. Đây là nguy hiểm thứ nhất cho người ác giới, người phạm giới. 2) Lại nữa này các gia chủ, người ác giới, phạm giới, tiếng xấu đồn xa. Đây là nguy hiểm thứ hai cho người ác giới, cho người phạm giới. 3) Lại nữa này các gia chủ, người ác giới, người phạm giới khi đến hội chúng nào, hoặc là hội chúng Sát đế ly, hoặc là hội chúng Bà la môn, hoặc là hội chúng gia chủ, hoặc là hội chúng Sa môn, vị ấy đến với sự sợ hãi, với sự ngỡ ngàng. Đây là nguy hiểm thứ tư của người ác giới, của người phạm giới. 4) Lại nữa, này các gia chủ, người ác giới, người phạm giới khi chết bị si ám. Đây là nguy hiểm thứ tư của người ác giới, của người phạm giới. 5) Lại nữa này các gia chủ, người ác giới, người phạm giới, khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào ác xứ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đây là nguy hiểm thứ năm của người ác giới, của người phạm giới. Này các gia chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, cho người phạm giới.”

“ Này các gia chủ, có năm điều lợi ích này cho người giữa giới, cho người đầy đủ giới. Thế nào là năm ? 1) Ở đây người giữ giới, người đầy đủ giới do nhân duyên không phóng dật được tài sản lớn. đây là lợi ích thứ nhất cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. 2) Lại nữa này các gia chủ, với người giữ giới, người đầy đủ giới, tiếng tốt lành được đồn xa. Đây là lợi ích thứ hai cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. 3) Lai nữa này các gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới khi đi đến hội chúng nào, hoặc là Sát đế ly hoặc là Bà la môn, hoặc là gia chủ, hoặc là Sa môn, người ấy đi đến không có sợ hãi không có ngỡ ngàng. Đây là lợi ích thứ ba cho người giữ giới cho người có đầy đủ giới. 4) Lại nữa này các gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới, khi chết không có si ám. Đây là lợi ích thứ tư cho người giữ giới, cho người có đầy đủ giới. 5) Lại nữa này các gia chủ, người giữ giới, người đầy đủ giới khi thân hoại mạng chung được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Đây là lợi ích thứ năm cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới. Này các gia chủ, có năm lợi ích này cho người giữ giới, cho người đầy đủ giới”.

“ Rồi Thế Tôn, sau khi thuyết giảng pháp thoại cho đến đêm khuya cho các cư sĩ ở làng Pàtalì, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền giải tán chúng nói rằng :” Đêm đã khuya, này các gia chủ, hãy làm những gì các ngươi nghĩ là hợp thời ! “ Rồi các gia chủ ở làng Pàtalì hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.”

“ Rồi Thế Tôn, sau khi các nam cư sĩ ở làng Pàtalì ra đi không bao lâu, đi vào căn nhà trống. Lúc bấy giờ Sunìdha và Vassakàra đại thần ở Magadha đang cho xây dựng một thành phố ở Pàtaligàma để ngăn chận các người Vajji. Lúc bấy giờ, rất nhiều chư Thiên, có đến con số ngàn, đang trú ở các trú xứ ở làng Pàtalì. Tại chỗ nào các chư Thiên có đại uy lực trú ở tại chỗ ấy chúng làm cho tâm các vua, các đại thần có đại uy lực thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Tại chỗ nào các chư thiên có uy lực trung bình trú ở, tại chỗ ấy chúng làm cho tâm các vua, các vị đại thần có uy lực trung bình thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Tại chỗ nào các chư thiên thấp kém trú ở, tại chỗ ấy, chúng làm cho tâm các vua, các đại thần có uy lực thấp kém thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân thấy hàng ngàn chư thiên ở làng Pàtalì đang trú ở các trú xứ ở làng Pàtalì. Tại chỗ nào các chư thiên có đại uy lực trứ ở... Chúng làm cho tâm các vua, các đại thần uy lực thấp kém thiên về, hướng về xây dựng các trú xứ. Rồi Thế Tôn, vào tảng sáng đêm ấy, thức dậy và bảo tôn giả Ànanda :” Này Ànanda, ai cho xây dựng thành phố ở làng Pàtalì ?”_” Bạch Thế tôn, các đại thần Sunìdha và Vassakàra cho xây dựng thành phố ở làng Pàtalì để ngăn chận các người Vajji”._” Này Ànanda, ví như chúng làm như vậy sau khi đã hỏi chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Cũng vậy là Sunidha và Vassakàra đại thần ở Magadha, đang cho xây dựng thành phố ở làng Pàtalì để ngăn chận các người Vajji. Ở đây, này Ànanda, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy hàng ngàn chư Thiên ở làng Pàtalì... hướng về xây dựng các trú xứ. Này Ànanda, xa cho đến thánh xứ (ariyamyatanam), xa cho đến con đường buôn bán đây sẽ trở thành một thành phố tối thượng, một chỗ mà các kiện hàng được mở ra. Này Ànanda, ba tai nạn ([101]) sẽ đến với Pàraliputta, nạn lửa, nạn lụt và nạn phản bội. (mithudhedate)”

