Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Đức

...Tổ Long Quang nhận thấy đức hạnh của Hòa thượng sau này có thể “phò trì Phật pháp, tiếp dẫn hậu lai”, nên đã tiếp nhận và hết lòng dạy dỗ Hòa thượng. Hòa thượng cũng đáp lại công ơn giáo dưỡng của Tổ bằng cách quyết chí tu học, dũng mãnh phát nguỵên nhập thất 5 năm liên tục để hành trì Kinh Pháp Hoa.

...Với đạo phong đạo hạnh của một bậc chân tu tỏa rộng đến độ cảm hóa các Tăng Ni Phật tử xa gần, nên mặc dù Hòa thượng trở về dừng chân hành đạo ở Tổ đình Huê Nghiêm sau hơn 20 năm đi tiếp độ khắp nơi, hàng Phật tử vẫn thiết tha hiến cúng cho Hòa thượng ngôi Chùa Bửu Lộc và Chùa Phước Hưng ở Long Thành.

...Bước chân vào cuộc hành trình hoằng dương Phật pháp từ năm 24 tuổi cho đến cuối cuộc đời, nơi Hòa thượng luôn tỏa sáng hình ảnh một vị chân tu giải thoát đầy đủ phẩm hạnh cao quý, là tấm gương sáng cho hàng Tăng Ni soi chung và cũng là bậc mô phạm cho hàng Phật tử kính ngưỡng noi theo tu học.

...Một điểm nổi bật khác trong nếp sống tu hành của Hòa thượng thể hiện tinh thần tinh tấn tu bồi đức hạnh và hướng niềm tin mãnh liệt về đức Phật không biết mệt mỏi đến độ dù cao tuổi sức yếu, mỗi ngày hòa thượng vẫn chuyên trì kinh Pháp Hoa và lạy Sám Ngũ Hối.


Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Đức (1909 - 1999)

Thích Trí Quảng

Thành viên hội đồng Chứng minh GHPG Việt Nam, Chứng minh BĐDPG quận Thủ Đức, Viện chủ Tổ đình Huê Nghiêm, Thủ Đức.

Hòa thượng thượng Trí hạ Đức, húy Hồng Phước, thế danh Nguyễn Văn Hai, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40.

Ngài sinh năm 1909, tại làng Linh Trung, Thủ Đức. Ngài là con thứ ba trong một gia đình năm anh chị em. Xuất thân trong một gia đình thấm nhuần giáo lý Phật Đà, lại có nhân duyên căn lành đối với Phật pháp đã gieo trồng từ nhiều đời, nên Ngài sớm xuất gia thế độ từ năm 11 tuổi (1921) với Tổ thượng Như hạ Bằng, trụ trì Chùa Huê Nghiêm và Chùa Sắc tứ Từ Ân, Chợ Lớn. Năm 18 tuổi (1928), Hòa thượng thọ giới Sa Di tại Chùa Giác Hoàng, Bà Điểm và được Tổ cho phép cầu pháp với Tổ thượng Đạt hạ Thanh ở Chùa Long Quang, Bà Điểm.

Tổ Long Quang nhận thấy đức hạnh của Hòa thượng sau này có thể “phò trì Phật pháp, tiếp dẫn hậu lai”, nên đã tiếp nhận và hết lòng dạy dỗ Hòa thượng. Hòa thượng cũng đáp lại công ơn giáo dưỡng của Tổ bằng cách quyết chí tu học, dũng mãnh phát nguyện nhập thất 5 năm liên tục để hành trì Kinh Pháp Hoa.

Đến năm 23 tuổi, Ngài được Tổ cho vào đại giới đàn Chùa Bảo An ở Bến Gỗ, Biên Hòa, thọ giới Cụ túc. Sau khi thọ giới Cụ túc, trên bước đường tìm cầu tham học các bậc cao Tăng thạc đức. Hòa thượng lại có phước duyên được Tổ Thiên Thai, Bà Rịa truyền cho pháp lạy Ngũ Hối và trì chú Chuẩn Đề.

Đầu mùa Xuân 1935, lúc đó Hòa thượng vừa 24 tuổi đời, Ngài được thỉnh về trụ trì Chùa Từ Ân, xã Phước Long, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Nơi đây Ngài được dân chúng địa phương quý mến, khâm phục, quy ngưỡng tài chẩn mạch, hốt thuốc, chữa trị lành bệnh cho nhiều người trong suốt 10 năm.

Năm 1945, cuộc Cách mạng tháng tám bùng nổ, thể hiện truyền thống yêu nước bất khuất của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng tham gia phong trào cứu quốc chống thực dân Pháp với chức vụ Chủ tịch Phật giáo Cứu quốc huyện Long Thành. Bấy giờ Hòa thượng trụ trì Chùa Bửu Thiền ở núi Thị Vãi, nơi đây cũng là cở sở hoạt động tiếp tế nuôi dưỡng các anh em cách mạng.

