Mai Vàng Ánh Đạo
Thích Nhật Quang
Mục lục
1. Tám Giai Đoạn Tu Thành Phật
2. Hướng Tiến Tu Hành
3. Con Đường Xưa
4. Vấn Đề Nghiệp Báo
5.
Tinh Thần Tu Học Của Người Con Phật
6. Lợi Lạc Của Việc Tu Tập
Tám Giai Đoạn Tu Thành Phật
Ngày đầu xuân là ngày mang tin
vui lớn nhất đến cho chúng ta, bởi vì ngày này đức Phật tương lai Đại từ tôn Di
Lặc đản sinh. Nhân đây, chúng tôi nêu lên những giai đoạn mà người con Phật
phải trải qua trên bước đường tu tập.
Chúng ta biết không có vị Phật
nào trong thời tu nhân mà chỉ nằm nghỉ, đi chơi, bách phố la cà khắp nơi, cuối
cùng được thành Phật. Tất cả chư Phật đã thành, sẽ thành đều trải qua quá trình
tu tập Phật đạo, siêng năng, tinh tấn bất thoái chuyển trong thời gian dài vô
số kiếp. Các ngài đã sống trải, tu tập, phát nguyện, chịu tất cả sự khó khổ,
gian nan nhất trên cuộc đời mới thành tựu Phật đạo. Thông thường chúng ta được
học, trong vô số kiếp thứ nhất các ngài ở những vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, đó là bốn mươi cấp căn bản. Đến vô số kiếp thứ hai từ Sơ
Địa cho tới Bát Địa Bồ tát. Vô số kiếp thứ ba từ Bát Địa cho đến Thập Địa, Đẳng
Giác, Diệu Giác thành Phật.
Chúng ta bây giờ đang ở vô số
kiếp thứ mấy, đã đi được bao nhiêu, tu tập ra sao? Không ai biết cả. Thỉnh
thoảng có vị than tu hoài không thành Phật, dâng hương lễ Phật nói với Phật:
“Bạch Ngài, con tu bao nhiêu năm rồi mà không thành Phật, cũng chẳng giác ngộ
giải thoát. Những thứ bất như ý đầy dẫy, con làm sao giải tỏa được nó đây?” Như
đã nói, chúng ta chưa biết mình ở vô số kiếp nào, trên quá trình từ nhân địa
tới Phật đạo, do đó cần phải tự đả thông bằng đạo lý do chính mình thể nghiệm.
Ở đây, chúng tôi nêu lên tám giai
đoạn thể nghiệm để huynh đệ cùng chiêm nghiệm, chia sẻ trên bước đường tu học
của chúng ta.
Tám giai đoạn đó thế này:
1. Trai giới thanh tịnh:
Chúng ta cùng nhau nghiệm xem
trai giới của mình thanh tịnh chưa? Nếu chưa mà cứ than thở bạch Phật “tu hoài không
xong” thì tự mình phải điều chỉnh lại. Hầu hết Phật tử đều đã thọ giới, ít nhất
là năm giới. Qua năm giới ấy, mình nghiệm xem giữ được giới nào, hành trì có
trang nghiêm hoàn chỉnh không, hay còn những giới chưa giữ được. Nếu còn một
chút chưa giải quyết được thì là chúng ta chưa hoàn chỉnh bước thứ nhất. Bước
thứ nhất chưa hoàn chỉnh mà nhảy qua bước thứ hai thì có khi phải quanh trở
lại.
Trên thức tế có vị tu hành cũng
đàng hoàng, giới đức trang nghiêm, đạo hạnh đầy đủ, nhưng đùng một cái thiên hạ
ngạc nhiên khi nghe vị ấy quay về thế tục. Dạng này do có những bước nhảy vượt,
không cơ bản, không vững chắc, nên mới xảy ra như thế. Vì vậy người tu trước
nhất phải hoàn chỉnh giai đoạn trai giới thanh tịnh. Chúng ta có thể kiểm
nghiệm và biết được mình thanh tịnh hay chưa thanh tịnh. Thanh tịnh đến mức độ
nào?
Về phía Phật tử cư sĩ, ít nhất
quí vị thọ năm giới, ngoài ra còn thọ thêm mười giới Thập Thiện, có vị phát tâm
thọ năm mươi tám giới Bồ tát nữa. Tóm lại, trong hàng cư sĩ có ba cấp giới học.
Cấp thứ nhất là năm giới căn bản, cấp thứ hai là giới Thập Thiện. Người giữ
tròn mười giới Thập Thiện đời sau sẽ được sanh thiên, nếu giữ không tròn thì
thay vì đi thẳng lên thiên giới, vị ấy né qua một bên lọt vào cõi A Tu La. Nghe
nói thế giới A Tu La ai cũng ngán, vì nó lạ lùng lắm. A Tu La nữ rất hoàn
chỉnh, còn A Tu La nam có khi mang đầu trâu mặt ngựa, nóng nảy dữ dằn. Do vậy
họ thường hay gây chiến với chư thiên. Chúng ta học trong sử thấy ngài Long
Thọ, Mã Minh, từ tuệ nhãn thấy đầu, tay, chân… từ đâu rơi xuống đầy máu me. Quí
Ngài biết là do chúng A Tu La đánh nhau với mấy ông trời. Nói thế, không phải A
Tu La không có phước. Phước họ gần như chư thiên, nhưng vì quá sân giận nên
không bì lại cõi trời. Nên biết hậu quả của sân hận lớn lao vô cùng. Giống như
một đóm lửa nhỏ chúng ta không dập tắt, nó sẽ cháy lan khắp.
Trở lại vấn đề tu tập ở bước đầu
là giới học. Khi quí thầy trao truyền giới cho quí Phật tử, thường hay nói:
“Quí vị giữ được những điều giới đó là tu”. Giới học là pháp tu, Phật tử giữ
được những điều giới đó là bảo toàn nhân cách. Giữ được giới quí vị khỏi sợ mai
mốt nhắm mắt bị ma quỷ bắt. Giữ năm giới hoàn toàn là nhất định Phật tử sẽ sống
an ổn, vui vẻ. Khi chết biết được đường đi, không sợ hãi hay nghi ngờ gì cả. Đó
là ở cấp năm giới.
Nếu không trì giới, ở nhân gian
đi xuống thì thời gian vô cùng. Các vị thánh nói cõi địa ngục một ngày một đêm
bằng ở nhân gian một trăm năm. Tuy nhà Phật bảo mọi pháp đều giả hợp mà một
trăm năm đâu phải là ngắn. Con người từ lúc mới sinh ra, lớn lên xinh đẹp khôn
ngoan như thế, nhưng đến bảy tám mươi là đi hết nổi. Có khi mới bốn mươi, năm
mươi tuổi cũng đi hết nổi rồi. Thời gian tuy không thật nhưng quả báo mình chịu
đựng rất đáng kể, chứ không phải thường.
Các vị Phật tử tại gia đã thọ
hoặc năm giới, mười giới, trong cấp độ này từng bước tu tập quí vị đã có thể
nghiệm, có công phu. Từ đó quí vị nhận ra được hướng đi, chỗ đến của mình ra
sao. Đặc biệt hơn, nếu vị nào phát tâm thọ năm mươi tám giới Bồ tát, là Phật tử
tại gia nhưng tư cách hành xử như một vị Bồ tát. Đây là điều đáng quí, đáng
khích lệ. Thế nên hàng Phật tử cần phải giữ gìn những thành tựu ban đầu như
thế, để làm thềm thang tiến lên quả vị giải thoát cứu kính.
Nói về trai. Phật tử còn nhớ
trong lễ quy y Tam Bảo, quí thầy dạy: “Ăn chay hay mặn gì cũng tu hết, giữ được
năm giới là tu”, nhưng “Ăn chay phát triển được lòng nhân, gần gũi tâm từ bi,
dễ đi đến thành tựu tâm đại từ đại bi”. Chúng ta là đệ tử Phật, bắt đầu quy y,
tập sống theo đời sống của Phật, Bồ tát thì đối với việc ăn chay cũng nên thực
hành để nuôi dưỡng và phát triển tâm từ.
Nói về “trai” là nói đến chế độ
ăn uống của người Phật tử. Điều này không bắt buộc ai cả, nhưng nếu quí vị có
cách ăn uống tốt thì cũng hỗ trợ cho công phu tu nhiều lắm. Bước ban đầu chúng
ta phải giữ giới thanh tịnh là dĩ nhiên rồi, nhưng trai thì có vị ăn chưa được.
Lại có người không phải là Phật tử mà ăn chay trường. Hiện nay y học nghiên cứu
thấy ăn chay ngừa được một số bệnh nan y, vì vậy trên thế giới người ta ăn chay
nhiều lắm. Nếu Phật tử nào vừa giữ giới vừa ăn chay được thì có thể nói là hoàn
chỉnh phần trai giới. Vị nào chỉ giữ giới mà chưa giữ trai thì chưa hoàn chỉnh
được bước đầu. Như vậy con đường Phật đạo còn dài xa lắm.
2. Không thoái lui trên con đường Phật đạo:
Ở đây muốn nhấn mạnh không thoái
lui tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm cầu Phật đạo, cầu giác ngộ. Người Phật tử làm
sao gầy dựng được bước đi căn bản luôn tiến, luôn vững, không vì bất cứ lý do
gì thoái tâm Bồ đề. Khi tâm Bồ đề thoái rồi thì con đường Phật đạo xem như bị
ngó lơ, mình quay lưng đi. Một khi ta đã ngó lơ, đã quay lưng thì không biết
bao giờ mình mới chịu tìm, chịu nhận lại ông Phật thật sẵn có nơi mình. Vì vậy
quí thầy hướng dẫn các Phật tử tu tập, luôn luôn quan tâm e ngại ở giai đoạn
này. Có thể vì lý do bức xúc nào đó, Phật tử đi chùa một thời gian thấy chán
nản, tu tập một thời gian thấy chán nản. Đó là biểu hiện của thoái tâm Bồ đề.
Một khi đã nản, đã quay lưng rồi, gầy dựng trở lại rất khó.
Trong sử học có nói về gia đình
ông Cấp Cô Độc, là vị đại thí chủ của tăng đoàn thời đức Phật còn tại thế. Ông
sẵn sàng đem tất cả kho báu của mình ra dâng hết cho Tam Bảo. Vì vậy Phật cần
xây dựng chỗ nào, chư tăng cần làm việc gì, ông đều cung cấp hết. Bởi ông phát
tâm như vậy nên trong gia đình cũng có một ít người không ưng, trong đó có bà
giữ kho. Bà chuyên giữ kho, khi chư tăng cần cái gì, có giấy của trưởng giả,
ngoài mặt bà không dám nói nặng nhưng trong bụng cằn nhằn “sao mấy sư cứ vòi
vĩnh hoài vậy, không biết xấu hổ”. Thấy chư tăng từ xa là bà nghĩ không biết
bữa nay mấy ông thầy tới làm gì nữa đây? Bà bực bội lắm.
Một hôm, đức Thế Tôn nghĩ bà
nghiệp chướng sâu dày, ngài muốn độ nhưng biết bà lão không có duyên với ngài.
Khi thấy Phật đi đằng kia bà ngó chỗ khác. Phật biết thế nên hóa hiện ra nhiều
thân, có mặt khắp mọi hướng. Nơi nào bà ngó đều có Phật đi tới, bà liền ngó
xuống đất. Phật biết mình không có duyên với bà ta rồi, Ngài liền quán sát
trong tăng đoàn, thấy có một người độ được bà. Đó là La Hầu La. Mỗi khi thấy
ngài La Hầu La từ đằng xa là bà đứng dậy chạy ra đón mừng. Không gì lạ, bởi
duyên trong nhiều đời bà đã từng là mẹ của ngài, nên còn hơi hướm tình thương
thuở trước, do đó tôn giả La Hầu La là người độ bà.
Ở đây trên con đường Phật đạo dài
lâu, chúng ta từng bước gầy dựng, quan tâm gìn giữ làm sao tâm Bồ đề của mình
vững chắc, không để thoái tâm. Cố gắng gìn giữ thì những sự kiện phát sinh
trong giai đoạn tu tập không làm gì được chúng ta. Phải biết nuôi dưỡng tâm Bồ
đề, vì đó chính là bảo vệ tánh giác của mình. Đức Phật không bao giờ chấp nhận
những ai bữa nay hứng lên ngồi thiền bỏ ăn, ngồi suốt đêm suốt ngày. Làm được
hai ba ngày, sau đó thấy mệt bỏ luôn. Tu kiểu một nắng mười mưa như vậy nhất
định không bao giờ thành công cho được.
Con đường Phật đạo liên tục dài
lâu, chịu đựng gan dạ và phải một bề tiến thẳng mới đến nơi đến chốn được.
Thành ra ở bước thứ hai, chúng ta phải bảo vệ được tâm Bồ đề. Nghĩa là từ hồi
chúng ta mới bén duyên đến với đạo, chưa hiểu biết gì về đạo, rồi từ từ học
Phật, phát tâm tu hành, nuôi dưỡng dần dần cho tới khi chúng ta hiểu đạo, áp
dụng tu tập. Chúng ta giữ cho được liên tục, không để bất cứ lý do gì làm hỏng
đi. Chủng tánh Bồ đề mà bị hư thối rồi thì không làm sao gầy dựng lại được.
Luôn luôn với tâm thành khẩn, hướng tiến, biết rõ con đường dài lên dốc ngược,
chúng ta phải gắng gỗ mà đi, đi mãi. Như thế không tính thời gian, gặp khó khăn
chi cũng cứ tiến thẳng, nhất định sẽ thành công.
3. Phát đại nguyện rộng lớn:
Người tu hành nào cũng phát đại
nguyện hết. Trong thời khóa chúng ta tu tập hằng ngày có mười hai lời nguyện, đó
là những đại nguyện. Tại sao gọi là đại nguyện? Vì đó là những lời nguyện tỉnh
táo sáng suốt để thành tựu Phật đạo. Chúng ta không nguyện được bao nhiêu vàng,
bao nhiêu tài sản, không nguyện có thân tướng như trời như vua, mà nguyện tâm
Bồ đề được kiên cố, nguyện tất cả những vị thiện hữu tri thức trong mười phương
vì lòng thương tưởng mà hỗ trợ cho mình thành tựu được đại nguyện. Chúng ta
cũng biết những vị đó đang tiến hoặc tiến trước mình một khoảng trên con đường
tu tập Phật đạo, họ chưa xong việc. Do vậy có thể họ cũng không cho mình được
gì cả. Song ta chỉ mong họ có điều kiện hỗ trợ mình, giống như hai người bạn
cùng làm ăn với nhau. Một người bị hoàn cảnh suy sụp, công việc làm ăn thất
bại, tài sản tiêu hết. Một người có điều kiện phát huy được trở thành giàu có
vô cùng. Bây giờ người bạn thân đã bị khánh kiệt không mong người kia đem cho
mình tài sản, mà chỉ mượn thôi, khi gầy dựng sự nghiệp được sẽ trả lại.
Cũng thế, người đệ tử Phật hiểu
biết một cách cụ thể, sống vững với tinh thần Phật lý căn bản là mình chỉ nương
nhờ tạm thôi. Ở đây thiện hữu tri thức hỗ trợ cho những lời nguyện của mình.
Chúng ta chưa thành Phật nhưng phát nguyện thành Phật, chưa độ chúng sanh nhưng
phát nguyện khi giác ngộ sẽ độ hết chúng sanh. Tôn giả A Nan khi nhận ra được
yếu chỉ rồi, ngài phát nguyện trước đức Thế Tôn: “Con nguyện độ tất cả chúng
sinh được thành Phật rồi con thành mới thành Phật. Nguyện Phật chứng minh và hỗ
trợ cho con thực hiện được lời nguyện này”. Đây là cách phát đại nguyện của chư
vị Bồ tát.
Đức Phật trong thời tu nhân hành
Bồ tát đạo, có một khoảng ngài rơi vào địa ngục, thấy nhiều tội nhân bị hành hạ
khổ sở vô cùng. Quỷ sứ bắt họ kéo chiếc xe bằng sắt rất nặng, bọn chúng đứng
trên xe đâm chém vào người tội nhân. Hoặc cho tội nhân đội vòng lửa xoay trên
đầu. Nghe tiếng rên la, kêu gào đau đớn thống khổ của họ, Ngài thương quá nên
phát nguyện: “Tôi nguyện thay tất cả nỗi khổ này cho chúng sinh, nguyện từ nay
về sau đứng ai gầy dựng nhân xấu để rơi vào địa ngục chịu muôn vàn sự thống khổ
như thế này. Ngài vừa phát nguyện như vậy đó thì những chiếc xe sắt rớt ra hết,
và bỗng nhiên ngài thấy mình bay lên hư không. Nhờ tâm từ bi mở ra, ngài phát
nguyện thay khổ cho tất cả chúng sanh, nguyện mười phương các bậc hiền thánh hộ
trì giúp cho chúng sanh hết mê lầm, không gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, để
đừng bị đọa vào địa ngục, nên ngài ra khỏi chốn lửa dữ.
Ở đây nói phát đại nguyện là như
vậy, tức là phát tâm giác. Phát được tâm giác rồi thì tất cả cửa mở ra. Chúng
ta hễ phát tâm được thì mình vui vẻ, trong lòng cởi mở. Ngược nếu nếu chấp chặt
thí sẽ bị mất hết. Như người sợ kẻ trộm, làm rào dậu, chuông điện đủ thứ, càng
sợ nó càng tìm vô lấy của. Cuối cùng mỗi nghiệp theo nghiệp mà trôi lăn. Khi
học Phật pháp rồi chúng ta thấy con người khó cưỡng lại được nghiệp của mình,
chớ không phải họ không biết.
Nói tới đây tôi nhớ hồi nhỏ lúc
tôi ở chùa Vạn Đức. Vùng đó hồi xưa có nhóm bụi đời dữ dằn lắm. Tên chúa đảng
có sở thích là ban đêm muốn ăn cháo gà, nên đàn em đêm nào cũng kiếm gà về nấu
cho anh ta ăn. Đàn em kiếm riết rồi sợ quá, vì người ta bảo vệ gà rất kỹ, cuối
cùng đích thân hắn đi. Bữa đó thấy ảnh chết, tôi đi ngang cũng không dám ngó
nữa. Người nuôi gà giăng điện trên bờ rào, ảnh vừa nhảy vô nằm vắt ngang trên
đó bị điện giựt chết. Họ lôi ra để ngoài đường từ sáng cho tới chiều, cả gia
đình của anh đi ngang cũng không dám nhận. Thiên hạ phỉ nhổ, chê cười. Thật ra,
không phải anh không biết điện giật sẽ chết, nhưng do cái nghiệp nó sai khiến
dẫn đi như vậy.
Nói tóm lại phát đại nguyện là mở
lòng ra, phát tâm giác, cầu giải trừ tất cả nghiệp tập, tu hành cho tới viên
thành Phật đạo.
4. Tâm từ bình đẳng:
Lòng thương trải rộng bình đẳng
không phân biệt thân sơ. Muốn có được tâm từ bình đẳng quả thực rất gian nan.
Trong cuộc sống có những trường hợp, những con người vừa gặp tự nhiên mình
thương. Có người mình phải phân tích, phải phát tâm lắm mới thương nổi. Bây giờ
làm sao quí vị thương được kẻ vừa lấy trộm đồ trong nhà mình, điều này khó lắm.
Nội mình đang đi đây, rủi họ đụng mà không xin lỗi, có vẻ kênh kênh là mình
muốn đập rồi, chứ ở đó mà nói thương. Nhưng trong tinh thần Phật dạy chúng ta
phải thương được, xóa được, bình đẳng được với những người như thế.
Muốn thực hành điều này, chúng ta
phải nhớ lời Phật dạy là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả đều là Phật
sẽ thành. Như vậy sẽ không có ông Phật nào giận ông Phật nào hết. Mình giận là
không phải Phật rồi. Ta đâu nỡ lòng nào phủ nhận mình không phải là Phật. Do
vậy nên dù sự cố xảy ra làm sao, chúng ta cũng cố gắng hành trì chỗ này. Không
giận một vị Phật tương lai nào cả, đó là giữ được tâm bình đẳng giữa Phật Phật
với nhau.