“ Rồi sunidha và Vassakàra đại thần ở Magadha đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi đứng một bên. Đứng một bên, các Sunìdha và Vassakàra, đại thần Magadha, bạch Thế Tôn :” Mong tôn giả Gotama hôm nay nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng tỷ kheo !” Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Sunìdha và Vassakàra đại thần Magadha, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, đi đến chỗ của mình, sau khi đến sửa soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và báo thời gian cho Thế Tôn :” Thưa tôn giả Gotama, nay đã đến thời. Cơm đã sẵn sàng “. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát cùng với chúng tỷ kheo đi đến trú xứ cửa Sunìdha và Vassakàra, đại thần xứ Magadha, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Sunìdha và Vassakàra đại thần xứ Magadhan tự tay thân mới chúng tỷ kheo với đức Phật là vị cầm đầu và làm cho thỏa mãn với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Rồi Sunìdha và Vassakàra, đại thần xứ Magadha, sau khi Thế Tôn ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, lấy một ghế ngồi thấp khác. Thế Tôn với những bài kệ này, nói lên lời tùy hỷ công đức với Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha :”

5. “Tại chỗ nào bậc trí,                           

Làm thành chỗ an trú,

Hãy cùng các món ăn,                

Cho những người giữ giới,

Cho người biết chế ngự,             

Sống đời sống Phạm hạnh.

Ở đấy Chư thiên trú ([102])            

Hãy cúng dường Chư thiên ([103])

Được cúng dường, Chư thiên     

Cúng dường lại vị ấy ;

Được cung kính, Chư thiên                     

Cung kính lại vị ấy.

Chúng từ mẫn vị ấy,                                

Như mẹ thương con mình

Người được Chư thiên thương   

Luôn luôn thấy hiền thiện”.

“ Rồi Thế Tôn sau khi nói lời tùy hỷ công đức với những bài kệ này cho Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha, từ chỗ đứng dậy và ra đi. Lúc bấy giờ Sunìdha và Vassakara, đại thần xứ Magadha đi theo sau lưng Thế Tôn và nghĩ rằng :” Hôm nay, Sa môn Gotama đi ra cửa nào, cửa ấy sẽ đặt tên là cửa thành Gotama. Tại bến nước nào Sa môn Gotama sẽ đi qua sông Hồng, bến nước ấy sẽ đặt tên là bến nước Gotama “. Và cửa nào, Thế Tôn đã đi ra khỏi, các vị ấy đặt tên là cửa thành Gotama. Và Thế Tôn đi đến sông Hằng nước sông tràn đầy đến bờ, con quạ có thể uống được. Một số người đi tìm thuyền. Một số người đi tìm bè. Một số người cột chiếc bè để đi qua sông. Rồi như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy Thế Tôn biến mất từ bờ bên này sông Hằng và đứng qua bờ bên kia với chúng tỷ kheo. Thế Tôn thấy các người ấy, một số người đi tìm thuyền, một số người đi tìm bè, một số người cột lại chiếc bè để qua sông, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, Thế Tôn ngay lúc ấy, nói lên bài kệ này :”

6.” Sau khi làm cái cầu                           

Chúng vượt qua thác nước ([104])

Chúng vượt qua hồ nước                                    

Chúng vượt qua đầm lầy ? ([105])

Có người cột chiếc bè.                            

Bậc trí đã qua sông “.

(VII) (Ud, 90)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang đi giữa đường cùng với tôn giả Nàgasamàla là Sa môn tùy tùng. Tôn  giả Nàgasamàla giữa đường thấy một con đường rẽ, thấy vậy bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, đây là con đường, chúng ta đi con đường này “. Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với tôn giả Nàgasamàla :” Này Nàgasamàla, đây là con đường. Chúng ta sẽ đi con đường này “...Lần thứ ba, tôn giả Nàgasamàla bạch Thế Tôn :” Bạch Thế Tôn, đây là con đường, chúng ta hãy đi con đường này “. Lần thứ ba, Thế Tôn nói :” Này Nagasamàla, đây là con đường. Chúng ta đi con đường này “. Rồi tôn giả Nagasamàla đặt xuống đất y và bát của Thế Tôn, bỏ đi và nói :” Bạch Thế Tôn, đây là y bát của Thế Tôn “. Rồi tôn giả Nàgasamàla đi theo con đường ấy, giữa đường các tên cướp xuất hiện đánh nó bằng tay hay chân, đập vỡ bình bát và xé rách thượng y của tôn giả. Rồi tôn giả Nàgasamàla với bình bát bị vỡ, với thượng y bị xé rách đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Nagasamàla bạch Thế Tôn :” Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi con đường ấy các tên cướp xuất hiện, đánh con bằng tay hay bằng chân, đập vỡ bình bát và xé rách thượng y.” Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

7. “Cùng đi với kẻ ngu,                           

Kẻ trí phải chen vai,

Khi biết nó là ác,                                     

Lập tức từ bỏ nó

Như con cò bỏ nước ([106])                                    

Được nuôi ăn với sữa.

