Kinh Thắng Man Phu Nhân Hội

"Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sinh," hiểu được điều này bằng những suy luận của lý trí không phải là khó, nhưng hiểu bằng tất cả tâm nguyện và chí hướng cao cả, để rồi nổ lực dũng mãnh, kiên quyết mà thành tựu, thì ngay cả đến những bậc thiện trí của thế gian nhiều khi cũng phải phân vân... Thực sự, như kinh điển đã chỉ rõ, chí nguyện Đại thừa mặc dù được coi là tối thượng tối đại về kết quả thành tựu nhưng nhân duyên để thành tựu nó thì hết sức đơn giản: "Những ai đã từng một lần xưng "Nam mô Phật" trong các tháp miều thờ xá-lợi; tất cả những người ấy, dù chỉ một lần với tâm tán loạn, đều đã thành tựu trí giác vô thượng này."
Sự kiện càng đơn giản bao nhiêu càng khó nhận thức bấy nhiêu. Cho nên, khi Đức Phật quyết định tuyên bố đạo lý nhất thừa rằng: "Và Ta nói như vầy: tất cả các pháp này vốn thường hằng vắng lặng, bản lai tịch tĩnh. Phật tử sau khi đã thực hành đầy đủ, đời sau sẽ thành Phật," thì sự kiện đó được coi là một biến cố vĩ đại. Tuệ Sỹ, Trích Giới Thiệu Kinh Thắng Man

Kinh Thắng Man Phu Nhân Hội

Hán dịch: Tam Tạng Bồ đề Lưu Chí

Chân Hiền Tâm dịch và giải

Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội, 2006.

(Thắng Man Phu Nhân hội thứ 48, dịch giả ngài Bồ Đề Lưu Chi Tr. 672-678, Chính Tân Tu Đại Tạng, Tập 11, Bảo Tích Bộ thượng, số hiệu 310, một quyển.

Kinh này chúng tôi sửa y theo bổn gốc đang có, trong sách phần chánh văn in đậm, nhưng vì đưa lên mạng bị biến dạng nên chúng tôi thay đổi chữ in đậm thành Chánh văn và những chổ in thường (tức phần chú giải) thành giải.

Riêng phần mục lục in sau sách nhưng trong nội dung quyển sách thì không có mục lục ấy mà lại theo đại ý mỗi đoạn, vì vậy, chúng tôi thêm phần mục lục đại ý mỗi đoạn giúp đọc giả dể tìm và nắm bắt nội dụng. bttdtkvn)

Mục Lục Đại Ý (thêm vào bởi bttdtkvn)

1/ Nhân duyên phu nhân Thắng Man gặp Phật, tán thán công đức của Phật và được Phật thọ ký.

2/ Phu nhân Thắng Man phát 10 hoằng thệ và 3 đại nguyện. Hội chúng thấy điềm lành, cũng phát nguyện đời đời cùng chung hạnh nguyện với bà.

3/ Phu nhân nương thần lực của Phật nói về nghĩa quảng đại của việc nhiếp thọ chánh pháp. Qua đó nêu bày thực tướng của người nhiếp thọ chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp và chánh pháp. Hiển bày mối liên hệ mật thiết giữa nhiếp thọ chánh pháp, Đại thừa và Ba la mật. Dùng 6 độ Ba la mật xả bỏ thân, mạng và tài sản để hoàn thành đại nguyện nhiếp thọ chánh pháp

4/ Chỉ rõ 3 thứ vô minh: Vô minh trụ địa, tứ trụ địa phiền não và hiện khởi phiền não. Hiển bày 2 loại sanh tử là Biến dịch sanh tử và Phần đoạn sanh tử. Cho thấy niết bàn của La Hán và Bích Chi Phật chưa phải là niết bàn rốt ráo. Chưa chứng được chỗ rốt ráo nên tâm La Hán và Bích Chi Phật còn nhiều hạn chế, trí tuệ và công đức của chư vị không thể như Phật.

5/ Phu nhân trình bày về Như Lai Tạng, là cảnh giới thậm thâm của chư Phật. Hiển bày 2 loại thánh đế là Hữu tác thánh đế và Vô tác thánh đế, 2 loại trí là TỊNH TRÍ của Thanh văn và TRÍ TÁNH KHÔNG của chư Phật. Nêu bày thực tướng của sanh tử.