Trong kinh Pháp Hoa có một phẩm
ghi lại hình ảnh tu tập và hoằng hóa của Bồ tát Thường Bất Khinh. “Thường” là
lúc nào cũng như vậy, “Bất Khinh” là chẳng dám xem thường ai hết. Phương pháp
giáo hóa của ngài là đi đâu, gặp ai từ xa bất luận tăng ni hay đạo tục, ngài
đều chấp tay bái bái nói lớn: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài là Phật
sẽ thành”. Bài thuyết pháp và hành động của ngài lúc nào cũng như thế. Bài thuyết
pháp ấy nhắc cho chúng ta nhớ mình là Phật sẽ thành, tức chúng ta có dòng họ,
có chủng tử Phật. Phát huy tinh thần tu tập Bồ tát đạo của các Phật tử là như
thế.
Phát đại nguyện, phát Bồ tát tâm,
gầy dựng tinh thần bình đẳng triệt để, là bắt đầu bước những bước khó rồi. Cho
nên nói con đường tu tập Bồ tát hạnh đi đến viên thành Phật đạo là con đường
dài lâu, kiếp số vô lượng vô biên. Đức Thế Tôn đã cho chúng ta biết ngài trải
qua những giai đoạn như thế trong ba a tăng kỳ kiếp. Vì vậy cần phải lập chí thật
vững chắc, siêng năng tinh cần, không tính hạn lượng, chỉ một tâm hướng đến
việc tu tập mà thôi.
5. Hạ thấp mình để cầu học Phật pháp:
Khi tu hành, chúng ta được sự
hướng dẫn của chư tăng, quí thầy thường dạy, người Phật tử gặp chư Tăng Ni và
các bạn đạo của mình, phải chấp tay chào: “A Di Đà Phật”. Gặp nhau thưa anh
thưa chị là phép tắc ngoài đời. Vì có anh chị thì có hoặc là anh chị họ nội,
hoặc anh chị họ ngoại. Rồi anh chị bên họ nội gần gũi hơn anh chị bên họ ngoại
hoặc ngược lại v.v… phân biệt nhiều chừng nào thì phiền não phát sinh chừng
nấy. Trong đạo không như thế, gặp nhau người lớn người nhỏ, người quen người
không quen đều là bà con hết, vì tất cả đều là Phật sẽ thành hết, nên chấp tay
xá chào: “A Di Đà Phật”. Bây giờ chúng ta tu Bồ tát đạo để viên thành Phật đạo
thì nhất cử nhất động gì cũng đều hướng về Phật đạo.
Cho nên ở giai đoạn thứ năm phải
hạ mình xuống học đạo. Tất cả mọi công phu, việc làm trong đạo, không thể nghe
sơ qua mà làm được, phải học, phải có thầy. Chúng ta luôn được hướng dẫn, hun
đúc tinh thần tu tập trong một môi trường, một điều kiện nhất định. Quí Phật tử
thấy chư Tăng Ni xuất gia như chúng tôi, được hun đúc trong một thiền viện để
nuôi dưỡng phát huy tinh thần cầu đạo giác ngộ giải thoát. Bởi vì việc này khó
chứ không phải dễ, không phải nói là làm được. Có khi nói được, nói rất hay mà
làm không được, cho nên phải được khép trong một cái khung, để từng bước chúng
ta làm cho được. Vì thế người vào đạo bước ban đầu phải khiêm nhường, hạ thấp
xuống để học, dù cho bản thân mình là hạng người nào.
Chúng ta đọc kinh, thấy các vị Bồ
tát học đạo nơi những người thị hiện loài súc sanh. Bồ tát học đạo với chồn,
cáo, hổ chẳng hạn. Bởi vì có khi các loài súc sanh ấy là lớp thị hiện của Bồ
tát để thử tâm người học đạo. Trong kinh Phật nói giáo pháp của đức Thế Tôn
không phân biệt chủng tộc, giai cấp. Đức Phật thị hiện ra đời để phá giai cấp,
nhất là bốn giai cấp đè nặng trên vai người Ấn Độ. Trong đó giai cấp Thủ Đà la
là giai cấp thấp nhất, bị đè bẹp, bị bóc lột, phải làm nô lệ cho cho các giai
cấp trên từ đời này sang đời khác, không thể cất đầu lên được. Trong giáo đoàn
của đức Phật có những vị A La Hán, gốc tích từ dòng nô lệ, như trưởng lão U Ba
Li, vị Thánh đệ tử hành luật bậc nhất.
Có lần đức Thế Tôn trên đường
hoằng hóa, gặp một vị trong giai cấp Thủ đà la. Thường những người giai cấp này
có cái chuông gắn nơi chân, họ đi đâu chuông kêu keng keng, báo động những dòng
tộc quý phái biết có bọn Thủ đà la ở gần nên tránh đi, vì gặp là xui lắm. Người
này đang gánh phân, nghe nói có đức Thế Tôn ở trước, ông sợ quá tìm cách tránh.
Đức Phật quán sát thấy người này hữu duyên, có thể hóa độ được, nên ngài thị
hiện khắp mọi ngỏ ngách. Ông tránh chỗ nào cũng gặp Phật hết. Cuối cùng đức Thế
Tôn nhiếp phục, độ vị Thủ Đà La này thành Tỳ kheo và chẳng bao lâu vị ấy chứng
Thánh quả. Sự việc này khiến vua Ba Tư Nặc rất bất mãn. Bởi vì vua là đệ tử
Phật, mỗi lần lên hầu chuyện Phật, thưa hỏi Phật pháp, nhà vua đảnh lễ đức Thế
Tôn và tất cả các vị thánh A La Hán, trong đó có ông Thủ đà la này.
Chịu hết nổi, vua nhất định tìm
đức Thế Tôn, trình bày cho ra lẽ: Muốn giáo đoàn cao quý tốt đẹp, vì sao Như
Lai lại nhận những người như thế vào trong tăng đoàn? Hôm ấy ông đến, đức Thế
Tôn đang nghỉ trưa, cửa đã đóng. Có một vị Tỳ kheo ngồi bên ngoài, ông tới chấp
tay thưa: “Bạch thầy, làm ơn cho tôi vào gặp đức Thế Tôn”. Vị Tỳ kheo nói bây
giờ là buổi trưa, chư tăng chỉ tịnh, đức Thế Tôn đang nghỉ ngơi. Vua nói:
“Không, tôi là đệ tử đặc biệt của Phật, tôi đến giờ nào Phật cũng cho gặp hết.
Phiền ngài hoan hỷ trình lại đức Thế Tôn là có vua Ba Tư Nặc tới yết kiến Như
Lai”. Vị Tỳ kheo thấy không ngăn được, ngang cổng tinh xá có một cục đá to,
ngài dụng thần lực đi xuyên qua cục đá ấy, vào trong không cần mở cửa. Vua thấy
nể quá, thầy giữ cửa của đức Phật mà có thần thông như thế, nên không dám khinh
suất giáo đoàn. Sau khi Tôn giả ấy vào thưa với đức Phật, Thế Tôn hoan hỷ cho
vua vào.
Gặp Phật nhà vua đảnh lễ, lời đầu
tiên của vua là: “Kính bạch đức Thế Tôn, tôn giả giữ cửa hôm nay là tôn giả nào
mà có thần lực đặc biệt như thế?”. Đức Phật cười nói: “Đó là người hôm nọ gánh
phân trong dòng Thủ đà la hạ tiện đó, nay đã xuất gia đã thành thánh quả rồI”.
Nghe xong lời này, nhà vua phá tan tâm đố kỵ, cố chấp về giai cấp của mình.
Cho nên trên bước đường tu học,
chúng ta phải hạ tâm xuống học hỏi với tất cả mọi người.
6. Tâm từ bi nhẫn nhục:
Tâm từ của chúng ta có chứ không
phải không, nhưng nó giới hạn lắm. Tiền thân đức Thế Tôn tu nhân bố thí, ngài
phát nguyện bố thí con mắt. Nhưng từ sáng tới chiều không có người đến xin, Bồ
tát rất buồn. Khi có người tới xin ngài rất hoan hỷ, người xin chưa kịp hỏi,
ngài đã móc mắt cho rồi. Người kia cầm lên nói: “Tôi xin con mắt phải, ngài cho
con mắt trái, đâu có dùng được”. Nói xong, kẻ ấy ném con mắt của đức Phật xuống
đất. Nếu lúc đó tâm từ bi vô ngã vị tha không phát triển thì sân hận nổi lên.
Song Bồ tát tu hạnh bố thí Ba la mật, chẳng những không sân giận mà còn vui vẻ
móc con mắt còn lại cho nốt. Chỉ có tâm từ bi, bình đẳng mới thành tựu được như
thế.
Cho nên trong giới hạnh tu Bồ tát
đạo để đi đến Phật đạo khó khăn vô cùng, chúng ta thành tựu được mới viên thành
Phật đạo. Từ bi nhẫn nhục mà không thấy có mình, có người mới có thể đạt ba la
mật. Người tu phải đầy đủ dũng lực, trí lực khả dĩ thực hành hạnh này tới nơi
tới chốn. Bằng ngược lại, yếu đuối hoặc không có trí tuệ thì không thể thực
hành hạnh từ bi nhẫn nhục một cách rốt ráo được.
7. Tinh tấn giải thoát:
Tinh tấn trên con đường giải
thoát, cuối cùng làm được tất cả việc khó làm, bỏ được tất cả việc khó bỏ. Hai
chặng này là hai chặng viên mãn nhất.
Có những việc làm chúng ta thể
hiện được tinh thần Bồ tát, nhưng tâm Bồ tát chưa hoàn toàn viên mãn. Do vậy
nên mình chỉ làm trong một chừng mực nào thôi. Bây giờ chúng ta phải mở rộng
biên cương ấy ra, xóa hết mê ngộ mới viên thành Phật đạo. Như trời trưa nắng
gắt, gánh nặng đường xa, muốn đi đến nơi thì những gì trong gánh phải bỏ hết,
cuối cùng cái gánh cũng bỏ luôn. Thân này, hoàn cảnh này, sự sống này, tất cả
sự kiện chúng ta loại bỏ hết.
Hòa thượng thường dạy, thân này
không thật, hoàn cảnh không thật, các pháp không thật, tâm của mình cũng không
thật nữa. Do vậy mình vững vàng bỏ tất cả những cái không thật đó, để sống với
tánh giác của mình. Mỗi người chúng ta đều có sẵn tính giác. Ai khéo thực hiện
Bồ tát đạo là phải loại bỏ hết những gì không phải tánh giác để nhận lại sống
lại với cái chân thật ấy. Tuy chúng ta có tánh giác nhưng từ lâu quay lưng, bỏ
quên nên bây giờ vọng tưởng phiền não bu bám che mờ tánh giác. Bây giờ muốn
tánh giác hiển lộ thì phải giạt những thứ tạp nhiễm ra. Hy vọng trên bước đường
tu tập, chư huynh đệ nắm vững, hiểu biết lộ trình như vậy để bước từng bước
thật vững.
8. Khắc phục hoàn toàn tất cả những khổ đau, được an vui giải
thoát:
Khi chúng ta đã thực hành trọn
vẹn bảy bước trước là có thể bước sang bước thứ tám. Nhờ nhận và sống lại được
với tánh giác chân thật có sẵn nơi mình, chúng ta không còn mê muội, không còn
phiền não, do đó cũng không còn khổ đau. Nghĩa là tới giai đọan này hành giả
hoàn toàn khắc phục tất cả khổ đau, được an vui giải thoát. Bước thứ tám là đi
đến kết quả viên mãn. Chúng ta tự giác, giác tha đầy đủ công đức thì mới thành
tựu Phật đạo.
Nhân ngày đầu xuân, kỷ niệm Bồ
tát Di Lặc là vị Bồ tát hoan hỷ, không còn chấp thủ, tất cả người con Phật
chúng ta nhất tâm hướng về ngài, kính lễ ngài và nhớ lại gương hạnh của ngài,
phát nguyện thực hiện cho được gương hạnh đó, thực hiện cho được tâm bình đẳng,
từ bi trí tuệ, đi từ từ bước đầu giới hạnh thanh tịnh cho đến bước cuối cùng là
bỏ được tất cả những gì khó bỏ để được giải thoát an vui vĩnh viễn.
Kính chúc những người con Phật
chúng ta luôn tỉnh sáng, thực hiện trọn vẹn nguyện lành của mình, tu tập cho
đến viên mãn Phật đạo.
Hướng Tiến Tu
Hành
Hôm nay là ngày khai pháp đầu năm
tại tổ đình Thiền viện Thường Chiếu. Có một ít Phật tử đến hỏi tôi “bây giờ
chúng con phải tu làm sao?” Tôi liền dẫn quí vị ấy ra La Hán Đường, rồi nói
“Hôm nay là ngày công tác phổ thỉnh, chúng tôi xin mời các Phật tử cùng đại
chúng sinh hoạt, xem đây là một trong những thời khóa tu học. Các vị ấy rất
phấn khởi đi theo tôi. Tới nơi, thầy tri sự sắp đặt người trồng cỏ, người chạy
nước, người ban đất… làm đủ thứ việc. Tôi nói “các đạo hữu hãy tham gia đi, đây
là giờ sinh hoạt tu học của đại chúng đó”, muốn nói gì lát nữa chúng ta sẽ bàn
bạc sau. Quí vị làm việc cùng với đại chúng tới khoảng giữa buổi, chư tăng nghỉ
ngơi giải lao một chút, Phật tử vui vẻ trở lại tìm tôi thưa: Thưa thầy, bữa nay
chúng con được một bài học sống về pháp tu, nhưng không biết có chín chắn chưa?
Lâu nay chúng ta học thiền, hiểu
Phật pháp nhiều, nhưng áp dụng lý thuyết vào đời sống sinh hoạt có kết quả tốt
hay không lại là chuyện khác. Một thiền sư Trung Hoa khi có học nhân tới hỏi
đại ý Phật pháp, ngài đạp cho một đạp té nhào. Vị tăng ngồi dậy, ngài cười hỏi
“nhận ra đại ý Phật pháp chưa?”. Chúng ta làm sao hiểu nổi những bài học như
vậy. Nhưng đó lại là cách chỉ dạy triệt để nhất. Thiền sư làm cho chúng ta chết
hết những vọng tưởng điên đảo, những suy tư về cái gọi là đại ý Phật pháp. Nếu
ngài giải thích đại ý Phật pháp thế này thế kia, chúng ta sẽ mắc kẹt trên ngôn
ngữ, hý luận thì càng cách xa Phật pháp.
Tuy nhiên thời buổi của chúng ta
ngày nay, không thể áp dụng phương pháp này. Vì thời nay đời sống văn minh, con
người chú trọng nhân phẩm, cuộc sống đi theo chiều hướng phát triển của khoa
học kỹ thuật, nói năng biện chứng rõ ràng, không thể úp mở khó hiểu hay dùng
các hành động lạ lùng mà có thể nhiếp phục được. Nếu chúng ta tu thiền như các
ngài hồi xưa, người ta sẽ cho mình điên loạn, xã hội không chấp nhận. Thế là vô
tình ta làm mất đi tính khế thời khế cơ, khiến Phật pháp sẽ bị mai một, nói chi
đến chuyện làm hưng thịnh dòng giống Phật.
Như vậy bây giờ chúng ta phải tu
như thế nào mới nhận ra được diệu lý chân thật, mới cảm thông được bài thuyết
pháp kiểu xưa của Tổ sư. Một thiền sư đặc biệt như Tổ Lâm Tế, đụng tới là hét
là đánh. Sau khi ngài ngộ đạo, truyền bá xiển dương tông phong Phật tổ sáng
rực. Cho nên có thể nói Tổ Lâm Tế là một nhân vật kiệt liệt, kỳ khu trong nhà
thiền. Năm xưa nơi hội tổ Hoàng Bá, ngài Lâm Tế còn là một học tăng, đến thưa
hỏi Phật pháp qua sự hướng dẫn của người trưởng huynh là ngài Trần Tôn Túc.
Ngài Lâm Tế nghe lời, lên hỏi Hòa thượng đại ý Phật pháp. Ba lần hỏi đều bị ăn
gậy cả ba. Trong sử diễn tả hình dáng của ngài Hoàng Bá to lớn, như vậy nếu
ngài thẳng tay nện ba gậy thì mệt lắm. Thế nhưng bài pháp trực tiếp giữa hai
thầy trò ngài đến nay vẫn còn hiệu lực triệt để. Bởi vì ở đây không cho phép
học nhân suy nghĩ. Suy nghĩ tốt cũng không được, suy nghĩ xấu cũng không được,
suy nghĩ tới cũng không được, suy nghĩ lui cũng không được. Chạy qua chạy về
bốn phương tám hướng, trốn chui trốn nhủi đâu cũng không được, đành phải ăn
đòn. Ngay chỗ đó nhận ra được hay không thì tùy mình, ông thầy không bắt buộc.
Cho tới bây giờ có thể nói ở Việt Nam, thiền Lâm Tế là phái thiền phổ thông và
đặc biệt nhất. Do nhân duyên ngộ của thiền sư Lâm Tế cao vút như thế mà tông
phong kéo dài đến ngày nay.
Thời đại chúng ta ngày nay không
thể dùng những chiêu thức đó. Tuy nhiên nếu chúng ta không nắm được yếu chỉ nhà
thiền vốn không nhiều lời, cứ chạy tìm trên danh văn nghĩa cú thì trọn đời cùng
cũng không tu được. Phải nhận ra lẽ sống thực ngay nơi mình, căn cứ từ những
phương tiện sinh hoạt bình nhật mà xoay trở lại ông Phật thật hằng hữu nơi mỗi
chúng ta. Từ cuộc sống, từ mọi điều kiện ngõ ngách, ta có thể nhận lại được
chính mình.
Tôi nghĩ quí Phật tử hôm ấy ít
nhiều sẽ thầm nhận được điều tôi muốn nói với họ. Thầm nhận rằng tại thiền viện
có một sức sống thật, ngoài những cách hành trì theo pháp môn truyền thống nhà
Phật. Trong lao động chúng ta có cơ hội để học tập lẫn nhau, đồng thời cũng
biểu hiện sức sống tỉnh giác thông qua việc làm của mình. Người ta nói tu là
hướng thiện, là hành thiền, nhưng hướng thiện hành thiền như thế nào? Hòa
thượng ở đây dạy chúng ta tu hành như thế nào mà biết được vọng tưởng không
thật, đừng bị nó sai khiến kéo lôi. Muốn thế, ta phải làm chủ được các dấy
niệm. Chỉ vậy thôi. Đối với các dấy niệm chúng ta làm chủ được thì bảo đảm làm
chủ được vấn đề sinh tử. Chính những dấy niệm, những vọng tưởng, những so đo
tính toán ngược xuôi, đẩy đưa chúng ta đi vào con đường sinh tử.
Trong mọi thời mọi lúc, mọi sinh
hoạt, lúc ăn nghỉ, tiếp khách, làm việc, nói năng… ta làm chủ được mình là tu
thiền. Chưa làm chủ được thì sao? Thì bị nó kéo đi. Bởi vì nó là một thói quen,
nhà Phật gọi là nghiệp. Mà nghiệp thì có sức mạnh. Chúng ta không làm chủ
nghiệp thì nó làm chủ lại mình. Cho nên suốt một đời tạo nghiệp, cuối cùng khi
mất thức thần sẽ theo nghiệp thọ sanh. Do vậy vừa có dấy niệm là chúng ta lao theo
nên mất mình. Nếu tu tập như vậy thì chừng nào mình mới làm chủ được sinh tử,
mới đạt đạo? Nói theo danh từ chuyên môn trong nhà Phật chừng nào tâm mình
thanh tịnh thì ngộ đạo. Giản dị như vậy. Muốn tâm thanh tịnh thì phải làm chủ
các dấy niệm.