(VIII) (Ud, 91)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú Sàvatthi, tại Đông viên, Lộc Mẫu giảng đường. Lúc bấy giờ, người cháu trai của Visàkhà mẹ của khả ái và dễ thương bị mệnh chung. Và Visàkhà mẹ của Migàra, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, thật sáng sớm đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàra đang ngồi một bên :” Này Visàkhà, người từ đâu đến, với áo ướt đẫm. với tóc đẫm ướt, đi đến đây quá sớm như vậy ?”_” Bạch Thế Tôn, đứa cháu khả ái dễ thương của con đã mệnh chung. Cho nên con, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt con đến đây sáng sớm như vậy.” _ “ Này Visàkhà, ngươi có muốn tất cả người ở Sàvatthi là con và là cháu của ngươi không ?”_” Bạch Thế Tôn, con muốn tất cả người ở Sàvatthi là con và cháu của con.”_” Nhưng này Visàkhà, có bao nhiêu người ở Sàvatthi mạng chung hằng ngày?”_” Bạch Thế Tôn, có 10 người ở Sàvatthi mạng chung hàng ngày, chín... tám... bảy... sáu... năm... bốn... ba... hai... bạch Thế Tôn có một người ở Sàvatthi mạng chung hàng ngày. Bạch Thế Tôn, Sàvatthi không có thoát được số người bị chết !”_” Nhà ngươi nghĩ thế nào, này Visàkhà ? Như vậy ngươi có khi nào được khở vải bị ướt hay tóc bị ướt không ?_” Thưa không, bạch Thế Tôn ! Thật là vừa đủ cho con, bạch Thế Tôn, số nhiều như vậy về con và về cháu !”_” Này Visàkhà, những ai có một trăm người thân yêu, những người ấy trăm sự đau khổ ! Những ai có chín mươi người thân yêu, những người ấy có chín mươi sự đau khổ ! Những ai có tám mươi người thân yêu, những người ấy có tám mươi sự đau khổ ! Những ai có 70... có 60... có 50... có 40... có 30... có 20... có 10... có chín... có tám... có bảy... có sáu... có năm... có bốn... có ba... có hai... có một người thân yêu, những người ấy có một sự đau khổ. Những ai không có người thân yêu, những người ấy không có sự đau khổ. Ta nói rằng chúng là người không có sầu, không có tham đắm, không có ưu não !”

8.” Sầu, tham và đau khổ                                   

Sai biệt có ở đời

Duyên thân ái, chúng có                         

Không thân ái, chúng không.

Do vậy, người an lạc,                 

Người không có sầu muộn

Là những ai, ở đời                                  

Không có người thân ái.

Do vậy ai tha thiết                                   

Được không sầu, không tham.

Chớ làm thân làm ái                               

Với một ai ở đời “.

(IX) (Ud, 92)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràgagaha ( Vương xá), tại Trúc lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. rồi tôn giả Dabha Mallaputta ([107]) đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tôn giả Dabha Mallaputta bạch Thế Tôn :” Nay đã đến thời, con nhập Niết Bàn, bạch Thiện Thệ”._” Này Dabha, ngươi hãy làm những gì ngươi nghĩ là hợp thời !” Rồi tôn giả Dabha Mallaputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, bay lê hư không, ngồi kiết già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết Bàn. Khi tôn giả Dabha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết già giữa hư không, nhập định hỏi giới ; xuất khỏi định và nhập Niết bàn, thân của Ngài được cháy sạch, đốt sạch, không còn có than hay có tro có thể thấy được. Ví như bơ hay dầu được cháy, được đốt, không còn có than hay tro có thể thấy được. Cũng vậy, khi tôn giả Dabha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết bàn, thân của Ngài được cháy sạch, đốt sạch, không còn có than hay có tro có thể thấy được. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này :”

9.” Thân bị hoại, tưởng diệt,                              

Mọi thọ được nguội lạnh ([108])

Các hành được lắng diệu                                    

Thức đạt được mục đích

(X) (Ud, 93)

“ Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tạiJatavana, khu vườn Anàthapindika. Tại đây, Thế Tôn gọi các tỷ kheo :” Này các tỷ kheo.” _ “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Thế Tôn nói như sau :” Này các tỷ kheo, Dabha Mallaputta bay lên hư không, ngồi kiết già giữa hư không, nhập định hỏa giới, xuất khỏi định và nhập Niết bàn... hay có tro có thể thấy được. Ví như bơ hay dầu... hay có tro có thể thấy được... không còn có tro có thể thấy được. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm ứng này:”

10.” Như tia lửa cháy sáng,                                            

Phát từ búa sắt đập.

