Những nguyên nhân khiến Phật pháp suy yếu và hưng thịnh (phần 2)

image

3. Những nhân tố khiến Phật pháp hưng thịnh

Phật, Pháp và Tăng là “3 ngôi báu”. Phật là vị sáng lập Phật giáo, tìm ra con đường giác ngộ và giải thoát, đã nhập Niết bàn cách đây khoảng 2500 năm; Pháp là nội dung là nội dung Thế Tôn giác ngộ dưới cội cây Bồ đề, được Ngài thuyết giảng trong thời gian còn tại thế, được ghi chép thành Tam tạng, có ý nghĩa thâm sâu khó hiểu; Tăng là đoàn thể xuất gia, thực hiện lý tưởng giác ngộ giải thoát.

Ngoài mục đích thực hiện lý tưởng giác ngộ giải thoát, Tăng còn có bổn phận hoằng dương Phật pháp, đem giáo lý giác ngộ đến thế gian. Do vậy, vai trò của Tăng già rất quan trọng trong việc duy trì và phát triển Phật giáo. Nói cách khác, Tăng già giữ vai trò quyết định sự thịnh suy của Phật pháp.

“Tăng già” là từ được người Hoa dịch âm từ tiếng P?li: saºgha, hay Sanskrit: saµgha có nghĩa là tăng đoàn, giáo đoàn, hội chúng, là một tập thể gồm nhiều người. Theo luật qui định, khi gọi là Saµgha phải có tối thiểu từ bốn người trở lên. Nếu chỉ có một hoặc hai người không được gọi là Tăng già, không được đại diện cho Tăng già hoặc quyết định bất cứ việc gì thuộc về Tăng. Nói tóm lại, vấn đề thuộc Tăng già, phải do toàn thể thành viên của Tăng già quyết định, không thể do một hoặc vài người quyết định, dù ở địa vị nào, chức vụ gì ở xã hội hay trong Phật giáo. Tất cả các thành viên của Tăng già đều bình đẳng, có tư cách và quyền hạn ngang nhau. Bất cứ là ai, thuộc giai cấp nào, khi đã xuất gia thọ cụ túc giới đều bình đẳng, không phải người nhiều tuổi hạ có quyền hơn người ít tuổi hạ, cũng không phải người da trắng có quyền hơn người da đen, do vậy không ai có quyền lãnh đạo ai, hay phải lệ thuộc vào ai. Có thể nói, đây là tinh thần bình đẳng dân chủ trong đạo Phật, đã được đức Phật thực hiện và đề cao.

Ở đây, chúng ta cũng cần chú ý, tinh thần bình đẳng dân chủ trong đạo Phật được xây dựng từ sự hiểu biết (trí tuệ) - là người biết bổn phận trách nhiệm chứ không phải là người thiếu trách nhiệm. Do vậy, tinh thần dân chủ không đồng nghĩa là sự tùy tiện, tự do vô tổ chức, mà Tăng già phải sống theo tinh thần của “Pháp”, là lối sống hướng đến giác ngộ và giải thoát. Như vậy, Pháp trở thành nơi nương tựa, là vị thầy cho Tăng già. Thật ra giữa Pháp và Tăng, Pháp vẫn là nơi nương tựa an ổn chắc chắn nhất cho Tăng, vì vị Tăng nào cũng phải y vào Pháp mà giảng dạy, không thể tự sáng lập pháp khác. Hơn nữa, Tăng vốn là con người, bản chất con người là tham sân và si, nếu vị Tăng ấy chưa đoạn trừ tham sân si, lại lấy những quan điểm được xây dựng từ tham sân si dạy người khác, thì quan điểm, lời dạy đó thật nguy hiểm cho người nghe. Do vậy, đạo Phật không chấp nhận việc dựa vào quan điểm của cá nhân hay của riêng một nhóm người nào đó để lãnh đạo Tăng già và bất Tăng già phải chấp nhận và làm theo quan điểm đó. Đây chính là tinh thần “Y pháp bất y nhân” đã được Tôn giả A Nan xác định trong “Kinh Trung A hàm”, “Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên”.