6/ Phu Nhân nêu bày 3 hạng người có khả năng thành tựu pháp thậm thâm. Phật phó chúc cho ngài A Nan và trời Đế Thích gìn giữ và truyền bá kinh này.

Thành kính tri ân

Sư ông - Hòa thượng Thích Thanh Từ

Bổn sư - Hòa thượng Thích Nhật Quang

Đã giúp chúng con đầy đủ niềm tin để hoàn thành việc dịch giải bộ kinh.

Chân thành cảm ơn

Chư vị Hòa thượng, Thượng tọa, Tăng, Ni, Cư sĩ, Học giả đã có các công trình nghiên cứu, dịch thuật giúp chúng tôi có được tài liệu cần thiết cho việc dịch giải.

Chân Hiền Tâm

Lời nói đầu

Kinh THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI là bản dịch từ Phạn sang Hán của ngài Bồ đề Lưu Chí. Nội dung của kinh không khác với bản dịch Thắng Man Sư Tử Hống của ngài Cầu Na Bạt Đà La. Song khi dịch và giải, tôi chỉ có trong tay bản kinh Thắng Man Phu Nhân Hội, thành cứ y theo đó mà làm. Sau mới gặp được bản Giảng Luận của thầy Tuệ Sĩ, trong đó có đầy đủ cả hai bản tiếng Hán, nhờ đó có tài liệu để so sánh. Việc dịch giải cũng có điều kiện để hoàn thiện hơn.

Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình. Người thuyết kinh là phu nhân Thắng Man, một vương phi quyền quí, trí tuệ và tràn đầy lòng bi mẫn đối với muôn loài. Bà gặp Phật, được Phật thọ ký và trình bày với Phật về lợi ích của việc nhận lãnh cũng như gìn giữ chánh pháp. Qua đó, phân tích rõ cái chung và riêng giữa Nhất thừa và Nhị thừa, giúp người tu tránh được sự lầm lạc trong vấn đề tu hành.

Văn kinh vốn đã rộng, nay có thêm phần giải thích lại càng dài hơn... Để tránh tình trạng rối ren, trước mỗi đoạn kinh, tôi tóm lược đại ý của đoạn đó thành những tiêu đề ngắn để Độc giả nắm được vấn đề được dễ dàng.

Về phần dịch thuật, bản dịch đây nhờ vào bản dịch của chư vị Tôn túc rất nhiều, song trong bản dịch vẫn có vài chỗ dịch không giống với chư vị. Như phần “Tâm tương ưng, bất tương ưng”, “Tánh không, cái chân thật ẩn tàng”, “Nhiếp thọ chánh pháp không khác chánh pháp, không khác nhiếp thọ chánh pháp” v.v… Hy vọng phần giải thích đủ để biện giải cho những sai khác đó.

Về phần giải thích, bản dịch đây chỉ tập trung giải thích phần nghĩa lý của kinh, không giải thích các ví dụ. Ý nghĩa của những ví dụ này các bạn có thể tham khảo ở những bản dịch khác, rất đầy đủ và chi tiết.

Nổi bậc nhất trong toàn kinh vẫn là 3 đại nguyện và 10 hoằng thệ mà phu nhân đã phát nguyện...

Nguyện đời đời sanh được chánh pháp trí, nguyện xả thân, mạng, tài sản để bảo vệ chánh pháp, nguyện đem lại lợi ích cho muôn loài v.v… Trong hiện đời đây, những lời nguyện này có khi trở thành hợm hĩnh và làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng dù hợm hĩnh hay trò cười chăng nữa, nó luôn là thứ cần thiết cho đời sống nhân loại. Tinh thần ấy luôn là nền tảng để đạo đức và hạnh phúc được tồn tại, để mọi xấu xa đau khổ được đẩy lùi khi thế giới vật chất ngày càng tiến mạnh, con người ngày càng xa rời cội nguồn chân thật của mình, trong thế giới chỉ còn hiện diện cái tôi và những cái của tôi.