Dần dần được nguội lạnh,                                              

Sanh thú (gati) không biết được

Cũng vậy là những bậc                                       

Đã chân chánh giải thoát,

Đã vượt qua thác nước                                       

Trói buộc bởi các dục.

Chúng đạt được an lạc                                       

Không có bị giao động.

Chúng không có sanh thú                                               

Để có thể chỉ bày.”

 

MỤC LỤC ([109])

KINH PHẬT TỰ THUYẾT

Lời giới thiệu

Chương một

Phẩm Bồ Đề

I.            Ud 1. Thế Tôn nhập định tác ý lý duyên khởi

II.           Ud 2. Thế Tôn nhập định tác ý lý duyên khởi

III.         Ud2. Thế Tôn nhập định tác ý lý duyên khởi

IV.         Ud 3. Định nghĩa và Pháp tác thành Bà La Môn

V.           Ud 3. Định nghĩa và Pháp tác thành Bà La Môn

VI.         Ud 4.Tôn giả Mahakassapa được Thế Tôn khen là khéo khất thực

VII.        Ud 4. Dạ xoa Ajakalapaka quấy rầy Thế Tôn

VIII.      Ud 5. Thế Tôn tán thán tôn giả Sangamali dứt khoát với vợ xưa

IX.         Ud 6. Thế Tôn chỉ trích hành động của bện tóc lpusi

X.           Ud 6. Thế Tôn thuyết pháp đoạn kiêu mạn cho Bshiya

Chương hai

Phẩm Muccalinda.

I.            Ud 10. Rắn thần Mucalinda hầu hạ Thế Tôn ( che mưa trong 7 ngày)

II.           Ud 10. Thế Tôn khuyên tỷ kheo nên nói năng im lặng như Chánh pháp.

III.         Ud 11. Thế Tôn khuyên không nên đoạn mạng sống kẻ khác

IV.         Ud 13. Ngoại đạo không nhận được cúng dường liền nhiếc mắng các tỷ kheo

V.           Ud 13. Cư sĩ Lcchanangala yết kiến Thế Tôn.

VI.         Ud 14. Nghe lời vợ, thanh niên Bà la môn bị não hại.

VII.        Ud 14. Con chết, cư sĩ kêu cứu Thế Tôn. Ngài dạy nguyên nhân do Ái mà ra.

VIII.      Ud 15. Nhớ tưởng đến Thế Tôn, con gái Vua sanh hoàng tử

IX.         Ud 18. Sứ giã sanh khổ não.

X.           Ud 18. An lạc nhờ giải thoát khỏi mọi uy quyền

Chương Ba

Phẩm NANDA

I.            Ud 21. Kham nhẫn về Thân nhưng đạt an lạc lâu dài

II.           Ud 21. Nhờ viếng cảnh Chư thiên và Địa ngục, Nanda rời bỏ ái dục.

III.         Ud 21. Chúng tỷ kheo gồm 500 vị ồn ào, Thế Tôn đuổi. Tinh tấn chứng Ba minh Thế Tôn khen và thuyết pháp.

IV.         Ud 27. Thế Tôn tán thán tôn giả Sariputta.

V.           Ud 27. Thế Tôn tán thán tôn giả Maha Moggaltana.

VI.         Ud 28. Tôn giả Pilindavaccha gọi chúng tỷ kheo với danh từ không khả ái Thế Tôn quán biết tiền kiếp và giải tỏa cho tôn giả.

VII.        Ud 29. Chư thiên Sakkha cúng dường tôn giả Mahakassapa Tôn giả khuyên không nên như vậy.

VIII.      Ud 30. Thế Tôn quở trách tỷ kheo tạp thoại hý luận.

Ngài khuyên nói năng và im lặng như Chánh pháp

IX.         Ud 31. Thế Tôn quở trách tỷ kheo tạp thoại hý luận.

Ngài khuyên nói năng và im lặng như Chánh pháp

X.           Ud 32. Thế Tôn thấy chúng sanh bị dục tham sân si thiêu đốt, ngài chỉ đoạn trừ.

Chương bốn

Phẩm Meghiya

I.            Ud 34. Không nghe lời khuyên của Thế Tôn, tôn giả Meghiya vào rừng xoài 1 mình bị dục tầm sân tầm và hại tầm chi phối.