Trong kinh này ghi lại cuộc đối thoại giữa đại thần Vũ Xá và tôn giả A Nan về quan điểm này như sau:

- Đại thần Vũ Xá hỏi: Trước khi Thế Tôn nhập diệt, Ngài có chỉ định vị Tỷ kheo nào sẽ là nơi nương tựa cho chúng tăng không?

- Tôn giả A Nan trả lời: Không có.

- Đại thần Vũ Xá lại hỏi: Sau khi Thế Tôn nhập diệt chúng tăng có hợp lại, chỉ định hay cung thỉnh vị nào làm nơi nương tựa cho chúng tăng không?

- Tôn giả A Nan trả lời: Cũng không có.

- Đại thần Vũ Xá liền đặt nghi vấn: Nếu vậy, phải chăng chúng tăng không có nơi nương tựa?

- A Nan trả lời: Dẫu rằng, Như Lai trước khi nhập diệt không chỉ định ai lãnh đạo làm nơi nương tựa cho Tăng già, chúng tăng cũng không mời ai làm nơi nương tựa cho chúng tăng, tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa chúng tăng không nơi nương tựa, chỗ nương tựa của chúng tăng chính là “Pháp”, không phải là người nào.[1]

Qua nội dung và ý nghĩa của lời đối thoại này, có thể nói quan điểm này hoàn toàn trái ngược với thuyết cho rằng, Phật truyền cho Ca Diếp, Ca Diếp truyền cho A Nan... được ghi chép trong “Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện” (付法藏因緣傳)[2] mà chúng ta đã nghe. (Tuy nhiên, thực tế như thế nào vẫn còn nhiều vấn đề chúng ta sẽ nghiên cứu và bàn luận vào dịp khác trong một chuyên đề riêng.) Đây là quan điểm “Y pháp bất y nhân” của A Nan được ghi lại trong bản kinh vừa đề cập. Xét về nguồn gốc, đây cũng không phải là ý kiến riêng của A Nan mà chính là quan điểm của đức Phật, A Nan chỉ là người lặp lại. Đức Phật cũng từng nói: “Này Ananda, Như Lai không có nghĩ rằng: Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ kheo”[3]. Như Lai là người giác ngộ chân lý, là vị sáng lập Phật giáo, chúng tăng là đệ tử theo Ngài tu học, nhưng tại sao Ngài phủ nhận vai trò lãnh đạo cầm đầu Tăng già? Theo cách lý giải của tôi về vấn đề này, pháp mà Ngài giác ngộ là chân lý của thế gian, không phải là pháp do Ngài sáng tạo, nếu pháp không phải do Ngài sáng tạo thì Ngài không có quyền đem pháp ấy cho người này hay người kia, hơn nữa, mỗi người là chủ nhân của chính mình, tự mình quyết định tất cả, thế thì Ngài làm chủ được ai, do vậy Ngài chỉ là vị Đạo Sư, có trách nhiệm chỉ cho mọi người thấy và biết chân lý, còn chấp nhận hay không là quyền của mọi người. Có lẽ vì vậy mà Ngài phủ nhận vai trò lãnh đạo hay cầm đầu chúng tăng. Bản thân Ngài đã phủ nhận vai trò lãnh đạo thì lẽ nào Ngài lại giao quyền lãnh đạo cho Ca Diếp?. Chính vì không chấp nhận bất cứ ai lãnh đạo Tăng già và sợ tăng già dễ tin lạc vào quan điểm cá nhân tà pháp nên Ngài đã nhiều lần nhắc nhở Tỳ kheo:

Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì (ai) khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa...”[4]

Ý nghĩa hai đoạn kinh vừa dẫn đã chứng minh cụ thể quan điểm “y pháp bất y nhân” mà Ngài A Nan trả lời cho đại thần Vũ Xá chính là quan điểm của đức Phật, không phải ý kiến riêng của A Nan.