Nhiều khi chúng ta làm việc mệt
mỏi, muốn ngủ chừng một tiếng đồng hồ để lấy lại sức khỏe, nhưng dễ gì. Nếu
trước khi ngủ mình còn ưu tư, chuẩn bị một việc gì đó thì sẽ bị mất ngủ hoặc
ngủ chập chờn với bao nhiêu việc trong mộng. Cho nên lúc thức hay ngủ, luôn luôn
mình thấy mất sức khỏe. Thiền sư thì không như vậy, các ngài nói ăn là ăn, ngủ
là ngủ. Do vậy các ngài dám trả lời một cách dứt khoát: “Thiền là gì?” Đói ăn
mệt ngủ. Bởi vì các ngài khi ăn chỉ ăn, khi ngủ chỉ ngủ. Còn chúng ta ăn không
ra ăn, ngủ không ra ngủ, trong đầu vướng bận trăm công ngàn việc. Sở dĩ ta dễ
giận, dễ vui, dễ buồn là do bị động nhiều quá. Bao giờ mình đừng bị động nữa
thì mới an ổn.
Có những vị còn rất trẻ nhưng
muốn ngủ được phải uống thuốc, nghĩa là họ bị động quá nhiều. Bị động như vậy
mà bảo thanh tịnh, bảo yên làm sao yên được. Sự sắp đặt công việc hằng ngày với
những giao tế chung quanh càng nhiều chừng nào thì bị động càng lớn chừng ấy.
Lúc quí vị làm phó giám đốc thì cái động trong phạm vi của phó giám đốc. Khi
quí vị làm giám đốc, tổng giám đốc hoặc làm chức lớn hơn nữa thì cái động lớn
bằng chức danh của quí vị. Như vậy bảo thanh tịnh, bình yên sao được. Do chỗ
này mà có người tu Phật trải qua nhiều năm không thấy tiến bộ. Bởi vì họ nuôi
dưỡng từng đoàn vọng tưởng, cả trời vọng tưởng nên dù tu học Phật pháp nhiều
đạo tràng, nghe nhiều vị thiền sư giảng dạy nhưng cuối cùng trớt lớt hết.
Có nhiều buổi khuya tôi thức dậy,
ngồi nhìn đồng hồ điện tử chớp, để xem hồi kiểng của đại chúng có ăn khớp với
đồng hồ không? Kim chỉ giây chớp từng giây từng giây, tôi thấy nhanh quá. Rồi
nghĩ đến hơi thở mỏi mòn của mình cũng nhanh như vậy. Cho nên người xưa nói: Có
khi lên giường nghỉ, rút chân lên chưa chắc sáng mai còn có cơ hội thả chân
xuống. Thật là cái thấy đáo để. Trở lại đời sống tu tập hằng ngày của chúng ta
cũng vậy đó. Làm sao ta tranh thủ từng phút giây làm chủ với vô thường. Chúng
ta phải làm chủ cho được những thứ tầm thường, những niệm loạn động, những
nghiệp tập kéo lôi mình đi trong trầm luân sanh tử. Công tác hằng ngày không
nhất thiết phải một thứ. Bữa quét rác, bữa tưới cây, bữa dâng hương cho Phật,
bữa rửa chén, bữa nấu cơm… ta luân phiên làm trong tỉnh giác. Trong tất cả các
thời, mọi sinh hoạt, phải làm chủ đừng để các niệm xen vô lôi dẫn ta đi. Việc
này phải tập, tập lâu lắm mới quen, chứ không phải dễ đâu.
Chính bản thân chúng tôi trong
những ngày đầu ở núi với Hòa thượng đã tập như vậy. Quí vị thử tưởng tượng,
thời hai mươi mấy tuổi đi học bằng xe hai bánh, chạy rong chạy rêu dưới phố,
nay hẹn nhóm này, mai tới nhóm kia, nó điên đảo lăng xăng cở nào. Nhưng lên núi
rồi thì cột trâu lại, tất cả chuyện trần gian trả lại hết. Con trâu ăn cỏ ở
đây, sống ở đây, không cho đi đâu. Chuyện nghe bình thường nhưng phải tập ba
bốn năm trời, mới cột được chút chút. Đó là những chia xẻ rất thật của chúng
tôi.
Nói đến vấn đề hướng thiện và tu
thiền, thật ra nó giản dị vô cùng. Từ khi Hòa thượng thành lập thiền viện
Thường Chiếu cho tới bây giờ, chưa lần nào Ngài đứng ra tổ chức, kêu gọi Phật
tử đi hành hương. Hòa thượng nói chúng ta giản dị bớt về mặt hình thức để Phật
tử có thời gian tu. Như chư tăng ở đây sáng mai thức dậy ai nấy đều lo quét
dọn. Quét dọn có hai mặt: một mặt là quét dọn đạo tràng, sái tịnh trang nghiêm,
một mặt nữa là quét dọn những cặn bã trong lòng mình, hốt đi hết. Một việc làm
bình thường như vậy, nếu ai thâm ngộ thâm đắc thì vào cửa được. Đó là một pháp
sống. Do vậy người xưa không nói dạy thiền, không nói tu thiền, chỉ ngay trong
việc làm nhận lấy. Người xưa dạy sáng mai quét rác, trong lòng thầm nghĩ:
Cần tảo già lam địa,
Thời thời phước huệ sanh,
Nhược vô tân khách chí,
Tất hữu thánh nhân hành.
Dịch:
Siêng năng quét đất Phật,
Phước huệ thường thường sanh,
Nếu không có khách viếng,
Cũng có thánh nhân đi.
Trong lòng chỉ duy nhất như vậy,
không gì khác hơn. Không bồn chồn, không nghĩ ngợi, không toan tính, chỉ thế
thôi. Biết chắc với một niềm tin vững vàng, việc làm của mình ngay bây giờ
trang nghiêm thanh tịnh. Người được như vậy quả thật là người sống có lý tưởng.
Thật ra người tu là người sống có lý tưởng, chứ không phải không có lý tưởng.
Lý tưởng, sức sống ấy ấp ủ bên trong, người ngoài không thấy biết. Như tôi lên
Trúc Lâm, chư tăng trên đó sinh hoạt khác hơn dưới này. Buổi sáng làm việc
ngoài ngoại viện sớm hơn giờ ăn sáng, vì tránh lúc khách đến viếng đông. Có hôm
trời lạnh xuống sáu độ, nhưng các thầy vẫn tự nhiên chạy ra sân, vừa hít hà,
vừa quét dọn v.v.. làm các công việc với tính cách hồn nhiên, nhanh nhẹn, vui
vẻ. Làm xong, chư tăng vào nội viện đóng cổng lại, không tiếp duyên bên ngoài.
Chúng ta thấy quí thầy sống dường như thầm lặng ẩn mình, nhưng thật ra họ rất
có lý tưởng. Phải có lý tưởng mới duy trì một đời sống như thế lâu dài được.
Ở thiền viện Thường Chiếu cũng
vậy, tôi luôn nhắc nhở huynh đệ bớt tiếp duyên. Ai có phận sự mới ra ngoài, không
phận sự gì thì ở yên một chỗ lo tu hành, nuôi dưỡng chí nguyện của mình. Đây là
điều rất hệ trọng, phải chỉnh đốn nhắc nhở anh em thường xuyên. Nếu không họ sẽ
quên mất mục đích xuất gia của mình. Chỉ một việc nhỏ thôi, chúng ta thấy đã
khó làm rồi. Đó là việc gì? Như mình muốn đi đâu thì tự quở “đừng đi”. Vừa nghĩ
muốn ra nhà khách liền tự hỏi “ra nhà khách làm gì?” Nếu thấy không cần thiết
thì không đi. Một niệm dấy lên, mình dừng được là thành công. Bây giờ quí vị
khởi niệm ra khỏi cổng chùa, đi chợ Phước Thái hoặc chạy ra xóm, vừa khởi niệm
liền dừng, nói không cần thiết, quí vị sẽ yên. Chúng ta cố gắng vận dụng trí
tuệ để cắt bớt những dây mơ rễ má, những dấy niệm, những vọng động, mai ra mới
làm chủ được. Nếu không ta sẽ bị những dấy động dẫn đi hoài, không biết tới bao
giờ mới dừng.
Những khi quí thầy bệnh thường
hay nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ anh chị… đó là tâm trạng chung của những người
bệnh. Khi một niệm nhớ nhà dấy lên, thế là quí vị chạy tuốt về quê. Nào là vọng
tưởng con đường đất đỏ xe chạy lọc cọc. Tới nhà má mình ra đón, rót nước, dọn
cơm, ân cần thăm hỏi từng chút. Sẵn đó nhớ lui về dĩ vãng, hồi nhỏ mình đi học,
nửa chừng trốn chạy về nhà đeo theo má. Bà già phải nắm tay dẫn vô trường, mình
không chịu đi vùng vằng la khóc om sòm. Thế là má mua cho mấy cái bánh trám kín
miệng lại. Mình mắc ăn bánh, quên khóc và cũng không hay má đã nắm tay giao cho
cô giáo… thôi, nhớ đủ thứ. Vì thế mỗi lần bệnh lại muốn về nhà hoặc trông người
thân lên thăm. Bệnh thân đã nhọc cọng thêm bệnh tâm nữa, thành ra yếu đuối quá
sức.
Ở thiền viện có nhiều huynh đệ,
nhưng khi bệnh mình chỉ nghĩ nghĩ đến người thân ở nhà. Lạ vậy! Vì thế tôi
thường nhắc huynh đệ: trong viện, một trăm tám chục thầy, cho như một trăm thầy
ghét mình thì cũng có tám chục thầy không ghét. Mình nhờ họ cạo gió họ cạo gió,
nhờ họ lấy nước họ lấy nước, nhờ việc gì họ cũng sẵn sàng hết. Chẳng những nhờ
mà đó nguyên tắc sắp đặt của thiền viện, cớ gì mình lại trông mong, dấy niệm
phóng ra ngoài. Nhưng thật ra thói quen ấy nhất thời bỏ không dễ đâu. Bệnh
xuống là nhớ má nhớ ba, nhớ chị nhớ em, nhớ quê nhà. Bây giờ muốn quên cũng
phải có công phu. Những dây mơ rễ má như vậy, mình cắt đứt may ra cái hướng
thiện, việc hành thiền mới vững. Nếu không sự tu hành của chúng ta sẽ chẳng đi
tới đâu.
Những điều này chúng ta phải bảo
vệ, chia sẻ và nhắc nhở nhau thường xuyên. Huynh đệ cố gắng làm chủ các vọng
tưởng, các dấy niệm của mình thì hy vọng làm chủ được sinh tử. Từ đây về sau,
dù huynh đệ có bị hoàn cảnh hoán chuyển, người phương trời này, kẻ góc biển nọ,
chúng ta nhớ lời nhắc nhở của huynh đệ, nhớ pháp Hòa thượng chỉ dạy. Ai làm chủ
được dấy niệm, người đó làm chủ được sinh tử. Làm chủ được sinh tử thì ở đâu
cũng tự tại, kể cả trong địa ngục. Ở địa ngục vì mình tình nguyện vô đó nói
chuyện với quỷ sứ, chứ không ai nói chuyện với mấy ổng hết. Hoặc ở trong bất cứ
đường nào trong lục đạo, người làm chủ được vọng tưởng là đủ sức nói chuyện với
những vị lãnh đạo trong đó. Vì vậy bây giờ huynh đệ chúng ta quyết tâm làm chủ
cho được những dấy niệm.
Kinh nghiệm bản thân chúng tôi
thấy, như sáng mai thức dậy ta lo làm những công việc bình thường của mình.
Thức dậy rửa mặt, kiếm bình thủy chế ly nước trà, hớp vài ngụm, hít hà này kia
rồi mặc ăo tràng lên thiền đường. Đó là con đường đi chung. Lên thiền đường thì
phải im lặng, không ai nói gì với ai hết, mỗi người tự tu tự tỉnh. Việc làm ấy
thành thói quen rồi, không cần ai nhắc nhở. Chỗ của mình đã có, bồ đoàn tọa cụ
đã sẵn, lên đó sửa soạn ngồi ngay ngắn, trong vòng 15 phút thôi là vô khuôn vô
nếp hết. Ông già ngồi trên bàn ngó xuống trợn mắt cũng không nói gì, dưới này
hàng trăm ông nhỏ ngồi ngó lên cũng không dám hó hé. Chỉ một thầy vác thiền
bảng đi, thấy ông nào ngồi không yên là đập, ông nào ngồi cong là kê thiền bảng
vào, mình biết ngồi cong thì kéo lại. Làm theo thói quen như vậy, cũng phải
trải qua một thời gian tu tập.
Thật ra chỗ này mất thời gian
lắm. Có vị tới giờ lên thiền đường lại không muốn lên. Chung bảng đã đánh, luật
đã định, nếu có bệnh duyên thì phải xin phép. Do vậy có người tới thưa “Bạch
Thầy, bữa nay con bệnh quá, xin được ở dưới”. Ông thầy không nói gì hết, nhưng
con mắt ngó sửng “Bệnh thiệt không đó!” Thế là một lát đi kiểm tra, bệnh thiệt
thì thông qua, còn vì ham trùm mền ngủ là không được. Trong thanh quy có quy
tắc đàng hoàng mới trị nổi mấy tay làm biếng. Thật ra vì chúng ta còn dở, còn
yếu nên phải sử dụng những phương tiện như vậy. Nếu còn dấy niệm, còn ỷ lại tha
lực bên ngoài là chúng ta còn yếu, chưa tự quyết. Bây giờ ta phải cố gắng giữ
được chủ lực mới vào được bước thứ nhất.
Kế nữa, người tu phải chuyển hóa
và thực hiện tất cả những công đức. Chuyển hóa như thế nào? Chúng ta thẳng thắn
đi vào nề nếp tu học. Nếu tu mà chỉ ngồi nói thì dù tụng nửa ngày cũng chẳng
dính vào đâu. Tâm vọng động là bóng dáng của các trần cảnh bên ngoài, nó chưa
phải thực tâm, nên lén lút làm đủ thứ chuyện, chúng ta chưa kiểm soát được.
Chừng nào sống được với chân tâm ta mới kiểm soát, làm chủ nó dễ dàng. Như thế
là chuyển hóa trọn vẹn vọng tâm, tu tạo tất cả công đức lành.
Ngày xưa, trong sinh hoạt của đức
Phật, ngài cũng có giờ nằm nghỉ, giờ tiếp chư tăng từ các nơi về thăm viếng,
giờ pháp thoại… Giờ giấc của ngài thành thời khóa đặc biệt như vậy, không ai
dám xen vô. Bây giờ chúng ta thấy Hòa thượng ân sư cũng có giờ. Ví dụ Phật tử
lên thăm ngài nhằm khoảng 12 giờ trưa,vị tri khách của Thiền viện báo giờ này
là giờ nghỉ của Hòa thượng, quí vị vui lòng đợi tới giờ thức chúng mới thăm
được. Hoặc buổi sáng khoảng 7 giờ, quí vị muốn trình Hòa thượng việc gì, vị tri
khách hướng dẫn cũng báo giờ này Hòa thượng còn đang chống gậy đi bên ngoài các
công trình, để hướng dẫn công việc cho chư tăng. Khoảng tám giờ ngài mới về
thất, quí vị đến đó thưa hỏi v.v.. Những công việc bình thường, ta cũng nên bắt
chước các ngài, sắp xếp có thời khóa giờ giấc đàng hoàng. Giờ nào việc đó. Đây
cũng là pháp tu.
Nhiều Phật tử phàn nàn chúng con
nhiều việc quá tu không được. Hòa thượng vui vẻ nói “ngày xưa vua Trần Nhân
Tông công việc hơn chúng ta gấp trăm ngàn lần mà còn tu được”. Quí vị đọc câu
chuyện nửa ngày của Thái Thượng Hoàng sẽ thấy Ngài làm việc nửa ngày tu nửa
ngày, đều đặn như vậy, không sót mất một thời khóa nào. Bây giờ chúng ta cũng
bắt đầu như vậy đi. Vua Trần ngày xưa khi giao ngôi lại cho con là Trần Anh
Tông, ngài làm Thái Thượng Hoàng, nghĩa là vẫn còn nhiếp chính. Do vậy có lần
ngài về triều đột xuất, vua Anh Tông không biết trước. Đêm đó nhà vua uống rượu
quá chén, sáng ngủ say không hay vua cha hồi triều, mà quần thần chẳng ai dám
gọi dậy, do đó vua không ra nghinh tiếp.
Thái Thượng Hoàng biết chuyện,
không nói không rằng bỏ đi thẳng về phủ Thiên Trường triệu tập bá quan về chầu
tại đó. Khi tỉnh rượu, Anh Tông hay ra cớ sự, thất kinh hồn vía, chạy ra trước
sân rồng, thấy một thư sinh còn đứng đó. Nhà vua gọi vào viết một tờ tấu chương
xin sám hối vua cha. Rồi hai vua tôi dong thuyền suốt đêm đuổi theo Thái Thượng
Hoàng. Đến sáng, vua Anh Tông quỳ sẵn nơi tiền sảnh, xin được dâng biểu vua
cha. Ngài Nhân Tông không thèm ngó tới. Vua quỳ suốt như vậy cả buổi, không dám
nhúc nhích. Bá quan nóng ruột, tất cả đều quỳ mọp thỉnh cầu Thượng Hoàng Nhân
Tông xá tội cho vua con. Sau khi đọc xong tờ biểu, thấy lời lẽ phải đạo, văn từ
trôi chảy, ý tứ sâu lắng, vua cha mới chịu tha, nhưng bố cho vua con một trận
ra trò. Vua Trần Nhân Tông dạy con nghiêm chỉnh nổi tiếng trong lịch sử nước ta
đến thế. Nhờ vậy triều đại nhà Trần tồn tại lâu dài và vua tôi đều nổi tiếng
vua hiền tôi sáng đến bây giờ. Lịch sử nước ta luôn xem Trần triều là chuẩn mực
một thời hưng thịnh của nước nhà, lấy đây làm tấm gương soi chung cho các thế
hệ mai sau.
Bây giờ chúng ta tu tập là chuyển
hóa nghiệp, làm chủ nó. Người tu thiền không ỷ lại, không trông chờ, cố gắng tự
chuyển hóa và làm tròn bổn phận của mình bằng tất cả tâm thành. Như lúc xưa,
khi mới về đây chúng tôi cũng bôn ba đi cuốc, đi cày với đại chúng, bây giờ
không làm nổi nữa. Không làm nổi chẳng lẽ đi ngủ, phải thành tâm góp sức, bằng
cách chỉ đạo hướng dẫn việc làm cho anh em, đồng lao cộng khổ với chư tăng.
Người xưa hay nói “chịu đấm mới được ăn xôi”, ai không chịu đấm nổi thì khỏi ăn
xôi, không chịu cực làm sao tu. Công việc nào cũng phải chịu khó mới thành tựu,
huống là việc tu cầu giác ngộ giải thoát. Trong sự tu hành chúng ta chân thành,
sắp xếp công việc hằng ngày thế nào để không mất thì giờ tu. Như vậy từ từ sẽ
yên.
Hôm nay buổi khai pháp đầu năm,
tôi trình bày vài phương tiện nhỏ trong việc tu hành để tất cả chúng ta, bắt
đầu công phu tu hành bằng tâm chân thành của mình. Điểm quan trọng chúng tôi
muốn nói là người tu phải làm chủ được các dấy niệm của mình mới làm chủ được
sinh tử. Đó là đỉnh cao, là lý tưởng trong đời tu của chúng ta. Rất mong Tăng
Ni cũng như Phật tử, chúng ta đều năng nổ thực hiện cho được lý tưởng ấy ngay
trong đời này. Có thế ta mới thật sự nếm được pháp vị an lạc, giải quyết việc
sinh tử của mình.
Con Đường Xưa
Khai pháp đầu năm Giáp Thân
Đạo tràng Thái Tuệ
Tôi được vinh dự là mỗi năm đại
lão Hòa thượng Tôn sư về đây cùng các hội hữu Phật tử trong đạo tràng Trúc Lâm
Thái Tuệ làm lễ khai pháp. Như lời trình bạch của vị huynh trưởng thì đạo tràng
đã được mười tuổi, tức mười năm sinh hoạt Phật pháp, dưới sự hộ trì của Tam
bảo.