II.           Ud 37. Tỷ kheo sống không chế ngự với giới bổn Patimokkha bị Ma vương chi phối.

III.         Ud 38. Thế tôn nhận lời cúng dường của 1 người chăn bò.

IV.         Ud 39. Dạ xoa đánh trên đầu tôn giả Sàriputta bị đọa địa ngục

V.           Ud 41. Thế Tôn bị đệ tử quấy rầy, ngài vào rừng được voi chúa đến hầu.

VI.         Ud 42. Thế Tôn tán thán tôn giả Pindolabharadvaja.

VII.        Ud 43. Thế Tôn tán thán tôn giả Sàriputta.

VIII.      Ud 43. Ngoại đạo giết người đổ lỗi cho chúng tỷ kheo.

Đức Phật khuyên nên gắng kham nhẫn. Gian kế sẽ bị bại lộ.

IX.         Ud 45. Tôn giả Upasena Vangantaputta xưng tán Thế Tôn.

X.           Ud 46. Thế Tôn tán thán tôn giả Sàriputta.

Chương Năm

Phẩm Trưởng lão Sona

I.            Ud 47. Thế Tôn khuyên vua Pasenadi và hoàng hậu Mallika, ai yêu tự ngã mình thì đừng nên hại tự ngã kẻ khác.

II.           Ud 47. Tôn giả Ananda tán thán mẹ Thế Tôn sanh lên Đâu suất thiên Thế Tôn khuyên nên tu Phạm hạnh.

III.         Ud 48. Người bị hủi tên Suppabuddha nghe Thế Tôn thuyết pháp chứng tự. Lúc chết chứng quả Dự lưu sanh cõi trời 33.

IV.         Ud 51. Thế Tôn giáo dục cho Thiếu nhi về hành động sát sanh của chúng.

V.           Ud 51. Chúng không thanh tịnh nên Thế Tôn không thuyết giới Patimoka hội chúng. Thuyết mới thuyết giới cho chúng tỷ kheo.

VI.         Ud 57. Tuy mới được 1 tuổi hạ nhưng nhờ tinh tấn tu tập, Thế Tôn tán thán và chỉ định đọc giới cho chúng Tăng.

VII.        Ud 60. Thế Tôn tán thán tôn giả Kankharevata.

VIII.      Ud 60. Devadatta phá hòa hợp chúng Tăng.

IX.         Ud 61. Các Thanh niên Bà la môn dùng lời nhiếc mắng Thế Tôn.

X.           Ud 61. Thế Tôn tán thán tôn giả Culapanthaka.

Chương Sáu

Phẩm Sanh ra đã mù.

I.            Ud 62. Thế Tôn gợi ý ngày nhập diệt của Ngài, nhưng tôn giả Ànanda không hiểu ý, nên không thỉnh Ngài kéo dài thọ mạng vì bị Ma vương chi phối. Thế Tôn báo tin 3 tháng nữa sẽ nhập Niết Bàn.

II.           Ud 64. Vua Passenadi tán thán ngoại đạo. Vua hỏi Thế Tôn họ đã chứng, quả A la hán chưa. Thế Tôn xác nhận chưa.

III.         Ud 66. Vua Passenadi tán thán ngoại đạo. Vua hỏi Thế Tôn họ đã chứng, quả A la hán chưa. Thế Tôn xác nhận chưa.

IV.         Ud 66. Thế Tôn quán sát các ác bất thiện được diệt trú và các Thiện pháp tăng trưởng chính nơi nội thân mình.

V.           Ud 69. Ngoại đạo bàn luận về Thế giới thường hay vô thường. Thế Tôn nói họ như người sờ voi.

VI. Ud 70. Ngoại đạo bàn về tự ngã thường hay vô thường. Thế Tôn chỉ cho họ con đường đến bờ bên kia.

VII.        Ud 71. Thế Tôn tán thán tôn giả Subhuti trú định không tầm.

VIII.      Ud 71. Hai nhóm thanh niên Bà la môn tranh giành nhau về 1 nữ nhân, họ không biết các dục nhiệt não thiêu đốt.

IX.         Ud 72. Thế Tôn lên sự vô thường của kiếp phù du.

X.           Ud 72. Khi Như Lai xuất hiện, các ngoại đạo lu mờ và không được cúng dường như xưa. Thế Tôn xác nhận như vậy.

Chương bảy

Phẩm nhỏ.

I.            Ud 74. Thế Tôn tán thán tôn giả Sàriputta đã thuyết pháp cho tôn giả Lakunthakabhaddiya thoát khỏi các lậu hoặc.