Quan điểm “Y pháp bất y nhân” không những nói lên quan điểm tôn trọng “Pháp” và “Luật” trong đạo Phật, còn biểu thị thái độ không quá đề cao vai trò cá nhân trong tổ chức, vì nó dễ phát sinh tiêu cực và lạc hướng. Hơn nữa, nếu đứng từ góc độ xã hội nhìn về quan điểm “Y pháp bất y nhân” này, có thể nói nó là quan điểm tiến bộ, không chấp nhận thể chế “quân chủ chuyên chế” của vua chúa ngày xưa, xem ý kiến của vua là trên hết, hành xử theo ý kiến của nhà vua. Ngược lại, quan điểm này đề cao một nhà nước hoặc tổ chức điều hành theo “Hiến pháp” và “Pháp luật”. Nghĩa là “Hiến pháp” và “Pháp luật” là trên hết, bất cứ người làm lãnh đạo nào cũng phải căn cứ vào Hiến pháp và  Pháp luật để điều hành quốc gia hay tổ chức, ai làm sai Hiến pháp và Pháp luật thì sẽ bị xử trị theo luật pháp đã qui định, không tương nhượng thiên vị bất cứ ai, dù đó là quan hay dân.

Cũng vậy, trong Phật pháp đề cao tinh thần “Y pháp bất y nhân”. Sau khi Như Lai nhập diệt chúng tăng phải y theo “Pháp” và “Luật” để tu tập, nhằm mục đích tránh trường hợp người có tà tâm, lợi dụng lợi chức vụ quyền hạn hướng Phật pháp hướng tăng già đi vào một con đường khác, không những làm cho Phật pháp sớm hoại diệt, chúng tăng và Phật tử rơi vào lao đao, gặp nhiều phiền não. Từ ý nghĩa này gợi ý cho chúng ta nhận thức rõ rằng, nếu chúng ta có nhu cầu thành lập Giáo hội, Tổ chức với danh xưng nào đi nữa thuận lợi cho việc hoàng pháp đều có thể được, điều quan trọng không phải là danh xưng mà là nội dung hoạt động của Giáo hội hay Tổ chức đó có phù hợp với “Pháp” và “Luật” của Phật đã từng dạy không. Theo tôi đây là vấn đề mà người xuất gia lẫn Phật tử cần quan tâm.

Pháp (dhamma) là Phật pháp, tất cả những lời Phật dạy, bao gồm kinh luật và luận, giống như kim chỉ nam chỉ mọi người hướng đến giác ngộ và giải thoát; Luật (vinaya) là một trong 3 tạng, là những giới điều, những nguyên tắc sống cho người xuất gia và tại gia, nhằm giúp hành giả dễ dàng hướng đến giác ngộ và giải thoát, gồm “Tứ phần luật”, “Ngũ Phần Luật”, “Thập Tụng Luật”....

Pháp và Luật là những gì người xuất gia cần phải hiểu biết để tu tập, để giáo hóa chúng sanh giống như người thủy thủ đi biển cần phải có la bàn, để biết phương hướng Đông Tây Nam Bắc, từ đó mới xác định được hướng đi của mình. Nếu người xuất gia không biết gì về Pháp và Luật thì cũng giống như người thủy thủ đi biển không có la bàn không phân biệt được phương hướng, thì lấy gì để tu tập, lấy gì để giáo hóa chúng sinh? Điều đó không những nguy hiểm cho bản thân mình, còn mang lại sự nguy hiểm cho người khác. Nếu như người đi biển mà không có la bàn sẽ gặp sự nguy hiểm, thì trong Phật giáo cũng thế, Tăng già giữ nhiệm vụ truyền thừa mạng mạch Phật pháp mà không hiểu biết Phật pháp, sẽ phát sinh các tệ nạn, khiến Phật pháp sớm hủy hoại. Do vậy, muốn ngăn ngừa sự suy tàn của Phật giáo và làm cho Phật pháp hưng thịnh, chúng ta cần phải quan tâm đến mặt giáo dục, và quan trọng là đào tạo tầng lớp Tăng sĩ hiểu Phật pháp. Thực hiện tốt về mặt giáo dục nghĩa là chúng ta đã đào tạo được người có chuyên môn. Những người này sẽ đảm đương gánh vác các Phật sự của Giáo hội. Các Phật sự được quản lý chặt chẽ sẽ tránh những nguyên nhân xấu phát sinh. Khi thành phần Tăng lữ đã được đào tạo nghiêm túc, thấu rõ Phật pháp, có bổn phận và trách nhiệm với Phật pháp, thì hoạt động tăng già cũng đi vào nề nếp, tiếng nói của Tăng đối với xã hội cũng sẽ có giá trị hơn, công việc hoàng dương Phật pháp sẽ tốt hơn, từ đó trình độ hiểu biết về Phật pháp của người Phật tử cũng sẽ cao hơn, thấu rõ hơn. Một xu thế phát triển như thế, tôi tin rằng sẽ được xã hội đồng tình và ủng hộ và chính xã hội sẽ góp phần quyết định Phật giáo phát triển mặt tích cực và loại bỏ mặt tiêu cực, bằng cách ủng hộ duy trì ủng hộ quan điểm hành vi phù hợp chánh pháp, thì nghiễm nhiên mặt tiêu cực trong Phật pháp sẽ tự tiêu diệt. Ví như khi ta để tâm suy tư nhiều về việc thiện, thì những suy nghĩ về bất thiện tự nhiên biến mất (Kinh Song Tầm. Kinh Trung Bộ).