Hòa thượng tôn sư luôn thương
tưởng quí Phật tử, ân cần nhắc nhở qua những băng từ, quí vị luôn nương theo tu
học từ trước đến giờ. Đồng thời Ngài cũng chỉ dạy các vị đệ tử đến đây trực
tiếp giảng giải Phật pháp và hướng dẫn cho toàn thể hội hữu Phật tử trong đạo
tràng tu học. Quí vị thật đủ duyên lành và duyên lành ấy ngày càng phát triển
một cách mạnh mẽ. Đó là điều đáng mừng.
Đề tài hôm nay tôi muốn nói với
quí vị là con đường xưa. Tôi nghĩ nếu ngày xưa chúng ta không có duyên, không
có chủng nào đối với Phật pháp thì nhất định bây giờ không làm sao gầy dựng nổi
một đạo tràng đông đảo như thế này. Bởi trước kia chúng ta đã có duyên, đã từng
là huynh đệ pháp hữu với nhau, nhắc nhở nhau trên bước đường tu học Phật pháp
nên mười năm qua, đạo tràng Trúc Lâm Thái Tuệ vẫn tu học đều đặn, mỗi tuần quí
Phật tử về đây sinh hoạt Phật pháp một lần. Đây là một phúc duyên lớn Tam Bảo
hộ trì cho chúng ta, chớ không phải tự nhiên được như vậy.
Tuy nhiên đời trước chúng ta áp
dụng Phật pháp còn lôi thôi, do vậy bây giờ mình để thời gian trôi qua mất hết,
không đủ sức tỉnh giác sớm, khiến cho phiền não vọng tưởng kéo lôi mãi, chưa
dừng dứt được. Trong kinh Niết bàn đức Phật có dẫn dụ một sự việc như thế này. Như
một số người đi du ngoạn mùa xuân, ngang qua hồ nước trong thấy đẹp quá, họ
lượm sạn nhỏ thảy xuống hồ. Trong lúc cao hứng, họ thảy chơi thôi, không nghĩ
sẽ tìm lại viên sạn. Nhưng không phải thế, trong kinh Phật dạy tiếp: “Những
viên sạn người này liệng xuống hồ ngày xưa, nếu có người sáng ý muốn tìm lại,
thì có hai cách: Một là để cho hồ nước lắng thật yên, thật trong, sẽ nhìn thấy
viên sạn chỗ nào, rồi thì nhè nhẹ thò tay vớt lên. Cách thứ hai, nếu là người
đại lực lượng, họ đem gào tát quách hết nước đi sẽ hiện viên sạn lên thôi”.
Nhưng cách sau là của những người hùng dũng, khỏe mạnh, can trực lắm mới làm
nổi. Hầu hết chúng ta chỉ ngồi yên, chờ nước lắng trong, viên sạn hiện ra mới
thò tay xuống vớt lên. Đó là dẫn dụ trong kinh Niết bàn.
Huynh đệ thử nghiệm lại xem, quí
vị chỉ ngồi lại thì tự nhiên cặn cáu hiện ra, khỏi cần lắng, khỏi cần đợi lúc
nào hết. Ngồi yên chừng năm ba phút, nó hiện ra. Có những chuyện hiện ra một
cách hết sức lạ lùng. Chúng ta không biết mình làm hồi nào, bây giờ nó hiện ra.
Có người bảo tự nhiên nó hiện ra. Thưa không phải tự nhiên đâu, hồi trước mình
đã bày đặt như thế nào đó, đã gieo chủng tử vào trong tàng thức rồi, bây giờ
yên lặng nó hiện ra. Cho nên ngồi yên tĩnh tọa sẽ dễ thấy rõ và giải trừ những
thứ cặn cáu từ nhiều đời chúng ta đã tạo ra.
Bây giờ muốn đi trở lại con đường
xưa thì chúng ta phải có một tinh thần kiên quyết, buông bỏ hết các duyên, lắng
yên tĩnh lặng. Được thế trước nhất chúng ta sẽ có nhận định chân chính. Từ chân
chính nghĩa là chính xác, vì lệch đi một chút chúng ta rời xa chính mình, không
biết đi về đâu. Thành thử giai đoạn đầu của người trở về cội nguồn xưa thì phải
hiểu biết chân chính, đúng với lời dạy của Phật, của Tổ. Từ đó chúng ta mạnh
dạn bước thật vững, thật dài, thật chắc trên bước đường trở về quê xưa.
Chân là gì? Chân là không lẫn gì
hết, ngay thẳng chính đáng, không bị lệch, không bị bẻ cong, không bị ngã tẻ.
Kiến thức về Phật học của chúng ta phải như thế, mới đảm bảo con đường tu vững
chải, niềm tin tăng trưởng, mãi mãi chúng ta bước thật vững trên con đường xưa.
Nhiều huynh đệ thật tội nghiệp,
bước ban đầu không vững, nên tu tập một thời gian gặp nghịch duyên bị lung lay
liền. Thời chúng tôi còn làm điệu, có những Phật tử đã ủng hộ đạo tràng, ủng hộ
Phật pháp thật đắc lực, nhưng không biết vì sao tới khi tôi lớn lên, những vị
ấy không còn như trước nữa. Hiện tượng đó khiến tôi có chút suy nghĩ, có lẽ
bước đi của họ chưa được vững chải nên mới xảy ra trường hợp đáng tiếc như vậy.
Đây là điều huynh đệ trong đạo tràng, mỗi chúng ta nên xét lại cho thật chuẩn
bước đi của mình. Người xưa nói một bước đi đúng, sẽ thâu ngắn được đoạn đường
dài trở về quê, một bước đi sai thì cách xa vô vàn, không biết lối về là đâu.
Do vậy nên chúng ta phải làm sao tránh đi sai lệch, phải giữ vững lập trường,
cứ một con đường thẳng tiến, không lung lay, không suy suyễn.
Trong tâm chúng ta có những sự
kiện nổi cộm lên, thì thời ngồi thiền không yên, dù mình cố gắng khéo sắp đặt
hình thức bên ngoài thế nào nhưng thực sự bên trong không yên. Sự bất an này
không ai giải quyết cho mình được hết, bởi vì mình cũng không dám nói thật với
ai. Do vậy công phu tu tập tuy lâu, nhưng sự bực bội, cau có tới bây giờ vẫn
còn. Chúng ta sơ ý một chút là nó hiện ra, nó ngủ ngầm ở đâu không biết, nhưng
có cơ hội là nó xuất hiện. Hòa thượng Viện trưởng thường nhắc vọng tưởng không
thật, đừng theo nó mà mất mình, mất đi sự thanh tịnh quí báu. Thế mà chúng ta
vẫn cứ chạy theo vọng tưởng để tự chuốt lấy phiền não khổ đau.
Nếu những ai có túc duyên tu,
nghe lời nhắc nhở của người xưa, liền vận dụng vào đời sống tu tập và thấy có
kết quả an lạc ngay trong hiện tại. Ví dụ nghe thầy dạy như thế, chúng ta thấy
mình làm được, không đến đỗi khó. Điều đó chứng tỏ chúng ta đã từng hành trì
trong những đời trước, nên bây giờ thấy quen, thấy dễ. Tuy nhiên, nếu không
thực hành thường xuyên thì nó thành khó. Đó là điều ngay trong công phu hằng
ngày, chúng ta phải nghiêm cẩn, điểm trán từng sự việc như vậy. Nếu trị được
những thứ đó rồi thì phiền não không thành vấn đề. Cho nên các thiền sư nói phiền
não vốn không, hay phiền não tức Bồ đề.
Nếu người nào thực sự thấy phiền
não không thật, thì mọi hiện tượng trên đời này không làm gì được người ấy
được. Ăn mặc, ngủ nghỉ, tiền tài, danh vọng, địa vị… tất cả các thứ, không gì
động địa họ nổi. Từ đó chúng ta mới nhận ra ý nghĩa lời Phật dạy:
“Chư hạnh vô thường,
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui”.
Con đường, hướng tu hành của
chúng ta là như vậy. Sanh diệt còn, tịch diệt chưa được, thì chưa phải thiền.
Trên quá trình này, mỗi người chúng ta phải phấn đấu tích cực, dù gặp khó khăn
nhưng vẫn quyết định tiến lên, luôn luôn đi tới, để thể nghiệm được tinh thần
thiền như lời Phật dạy. Chúng ta hoàn toàn làm chủ những dấy niệm, phiền não,
thì chúng trở thành đồ bỏ thôi, có gì đâu. Người xưa nói người nào nhiều phiền
não thì giác đạo của họ lớn. Lời này không sai, vì tận nguồn của phiền não là
giác. Nhưng bây giờ chúng ta đang mê nên phiền não là phiền não. Lúc phiền não
mình bị nó sai sử. Vì vậy một ngày bị chừng vài phiền não sai sử là ta thấy
mệt, thấy đỏ mặt tía tai hết rồi, khổ lắm, đừng nói đến phiền não vô vàn. Chung
quanh cuộc sống này, lúc nào cũng bị vây nhiễu bởi bất an, phiền não, bức xúc.
Ăn không ngon cũng phiền não, ngủ không yên cũng phiền não, người bạn nói một
câu bất ổn cũng phiền não, không sắp đặt được việc gia đình cũng phiền não,
ngồi thiền không được cũng phiền não, không có thì giờ đi chùa cũng phiền não,
làm gì cũng phiền não được. Những lăng xăng không đáng gì mà làm chúng ta phiền
não cả ngày. Cho đến tu rồi cũng vẫn phiền não. Ví dụ hồi trước, quí vị chưa
tin kính Tam Bảo, gặp ai phỉ báng Tam Bảo quí vị thấy gợn buồn thôi, rồi bỏ
qua, thôi kệ ai làm gì làm. Nhưng bây giờ đã trở thành thiền sinh của đạo tràng
Trúc Lâm Thái Tuệ khoảng mười năm, nghe ai nói động đến Tam Bảo, quí vị sẽ thấy
bức xúc. Nếu chưa dạy cho người kia một bài học, quí vị thấy chưa yên. Rõ ràng
trong chúng ta luôn sẵn sàng hình thành phiền não. Cho nên tu không khéo chẳng
những không triệt được gốc phiền não mà vô tình còn nuôi dưỡng và làm tăng trưởng
nó hơn lên.
Ngài Đại Châu Huệ Hải đến Mã Tổ
hỏi Phật pháp, Mã Tổ nói: Kho báu nhà mình đầy đủ mà không chịu sử dụng, chạy
lăng xăng tìm cái gì? Ngài nhận ra liền và hỏi: Bạch thầy, kho báu nhà con là
gì? Tổ dạy: Chính cái ông đang thưa hỏi ta đó. Bao nhiêu đó đủ rồi. Do vậy ngài
Đại Châu về núi riêng tu tập, làm tất cả Phật sự không ngoài lời dạy của thầy
“kho báu nhà mình có đủ hết”, chỉ vậy thôi. Chúng ta thấy các thiền sư đâu có
nói nhiều, có khi các ngài nói ngược ngạo, khó hiểu nhưng thực sự các ngài chỉ
thẳng ý đó, không để người ta đi lòng vòng.
Một vị khác cũng trong pháp hội
của Mã Tổ, là ngài Pháp Thường. Khi đến thưa hỏi Phật pháp, Mã Tổ dạy: “Tức tâm
tức Phật”. Bao nhiêu đó Ngài về núi tu, hóa đạo lợi sinh cũng chừng ấy, ở núi
rừng hay thiền viện cũng chừng ấy, làm bất cứ việc gì cũng chừng ấy, tức tâm
tức Phật. Có một lần nghe đệ tử đã ra làm hóa chủ một phương nhưng chưa biết
tin tức ra sao, nên Mã Tổ cho người đến dọ thử. Hỏi: “Thầy được cái gì nơi thầy
mà về ở đây?”. Ngài trả lời: “Ta được thầy dạy tức tâm tức Phật”. Người đó nói:
“Bây giờ thầy dạy là phi tâm phi Phật”. Ngài liền trả lời một cách dứt khoát:
“Mặc cho ông già phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật”. Dứt khoát như
vậy. Vị kia trở về trình lại với Mã Tổ, Ngài gặt đầu nói: “Trái mai đã chín”.
Kế nữa là niềm tin của chúng ta
phải sống động và hiện thực. Các vị thiền sư ngày xưa tin pháp mà các ngài đang
áp dụng, việc các ngài đang làm, dù gặp sự cố phong ba bão táp gì, các Ngài
cũng vẫn bình thường, vẫn giữ vững lập trường như vậy. Có vị thiền sư nói:
“Kính bạch đức Thế Tôn, kính bạch liệt vị tổ sư, con tên..., hiện đời con phát
tâm tu thiền, do báo nghiệp nặng nề nhiều đời kiếp như thế nào, khiến con ngày
hôm nay tu hành dũng mãnh, nhưng vẫn chưa khắc phục được những báo nghiệp khó
khổ đau đớn này. Bây giờ đối trước Tam Bảo, đối trước đức Thế Tôn, bằng tâm
thành của con, con nguyện giả như ngay trong đời này, con tu hành với kiến giải
chân chánh này, mà không khắc phục được báo nghiệp của con, con chết đi, bị đọa
vào địa ngục thời gian dài vô số kiếp để trả cho hết những nợ nần đó, con vẫn
vui lòng. Kính bạch đức Thế Tôn, với tâm nguyện này trước Tam Bảo, trước đức
Thế Tôn, con nguyện khi được trở lại làm người, vừa mở mắt ra là con nhớ lại
chủng Bát nhã để tu hành cho mau”. Đó là lời khẩn thiết trình bạch tự tâm mình
của một vị tu thiền. Những lời này được phát lên từ những con người có niềm tin
vững chắc.
Chúng ta ngày nay có niềm tin
vững chắc chưa? Tôi gợi ý này để quí Phật tử kiểm lại xem, niềm tin của mình
thật vững chắc chưa. Có những trường hợp thế này, như ngày đầu xuân, quí vị rủ
nhau đi hành hương lễ Phật. Tới một ngôi chùa thấy trang nghiêm, có vị thầy
nói: Lại đây, thầy dạy cho pháp tu này ba tháng thành Phật. Lúc đầu quí vị định
không nghe, nhưng không hiểu sao cuối cùng quí vị đi theo. Hết ba tháng này tới
ba tháng khác, một năm tới ba lần ba tháng, ba tháng đầu năm là quý một, ba
tháng kế là quý hai, ba tháng kế nữa là quý ba… Bốn năm năm gặp lại, huynh đệ
nói: Ủa! sao mấy năm nay cô đi đâu không thấy về chùa. Bây giờ mới tâm sự
chuyện như vậy đó. Kể trong uất ức “Con xấu hổ quá, cãi lời thầy, để đi theo
một người mà mình không biết rõ đường lối và công phu tu hành của họ đúng hay
sai. Điều này rất nguy hiểm.
Tất cả chúng ta đều có một kiến
thức chân chánh, Phật là giác. Muốn được Phật rước thì phải giác, không giác
thì Phật không rước. Cho nên người tu niệm Phật cũng phải niệm Phật tha thiết,
như vậy Phật mới rước. Trở về pháp tu thiền, trước tiên hành giả có kiến giải
chân chánh rồi mới đến niềm tin vững chắc. Phật tử đã trải qua một thời gian tu
tập, quí vị ắt hẳn cũng biết, nếu không kiên quyết, không cố gắng, chúng ta sẽ
không có niềm tin với pháp môn mình tu. Từng việc làm, từng thời khóa dụng công
đều xứng hợp với lời dạy của Thầy tổ chỉ giáo. Như vậy chúng ta khả dĩ được
chút tương ưng, chút lợi lạc. Từ đó niềm tin vững chắc sẽ đến với chúng ta.
Rõ ràng nếu quí vị tu hành chân
chánh, hành trì đúng pháp, mỗi ngày công phu tăng trưởng, nhất định sẽ được
định tĩnh, ở đây tôi không nói tăng trưởng phước lạc tăng trưởng gì gì hết, mà
tăng trưởng định tĩnh. Chư huynh đệ đi chùa, sinh hoạt trong đạo tràng tu thiền
mà mỗi khi đối duyên xúc cảnh, mất bình tĩnh là biết mình tu hành chưa tốt.
Phải tự xét tự biết như vậy. Cho nên bình tĩnh là chuẩn mực để đo kết quả sự tu
tập. Bởi vì người tu thiền, nếu thiếu tỉnh sáng là chưa dính dáng, chưa thiền
định được. Dù cho chúng ta có ngồi một ngày bốn thời, một thời hai tiếng mà
không tỉnh sáng, cũng chưa gọi vào thiền.
Người được thiền định là người có
đủ định và tuệ. Lục Tổ dạy định tuệ đồng đẳng, nghĩa là khi đối duyên xúc cảnh
định tuệ viên mãn. Bây giờ chúng ta kiểm lại xem khi đối duyên tiếp cảnh, định
của chúng ta có vững không, nó hiện tiền hay vắng mặt? Nếu nó vắng mặt thì biết
mình chưa định hoặc định rất yếu. Định như vậy chưa chống nổi với nghiệp lực
sinh tử. Vấn đề sinh tử, Hòa thượng nói giống như đêm ba mươi tăm tối, ta phải
giải quyết sự việc đó một mình, liệu xem ta đủ sức để nói chuyện với quỷ vô
thường không hay là lúc đó mình khiếp hoảng. Nếu khiếp hoảng thì chưa đủ sức.
Người tu Tịnh Độ khi lâm chung,
nếu niệm Phật được định tĩnh thì Phật hiện đến rước, còn người tu thiền khi lâm
chung ai rước? Vì hằng ngày chúng ta không cầu ai rước nên lúc đó đâu có ai
rước, mình phải tự chọn đường mà đi chứ. Cho nên người tu thiền phải gan dạ,
làm chủ lấy mình, không bị phiền não quấy rầy, niềm tin vững chắc thì tự tại,
không còn bị nghiệp lực dẫn đi trong các đường.
Điều mà các Phật tử cần phải nhớ
là luôn luôn tỉnh. Niệm ban đầu vừa móng khởi là tỉnh lền, đừng để qua niệm thứ
hai. Nếu không kịp tỉnh để qua niệm thứ hai là thua rồi. Nó sẽ nối tiếp nhau
dẫn mình chạy, không dừng được nữa. Chúng ta phải làm chủ được, phải kiện toàn
niềm tin của mình đối với chánh pháp. Nếu không làm chủ được thì vô vàn sự kiện
nối nhau làm ta rối rắm lắm. Chư vị tổ sư dạy chúng ta phải sống được với ông
chủ. Ông chủ của chúng ta là gì? Sáu đường sáng suốt nơi mỗi chúng ta không hề
thiếu vắng ông chủ. Sáu đường hay sáu đoạn thần quang luôn sáng suốt vững vàng
đầy đủ trong ta. Vậy thì đừng để bị lệch hoặc trôi giạt, làm hỏng đi các thần
quang của mình. Làm chủ tức là bảo vệ thần quang của ta, đừng làm gì trái lại
với tâm nguyện, với công phu của mình là xoay lại thần quang. Vì vậy các thiền
sư Việt Nam thường dạy phải phản quan tự kỷ.
Mắt chúng ta sáng, tai chúng ta
thính, miệng chúng ta nói, mũi chúng ta ngửi… Các cảm xúc toàn thân chúng ta
biết, lúc nào nó cũng đầy đủ. Nhưng nếu khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tâm
dấy khởi phân biệt thì chúng ta quên mất nó, vì mắc chạy theo trần cảnh bên
ngoài. Chúng ta khác người xưa ở chỗ đó, cho nên mình khổ, mình vướng mắc. Bây
giờ các ngài muốn chỉ dạy chúng ta làm sao sửa đổi lại, thấy là thấy tự nhiên
như vậy, sáng suốt rõ ràng như vậy, đừng thêm phân biệt đối đãi. Như bây giờ
chúng ta ngồi đây, những cảm nhận chung quanh ta biết, nóng hay lạnh, hoặc có
vật gì đụng chạm ta biết. Nếu không biết thì thân này bị chết sao? Mình được
vinh dự là có cả sáu đạo thần quang. Sáu đạo thần quang ấy giàu có vô lượng,
nên chúng ta không thể nào không thấy không cảm nhận, không biết tất cả những
gì chung quanh.