II.           Ud 74. Tôn giả Sariputta thuyết pháp cho tôn giả Bhaddiya, được Thế Tôn tán thán.

III.         Ud 75. Tôn giả Sàriputta khuyến cáo những ai bị các dục chi phối sẽ bị các quả xấu.

IV.         Ud 75. Thế Tôn khuyến cáo, những ai bị các dục chi phối như cá mắt miệng lưới.

V.           Ud 76. Thế Tôn tán thán tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đã đoạn được sanh tử.

VI.         UD 77. Thế Tôn tán thán tôn giả Annatokondànna.

VII.        Ud 77. Thế Tôn quán sát sự từ bỏ hý luận tưởng của Ngài.

VIII.      Ud 78. Thế Tôn tán thán tôn giả Mahakaccana.

IX.         Ud 78. Giếng nước bị dân làng làm cho uế nhiễm. Thế Tôn đến dùng lại được thanh tịnh.

X.           Ud 79. Thế Tôn trả lời câu hỏi về 500 cung nữ bị thiêu cháy trong cung điện của Vua Udena.

Chương Tám

Phẩm PATALIGAMIYA

I.            Ud 80. Đức Thế Tôn thuyết pháp về nghĩa của KHÔNG

II.           Ud 80. Đức Thế Tôn thuyết pháp về nghĩa của KHÔNG

III.         Ud 80. Đức Thế Tôn thuyết pháp về nghĩa của KHÔNG

IV.         Ud 81. Thế Tôn dùng bữa cơm của thợ rèn Cunda với loại nấm độc Ngài khuyên Ananda đến an ủi Cunda kẻo sợ Cunda buồn phiền.

VI.         Ud 85. Thế Tôn nhận lời cúng dường của nước Magadha

VII.        Ud 90. Không nghe lời của Thế Tôn, tôn giả Nagarama bị bọn cướp đánh giữa đường.

VIII.      Ud 91. Mẹ của Migara tỉnh ngộ nhờ ví dụ của Thế Tôn khi đứa con trai thân yêu bị thần chết mang đi.

IX.         Ud 92. Thế Tôn tán thán tôn giả Pabha Mallaputta nhập Niết Bàn bằng hỏa định lực giữa hư không.

X.           Ud 93. Thế Tôn tán thán tôn giả Dabha Mallaputta nhập định giữa hư không.

 

 

 



[1]  Ban đầu, paccaya chỉ có nghi4a là hetu (nhân)

[2] Huhunka: huhunka: Đi tìm tòi lỗi lầm. Kiêu ngạo.

[3]  Ussada.

[4]. Mahàkassapa đau bệnh, nhờ nghe Thế Tôn thuyết về bảy giác chỉ nên lành bệnh.

[5] Annatam, giải thích là; được biết đến vì đức tánh của mình. Nhưng cũng giải thích là không được người biết đến.

[6] Tập sớ đọc là Pàvà của dân chúng Mallà

[7] Vippakàram : Thay đổi, ghe tởm, thô bạo,  mắng nhiếc.

[8] Xem M.i, 39.

[9] Xem A.S.iv. 72 với đoạn tương tự nói cho Mahunkùyaputta khi đã về già mà muốn xin Thế Tôn một lời dạy tóm tắt.

[10] Sukkà: Đây chỉ cho sao. Xem Netti 150.

[11]  Attan’àvedi: Sayam

[12] M.i, 161. Ud.iii, 8, S, ii, 273. Tập sớ giải thích là sự im lặng của chỉ và quán thiền thứ hai hay thiền thứ tư.

[13]  Sanh y: Đây chỉ cho là 6 thủ uẩn. làm căn bản cho một đời sống khác.

[14] Pariyàyam akàsi. D.i. 179. Làm một sự gì khác với thường lệ.

[15] Vyàvata: Usenka. Bận bịu, chộn rộn,

[16] Sankhàtadhamma: Lão luyện chánh pháp. S.ii, 47. S.iv, 240. Tập sớ giải thích là bậc A la hán.

[17] Uggirivàna: Đưa lên, nói lên, hạ phong.

[18] Vedagu: Theo Tập Sớ, là người đã chứng được sự hiểu biết về con đường hay đã cảm thọ được Niết bàn.

[19] Sakin ana: Với sự vật gì, cho tham, sân, si.

[20] Agha: Đau khổ, sầu muộn

[21] Tập sớ: Parijinnà, trái với nguyên bản parijunnà.

[22] Một thành phố của dân Koliya.

[23] Paramàm sàdlu: Lành thay

[24] Pàtibloga: Bảo đảm, Xem Itiv.i

[25] Sampavàresi: Khiến cho chúng phải từ chối.

[26]  Paravasam.

[27] Sadharane.

[28].Kam atthavasam sampassamàna: Do thấy mục dích, ý nghĩa gì

[29]  Paradavutta: Chữ này khó hiểu, khó tìm xuất xứ. Xem M.i. 450. Tập sớ giải thích là: “Sống với y do người khác cung cấp. Có thể giải thích là sống nhanh nhẹn, lanh lợi, sẵn sàng tu tập

[30]  Itibhavàbhava: Hữu và phi hữu. Chữ Bhava và abhava có nhiều nghĩa: hữu và phi hữu, thành công và thất bại, Tăng trưởng và tổn giảm. thường còn và đoạn diệt, công đức và phi công đức, thiện thiện thư và ác thú v.v...

[31] Janam Lapetave.

[32] Maddite.

[33]. Tập sớ đọc là Kattabbam, không phải Vattabbam.