Có thể nói, hình thành một kế hoạch hợp lý cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam đã là việc làm rất khó, nhưng điều khó hơn là thực thi kế hoạch đó, sẽ vướng phải nhiều điều khó khăn. Do vậy ở đây tôi chỉ dựa vào những cơ quan tổ chức mà Phật giáo Việt Nam đang hoạt động, gợi ý một vài ý kiến mang tính cá nhân, để cùng nhau suy nghĩ và tìm giải pháp.

 

3.1                     Phát huy chức năng của Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam

 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong nước đã có: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, cơ sở chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và cơ sở phụ đặt tại Thủ đô Hà Nội. Cả hai viện này đều hợp pháp về mặt pháp lý, được phép hoạt động theo chức năng của viện, được biết phạm vi hoạt động khá rộng bao gồm những ngành có liên quan đến Phật giáo. Từ khi thành lập cho đến nay, viện cũng đã làm theo chức năng của mình, nhưng tính hiệu quả còn khiêm nhượng, vẫn chưa tương xứng với danh xưng. Nếu chúng ta biết khai thác, sắp xếp và tổ chức, tiến hành tập hợp giới tri thức, người chuyên môn trong và ngoài nước, cũng như kết nối với các tổ chức nghiên cứu liên ngành, hợp tác nghiên cứu lãnh vực có liên quan đến Phật giáo Việt Nam nói riêng và quốc tế nói chung, tôi tin rằng sẽ gặt gái một số thành quả không nhỏ, góp phần vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học chung cho dân tộc nói chung và Phật giáo nói riêng. Đồng thời, ngang qua kết quả nghiên cứu đó, nó sẽ là cơ sở khoa học, đáng tin cậy để chúng ta định hướng cho sự phát triển Phật giáo ở tương lai, cũng từ đó chúng ta sẽ biết việc gì cần làm và việc gì không cần làm, việc nào làm trước và việc nào làm sau, kịp thời ngăn chận những yếu tố tiêu cực, kích thích những nhân tố tích cực để Phật giáo phát triển theo một chiều hướng mà chúng ta đã định sẵn. Có như thế, Phật giáo Việt Nam sẽ không bị động trong việc phát triển Phật giáo.

Trước tình hình Phật Giáo Việt Nam hiện nay, theo tôi Viện NCPHVN không chỉ có trách nhiệm nghiên cứu Phật học mà còn phải nghiên cứu đến việc hiện thực hóa giáo lý đó trong đời sống thực tế của người Phật tử. Quan trọng hơn, Viện phải đảm trách công việc nghiên cứu, định hướng cho sự phát triển Phật giáo, đề xuất những kế hoạch cụ thể khả thi, để Giáo Hội xem xét và thực hiện. Ví dụ, trước bối cảnh đất nước và xã hội đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự kiện đó có tác động như thế nào đến Phật giáo Việt Nam? Phật giáo đã chuẩn bị gì cho sự hội nhập này? Hiện nay tại các vùng sâu vùng xa ở Việt Nam,Phật giáo vẫn chưa phát triển, hay nói đúng hơn là chưa có, thế thì Phật giáo có kế hoạch truyền bá ở nơi đó như thế nào? ...