Kế đây tôi sẽ nói đến những thần
dụng của sáu đạo thần quang. Ví như người có khiếu về âm nhạc, họ luyện tập,
học nghe, học sáng tác, thông nhạc lý từ xưa tới nay, nhạc tính thế nào họ
thông hết. Người ấy nghe tiếng liền có thể định được âm thanh trên thuộc ngũ âm
hay bát âm. Do vậy người nhạc sĩ có thể tập trung âm thanh để phối khí cho
những bản nhạc. Vì thế một bản nhạc chúng ta nghe, gồm nhiều thứ âm thanh hợp
lại hòa tấu. Tóm lại nếu chúng ta sử dụng được hết sáu đạo thần quang thì mình
giàu có muôn hộ. Đức Phật đã nói chúng sanh giàu có muôn hộ, chứ không phải
nghèo thiếu đâu.
Cho nên đối với các thần quang,
nếu chúng ta sử dụng được, nó sẽ có thần dụng. Bấy giờ sáu đạo thần quang sẽ
thành lục thông. Khi đó chúng ta sống nhẹ nhàng, vơi hết những phiền não bất an
bất ổn. Một khi trong tâm đã sáng suốt, định tuệ hiện tiền, chúng ta luôn luôn
an vui vì đã vượt thóat khỏi sự trói buộc của nghiệp lực. Phật pháp độc đáo
nhất ở chỗ này. Chư tổ bảo buông hết đi thì việc gì mà chẳng xong. Cho nên có
những vị trình bày với thầy dài dòng, khóc sướt mướt việc như thế như thế.
Nhưng cuối cùng sư phụ chỉ nói: Thôi bỏ đi con. Thế là xong.
Người áp dụng đúng lời Phật dạy
nhất định sẽ được định tuệ. Định tuệ đầy đủ thì sẽ làm chủ được, sẽ an vui giải
thoát. Đó là bước trên con đường xưa để về lại ngôi nhà cũ của mình. Chúng ta
vững niềm tin, làm chủ lấy thì tất cả phiền não lỉnh kỉnh sẽ hết. Tinh thần của
nhà thiền là tất cả phải buông, vì các pháp vốn không thật. Hòa thượng Ân sư có
bài kệ “Mộng” cũng nói lên ý này. Mộng tức là không thực, đã không thực thì nắm
giữ làm chi cho nhọc công phí sức.
Chúng ta là đệ tử của Phật, của
Hòa thượng, nên phải nhớ lời ngài dạy. Sang năm mới, bắt đầu việc tu học mới,
biết tất cả hiện tượng chung quanh không thật, tất cả pháp trần là ảo mộng,
phiền não vốn không, thì theo duổi nó làm chi. Buông bỏ hết. Những điều như
vậy, chư huynh đệ hội hữu trong đạo tràng, nếu bước thật vững trên con đường
đạo thì cố gắng nỗ lực tu học tăng tiến, phiền não không làm gì được, ngay đây
chúng ta tự tại an vui.
Hôm nay đủ duyên lành chúng tôi về đây dự chứng ngày khai pháp của đạo tràng. Trước nhất tôi xin nhắc lại lời người xưa để chư huynh đệ nhớ và hành trì cho được viên mãn. Kế nữa sang năm mới, tôi cũng xin được thay lời đại chúng gởi đến toàn thể quí Phật tử lời chúc mừng năm mới. Chúc quí vị luôn an lạc, dứt sạch phiền não, tự tại bước trên con đường xưa thênh thang.
Vấn Đề Nghiệp Báo
Nghiệp là một vấn đề hết sức quan
trọng đối với tất cả chúng ta. Dù là Phật tử hay không phải Phật tử, các vị
cũng biết nghiệp và bị nó chi phối, đây là định luật không ai thoát khỏi. Tuy
nhiên là Phật tử, chúng ta hiểu và biết cách chuyển hóa nghiệp. Ban đầu từ
những nghiệp không tốt chuyển thành nghiệp tốt. Tu lâu xa hơn thì đi đến dứt
sạch nghiệp.
Vì sao nói nghiệp là định luật?
Vì không chúng sanh nào thoát khỏi nghiệp riêng của mình hết. Như chúng ta đang
mang nghiệp làm người. Trong sự sống những việc ăn mặc, làm việc, tiếp xúc,
chúng ta bị nghiệp của mình chi phối. Nghiệp này chẳng những chi phối trọn đời
chúng ta, mà còn trích trữ để chuẩn bị cho những đời kế tiếp nữa. Muốn giải
quyết dứt điểm vấn đề quả thật khó khăn. Bởi nó liên hệ tới ba đời quá khứ hiện
tại và tương lai. Trong kinh nhân quả nói: “Muốn biết tương lai của mình thế
nào cứ nhìn thẳng vào hành động hiện tại”.
Nhìn vào một gia đình, chúng ta
không thể kết luận vì sao họ lại có hoàn cảnh như thế. Theo tinh thần nhà Phật,
sở dĩ hôm nay gia đình như vậy là do quá khứ các thành viên của gia đình đó đã
tạo những nghiệp nhân xấu hoặc tốt thế nào đó, đời này có quả báo tương ứng.
Nhìn vào hiện tại chúng ta có thể đoán định được gia đình đó sẽ có một tương
lai thế nào. Nói nghiệp tức là nói tới hành động của chúng ta trong quá khứ,
hiện tại dẫn tới vị lai. Nếu là hành động của mình thì chúng ta có quyền chuyển
nó. Giả dụ đời ông nội mình làm ruộng, đến đời mình cũng làm ruộng, nhưng sang
đời con cái mình, nó học hành thăng tiến nên hết làm ruộng. Nó bán ruộng để làm
các xí nghiệp, áp dụng phương thức khoa học, tổ chức theo đời mới. Đó là chuyển
nông nghiệp sang công nghiệp.
Nghiệp lực cũng vậy. Hành động
của chúng ta trước đây xấu, bây giờ mình chuyển thành tốt. Nếu quyết tâm thì
chuyển được. Ví dụ hồi trước quí vị không thể ăn chay, không thể đi chùa, không
thể tụng kinh ngồi thiền, bây giờ có thể làm các việc công đức ấy. Ngày xưa
thấy người đi xin quý vị không nhìn tới, bây giờ biết lấy tiền ra cho tùy theo
khả năng của mình, sẵn sàng tham gia những việc từ thiện xã hội. Đó là chuyển
nghiệp bất thiện sang nghiệp thiện. Đây là điều kiện thuận lợi cho chúng ta suy
nghiệm tu tập. Bởi vì tu là sửa đổi, quán chuyển, loại bỏ những thứ không cần
thiết, tích lũy công đức trí tuệ để đi tới mục đích cứu cánh là thanh tịnh giải
thoát. Việc này ai cũng làm được, già trẻ luôn cả những người bệnh hoạn nhất
cũng có thể tu tập được.
Tuy nhiên quyết tâm chuyển nghiệp
hay không đó mới là điều chủ yếu của mỗi chúng ta. Thành ra trong kinh nói:
“Chính chúng ta phải lãnh phần trách nhiệm về những hành động của mình trong
quá khứ, để bây giờ gặt hái sự an vui hay đau khổ trong hiện tại. Chính ta tạo
thiên đàn cho ta, cũng chính ta tạo địa ngục cho ta. Ta là người xây dựng tương
lai của mình.” Cho nên muốn hoán chuyển nghiệp hay không là tự mình. Nghiệp của
mình thì mình chịu, nên thể trông chờ, ỷ lại ai giải quyết thay thế mình. Như
trong gia đình, mỗi người con đều có phương thức làm ăn, cha mẹ chia của đầy
đủ, đứa nào siêng năng giỏi giang thì thành công, đứa nào lười biếng nhác nhúa
thì thất bại. Những đứa con sáng suốt biết làm ăn, tạo được tài sản là do cần
cù, khéo léo, có phương pháp, có trách nhiệm thì chúng sẽ xây dựng được sự
nghiệp. Những đứa con ỷ lại cha mẹ, mong mỏi người khác giúp đỡ, cứ như thế thì
không làm được gì cả. Tinh thần của đạo Phật không chấp nhận người như vậy. Tạo
thiên đường cũng mình, mà thành địa ngục cũng mình, chớ không ai khác. Sự giúp
đỡ lo lắng của cha mẹ, sự bảo bọc của người thân có một giới hạn nào thôi. Nếu
chúng ta nhận định chính xác như vậy, thì trong đời sống không ỷ lại, không buông
trôi. Vì ta biết rõ sự an lạc tốt đẹp từ công sức khả năng của mình gầy dựng
nên. Người tu hành không thể ngồi đó cầu đức Phật hoặc Bồ Tát đến xoa đầu an ủi
hứa sẽ rước lên Niết bàn. Chúng ta biết rằng tu được hay không là do mình, tốt
đẹp hay không cũng do mình. Đức Phật chỉ là bậc đạo sư, mỗi chúng ta tự thực
hành. Dân quê hay nói: Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc.
Quí vị thử nghiệm xem từ đâu có người yểu,
người thọ, người bệnh người mạnh, người xấu người đẹp,… Có người làm gì cũng không
ai làm theo, nói gì cũng không ai nghe theo. Nhưng có hạng người làm gì cũng có
người làm theo, nói gì cũng có người nghe theo? Hoặc khi quí vị buồn khổ quá,
tự hỏi không biết do đâu mình lại khổ đau như vậy v.v... Đây là những vấn đề
trong kinh nhân quả, Phật tử có hiểu mới áp dụng Phật pháp vào đời sống, từ đó
hết khổ được vui.
Trong kinh dạy: “Tất cả chúng
sanh đều mang theo nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như
người chí thân, như chỗ nương tựa. Chình vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác
nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sanh.” Như thế mỗi người đều có nghiệp riêng
không ai giống ai hết. Quý vị thấy chúng ta bao nhiêu người là bấy nhiêu nét,
không ai giống ai hết, kể cả anh em sinh đôi cũng không thể hoàn toàn giống
nhau y hệt. Như cha con ruột, con giống cha cũng giống điểm nào thôi, còn rất
nhiều điểm không giống. Bởi lẽ không giống nên dân quê nói: “Sanh con há dễ
sanh long”. Sanh con được chớ không sanh được lòng con. Nói thế nghĩa là con có
những diểm không giống cha mẹ.
Người cả đời sát sinh như thợ
săn, hằng ngày sống trong sự giết chóc và gây nghiệp thương tích không chút xót
thương đối với chúng sanh. Người này nếu tái sanh làm người thì không sống lâu,
tức là yểu mệnh. Đối với mạng sống chúng sanh họ không chút thương yêu, bàn tay
luôn luôn làm việc sát hại nên kết quả họ tái sinh làm người thì mạng sống họ
ngắn ngủi, bệnh hoạn liên miên. Biết như vậy rồi Phật tử không bao giờ hiếu
sát, đó là tu. Quý vị đừng nghĩ rằng phải xuất gia như quý thầy, ăn chay giữ
một hai trăm điều giới mới gọi là tu. Không phải! Đó là hình thức, là phương
tiện giúp cho người tu hoàn bị tư cách của mình. Người xuất gia mặc áo Phật
phải giữ những điều giới cho hợp với tư cách của người xuất gia, còn việc tu
thì y cứ trên tâm chuyển hóa, sửa đổi tu tập của mỗi người, không lập cước theo
hình thức bên ngoài. Phật tử biết người chết yểu là do có tính hiếu sát, thì
bây giờ không gây nhân đó nữa. Trong mọi sinh hoạt quí vị luôn nghĩ nhớ thương
tưởng sinh mạng chúng sanh, tránh gây thương tổn cho chúng. Nếu làm được như
vậy là tu.
Người luôn luôn thận trọng không
hề xúc phạm đến đời sống của kẻ khác, sống xa guơm đao giáo mác và các loại khí
giới. Lấy lòng từ ái đối xử đối với tất cả chúng sanh, người này tái sanh được
trường thọ. Trái lại với người yểu thọ là người sống luôn luôn thận trọng không
hề xúc phạm đến mạng sống của chúng sanh. Trong giới sát, Phật tử cố gắng giữ
được bao nhiêu hay bấy nhiêu, quan trọng là tuyệt đối không được giết người. Kế
đến là mạng sống của những con vật lớn trâu bò, những con vật mình nuôi. Ngoài
ra Phật tử luôn có lòng trắc ẩn không nở làm hại những con vật yếu đuối cô thế
hơn mình. Nếu quí vị hoán chuyển hướng sinh hoạt như vậy là biết tu, kết quả là
sẽ được trường thọ. Phương pháp đức Phật hướng dẫn chúng ta tu rất khoa học,
không có gì huyền bí cả. Phật không dạy thần thánh đến ban tuổi thọ cho mình,
do tự ta thôi. Vì vậy Phật tử không ỷ lại, không trông đợi vào thế lực khác.
Muốn yểu thọ hay trường thọ đều tự mình, không ai có thể được.
Lại nữa, kẻ độc ác luôn tìm cách
hại người, dùng gươm đao đối xử với người… Kẻ này nếu tái sanh làm người, thân
thể ương yếu bệnh hoạn”. Quý vị thấy ai thân thể ương yếu, luôn bệnh tật không
có sức khỏe v.v... thì biết người này gây nhân tác hại đến chúng sanh. Phật tử
không muốn thân thể yếu đuối bệnh hoạn mà bây giờ phải mang thân bệnh hoạn thì
biết hồi trước mình gây những nghiệp nhân ác, như dùng gậy gộc, đấm đá, đao
gươm sát hại chúng sanh. Cho nên bây giờ mang báo nghiệp như thế. Biết như vậy
chúng ta ăn năn chừa bỏ không gây nhân đó nữa, tức là biết hoán chuyển nghiệp,
biết tu.
Người nào không làm tổn thương
người khác, đủ đức tánh hiền lương nhu hòa, khi tái sinh có thân thể khỏe mạnh.
Điều này rõ ràng hợp với đạo lý dân gian. Chữ “nhu” là mềm diệu, chữ “hòa” là
hòa hợp. Người lúc nào cũng mềm diệu hòa hợp, thương tất cả mọi người, không
gây tổn hại ai, người đó hiện tại được quả báo tốt và đảm bảo tương lai có thân
thể khỏe mạnh cường tráng. Người thô lỗ, cọc cằn, luôn giận dữ, chửi mắng
nguyền rủa người khác, khi tái sanh mang thân xấu xí. Chúng ta không ai muốn
mình xấu xí nhưng cứ chửi mắng cọc cằn, giận dữ với người thì làm sao xinh đẹp
được. Cho dù quý vị dùng son phấn hoặc phương tiện văn minh sửa sắc đẹp tới
đâu, nó cũng chỉ bên ngoài thôi, không phải là cái thật thì không thể bền lâu
được. Muốn tráng kiện đẹp đẽ như Phật, Bồ Tát thì phải tu sửa trong tâm, chớ
không phải sửa bên ngoài. Như kẻ thô lỗ cọc cằn, hay nguyền rủa chủi mắng người
khác, bây giờ sửa lại không thô lỗ cọc cằn nữa mới được dáng vẻ xinh xắn dễ
nhìn, dễ coi.
Khi giận lên muốn chửi mắng người
ta, mình hiện tướng thô lỗ cọc cằn, như vậy lâu ngày quen theo tướng đó nên rất
xấu xí khó coi. Như tôi nghe nói tài tử đóng vai Tề thiên được huấn luyện thật
lâu mới làm được hành động của con khỉ, tới chừng hết đóng phim, tay anh ta vẫn
cứ khều khều, mặt nhăn nhăn. Nói chuyện một hồi tự nhiên anh lấy tay móc móc
mặt nhăn nhăn y như khỉ đột. Chúng ta cũng vậy, nếu cứ để những bực tức hiện ra
tướng xấu hoài, coi chừng mai mốt mặt mày xấu xí, không sửa được.
Người thanh tao nhã nhặn, dù bị
chửi mắng cũng không oán giận, tìm cách trả thù. Chúng ta thấy Phật, Bồ Tát
không khi nào bị người ta chửi mà tìm cách chửi lại. Điều này giúp chúng ta
thêm một kinh nghiệm, khi ra đường thấy ai tự xưng mình là Phật, Bồ Tát, khi ấy
có người mắng chửi họ, họ chửi lại thì ta biết đây không phải Phật, Bồ tát thật
rồi. Phật, Bồ Tát thật không khi nào có tâm mạ nhục, ác độc, trả thù chúng
sanh. Thật ra người ta chửi mình mà mình không giận là cả một vấn đề. Người ta
nói xấu mà mình bình yên tươi cười, không có tâm giận tức, muốn trả thù là việc
làm của Phật, Bồ Tát rồi. Cho nên phải là người có công phu mới thực hành được
như vậy.
Người có tánh đố kị, thèm thuồng
ham muốn lợi danh của người khác, không biết tôn kính người đáng kính, luôn
chứa chấp lòng ganh tị. Khi tái sanh, người này không có ảnh hưởng, nói gì
không ai nghe, làm gì không ai theo. Huynh đệ muốn nói gì cũng có người nhất
trí theo mình, trước nhất không nên mang bệnh tật đố, ham muốn lợi danh của
người khác. Bởi vì trong lòng mình không còn bệnh tật, tâm đố kị, ganh ghét đó
là đã loại nhân xấu ra. Tinh thần tu học trong đạo Phật rõ ràng như vậy. Cho
nên Phật, Bồ Tát thật không bao giờ hiện tướng cho chúng ta dễ nhận đâu. Có khi
các ngài hiện ra những dáng dấp mình không lường nổi. Bởi không lường nổi nên
ta dễ sai phạm. Người biết tu vượt qua cửa ải này dễ dàng không khó, người
không biết tu không vượt qua được.
Như ở Trung Hoa sách sử ghi lại
Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Di lặc, Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện ra hình thức trong
lớp ăn mày ăn xin dơ bẩn bần tiện, nếu là người thật tu thì không có niệm chê
bai, phỉ báng các ngài. Chúng ta nhìn lại mình còn những tật tham lam, tật đố,
ganh ghét, gặp người không sẵn sàng ủng hộ chúng ta lại buồn. Từ buồn sanh ra
nghi kị, có những sự kiện làm mất đi tình cảm xóm làng, bà con, nên chúng ta
phải bỏ thói xấu ấy. Bỏ thói xấu nghĩa là chuyển hóa nghiệp vậy.
Muốn tu tiến quý vị phải có sự
nhẫn chịu, đó là sức mạnh. Bình tỉnh sáng suốt nuôi dưỡng sức mạnh, gầy dựng
công phu tới khi nào được hoàn chỉnh. Chúng ta thường bị vọng tưởng lăng xăng,
điên đảo kéo lôi, mở con mắt ra là bị chúng kéo đi từ sáng tới trưa, từ trưa
tới chiều, từ chiều tới tối. Cho tới nhớ lại đã quá muộn. Thế nên phải hàm
dưỡng công phu thật liên tục, bền lâu, hy vọng có đủ sức mạnh chiến thăng với
nghiệp lực, với vọng tưởng.
Nếu người giàu lòng quảng đại,
tính ưa bố thí, biết phục thiện không kiêu hãnh, trọng người đáng kính, người
lễ độ như thế kết quả sẽ được quyền quý, có học thức, có địa vị. Người chịu gần
gũi người có trí tuệ, tìm hiểu học hành nhất định sống tốt hơn những người
không có học. Phật tử muốn hiểu đạo lý cho đúng, ít ra phải đọc sách, nghe chư
Tăng thuyết pháp. Không khi nào tự dưng chúng ta hiểu, hay chỉ nghe người chung
quanh nói lan man mà có thể hiểu đúng đắn được. Phật bảo người đến với đạo Phật
hãy nghe, suy ngẫm hiểu cho chính chắn rồi hãy tin. Đừng bao giờ vội vàng tin
càng. Có thế chúng ta mới trở thành người Phật tử hiểu biết đạo lý, có kinh
nghiệm hành trì, có cái nhìn sâu sắc. Ứng dụng đạo lý Phật dạy vào đời sống,
quí vị sẽ ảnh hưởng tốt đến xã hội. Xã hội Việt Nam chúng ta đang cần được xây
dựng lại nền tảng đạo đức. Vì dân tộc đã trải qua một thời kỳ nhiễu nhương, bây
giờ cần những điều hay lẽ phải để xây dựng con người tốt, gia đình tốt, xóm làng
tốt, xã hội tốt.
Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện của
mỗi gia đình, Phật tử áp dụng đạo lý Phật dạy vào đời sống để trở thành người
công dân Việt Nam mẫu mực. Có tu, có thực hành tức là có sửa, nhất định sẽ có
kết quả tốt. Quí vị khỏi cầu nguyện cúng vái cho xã hội tốt, xóm làng tốt, con
người tốt mà chỉ cần mỗi thành viên sống tốt là tất cả đều được cải thiện tốt.
Việc cầu nguyện không mang lại kết quả thiết thực, nếu chúng ta không hành động
thiết thực. Thành ra người Phật tử phải là người hành động thiết thực. Muốn là
một công dân tốt thì phải làm tròn bổn phận, nghĩa vụ cá nhân mình đối với cộng
đồng, sắp xếp mối tương giao trong gia đình và xã hội nhu hòa, vững bền trong
tinh thần tỉnh sáng, đầy đủ đạo đức.
Cuộc sống nói cho cùng có là bao
lâu! Phật tử lớn lên lập gia đình lây quây một thời gian rồi già, bệnh, chết.
Điều này không ai chạy trốn thoát, mọi người đều phải đi chung một con đường
như thế. Chúng ta là người con Phật, không thể nào ngồi đợi già, bệnh, chết ập
đến mà phải chuẩn bị. Tu tập, gầy dựng một cái già, bệnh, chết có ý nghĩa đúng
với tinh thần đạo Phật. Người hiểu Phật pháp rồi sẽ thấy nhẹ nhàng khi thân này
bệnh, vẫn vui vẻ trong sinh hoạt thường nhật. Có áp dụng Phật pháp quý vị mới
cảm nhận được sự có mặt của mình trong xã hội là có ý nghĩa. Không phải ta sinh
ra rồi mai mốt chết đi, mọi người đều quên lãng. Sự hiện diện của mỗi người
chúng ta không bị nghiệp xấu thúc bách, kéo lôi mà mình chuyển hóa tu tập tạo
những nghiệp tốt. Như vậy ngày mình từ giả cuộc đời ra đi cũng có giá trị.
Quý vị thấy không khi nào một
người cha người mẹ xứng đáng mất đi mà trong gia đình không có người khóc.
Chẳng những người trong gia đình mà những người chung quanh cũng ngậm ngùi tiếc
thương. Ai cũng thấy dường như mất đi một cái gì quý giá nên tự nhiên cảm xúc.
Ngược lại, bình thường mình như cọp beo, người ta nghe mình chết, họ nói đáng
đời ông đó. Nếu ta để lại cho đời ác cảm như thế thì cuộc đời mình còn ý nghĩa
gì nữa. Chúng ta là Phật tử, không phải đều tốt hết, cũng có cái tốt cũng có
cái chưa tốt. Do đó theo lời dạy của Phật chúng ta cố gắng tu tập chuyển hóa
cho được tốt đẹp hoàn thiện. Quí thầy cố gắng làm, cố gắng tu rồi hướng dẫn
Phật tử cùng hiểu, cùng sửa đổi tập nghiệp xấu để hiện tại chúng ta là người
tốt, đảm bảo tương lai cũng được tốt đẹp. Sự hiện hữu của chúng ta như thế mới
có giá trị.
Chúng tôi hy vọng đạo Phật sẽ
giúp cho tất cả chúng ta chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc, mỗi người Phật tử
sẽ là một vị Phật tương lai, độ mình và độ người vượt qua dòng thác tử sanh.
Muốn thế chúc quí vị tu tập tốt, có kết quả thiết thực trong đời sống hiện tại
cũng như vị lai.
Tinh Thần Tu Học Của Người Con Phật
Hôm nay là ngày đầu năm, với tâm
thành chúng ta hướng niệm chúc nguyện cho Phật pháp còn mãi trên thế gian để
mọi loài đều được thấm nhuần mưa pháp, ngõ hầu cuộc đời hết khổ được vui.
Trong buổi nói chuyện đầu năm tại
tổ đình Thiền viện Thường Chiếu, chúng tôi muốn nhắc nhở quí Phật tử tinh thần
tu học của người con Phật. Bởi vì nhiều Phật tử đi chùa nhưng người thân không
hoan hỷ. Bây giờ quí vị tu hành thế nào để người chung quanh dần dần bớt đi
những chướng ngại. Có thế việc tu tập mới lợi lạc, chớ càng đi chùa mà tình cảm
gia đình càng đổ vỡ thì Phật pháp không thể tồn tại trên thế gian được. Mẹ đi
chùa con không đồng ý, anh chị đi chùa, em út bài bác. Những trường hợp như
thế, nếu quí vị không để ý, cứ làm tới một thời gian, nhất định sẽ đổ thôi. Vì
vậy Phật tử nên quan tâm đến vấn đề này để có thể thực hiện tâm nguyện tu hành
của mình, không làm thương tổn đến người thân. Hay hơn nữa là chuyển hóa cả gia
đình đồng tình, ủng hộ và tham gia tu tập với mình. Được vậy mới thật xứng đáng
là con của Phật.
Tôi có một người huynh đệ rất
thông minh, thường về thiền viện thăm tôi. Anh nghịch với bà chị dâu trong nhà
nên cứ theo dõi, đợi bà chị có sơ hở là tấn công liền. Nguyên nhân là vì anh
không chấp nhận pháp tu của bà chị dâu. Một hôm không cho bà chị biết, anh đến
chỗ vị thầy của người chị. Sau khi quan sát và nghe cách nói chuyện của vị
thầy, anh biết đây không phải là người tu chân chánh. Bởi vì chủ đích của đạo
Phật là giác ngộ giải thoát, nhưng vị thầy ấy dạy môn đệ của mình cứ lập gia
đình, có vợ con sẽ được khoái lạc tự tại. Kể từ đó anh bài bác, phản đối bà chị
dâu triệt để, dẫn tới kết quả hai chị em bị nghịch nhau rất quyết liệt, không thể
thông cảm được.
Tôi muốn nói trường hợp trong nhà
có những người thân học đạo, cùng hướng về Tam bảo nhưng không đồng quan điểm,
nếu không hóa giải được, quí vị sẽ làm hỏng cả công phu của mình và những người
chung quanh. Trường hợp này mình phải làm sao? Đây là vấn đề đòi hỏi chúng ta
phải tế nhị. Tế nhị ở chỗ tinh thần, pháp hành, tư cách của mỗi người. Chúng ta
tu theo đạo Phật nhất định phải giữ sự thanh tịnh cho mình và người. Nếu không
thanh tịnh giải thoát thì dù làm gì, được gì chăng nữa cũng phi pháp. Tôi cũng
đồng ý với người huynh đệ trên tinh thần tu tập, nhưng cách hành xử của chúng
ta phải tùy duyên, sáng suốt mới không gây phiền não cho mình và người. Cốt tủy
là như vậy nhưng mình phải nuôi dưỡng, phát huy, gia tâm thực hành chứ không phải
nói mà được. Tôi khuyên người huynh đệ, phải có thái độ trao đổi, thiện chí, vị
tha để nâng đỡ, hỗ trợ nhau trên bước đường tu học, không thể có thái độ, ngôn
ngữ đả kích bắt người ta phải nghe theo mình.
Bởi vì mỗi chúng ta là một chúng
sinh đang nỗ lực tu, nên lời nói của mình có giới hạn của nó. Ta phải sử dụng
ngôn ngữ thật tế nhị. Tôi thấy anh bạn của mình không được tế nhị. Tại sao? Vì
anh nghĩ mình là em, là người thân nên đối với bà chị, tuy anh nói đúng nhưng
cách nói không đúng, do vậy bà chị không chịu nghe. Do vậy tôi đề nghị anh phải
chỉnh lại chỗ này. Quí Phật tử lưu ý đạo đức, tư cách của mình rất quan trọng
đối với người thân.
Thế hệ trẻ ngày nay khi được cha
mẹ nhắc nhở, nó nói mai mốt con lên con méc thầy ba còn đi chơi, còn hút thuốc
mà lại rầy con. Như vậy là biết mình còn chưa ổn. Một chút như vậy thôi, nếu
mấy đứa nhỏ nêu lên, rõ ràng mình có vướng. Vì vậy tư cách, đạo đức thể hiện
qua tinh thần của đạo Phật, phải đi từ sự thể nghiệm chắc thực trong cuộc đời
tu hành, chứ không phải nói khơi khơi cho thỏa thích. Đạo Phật không chấp nhận
như vậy.
Cho nên chúng ta phải xét lại nội
tâm khi tu, phải sống thật đạo đức và nâng cao đạo đức tâm linh ngày càng trong
sáng hơn. Có khi vì những cái lợi nho nhỏ, chúng ta lại làm mờ đi ánh sáng tâm linh.
Nếu người có công phu, thực sự thể nghiệm thì tâm chẳng những yên mà còn sáng
nữa. Khi nào tôi nhìn cái gì cũng bực bội hết là biết công phu của mình lượm
thượm, không tốt nên sự thể hiện ra ngoài bất ổn. Sự thể hiện ra ngoài bất ổn
thì đụng, giống như lửa với lửa đụng nhau, cứng với cứng cộm nhau, nhọn với
nhọn choảng nhau. Trong kinh nói một vị chứng thánh, tất cả loài hữu tình chung
quanh vị đó đều được ảnh hưởng sự an lạc. Đó là biểu hiện nội tại của những bậc
thánh có công đức lực.
Thánh nhân là những vị trải qua
thời gian tu hành miên mật, lâu xa, nội tại đầy đủ, không bị khiếm khuyết trong
công phu. Như chúng ta bây giờ tu chưa tới đâu, phải gắng gổ lắm mới được một
chút khinh an, làm sao có đủ công đức như các ngài. Tuy nhiên nếu quyết tâm, mình
cũng sẽ đi đến chỗ cứu kính ấy. Bây giờ chúng ta làm, chúng ta sống với quyết
tâm nhất định sẽ đi đến đích. Công đức lực tức là sức mạnh của việc làm chân
chánh bền bĩ mà ra. Nó viên mãn, tròn đầy, vững chắc thì thành lực.
Ngay như trong nhà hoặc bố mẹ,
hoặc anh chị, hay những đứa em, nếu người thực sự có chất đạo đức, quí vị tiếp
xúc với họ có cảm nhận khác. Còn người biểu hiện cách sống theo bản ngã, theo
nghiệp lực thì khi tiếp xúc quí vị thấy khác. Do vậy với người tu, tinh thần
gìn giữ giới luật, tập trung đời sống theo hướng tịnh hóa thân tâm phải luôn
luôn đặt hàng đầu. Một khi chúng ta không tự kiểm, không làm chủ được, tập
thành thói quen xấu rồi thì theo nghiệp luân chuyển mãi. Chỉ có đạo lực, công
phu mới thắng, mới dừng được nghiệp. Không tiêu hóa nổi phiền não, nó sẽ bung
ra ánh mắt, cử chỉ, ngôn ngữ… dù là một hành động nhỏ thôi, nhưng cũng sẽ làm
cho người đối diện không dám hay không muốn đứng gần.
Công đức lực của các vị đại Bồ
tát rất lớn. Như Bồ tát Quán Thế Âm, một bước đi của ngài chấn động cả tam
thiên đại thiên thế giới, mọi người đều cảm nhận an lạc, chẳng những loài người
mà những loài khác cũng vậy. Bước chân của Bồ tát Đại Thế Chí phát ra hào quang
sáng suốt, hương thơm lan tỏa, đem đến sự an ổn cho chúng hữu tình. Người tu
chúng ta phải luôn tế nhị xét lại để bảo vệ chủng tử Phật nơi chính mình. Chúng
ta phải giải trừ, cắt bỏ những gì không cần thiết, làm chướng ngại công phu tu
hành của mình. Lúc nào cũng nghĩ nhớ đến mục đích vì giác ngộ giải thoát mà gạt
qua mọi vọng tưởng đảo điên, quyết bảo vệ kỳ được công phu tu hành. Đó là giá
trị đạo đức chắc thực của người tu.
Chúng ta có nhân duyên to lớn mới
gặp Phật pháp, có điều kiện phát huy trọn vẹn nhân duyên đó mà không chịu cố
gắng thì thật đáng tiếc. Cho nên quí Phật tử đừng bao giờ bỏ qua cơ hội nào để
thành tựu đạo nghiệp cho mình. Bởi vì một khi chúng ta bỏ qua rồi không biết
bao giờ mới gầy dựng lại được. Trong đời sống, chúng ta luôn đối đầu với tham
sân, phiền não. Đừng nói những vấn đề lớn lao như trách nhiệm đối với đoàn thể,
xã hội, nội chuyện bản thân mình thôi, có khi ta thấy bực bội hết sức. Ví dụ
lúc tết, mình đâu muốn bệnh mà nó ho, mình đâu muốn chảy mũi mà nó cứ khì
khịch, cái thân này bày ra đủ chuyện. Có khi mình thấy nổi nóng với nó mà rồi
chẳng làm gì được nó. Có nhiều người nam nóng dằn không được, đập bàn một cái
rầm. Sau đó nghĩ lại tức cho mình, đập như vậy thì được gì đâu, chỉ thấy khùng
thêm chứ có lợi ích chi. Cho nên Phật tử làm sao giải trừ được những nghiệp
tập, những chủng tử mình đã huân tập từ nhiều đời. Nếu xem thường, không tu
tập, không chuyển hóa thì nhất định sức nghiệp sẽ kéo lôi quí vị đi theo nó.
Nói đến nghiệp lực, tôi nhớ câu
chuyện này. Có một vị tăng đã xuất gia, ban đầu phát tâm tu hành mạnh lắm. Thầy
ăn nói lưu loát, trôi chảy nên đi theo con đường diễn giảng. Do vậy nghi biểu
bên ngoài thầy phải gìn giữ kỹ lưỡng. Thầy kể khi chưa tu, gia đình công chức
tương đối cũng có tiền. Cứ chiều lại cả nhà đều đi ăn tiệm, thành ra rất quen
mùi vị của tiệm. Đến khi xuất gia, trong chùa cấm không cho như thế. Vì sao
cấm? Vì nếu một ông thầy tu vào tiệm ngồi, Phật tử sẽ đàm tiếu. Có những người
không từng đi chùa, không phải Phật tử, mà thấy ông thầy vô tiệm ăn là họ phản
đối. Đó là vì tinh thần đạo đức, vì muốn bảo vệ ông thầy, bảo vệ Phật pháp. Họ tỏ
thái độ khinh chê như thế để mình chỉnh đốn lại.
Kể từ lúc xuất gia làm giảng sư
thầy tiu nghỉu mỗi khi đi ngang quán ăn. Ban đầu thấy khó khăn, sau cũng quen
dần. Về già, gần bảy mươi tuổi thầy thấy việc hoằng pháp đã mệt mỏi, nên xin
giáo hội ở yên tu hành. Thầy cất một cái thất trong ngôi chùa tại thành phố.
Đến lúc ấy tự nhiên thầy trở nên hư hỏng, những lúc đi ngang tiệm ăn, tự nhiên
mùi vị ngày xưa sống lại mạnh mẽ, thầy muốn dừng lại. Thầy cũng không hiểu tại
sao bây giờ mình già mà lại dở như vậy. Gặp tôi thầy hỏi tại sao, tôi có biết
tại sao đâu, nhưng cũng khuyên thầy đừng đi ngang chỗ đó nữa. Nếu đi ngang dừng
lại hoài, có khi thầy ghé vào luôn. Quả nhiên như thế. Hôm đó giáp tết, thầy có
việc đi đâu một mình, ngang chỗ ấy thầy ngập ngừng, cuối cùng bước vô luôn. Chủ
tiệm ra hỏi thầy mua cái gì? Thầy nói đâu có mua gì. Mấy người trong tiệm phở
nghĩ chắc thầy không bình thường nên họ mời thầy đi ra. Thầy thấy xấu hổ quá và
kể lại cho anh em nghe về sức mạnh của nghiệp đã lôi dẫn một ông thầy tu bảy
mươi tuổi như thế.
Quí vị thấy chủng tử nghiệp thấm
trong người mình không phải một đời này đâu mà đã nhiều đời huân tập. Vì vậy nó
có sức mạnh, đến một vị tăng già cũng không chống cự lại nổi. Đối với ông thầy
lớn tuổi còn như vậy, hà huống các thầy trẻ, cho nên thầy ấy đề nghị quí thầy
trẻ lên núi ở. Tôi nói lên núi rồi cũng đi xuống, không lẽ ở trên đó hoài. Thầy
nói nhưng cũng đỡ hơn, có cơ hội tránh duyên. Điều này trong kinh Phật cũng dạy
mình nên tránh duyên. Đã yếu mà đi vào những chỗ lôi cuốn ấy hoài, dần dần nó
huân đậm thêm thì sẽ chạy theo luôn. Đó là câu chuyện về nghiệp lực, tôi kể quí
vị nghe để huynh đệ thận trọng gìn giữ bảo vệ đời tu của mình.
Trong điều kiện xã hội văn minh
hiện nay, người tăng sĩ rất khó tu, khó giữ mình. Hồi xưa xuất gia ở những ngôi
chùa quê, trọn đời ở yên trong đó, chiếc xe hơi còn không biết huống là chuyện
gì khác. Vậy mà dễ tu, dễ sống với cái chân thật của mình. Còn bây giờ văn minh
tiến bộ quá chừng, chuyện trên trời trên mây gì mở máy vi tính ra là biết hết,
mấy đứa nhỏ bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ nhà, dán con mắt trong trò chơi điện tử. Ở gần
đây có một đứa bé còn nhỏ xíu, sáng má nó cho tiền ăn sáng. Nó không ăn mà đi
thẳng vô quán chơi điện tử. Tới trưa ở nhà trông hoài không thấy về mới đi tìm.
Cuối cùng phát hiện nó trong quán chơi game, má nó dẫn về. Tới nhà nó té xỉu,
hỏi ra mới biết nó đói bụng quá, chớ không bệnh hoạn chi cả, cho một tô cơm là
khỏe ngay. Hoàn cảnh chúng ta bây giờ là nhân tố tác động làm cho việc tu hành
không bình thản như xưa.
Tôi nói như vậy không có nghĩa là
chúng ta chạy trốn hoàn cảnh hiện tại, đi tìm bình thản ở đâu. Nếu trong lòng
mình không yên thì chắc chắn ở đâu cũng không yên. Ở trên núi cũng phải tuột
xuống kiếm tiền về trần gian thôi. Do vậy việc chính của người tu là giữ cái tâm
của mình. Tâm nào? Tâm thường biết rõ ràng đây. Ví dụ chúng ta nhìn cái nhà
biết cái nhà, nhìn cây đèn biết cây đèn, cái biết ấy tạm gọi là tâm. Nếu không
có tâm làm sao chúng ta biết được. Cho nên cái biết là năng dụng của tâm. Người
tu thiền phải nhắm thẳng tâm đó, bảo vệ phát huy. Nếu chúng ta không quay trở
lại với tâm chân thật sẵn có này, cứ chạy ra ngoài thì giống như người bỏ nhà
đi ra đồng vậy. Người tu mà cứ chạy ra ngoài thì không biết tu cái gì. Bởi vì
việc chính của chúng ta là phải sống, phải nhận lại tâm chân thật của mình.