CHÁNH PHÁP không lìa dòng đời, không chỉ dành riêng cho những người mang màu áo đạo Phật. Vì ta hạn cuộc chánh pháp trong những hình thức tôn giáo nên chánh pháp trở thành hạn cuộc. Xả thân mạng tài sản để bảo vệ chánh pháp dường như không khác những việc làm của những tín đồ cuồng tín ở những đạo giáo khác. Song chánh pháp không hạn cuộc trong hình thức đạo Phật. Vì nó chính là TRÍ TUỆ và TÌNH THƯƠNG vô hạn đối với mọi loài chúng sanh. Không ai không có loại trí tuệ và tình thương đó dù bạn đang mang màu áo đạo giáo nào. Nhưng do cái tôi và những cái của tôi, mọi thứ trở thành hạn cuộc. Bảo vệ chánh pháp chính là phát huy khả năng vốn có đó của mình, để tình thương bàng bạc đến muôn nơi, thế giới bớt tranh tàn, đời sống đỡ tai ương hoạn nạn.

Là người tu Phật, tinh thần ấy càng phải được thắp sáng. Dù chưa thực hành được như phu nhân Thắng Man, những thệ nguyện ấy vẫn là ngọn đuốc cần có trong lòng mỗi người tu Phật, những người con đích thực của Như Lai.

Tp. HCM ngày 25.06.2005

Chân Hiền Tâm

1/ Nhân duyên phu nhân Thắng Man gặp Phật, tán thán công đức của Phật và được Phật thọ ký.

Chánh văn:

Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại thành Xá Vệ trong vườn Kỳ Thọ của ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La và phu nhân Mạt Lợi vừa chứng pháp xong, cùng nói với nhau rằng “Con gái Thắng Man của ta từ mẫn, sáng dạ, đa văn, trí tuệ. Nếu gặp được Như Lai thì đối với pháp thậm thâm, sẽ chóng lãnh ngộ không các nghi hoặc. Ta nay phải khéo chỉ bảo để nó phát lòng thành tín”. Bàn với nhau xong, vua và phu nhân liền viết thư xưng tán công đức chân thật của Như Lai, rồi bảo sứ quân tên Chân Đề La mang thư đến thành Vô Đấu trao cho phu nhân Thắng Man.

Giải:

Đây là giới thiệu thân thế và căn tánh của phu nhân Thắng Man. Cũng là nêu bày lý do (01) vì sao có cuộc hội ngộ giữa bà với đức Phật.

PHU NHÂN THẮNG MAN là con gái của vua Ba Tư Nặc và phu nhân Mạt Lợi, được gả làm vương phi cho vua nước A Du Xà.

Vua BA TƯ NẶC lên ngôi sau Phật thành đạo không bao lâu. Lúc đầu ông là người bạo ác, bất tín. Sau được Phật giáo hóa nên rất kính tin Phật pháp và là vị đại ngoại hộ cho giáo đoàn của Phật ở thành Xá Vệ lúc đó. (Xá Vệ là thủ phủ của nước Kiêu Tát La). Còn phu nhân MẠT LỢI vốn là đứa tớ gái. Một hôm đức Phật vào thành khất thực, do thấy tướng hảo của ngài mà sinh lòng kính tin cúng dường thức ăn để cầu hết kiếp tôi đòi. Nhờ công đức ấy, bà trở thành phu nhân của vua Ba Tư Nặc. Vì những nhân duyên đó mà lòng tin của bà và vua ngày càng tăng trưởng. Tức hai vị đã hưởng được mùi vị của pháp lạc, nên nói VỪA CHỨNG PHÁP XONG. (02) Cả hai đều có lòng ngưỡng mộ và tin Phật nên cả hai đều muốn con gái mình cũng vậy. Đây là nhân duyên khiến phu nhân Thắng Man gặp Phật.

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Pháp của chư Phật có nhân có duyên. Nhân duyên đầy đủ thì pháp mới được thành... Chúng sanh cũng vậy. Tuy có lực huân tập của chánh nhân, nếu chẳng gặp được chư Phật, Bồ tát và các bậc thiện tri thức lấy đó làm duyên mà có thể tự đoạn phiền não, nhập niết bàn thì không thể có”.