Đến năm 1953, nhận lời cần cầu của các vị đạo tâm, Hòa thượng trụ trì Chùa Long Nhiễu, Thủ Đức. Sau 5 năm giáo hóa ở trụ xứ Long Nhiễu, trước sự thiết tha cầu khẩn của Phật tử, Ban hộ trì Tam Bảo tổ đình Huê Nghiêm Hòa thượng lại trở về ngôi Tổ đình Huê Nghiêm, nơi ghi dấu bước chân đầu tiên xuất gia cầu đạo của Ngài.

Năm 1975, tiếp nối công lao của Thầy Tổ, Ngài đã trùng tu toàn bộ Tổ đình Huê Nghiêm thành một ngôi Chùa đại già lam khang trang, thanh tịnh, khả dĩ tiêu biểu cho Tổ đình đã có quá trình lịch sử lâu dài trên 2 thế kỷ và cũng là nơi xuất thân của các vị Tổ từng làm rạng danh Phật giáo như Tổ Huệ Lưu.

Với đạo phong đạo hạnh của một bậc chân tu tỏa rộng đến độ cảm hóa các Tăng Ni Phật tử xa gần, nên mặc dù Hòa thượng trở về dừng chân hành đạo ở Tổ đình Huê Nghiêm sau hơn 20 năm đi tiếp độ khắp nơi, hàng Phật tử vẫn thiết tha hiến cúng cho Hòa thượng ngôi Chùa Bửu Lộc và Chùa Phước Hưng ở Long Thành.

Năm 1972, Hòa thượng lại cho xây ngôi nhà hai tầng khang trang bên cạnh Chùa để làm trường Sơ Trung đẳng Phật học mang tên Phật học Viện Huệ Lưu. Trong suốt 3 năm 1970 – 1971 - 1972, Hòa thượng được chư tôn giáo phẩm cung thỉnh vào hàng Chứng minh Đạo sư và đương vi Hòa thượng truyền giới tại nhiều giới đàn.

Sau 30/04/1975, Hòa thượng làm cố vấn Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước, huyện Thủ Đức. Đến giai đoạn chuyển sang hình thành BĐDPG huyện Thủ Đức, Ngài vẫn đóng vai trò cố vấn trong hàng Chứng minh cho Ban Đại diện.

Đến tháng 10/1987, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ II, Hòa thượng được suy tôn là thành viên HĐCM.

Mùa Phật Đản PL. 2532 (1988) Hòa thượng được cung thỉnh làm Tôn chứng trong Hội đồng Thập sư ở đại giới đàn của THPG TP. Hồ Chí Minh tổ chức.

Bước chân vào cuộc hành trình hoằng dương Phật pháp từ năm 24 tuổi cho đến cuối cuộc đời, nơi Hòa thượng luôn tỏa sáng hình ảnh một vị chân tu giải thoát đầy đủ phẩm hạnh cao quý, là tấm gương sáng cho hàng Tăng Ni soi chung và cũng là bậc mô phạm cho hàng Phật tử kính ngưỡng noi theo tu học.

Với đức tính hiền hòa, giản dị khiêm cung luôn luôn thể hiện trên gương mặt cởi mở, vui tươi đã sưởi ấm tâm hồn những người được phước duyên tiếp cận với Ngài. Trang nghiêm thân tâm bằng lòng từ bao dung, hòa ái, hoan hỷ, nên ít ai thấy được trên gương mặt Hòa thượng lộ vẻ bất bình và cũng ít ai nghe được lời bực dọc của Hòa thượng.

Nương vào sự un đúc dạy dỗ và đức hạnh của Hòa thượng, các đệ tử tiếp nối sự nghiệp cao quý của Ngài gồm những vị hữu dụng cho GH hiện tại, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Quảng là Trưởng Ban Hoằng Pháp TƯGHPG Việt Nam, kiêm quyền Trưởng Ban Trị sự THPG TP. Hồ Chí Minh.

Một điểm nổi bật khác trong nếp sống tu hành của Hòa thượng thể hiện tinh thần tinh tấn tu bồi đức hạnh và hướng niềm tin mãnh liệt về đức Phật không biết mệt mỏi đến độ dù cao tuổi sức yếu, mỗi ngày hòa thượng vẫn chuyên trì kinh Pháp Hoa và lạy Sám Ngũ Hối.

Cơ duyên hành đạo ở Ta bà đã viên mãn, Hòa thượng thu thần nhập diệt, trụ thế 91 năm, 69 hạ lạp, lúc 18 giờ 15 phút, ngày 08/03/1999, ngày 21/01 Kỷ Mão.