[34] Ba minh: Tập sớ giải thích là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tân minh. Có chỗ giải thích là sự hiểu biết về vô thường, khổ, vô ngã. Có chỗ giải thích là sự hiểu biết về các đời trước, tư tưởng các loài thú và các bất tịnh.

 

[35] Tập sớ giải thích là định do tăng thịnh thiền thứ tư. Có chỗ giải thích là vô sắc giới thiền.

[36]. Nandimukhiyà rattiyà: Bóng tối đang tan biến dần được rạng đông chói sáng.

[37]. Nguyên bản sai, không phải Vasaram. Tập sớ và Dh A: Tasaram

[38]. Abbokinnanì: Avomissàni, Anantarikàni (Tập sớ)

[39] Kareai: Tập sớ Varana-rukkha

[40] Muddà: An hiệu. có chỗ giải thích là dấu hiệu ra bằng tay giữa người mua và bán châu báu, che dưới một cái khăn, để người xung quanh không biết giá cả.

[41] Ganana: Tập sớ Acchiddaka0ganana-sikpam: ?

[42] Lokàyvata: Tự nhiên học, phỏng đaón các hiện tượng thiên nhiên

[43] Khatta-vijjà: Nguyên bản Pàli là Khetta.

[44]. Có chỗ giải thiách, nếu chúng nói với phi hữu, có sự xuất ly khỏi hữu, Ta nói rằng những người ấy không giải thoát khỏi hữu.

[45] Nguyên bản có thêm chữ na unadhi. Nhưng tập Netti lại bỏ chữ Na.

[46]  Kalyàna - Mittalà thường được gọi là toàn diện Phạm hạnh

[47]  Xem A. iii, 117.

[48] Anuggate: Anuppana (Tập sớ)

[49] Một loại quỉ thường ở trên đồi núi (sớ)

[50]. Một loại quỉ thưởng ở trên núi (sớ)

[51] Hatthi- malabhshi, không phải hatthikalàrehi như nguyên bản có nghĩa là ngà voi hay voi ngà.

[52] ) Theo tập Netti, đọc là tam sabbam jàtikusalo.

[53] ) Okàram : làmaka-sabhàvam, hạ liệt.

[54] ) Tập sớ Nekkhamme.

[55] ) Samukkhamasika : Tập sớ gahita-sayambhà-nànena sàmam ditthà.

[56] )  Dhammacakkham : gotàpatti - maggo. (Tập sớ).

[57] ) Apasabyam karitvà : Tập sớ : Attano apasabya pakkha datvà ( tay trái ).

[58] ) Upeccàpi palàyatan : Nhảy vọt và chạy. S.i, 209. Pamuty atthi uppaccàpi palàyato.

[59] ) Patidhàtu : Mong rằng sự việc này khởi lên cho người.

[60] ) Sarena : Chỉ cho chương IV, của Suttanipàta (kinh Tập), bắt đầu từ kinh Kàma (dục) gồm có 209 bài kệ.

[61] ) Câu này được tìm thấy A.ii, 96. S.i, 240, ii, 280. A.ii, 50.

[62] ) Saddàyamàna-rùpà :La lớn tiếng; nhưng Tập sớ giải thích là chọc tức nhạo báng.

[63] ) Pamuttha.

[64] ) Pubbàpanyam visesam : Cái gì đi trước và đến sau theo Tập sớ, đây chỉ cho rồi đến quán.

[65] ) Tulam atulam : Cân lượng, không cân lượng. Theo tập sớ chỉ cho Sắc và Danh. Có thể chỉ cho sanh tử và Niết Bàn. Tulam có thể chỉ cho sankhàra-dhàtu. Và Atulam chỉ cho Nibbàna-dhàtu (theo tập Nettipakàrana).

[66] ) Tulam atulam : Cân lượng, không cân lượng. Theo tập sớ chỉ cho Sắc và Danh. Có thể chỉ cho sanh tử và Niết Bàn. Tulam có thể chỉ cho sankhàra-dhàtu. Và Atulam chỉ cho Nibbàna-dhàtu (theo tập Nettipakàrana).

[67] ) Kavacam : Áo giáp.

[68] ) Xem S. I. 77 với bài kệ sai khác.

[69] ) Khàri-vividha (vivadha : Mội loại đo lường, cái giạ khoảng 36 lít, với các đòn gánh để gánh. Tập sớ giải thích là Vindha : Nàna-ppakàra: vidha.

[70] ) Putta-sambadha-sayanam : giường bị vợ và con nằm chật hẹp.

[71] ) Ittaram. Tập sớ : Katipaya-divasena.

[72] ) Nguyên bản là corà. Tập sớ giải thích là : ăn đồ ăn quốc độ. không xứng đáng ocarakà giải thích là trinh thám. Vua nói :” Nếu Ta không săn sóc chúng như vậy, chúng sẽ không báo cáo hết cho vua biết.