Viện không phải là một cơ quan hành pháp mà là một cơ quan nghiên cứu tập hợp những người chuyên gia tri thức, tiến hành nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến Phật giáo ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Mục đích của việc nghiên cứu không phải chỉ để phô bày những tri thức, mà mục đích nghiên cứu khoa học nhằm gợi ý đề xuất một ý tưởng hoặc phương pháp cao hơn giá trị hơn ngang qua việc phân tích tổng hợp những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ hay những sự kiện đang xảy ra trong hiện tại. Do vậy, chức năng của viện nghiên cứu chỉ đơn thuần làm công việc thuần túy nghiên cứu khoa học, không trực tiếp tham gia các công việc hành chánh của Giáo Hội, không có thẩm quyền quyết định những vấn đề hành chánh của Giáo hội, nhưng Giáo hội cần phải hỗ trợ về mặt cơ sở vật chất, đồng thời xem viện như là một cơ quan cố vấn cho Giáo hội về mặt định hướng phát triển Phật giáo.

Nếu Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam được làm chức năng đó, tôi tin rằng sẽ được nhiều người tri thức trong và ngoài nước ủng hộ, chẳng bao lâu Phật giáo Việt Nam sẽ có những kế hoạch phát triển Phật giáo tốt hơn.

 

3.2                     Duy trì và phát huy các cơ sở giáo dục Phật giáo Việt Nam

 

Có thể nói, yếu tố quyết định cho một quốc gia hay tổ chức phát triển chính là “tri thức, kiến thức”. Tri thức kiến thức là hạt mầm sinh ra những điều tốt đẹp hạnh phúc cho con người. Từ sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, cho đến hạnh phúc gia đình v.v... đều do tri thức giữ phần quyết định quan trọng. Tri thức, kiến thức không phải là thứ bẩm sinh, tự nhiên mà có, cũng không phải do thần linh ban bố, mà nó có được do quá trình học tập rèn luyện. Do vậy, giáo dục trở thành một ngành rất quan trọng trong việc quyết định xã hội phát triển.

Phật giáo vẫn không ngoại lệ, giáo dục huấn luyện không những là  yêu cầu cơ bản trong việc giúp cho chúng sinh thành tựu giác ngộ và giải thoát, còn là phương tiện cơ bản cho việc hoằng dương Phật pháp hay phát triển Phật Giáo. Khi chúng ta gọi hoằng dương Phật pháp, có nghĩa là chúng ta phải biết Phật pháp là gì và thế gian cần gì ở Phật pháp, hai vấn đề này được hiểu rõ, thì công việc hoằng pháp mới có thể thực thi. Tri thức về Phật pháp và xã hội cũng không thể tự nhiên mà có, cũng không phải ở chùa lâu ngày mà có được, mà phải trải qua sự huấn luyện, tức là giáo dục. Vì vậy, Phật giáo cũng lấy việc giáo dục làm đòn bẩy cho việc tu tập và phát triển Phật pháp ở thế gian. Tuy nhiên, hiệu quả của việc tu tập và sự thành công của việc hoằng pháp phần lớn tùy thuộc vào việc giáo dục có đúng hướng hay không.

Phật giáo ở Việt Nam, hầu như mỗi tỉnh thành đều có các trường sơ trung cấp Phật học, và cũng đã có 3 học viện ở miền Nam, Trung và Bắc đào tạo chương trình Đại học, dù chưa có trường Đại học. Dẫu rằng, văn bằng những cơ sở đào tạo này, chỉ có giá trị trong nội bộ Phật giáo, không có giá trị về mặt xã hội, nhưng dù sao đi nữa, những cơ sở giáo dục này, có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo người chuyên môn, và định hướng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam cho hiện tại và ngay cả về tương lai. Nếu Phật giáo Việt Nam có kế hoạch tốt trong việc đào tạo, tôi tin rằng thành quả giáo dục đào tạo tốt đó, sẽ là nhân tố tích cực, là những chứng minh cụ thể nhất để những người phụ trách ngành giáo dục, giới tri thức trong và ngoài nước, cũng như quần chúng Phật tử có niềm tin và ủng hộ, khi đó việc Phật Giáo Việt Nam xây dựng một hay nhiều trường Đại học Phật giáo sẽ thuận lợi hơn.