Kiểm nghiệm lại quí vị thấy, nếu
không khéo chúng ta cứ lẻo đẻo chạy theo trần cảnh. Ví dụ ngồi đây mà nghe mùi
gì đó là lao theo, thấy người thấy vật liền dấy niệm lao theo. Cái dấy niệm lao
theo này nặng nề lắm. Như đang trong hiện tại, quí vị có một dấy niệm lui về
bảy tám năm về trước, giờ này mình đang ở đâu, làm gì… Vọng tưởng dài dài nhưng
nào có biết, cứ lao theo rồi ngồi đó mà gục gặt với quá khứ. Buồn vui thay nhau
hành hạ chúng ta. Vọng tưởng, dẫn đi làm khổ mình như vậy nhưng không ai dám
buông bỏ nó. Đôi khi muốn buông mà buông không được. Nếu chúng ta không tỉnh,
không sáng suốt, không nhận được tâm thể thì khó yên với vọng tưởng lắm. Do vậy
không làm chủ được các dấy niệm thì khổ thôi. Dấy niệm lao theo không dừng được
là khổ rồi, sau đó phải đối đầu với những dấy niệm như thế nào, còn khổ hơn
nữa. Cho nên khổ lại càng khổ, không làm sao dừng được.
Trong đời sống, chúng ta dễ bị
trở ngại bởi danh văn lợi dưỡng. Có khi mình dám bỏ cái lớn lao của công đức tu
hành để được một chút bả danh bả lợi. Hai huynh đệ đi chùa học đạo, trao đổi
công phu tu hành với nhau trên mười năm. Một hôm rủi người bạn nói điều gì
không khéo làm mình hờn lòng. Từ đó về sau giữa hai người có sự ngăn cách. Sự
ngăn cách ấy lớn dần tách hẳn hai người. Do vậy công phu thường xuyên mà mình
phát triển cùng với người bạn không còn liên tục nữa, cuối cùng mỗi người đi
mỗi ngã khác nhau.
Hiện nay trên thế giới, những
người tri thức hướng về con đường thiện lương, có người không phải Phật tử, không
đi chùa nhưng họ ăn chay trường. Vì ăn chay và ngồi thiền trị được một số bệnh
không có thuốc trị. Nhất là ngồi toàn già tăng trưởng sức mạnh nội tại rất lớn.
Quí vị ngồi toàn già được sẽ thấy sức chịu đựng của mình mạnh dần. Ví dụ hồi
xưa chúng ta nghe ai nói xốc một chút là nổi khùng, nhảy dựng lên. Nhưng sau
khi ngồi toàn già ổn định được rồi, tự nhiên có sức mạnh, mình nghe những điều
trái tai vẫn bình thường.
Ở đây tôi muốn nói chúng ta nâng
cao giá trị tâm linh, công đức tu hành, không để cho nghiệp lực ràng buộc, hệ
luỵ. Quí thầy truyền tam quy ngũ giới cho quí Phật tử thường dặn, ăn chay ăn
mặn không thành vấn đề, mà giữ được năm điều giới là biết tu. Chúng ta cố gắng
bảo vệ tâm sáng suốt bình ổn, dứt khoát hướng về con đường tu hành. Đối với huynh
đệ, mình trợ duyên khuyến khích, huynh đệ nào chưa làm được quí vị tìm cách
nâng đỡ cùng nhau tiến tu. Những gì bên ngoài, không dính dáng đến việc tu học
chúng ta bỏ đi. Dứt khoát như vậy tu mới yên ổn. Chẳng những mình tu được mà
còn có thể hỗ trợ cho huynh đệ tu nữa. Trên con đường đạo, chúng ta không thể
đi một mình và còn phải trải dài bao nhiêu thời gian kiếp số nữa. Tất nhiên
chúng ta còn gặp không biết bao nhiêu thiện hữu tri thức, còn phải học hỏi,
phải hành trì rất nhiều. Nguyện của chúng ta là nguyện thành Phật, không có
nguyện khác. Cho nên mình phải giữ vững và kiên trì thực hiện tâm nguyện này
cho tới ngày viên mãn.
Người Phật tử chân chính, đủ
duyên quí vị đến với tam bảo, gần chư tăng, gần Phật pháp, phát tâm qui y gìn
giữ năm giới. Như vậy là có thiện căn rất lớn, cố gắng phát huy thêm chớ đừng
để bị thối thất. Chúng ta từng bước thực hiên con đường tu tập đúng chánh pháp.
Kiến quyết cắt đứt, loại bỏ hết những sự duyên tạp loạn, để yên lòng tu. Đó là
tu tâm. Mỗi bước đi, chúng ta bước thật vững vàng, từng bước từng bước gần đến
quê hương. Phật nói chúng ta như những đứa con bị lạc loài, xa quê hương lâu
quá, có khi không nhớ đường về, không biết quê hương của mình ở đâu. Do vậy bây
giờ có duyên gặp Phật pháp, huynh đệ cố gắng nương Phật pháp làm thuyền bè,
theo sự hướng dẫn của thiện hữu tri thức cùng nhau quay về, không bước lệch ra
ngoài.
Hôm nay, tôi nói về tinh thần tu
tập của người Phật tử, mong rằng tất cả quí vị ghi nhận, nuôi dưỡng, thực hành
nền tảng đạo đức căn bản này thật tốt. Trên con đường Phật đạo nhất định chúng
ta sẽ đến nơi đến chốn. Với tâm nguyện chân thành, với sự hộ trì của tam bảo,
mỗi vị hãy tự tin nơi khả năng giác ngộ của mình. Tuy nhiên, con đường Phật đạo
trải dài với nhiều thử thách trở ngại, mỗi người mỗi duyên mỗi nghiệp, do vậy
chúng ta phải quyết tâm chuyển hóa và làm chủ nghiệp lực, kiên trì tu tập mới
có thể thành tựu.
Nhân ngày đầu năm xin hướng về
mười phương tam bảo, tôi chúc nguyện cho tất cả quí Phật tử lúc nào cũng tỉnh
sáng, đi đúng theo sự chỉ giáo của chư Phật, Bồ tát, chư Tổ sư. Có thế, nhất
định chúng ta sẽ về tới nhà, vào nhà Như Lai, ngồi tòa Như Lai, mặc áo Như Lai.
Một lần nữa kính chúc toàn thể quí Phật tử đều thành công trên bước đường tu
học.
Lợi Lạc Của Việc Tu Tập
Hôm nay là ngày khai pháp của đạo
tràng Tuệ Quang, vâng lệnh Hòa thượng Viện trưởng, chúng tôi về đây cùng toàn
thể quý vị lễ Phật đầu năm, đồng thời thay nhọc cho Hòa thượng có mấy điều nhắc
nhở quý Phật tử nhân ngày đầu năm.
Tất cả huynh đệ ở đây phần lớn
đều học pháp với Hòa thượng lâu rồi, đã có quá trình tu tập đáng kể nên ít ra
cũng phần nào được lợi lạc. Nhờ thế quí vị mới thấy vui và phấn khởi cho việc
thực hành công phu lâu dài. Với chúng ta việc tu học phải có niềm vui, như vậy
mới tu tiến được. Nhiều Phật tử đi chùa, tụng kinh, hiểu Phật pháp lâu năm
nhưng rồi cũng cứ thế. Nghĩa là đụng duyên chạm cảnh vẫn tham sân phiền não.
Tại sao? Pháp Phật không có kết quả khi ứng dụng hay tại chúng ta? Nghĩ cho
cùng là tại chúng ta. Nếu còn cù cặn trong mỗi chúng ta thì phải khai thông.
Dứt khoát quí vị phải có cách giải trừ để tiến bước, chứ không thể dẫm chân một
chỗ. Ở đây tôi có mấy điều chia sẻ với quí Phật tử trên bước đường tu tập:
1. Tự biết mình:
Trước nhất ít ra chúng ta cũng
phải biết mình như thế nào? Tôi nghĩ người tu mà không biết mình thì khó áp
dụng pháp Phật, khó tu tiến. Ví dụ chúng ta kiểm lại thấy: tham, sân, phiền não
còn chừng bao nhiêu? Tám, chín mươi phần trăm hay năm sáu mươi phần trăm. Đối
với phiền não đó chúng ta phải làm gì, trị liệu như thế nào? Khi nhìn lại thấy
rõ mình còn tham sân phiền não nhiều thì phải dùng Phật pháp để trị, để tu sửa.
Hóa giải như thế nào cho tham sân phiền não nhẹ dần đến hết luôn.
Ngày trước quý Phật tử chưa có
duyên, chưa có điều kiện họp thành Đạo tràng. Tuy hiểu Phật pháp, nhưng tu
riêng lẻ từng vị từng nơi, nên những vị yếu đuối khó tiến. Kể từ khi có đạo
tràng, huynh đệ gặp gỡ, trao đổi hướng dẫn nhau thì việc tu nhất định có tiến.
Tuy được như thế nhưng phần tham sân phiền não bên trong, quí vị chưa dám nói
với ai, chưa trình hết với thầy. Vì vậy tự mỗi người cứ khắc khoải, chưa giải
tỏa hết được. Cho nên “Tự biết mình” để có phương thức áp dụng Phật pháp hóa
giải phiền não là điều hết sức quan trọng, rất cần thiết cho mỗi chúng ta.
Phiền não nổi cộm như nóng giận,
hoặc tật đố tỵ hiềm, thấy ai hơn mình ta không vui, trong quá trình hành đạo
cho tới ngày viên mãn, nhất định chúng ta không thể dung dị những thứ này. Nếu
chúng ta còn ôm giữ nó thì như ôm rắn độc ngủ, quý vị dám không? Nhất định là
không. Người con Phật lúc nào cũng cảnh giác với các thứ phiền não. Phải cảnh
giác đề phòng bởi vì ta tự biết mình dở. Cảnh giác là tu. Ai thấy phiền não còn
sần sộ tấn công mình thì càng nỗ lực tu tập. Chỉ có cách đó thôi. Nếu chúng ta
cứ nuôi dưỡng phiền não lâu dài thì dù Phật pháp hay bao nhiêu, vẫn không thể
trị được nó. Như vậy Phật pháp cũng không lợi lạc gì đối với chúng ta. Phật
pháp là Phật pháp, phiền não là phiền não, chúng ta chưa giải trừ được. Ở đây
chúng ta đủ thẩm quyền dùng Phật pháp để hoá giải những cù cặn, không thể đổ
thừa cảnh duyên bên ngoài. Là người Phật tử chúng ta không thể đổ thừa tại anh,
tại chị mà phải thấy rằng tại ta chưa đủ lực, chưa toàn tỉnh nên chưa thể hóa
giải, tiêu dung phiền não.
Khi bị bức xúc chúng ta phải
nghiệm lại mình xem sự tu tập như thế nào, từ đó tăng trưởng đạo lực để tự hóa
giải, không đổ thừa hoàn cảnh hay ngồi đó trông đợi ai giải trừ cho. Người Phật
tử không có thái độ như thế. Bởi vì ta biết rằng tất cả những thứ ấy đều là báo
nghiệp do nhiều đời mình lầm mê tạo tác mà ra. Bây giờ hậu quả đến phải trả
thôi. Là con Phật không được yếu đuối, phải gan dạ chịu trách nhiệm cho những
hành vi mình đã làm. Hòa thượng ân sư dạy người tu phải có tâm kiên cố, tâm
trường viễn, mới tu đến nơi đến chốn được.
Phiền não ở đâu mình không biết
nhưng ai cũng có hết. Chúng ta đang vui vẻ bình thường, bỗng có sự cố gì bức
xúc nó lòi ra liền. Tùy theo mức độ, nếu chúng ta còn tỉnh, làm chủ được phần
nào thì nó bị khắc chế phần ấy. Còn nó xuất hiện mà mình a tòng theo thì điên
đảo, gây thêm oan khiên nợ nần, chớ không ích lợi gì cả! Đi theo phiền não
chúng ta đã mỏi mệt, bây giờ trở về con đường Phật dạy là con đường về quê,
quay trở lại quê hương của mình. Chúng ta thấy rõ thời gian qua, mình đã dẫm
trên gay gốc, thật là ngán ngẩm. Do vậy bây giờ không thể tiếp tục đoạn đường
này. Chúng ta phải tập trung nhận lại cái gì mình đã bỏ quên từ lâu, để phải
trở thành kẻ cùng tử lang thang, xa cách quê nhà.
Khi tu chúng ta phải có một cái
nhìn thấu đáo, chín chắn, sâu sắc, nghiêm chỉnh đánh giá lại việc làm của mình.
Huynh đệ mỗi một lần sinh hoạt đạo tràng, mỗi một ngày tu tập, đều nhìn thấy và
đánh giá đúng, chín chắn. Để làm gì? Để xem cái nào sai chúng ta lọc, thải ra.
Chúng ta bỏ bớt những gì làm mình mất thời gian, dành trọn vẹn thì giờ cho công
phu tu tập. Quý vị thấy thời gian qua nhanh, mọi thứ đổi thay, vô thường, nên
ta không thể lơ là chờ đến sắp già sắp chết mới tu. Nếu người không vững thì sẽ
chao đảo, phiền não trước những biến động chung quanh cuộc sống. Vậy nên nghĩ
tới mình, xoay nhìn mình là cách hết sức giản dị để bắt đầu công phu.
Bây giờ duyên đã tốt thuận, quí
vị có đạo tràng, có huynh đệ, có thầy, có pháp, tất cả đều nắm rõ cương lĩnh,
đường lối chủ trương tu hành. Mỗi vị nên sắp đặt thời gian để tu tập, bây giờ
chỉ còn lên đường thôi. Nói một cách chuyên môn là chỉ còn hạ thủ công phu.
Người xưa mỗi một lần công phu đốt một nén hương, khi nén hương tàn thấy tâm
chưa yên thì tự cảm thương rơi nước mắt. Tại sao như thế? Vì thấy phiền não
không có hình tướng, nhưng sao nó to lớn, khỏe mạnh, dữ dằn quá, muốn bỏ bỏ
không được, muốn cắt cắt không đứt. Nói thì dễ nhưng làm rất khó. Tuy nhiên
không phải chúng ta không làm được. Chúng ta làm với tất cả quyết tâm, ý chí,
nhất định sẽ thành công. Người tu thiếu những yếu tố đó thì không tới đâu hết.
Chúng ta đã hội đủ duyên lành,
nhưng từ phía bản thân cũng phải đầy đủ những yếu tố cần thiết cho việc hành
trì tu tập. Không có vị Phật nào tu một thời gian ngắn, một sớm một chiều mà
thành Phật. Đức Phật Thích Ca, vị Giáo chủ cõi Ta bà tu trải dài ba vô số kiếp
mới thành đạo. Tu hành, chịu khó chịu khổ vô vàn, đầy đủ công đức mới thành
Phật. Thời gian chúng ta tu tập đây, có lẽ cũng đã bắt đầu trong vô số kiếp nào
đó của chính mình, chứ không phải là không. Nhưng chúng ta không biết thời gian
qua đã bao nhiêu, thời gian tới còn bao nhiêu nữa? Việc ấy cũng không cần biết,
chỉ hạ quyết tâm khẳng định công phu phải khắc tiến và tiến không ngừng. Hòa
thượng dạy người tu giống như kẻ lên dốc ngược, phải leo tới đỉnh, không có
quyền đứng lại hay chần chờ ngó hai bên. Chừng nào tới chỗ, ngồi hống gió bốn
phương trời thống khoái mới có thể nói là yên. Còn trong giai đoạn đi thì không
có quyền dừng nghỉ.
Vấn đề tu hành bước đầu là biết
mình, điều này quan trọng lắm. Bởi vì nếu không biết mình thì chẳng tu tới đâu hết.
Có khi chúng ta công kênh tưởng mình yên ổn, nhưng đụng chuyện liền phiền não.
Nhiều vị tự thấy mình yên ổn, phiền não không làm gì được, nhưng tới lúc đụng
cảnh phiền não quật ngược, đứng dậy không nổi, như muốn liệt luôn vậy. Đó là
những phiền não nổi cợm, to lớn. Tại sao có phiền não nhỏ, phiền não lớn? Vì
như những trường hợp thông thường, mình điểm trán nó qua, còn có lúc gặp phiền
não, quí vị tụng không biết bao nhiêu biến Bát nhã mà nó vẫn hoành hành, không
tỉnh nổi. Cuối cùng phải làm sao? Phải vật lộn với nó. Cho tới chừng nào mình
thấy nó không thật, thắng được nó, chừng đó mới yên. Tất cả những tình trạng đó
đều là sự chuyển hóa trong công phu tu học của mỗi chúng ta.
Trong công phu tu hành, huynh đệ
chúng ta không ai giống ai cả. Bởi vì mỗi người có căn nghiệp, tập khí, chủng
tử khác nhau. Cho nên tuy học pháp chung, thầy chung, nhưng việc áp dụng của
mỗi vị tùy phần khác nhau. Dù thế, khi chúng ta có tu là có tiến. Tiến như thế
nào, cấp độ ra sao còn lệ thuộc phước duyên và tinh thần tu tập của mỗi người.
Như chúng tôi là người xuất gia, cách tiếp cận của chúng tôi khác quí Phật tử,
vọng tưởng cũng khác, các thói quen trong sinh hoạt thường ngày cũng khác, cho
nên kết quả tu tập giữa Tăng Ni và Phật tử cũng khác nhau. Chúng ta không thể
đòi hỏi giống nhau về phương diện hình thức, mà chỉ cần mỗi vị giữ vững tâm
nguyện tu hành, đặc biệt biết ứng dụng Phật pháp vào đời sống và hoàn cảnh của
riêng mình.
Có một điều dù Tăng Ni hay Phật
tử cũng phải nhớ rõ là: Còn phiền não thì chưa giác ngộ, chưa giải thoát, chưa
thật sự an lạc. Bây giờ phải trị phiền não, vận dụng trí tuệ của mình tu hành,
làm sao làm chủ được phiền não. Chừng đó mới nói giác ngộ, giải thoát, tự tại
sống với ông chủ. Ngược lại phiền não còn lẩn quất đâu đó trong người mình, thì
nói gì cũng phải dè dặt một chút. Nếu không mình vừa nói thật hay mà phiền não
lòi ra thì kỳ lắm. Phiền não là gì? Là những bức xúc, bất an bất ổn trong tâm.
Chúng ta vận dụng công phu tu hành là để giải trừ phiền não. Hết phiền não mình
mới an vui. Tuy chúng ta chưa hưởng được niềm vui miên viễn như đức Phật, nhưng
ít ra trong lòng cũng có niềm vui chân thật phát ra từ chính tâm mình.
Bây giờ làm sao sạch phiền não?
Khó lắm. Bởi vì lúc nào chúng ta cũng hoặc vui hoặc buồn. Có khi vui cười hỉ
hạ, có lúc vô cớ buồn ảm đạm. Những điểm nhỏ xíu như vậy trong đời thường, cũng
biểu hiện công đức tu tập của mình nhiều hay ít. Cho nên nhiều vị đến trình với
Hòa thượng: Con tu hoài sao không hết vọng tưởng? Là bởi vì quí vị còn cười
sảng, còn buồn khơi thì nhất định chưa hết vọng tưởng. Bao giờ chúng ta như như
bất động là hết vọng tưởng. Con người sống luôn luôn thất thường, thất niệm.
Lúc vui quá là vui, cười hoài. Trưa ngủ dậy cũng cười, đang ăn cơm cũng cười,
đi một mình cũng cười
Nhưng một khi đã buồn, người ta chọc cho cười, cười cũng
không nổi! Ráng cười mà cái miệng méo xẹo. Bây giờ phải làm sao bình thường
những thứ đó, bằng cách tỉnh táo, thắp lên ngọn đuốc trí tuệ nơi tự thân. Đó là
người biết mình.
2. Phát huy sự tỉnh sáng:
Đến điểm thứ hai là tỉnh sáng.
Người tu mà thiếu tỉnh sáng là không được. Hòa thượng dạy vừa có một niệm dấy
khởi, liền biết niệm nó không thật, buông đi, không chạy theo, không mắc míu
những niệm đó. Cái không chạy theo đó là gì? Là tâm định tĩnh. Không mắc míu vì
biết nó không thật, đó là trí tuệ hiện tiền.