[73] ) Nguyên bản Otinnam, cần phải đọc là Ocinnam (oacarti).

[74] ) Xem Thag, kệ 138. S, iii, 55.

[75] ) Adhicca-samuppanna : Về nhân sanh hay tự nhiên sanh. Xem D.i, 4; D.iii, 138.

[76] ) Ogadha quá khứ phân từ. Ogàdha : (danh từ ). 4 nước lụt của dục (kàma), nước lụt của luân chuyển sanh tử. Ogàdha là Thánh đạo hay Niết Bàn.

[77] ) Patigacca, nguyên bản. Có chỗ chép là Patikacca.

[78] ) Byàramdhakatà (hay kathà ?) Tập sớ Bàraramdha-kathà.

[79] ) Subhùti : Tu Bồ Đề. Ngài được xem như vị sống viễn ly đệ nhất.

[80] ) Đoạn này khó hiểu và nguyên bản lại khác với tập Netti trang 173 rõ ràng hơn. Dưới đây là những sai khác giữa nguyên bản với tập Netti, nguyên bản để trước :

Àturass ànusikkino : Àturass aunsikkato. yeva sikkhàsàrà silabbatam jìvitam : ye xa sikkhàsàrà sìlam, Yeva evamvàdino : Yecaevam vàdino evamditthino. Katasiyo citthì vaddbenti : Katasiyo ditthim vaddhenti. Ete te ubho ante : Eta ubho. ye ca kho te ubho aute. tena ca amanuimsu : Te ne ca amannimsu.

[81] ) Tập sớ giải thích như sau : hai cựa đoan là khổ hạnh, và dục lạc. Cả hai đều sai lạc yan ca pattam nghĩa là trạng thái đau của những người tự làm khổ mình. Còn yan ca patabbam là quả tương lai của người đâm say dục lạc. Các mộ phần chỉ cho ái và vô minh, hai cái này khiến tà kiến tăng trường.

[82] ) Vattam tesam n’atthi pannàpanàya. Xem S, iii, 59 ; iv, 391, còn nguyên bản là vaddham.

 

[83] ) Adhipàtakà. Tấp sớ gọi chúng là patangà hay salabhà, có thể loại kiến cánh, con dế v.v...

[84] ) Nivitthà : Nivittham nàmarùpam.

[85] ) Takhikà na sujhamti (biện luận).

[86] ) Jàtu.

[87] ) Vacchs.

[88] ) khìrapako.

[89] ) Nelaggo.

[90] ) Anigha.

[91] ) Papahca, sân, si, kiến, ái, mạn. Tập sớ giải thích : Sannànisànà hi papanca-sankhà. Tướng của trở ngại tùy thuộc tư tưởng.

[92] ) Thiti.

[93] ) Các trở ngại là ái, kiến, mạn, và giữa các ngại này, sankhàrà các hành là hữu vi. Thiti : Anusaya (tùy miên). Sandàn: trói buộc Paligha : ảo tưởng.

[94] ) Visattika.

[95] ) Fissandanto : Trước nước sâu phải dùng dây. Nay nước tràn miệng giếng, con quạ có thể uống được (Tập sớ).

[96] ) Bhabha rùpa : Hetu sampanno.

[97] ) Kincanam : Tập Netti giải thích là Tham, sân, si (Ràga, dosa, noha).

[98] ) Tập sớ chép là Anatam : Không có thiên về, hướng về, nghĩa là vô biên.

[99] ) Nissita ; nissaya ; Tanhà- ditthi (Netti).

[100] ) Rati : Có chỗ chép Nati. Xem S.ii 67.

[101] ) Rhys David nghi rằng đoạn tiện đoán này có thể thêm vào sau để thích hợp với sự việc đã xẩy ra, khi Patna ( Pàtaligàma) đã trở thành một nước lớn trong đời vua Asoka ( A Dục). Nếu đúng vậy, thì đoạn này có thể được thêm trong kỳ kiết tập thứ ba.

[102] ) Nguyên bản và vin. Là Àsum. D Assu.

[103] ) Dakkhinam àdise : Tập sớ Pattin dadeyya : Cho công đức.

[104] ) Annava.

[105] ) Pallala.

[106] ) Ninnaga : Udakam (nước).

[107] ) Dabha : Xem Vin, iii, 76-80. Thag 5. Ngài có khả năng dùng hỏa giới để đốt cháy sáng ngón tay dùng như bó đuốc ban đêm. Đức Phật cũng có thần thông này (Vin, I, 25) và tỷ kheo ni Uppalavannà Thig 224-6. Ở S. v. 270, thủy giới có thể dùng để tạo sự di động do Ngài Mục Kiền Liên.

[108] ) Nguyên bản : Vedanà pi’tidahamsu : Sìti_ bhavinsu ( Tập sớ)

[109] ) Phần tóm tắt này do Tỷ khoe Thích Trung Hậu thực hiện