 

4.     Lời kết

Phật pháp là những gì từ nội tâm của Thế Tôn giác ngộ dưới cội cây Bồ đề. Sau khi giác ngộ, trải qua 45 hay 49 năm Ngài thuyết pháp độ sanh mô tả về chân lý đó. Về sau các đệ tử của Ngài đã kết tập thành 3 tạng kinh điển đều được gọi là pháp, là chân lý của thế gian, là con đường đưa con người đến giác ngộ và giải thoát và những ai thực hành con đường đó cũng sẽ được giác ngộ và giải thoát. Do vậy, giác ngộ giải thoát là mục đích của đạo Phật, cũng là bản chất của Phật pháp. Như vậy, khi chúng ta đề cập đến sự suy tàn hay hưng thịnh của Phật pháp, có nghĩa là đề cập đến tinh thần giác ngộ và giải thoát của đức Phật có được hưng thịnh ở thế gian hay không, chứ không thể dựa vào các hình thức bề ngoài để đánh giá Phật pháp hưng suy.

Sau khi Thế Tôn nhập diệt, người xuất gia ngoài nhiệm vụ tu tập để được giác ngộ và giải thoát, còn có trách nhiệm hoằng dương Phật Pháp, cho nên Tăng được xếp vào một trong 3 ngôi báu. Nếu Tăng già có nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp thì sự suy tàn hay hưng thịnh của Phật pháp đều do Tăng già. Như vậy, sau khi Thế Tôn nhập diệt, vai trò và vị trí của Tăng già rất quan trọng đối với sự hưng suy của Phật pháp.

Trong “Kinh Tạp A hàm” đức Phật nói, đất nước gió lửa có thể hủy hoại mọi vật, nhưng chúng không thể hủy hoại giáo pháp của Như Lai; cũng vậy tà ma ngoại đạo có thể có ác tâm phá hoại Phật pháp, nhưng nếu đoàn thể Tăng già hòa hợp thanh tịnh và sáng suốt, thì không có ma quỉ nào có thể hủy hoại Phật pháp. Nhưng có một hạng người có thể làm hủy hoại giáo pháp Như Lai, đó là đệ tử của Ngài, những người này nhân danh đệ tử của Thế Tôn, không hiểu và tu tập theo pháp của Ngài, cố ý hay vô tình tạo ra “pháp tương tợ”, na ná giông giống Pháp của Như Lai, khiến mọi người tin và hành theo pháp của vị ấy. Khi pháp tương tợ xuất hiện thì chánh pháp biến mất. Đây chính là nguyên nhân khiến Phật pháp hoại diệt.

Nếu như cái nhân khiến cho Phật pháp bị suy tàn là do Tăng già thiếu hiểu biết về giáo pháp của Như Lai, thì muốn Phật pháp hưng thịnh phải đoạn trừ cái nhân đó, bằng cách giáo dục Tăng già hiểu rõ chánh pháp. Nếu Tăng già đã hiểu rõ Phật pháp, phân biệt được tà pháp và chánh pháp, thì họ không hành tà pháp, và hướng dẫn Phật tử tránh tà pháp, hành chánh pháp. Khi Phật tử hành chánh pháp không hành tà pháp, họ sẽ được hạnh phúc an lạc, và tin tưởng Phật pháp. Phật pháp cũng nhờ vậy mà hưng thịnh.

 

Taipei ngày 27 tháng 11 năm 2008

Thích Hạnh Bình

(Xem phần đầu)


[1] Thích Tuệ Sỹ dịch, “Kinh Trung A hàm”. http://www.tuechung.com/kinh/u-kinh-ahamtrung/trungaham145.htm

[2] Kiết Ca Dạ và Đàm Diệu dịch, “Phú Pháp Nhãn Tạng Nhân Duyên Truyện”,CBETA, T50, no. 2058.

[3] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 5, “Phẩm Ambap?li”, Viện NCPHVN ấn hành, 1993, trang 139.

[4] Sđd trang 240.