Nếu chúng ta thiếu tỉnh sáng, bị
những lăng xăng quấy rầy kéo lôi thì sẽ mất mình. Không tỉnh thì dù có tu năm
năm mười năm, hai mươi năm cũng cứ lăng xăng, cứ trôi lăn thôi. Lực tỉnh này
chẳng những giúp chúng ta an ổn khi đang sống mà còn đảm bảo cho lúc mình xả bỏ
thân tứ đại nữa. Mang thân này giống như một bản án đã bị tuyên án rồi. Có thân
thì sẽ đi đến ngày mất thân, không có đường khác. Báo thân công đức như Thế Tôn
tới tám mươi tuổi cũng giải bỏ, vì nó do tứ đại hợp thành, không thật. Huống là
thân chúng ta phước báo không nhiều, bệnh hoạn đủ thứ, làm sao kéo dài trăm năm
được? Cái chết là đương nhiên. Bỏ thân này là chuyện phải tới, một bản án đã
tuyên.
Tuy biết thế nhưng chúng ta chưa
chuẩn bị gì cho mình, điều này mới thiệt thòi. Rõ ràng chúng ta chưa biết
thương mình, việc chính mình chưa làm được. Bây giờ tập trung thời gian, tâm
lực phát huy tròn đầy sự định tĩnh, từ đó có trí tuệ Bát nhã để ta hoàn toàn
làm chủ. Trí tuệ Bát nhã là trí tuệ gì? Là trí tuệ cắt đứt những đắm trước về
thân, về cảnh. Phật nói trí tuệ này như kiếm bén, phẫu thuật chi ly cho chúng
ta thấy những gì từ lâu nay ta mắc mứu, bây giờ phanh phui ra hết, cuối cùng
mình nhận rõ không gì có thể bám víu cả. Bởi không có gì phản kháng lại được sự
thay đổi nhanh chóng của vô thường. Khi kiểm lại, nếu chúng ta thấy trí tuệ
chưa có, đó là công phu chưa tốt. Vậy phải nỗ lực làm cho tốt hơn. Phật tử
không phải lo lắng thiếu địa vị, thiếu cơm gạo
mà lo mình có tỉnh chưa, có trí
tuệ chưa. Nếu chưa tỉnh, chưa có trí tuệ thì phải chuẩn bị, điều này không thể
xin Phật ban cho được.
Phật dạy mỗi chúng sanh có chủng
tử, có khả năng thành Phật, làm sao nhận lại cái gốc của mình. Chư Phật ra đời
vì chỉ cho chúng sanh cái ấy. Chừng nào nhận được thì giàu có, không nhận được
thì nghèo khó. Thế thôi. Hòa thượng Viện trưởng thường nhắc nhở, đêm ba mươi
muốn không nói chuyện với quỷ sứ, thì bây giờ phải tỉnh phải tuệ. Thiếu điều
này là coi như chúng ta quờ quạng trong đêm đen. Tội nghiệp lắm! Bao nhiêu đời
chúng ta đã lầm mê, đã đi, đã lang thang trong vòng loay hoay lẩn quẩn ấy. Bây
giờ nhờ duyên lành ta gặp được Phật pháp, hãy thắp sáng trí tuệ lên, để con
đường đi của mình không mờ mịt, không sa hầm sụp hố, đồng thời chúng ta không
làm ảnh hưởng đến những người bạn xung quanh. Thắp sáng được ngọn đèn trí tuệ
của mình rồi, thì đi trên con đường thênh thang. Nếu ai đi gần thiếu ánh sáng,
họ có thể theo ánh sáng của mình mà đi.
Chúng ta có tỉnh, có tuệ nhất
định công phu tu hành sẽ thành công. Dù quí vị không muốn thành công cũng thành
công. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật nói mấy đứa bé chơi giỡn vùa cát, rồi nói:
Đây là Phật tượng, gì gì Mấy đứa bé này đâu có muốn thành Phật, song Phật vẫn
thọ ký, do chủng tử này sau sẽ thành Phật. Tất cả huynh đệ chúng ta đều sẽ
thành Phật, đó là điều chắc chắn, nhưng bao lâu tùy ở mỗi người.
3. Tự ổn định mình.
Giai đoạn thứ ba là tự ổn định
việc của mình. Sự ổn định rất cần thiết trong đời sống, trong tương giao. Chúng
ta ổn định việc của chính mình, những va chạm xung quanh sẽ bớt đi. Ổn định thế
nào? Tức sau khi đã biết mình là gì, đã đặt định công phu tu hành, thì nên
quyết tâm. Thẳng một con đường đi tới, không nói khác, không nhìn khác. Ở Chơn
Không và Thường Chiếu, cất thiền thất cho thiền sinh nhập thất, những thiền
thất đó không có cửa hậu. Có người trình với Hòa thượng:
Sao Thầy cất mà không cho làm cửa
hậu? Mỗi lần đi ra phải vòng cửa trước!
Hòa thượng đáp:
Tiến thẳng một bề. Không cho đi
ngã sau.
Có khi chúng ta chuồn ngã sau,
nên rồi bị mất mình. Bây giờ ổn định, khẳng định, không có sự thay đổi. Chúng
ta là con Phật, có khả năng thành Phật, tin chắc chắn như vậy, không gì có thể
lay chuyển. Chỉ thời gian mình trở về nhanh hay chậm là tự chúng ta thôi. Đã
khẳng tin như thế thì còn gì khác có thể lay chuyển nổi. Chỗ này chúng ta thấy
các thiền sư rất hay.
Ngài Văn Hỷ thường đi hành cước,
lên Ngũ Đài Sơn, tìm lễ Bồ tát Văn thù. Nhưng khi ngài ở trong đạo tràng ngài
Ngưỡng Sơn, hôm đó nấu cháo, Ngài đang cầm dầm quậy cháo, trong làn khói bốc
lên Bồ tát Văn thù hiện. Ngài dùng cái dầm đập nói: Văn thù là Văn thù, Văn Hỷ
là Văn Hỷ, chỉ nấu cháo thôi, không có việc khác. Đó là gì? Ở đây nói lên mình
tin tưởng vào sức mạnh, vào khả năng của mình.
Trong kinh Lăng nghiêm, Phật dạy
mỗi chúng ta đều có cái Viên trạm thường tính. Tôi dụ nó giống như một khối
sáng, được đặt trong ngôi nhà có sáu cửa. Viên trạm thường tính phát sáng ra
sáu cửa. Nếu chúng ta là người có trí tuệ, thì từ ánh sáng Viên trạm thường
tính, ta nhận trở lại cái Viên trạm thường tính của mình. Trái lại nếu chúng ta
là người chưa vững tin, chưa ổn định, chưa thật sự sáng việc của mình, thì từ
ánh sáng phát qua cửa, mình phóng ra. Phóng ra là mất mình. Một chút xíu đó
thôi, nếu chúng ta nhận được thì có thể cắt đứt dòng hấp dẫn kéo lôi mình từ
bao đời.
Có người hỏi:
Làm sao để cắt đứt được dòng sinh
tử luân hồi?
Thiền sư trả lời:
Nếu biết vọng tưởng kéo lôi, làm
cho mình ngược xuôi lăng xăng, cắt đứt nó đi là cắt được vòng sanh tử luân hồi.
Trở lại chúng ta, những tơ tưởng,
những niệm khởi, nếu làm chủ được, chúng ta có sức mạnh cắt đứt vòng luân hồi
sinh tử. Có gì đâu, đang đi, đang làm, đang nghỉ, đang tiếp khách, đang ăn cơm,
đang tụng kinh, đang ngồi thiền, có niệm nào dấy lên, cắt. Nếu cắt không được
thì điểm trán nó: Bị mày kéo cho nên tao khổ! Bây giờ tao không lầm nữa! Đó là
gì? Là con dao đầu tiên đặt định nấc thang đầu trên lộ trình giải thoát sanh
tử. Cho nên ổn định là sức mạnh. Nếu không ổn định chúng ta không sống được với
tánh giác, cứ chạy ra, cứ sợ sệt, không bao giờ phát huy được tánh giác. Tánh
giác là gì? Là khả năng thành Phật, khả năng sáng suốt của chúng ta. Cái đó
không ngược xuôi, không mắc mứu, không dính dáng với bất kỳ thứ gì. Nó là bảo
châu vô giá của chúng ta, từ lâu mình lỡ bỏ quên, bây giờ nhận lại.
Người con Phật trước nhất phải
dùng con mắt tuệ soi thủng mọi vấn đề thì những góc cạnh, những va chạm sẽ
không còn nữa. Nếu mỗi người ôm một ý kiến riêng, chấp ý riêng của mình là
đúng, nhất định sẽ va chạm. Càng đi sâu, càng tới gần, càng đụng độ. Bởi vì cái
thấy của anh như thế, cái thấy của tôi như thế, không hòa đồng được. Chỉ khi
nào chúng ta thấy thủng vấn đề, các pháp không cố định, không thật thì không
còn gì để tranh cãi. Ngược lại, càng bàn càng đụng, càng nói càng gây, chả tới
đâu hết.
Phật nói thân này không thật, các
pháp không thật, cảnh duyên không thật, nếu chúng ta sống bằng đúng cái nhìn
như vậy thì không có vấn đề gì cả. Còn nếu chưa sống đúng thì càng bàn cãi,
càng gay cấn. Gay cấn đến độ hai bên không còn tôn trọng nhau đi đến gây gổ, ấu
đả nhau thì càng rối. Tóm lại làm sao thấy được lẽ thật các pháp là mở được con
mắt trí tuệ. Chúng ta còn nhớ bài pháp đầu tiên đức Thế Tôn nói là bài Tứ đế.
Trong đó Phật đưa ra Khổ đế đầu tiên. Như Lai đưa ra hiện thực ấy để mọi người
nhận, từ đó phăng dần đến lý đạo. Nhận được lý đạo rồi chúng ta sẽ bình ổn, mọi
phiền não giải trừ, đời sống an vui. Lẽ thật của các pháp là không có gì tồn
tại hết. Khi chúng ta nhận như thế rồi, giống như người gánh một gánh nặng để
được xuống, nó nhẹ ơi là nhẹ.
Muôn sự muôn vật không có gì tồn
tại vĩnh cửu, không có gì không bị đổi thay, không có gì không bị sự chi phối
của vô thường. Thân tâm cảnh, tất cả đều bị xoay chuyển. Chúng ta đã không làm
chủ chúng thì có gì phải mắc mứu, phải gây với nhau. Khi nhận tới đó rồi, quả
thật là gánh nặng được để xuống. Song song với cái khổ, đức Phật còn hướng dẫn
cho chúng ta thấy nguyên nhân nào hình thành ra khổ. Đó là điểm phấn khởi nhất
khi chúng ta học Phật pháp. Rõ ràng Phật pháp không mị đời, không phải lý
thuyết ru ngủ, dẫn chúng ta vào trong chỗ mê mang tăm tối. Mà Phật dùng trí tuệ
Bát nhã chỉ rõ cho chúng ta thấy được lẽ thật, thấy nguyên nhân hình thành tất
cả pháp. Thấy tới nơi như Phật là giác ngộ, là giải thoát. Ngay thân của mình
cũng không thật, ôm giữ cái gì? Biết rõ như vậy đâu còn phiền não nữa.
4. Tinh thần rõ ràng:
Sau khi chúng ta đã có quá trình
tu tập, các giác quan rất tinh nhuệ, sáng suốt. Ở đây tôi nói rõ ràng nghĩa là
thường biết rõ ràng, không thể lầm được. Ngay trong lúc chúng ta ngồi thiền hay
ở mọi sinh hoạt, nghe rõ ràng, thấy rõ ràng, biết rõ ràng. Ví dụ tôi nhìn phía
trước thấy cửa của Phật điện, kế nữa là các Phật tử nam và Phật tử nữ. Rõ ràng,
người nam tôi thấy người nam, người nữ tôi thấy người nữ, cây cột tôi thấy cây
cột, cành hoa tôi thấy cành hoa, không thể lẫn lộn.
Đây là chỗ yếu lý của việc tu
hành. Bởi vì pháp tu của chúng ta là nhận ra được tánh giác thông qua các giác
quan, không mắc mứu, không chạy theo, không để những lăng xăng làm mờ đi cái
thấy biết chân thật của chính mình. Vị nào ngồi thiền nhắm mắt hoặc lấy bông
gòn nhét lỗ tai, đừng thấy đừng nghe gì hết để được định là lầm to. Nghe mà
không bị âm thanh dẫn đi, thấy mà không bị sắc tướng làm mất mình, mũi lưỡi tất
cả các căn xúc chạm, thường biết rõ ràng, đó là có trí tuệ Bát nhã. Sống được
như vậy thì chận đứng hết vọng tưởng rồi. Sở dĩ chúng ta tu mấy chục năm chưa
hết vọng tưởng là vì chạy theo cái thấy, cái nghe. Bây giờ chỉ thấy rõ ràng,
không bị các trần cảnh bên ngoài dẫn đi, đó mới là công phu.
Chúng ta còn phàm phu, sống trong
sự va chạm thường xuyên, nếu sơ hở một chút là bị lầm. Sơ hở thế nào? Ví dụ như
tiếp khách, không tỉnh giác một chút là mình nói sai, quyết định không đúng.
Giữa cái cuộc đời thường này mọi thứ xung quanh nó rần rộ nó khoẻ mạnh, nếu
chúng ta không có rõ ràng, không có tự chủ thì bị mất mình. Cho nên phải rõ
ràng. Mắt thấy rõ ràng, tai nghe rõ ràng. Chúng ta nghe đúng, nói đúng, làm
đúng, sắp đặt mọi việc đúng thì không bị sai phạm. Do không sai phạm nên không
tổn hại ai, không tổn hại nên không phiền não. Việc tu hành của chúng ta là như
vậy, ngay bây giờ, không hẹn, không trông đợi ai cả. Người Phật tử phải gan dạ
thấy rõ mình cần tu, cần làm gương cho huynh đệ cùng tu. Nếu chúng ta còn yếu
điểm nào, nên cố gắng khắc phục vươn lên. Lúc nào cũng vui vẻ, tinh thần sáng
suốt rõ ràng.
Như câu chuyện ngài Huệ Tịch hỏi
thầy là ngài Quy Sơn:
Trăm ngàn muôn cảnh đồng thời
đến, phải làm sao?
Rõ ràng xanh chẳng phải là vàng,
dài chẳng phải là ngắn. Các pháp mỗi pháp ở địa vị của nó, không can hệ đến
việc của ta.
Câu trả lời này là một bài học,
là một pháp tu để chúng ta tu. Tất cả huynh đệ mắt sáng thấy rõ ràng vàng là
vàng, xanh là xanh, không cái nào lẫn lộn cái nào. Nhưng tất cả những thứ đó
không can hệ đến việc của thiền sư. Đó là việc gì? Là cái Viên trạm thường tính
hoặc Bản lai diện mục. Chúng ta có cái đó, sống được với nó, xanh vàng đỏ trắng
bên ngoài không can hệ. Rõ ràng như thế. Được vậy ngày giờ nào mình không tu.
Cho nên Phật tử đến với đạo tràng là đem lại niềm vui, hạnh phúc cho nhau. Quí
vị đến để trao đổi động viên cho các bạn đồng tu cùng nhận, cùng được như mình.
Khi nào Phật tử này quên, Phật tử kia nhắc, chúng ta có Phật tánh nha, đừng để
phiền não quấy nhiễu.
Đã có Phật tính, chỉ cần nhận và
sống lại với Phật tính thì an ổn. Nếu không như thế, chúng ta sẽ bị vô minh
vọng động lôi dẫn hoài. Hết vui tới buồn, không lúc nào an ổn. Mặc dù những thứ
ấy không can hệ đến Phật tánh, nhưng nếu chúng ta không tỉnh giác thì chúng sẽ
làm mình nhọc nhằn, phiền muộn ngay. Người sống mà không bị các duyên cột trói
khỏe biết bao nhiêu. Ngược lại, cái nào cũng dính hết thì nhất định ăn không
được ngủ không yên. Điều này thiền sư Huệ Hải đã chê, không thể thiền được. Ăn
đòi cho ngon, không chịu ăn dở là thiền không được. Tới ngủ còn gác tay lên
trán suy nghĩ chuyện này chuyện nọ là thiền không được. Bởi vì thiền là tới giờ
ăn thì ăn, tới ngủ thì ngủ. Các pháp như thế, ly nước là ly nước, cây đèn là
cây đèn, lọ hoa là lọ hoa, đồng hồ là đồng hồ. Tánh giác của chúng ta không can
hệ, dính dáng cái nào hết. Hạnh phúc vô cùng nếu chúng ta sống được như vậy.
Qua lời chỉ giáo của tổ Quy Sơn,
ngài Huệ Tịch nhận ra chỗ chân thật không can hệ ấy. Đó là chỗ rõ ràng thường
biết, ai cũng sẵn có.
5. Công phu khẩn thiết và chân chánh.
Nhà thiền thường nhắc công phu
phải khẩn thiết và chân chánh. Có chân chánh mà không khẩn thiết thì cũng chẳng
tới đâu. Khẩn là thế nào? Là không thể một nắng mười mưa, không thể đi họp đạo
tràng tháng này rồi tháng sau nghỉ, không thể tối nay ngồi thiền rồi khuya ngủ.
Công phu phải luôn luôn được hâm nóng, liên tục. Hôm nay như vậy ngày mai cũng
như vậy, càng ngày càng tăng lên, không được tuột xuống. Phải thường xuyên hâm
nóng tinh thần khẩn thiết. Không nên để một chút dã dượi, lười nhác, xem thường
xen vô làm mất thời gian của mình. Chúng ta làm sao bảo đảm được mình có thể
khỏe mạnh hoài? Chính những vị bác sĩ giỏi nhất nước cũng không dám nói như
thế! Thân này do nhiều thứ hợp lại, một trong những thứ đó không chịu bắt tay,
duyên không thuận nữa thì sinh bệnh ngay. Nắng nhiều cũng bệnh, gió nhiều cũng
bệnh, lạnh nhiều cũng bệnh,đủ thứ chuyện hết, có gì bảo đảm? Đã không bảo đảm
mà mình hẹn là hẹn với ai? Không thể hẹn với ai được hết, cho nên chúng ta phải
tự khắc tự hứa nỗ lực tu hành. Tôi nói khẩn thiết là vì thế.
Đã có tinh thần khẩn thiết mà
không nắm vững phương pháp, khẩn mà không chánh, thì cái khẩn ấy dẫn chúng ta
đi đâu không thể hiểu nổi. Cho nên phải chân chánh, nắm vững phương pháp tu
hành. Chủ trương đường lối ta nắm vững, học Phật pháp phải tới nơi. Chúng ta
trao đổi, xét nét thật kỹ rồi bắt đầu hạ thủ công phu. Hiểu đúng, làm đúng gọi
là hạnh giải tương ưng. Hạnh giải tương ưng là Tổ, chúng ta không phải Tổ mà là
con của Tổ, nếu không giống trọn vẹn quí Ngài, ít nhất cũng na ná chớ không thể
chẳng có chút gì dính dáng. Có người hỏi tổ Đạt ma: Thế nào là Tổ? Ngài đáp:
Hạnh giải tương ưng là Tổ. Nếu chúng ta hiểu và hành đúng như vậy thì mình là
con của Tổ.
Tóm lại, buổi nói chuyện đầu năm
cho đạo tràng Tuệ Quang hôm nay, tôi muốn nhắc mấy điều, tất cả quý vị đã học
pháp với Hòa thượng lâu rồi, nên làm sao chuẩn bị cho công phu sắp tới tốt hơn.
Tự biết mình, tự ổn định, luôn luôn tỉnh sáng rõ ràng, cuối cùng công phu phải
khẩn thiết và chân chánh. Được như vậy nhất định quý vị sẽ an lạc, mỗi Phật tử
sẽ là những bông hoa thơm ngát thiền vị, mang lại lợi lạc cho mọi người xung quanh,
cho cuộc đời.
Đầu năm tôi xin thay mặt Hòa
thượng Viện trưởng, gởi đến toàn thể quý vị lời chúc mừng Viên trạm thường
tính. Mỗi vị hãy thắp sáng tinh thần tu học khẩn và chánh, để có được nguồn an
vui miên viễn.
(Xuân Đinh Hợi 2007)