CHÁNH NHÂN là chỉ cho chủng tử Phật pháp được huân tập trong tâm người tu. Một khi chủng nhân Phật pháp được huân tập sâu dày thì mình sẽ có cái quả là dễ lãnh ngộ Phật pháp và có tấm lòng đối với muôn người không kể là thân hay sơ. Dễ lãnh ngộ Phật pháp là biểu hiện cho sự SÁNG DẠ, ĐA VĂN và TRÍ TUỆ. Có tấm lòng với muôn người biểu hiện cho lòng TỪ MẪN.

TRÍ và BI là hành trang của một vị Bồ tát, là nhân duyên của việc thành Phật. Phu nhân có đủ những chủng nhân đó.

Thứ gì từng huân tập nhiều, đủ duyên sẽ phát khởi mạnh. (03) Nếu Phật pháp từng được huân tập sâu dày từ những kiếp trước, thì đối với pháp thậm thâm sẽ lãnh ngộ dễ dàng mà không còn nghi hoặc. PHÁP THẬM THÂM là chỉ cho pháp Đại thừa, Nhất thừa, pháp tánh chân như, tánh Phật trong mỗi chúng sanh v.v… Nghe “Tức tâm tức Phật”, nghe “Tâm Phật trong mỗi người chính là cội nguồn chân thật của tất cả pháp” v.v… mà tin ngay không chút nghi ngờ, đều là dạng “ĐỐI VỚI PHÁP thậm thâm sẽ chóng lãnh ngộ không các nghi hoặc”. (04)

Vua BA TƯ NẶC, phu nhân MẠT LỢI và sứ quân CHÂN ĐỀ LA là DUYÊN giúp cho phu nhân gặp Phật. Xưa, chưa có điện thoại và bưu điện, không có Chân Đề La thì thư không thể đến, nên Chân Đề La là một duyên không thể thiếu. Vì thế đây nêu ra đầy đủ. Cũng giải thích lý do vì sao phu nhân làm kệ tặng áo cho ông.

PHẬT là thiện tri thức bậc nhất trong các thiện tri thức, là duyên tối ưu trong các duyên khiến chánh nhân được phát khởi. Nhân duyên đầy đủ thì Phật đạo mới thành.

Chánh văn:

Thắng Man mở thư coi có việc gì. Bà vui mừng tột bực sanh tâm thật hiếm có, rồi hướng về Chân Đề La mà nói kệ:

Giải:

Tâm không ở trạng thái bình thường mà đã có sự đổi khác nên nói SANH. Ai từng trải qua trạng thái NGỘ một câu kinh, một lời kệ hay đi nghe pháp mà gặp trúng thầy, trúng pháp (05) … sẽ hiểu cái THẬT HIẾM CÓ nói đây. Không phải là sự hân hoan vui mừng bình thường mà còn thêm sự nhẹ nhàng, thanh thoát, rộng mở, hiền hòa, an vui … chỉ trong Phật pháp mới có hương vị đó. Phu nhân Thắng Man vừa hưởng được sự an lạc do pháp vị mang lại (mà trước giờ chưa từng có), nên nói THẬT HIẾM CÓ.

KỆ là một dạng có âm điệu như thơ nhưng không cần vần cú và thường là 5 chữ. Sau là bài kệ.

Chánh văn:

Ta nghe danh Như Lai

Thế gian rất khó gặp

Lời này nếu chân thật

Phải cho ông y áo

Nếu Phật Thế Tôn kia

Lợi ích thế gian hiện

Tất vì ta, thương xót

Khiến ta thấy chân tướng.

Giải:

Phu nhân Thắng Man đọc thư xong, vui mừng hứng khởi nên ứng khẩu làm kệ. Đại ý là “Ta đã từng nghe đến tiếng tăm của Phật và cũng biết gặp được Phật không phải dễ. Song nếu ngài có công đức và hay vì lợi ích của thế gian mà hiện, đúng như trong thư đã nói, nhất định ngài sẽ thương xót mà hiện chân tướng cho ta thấy”. CHÂN TƯỚNG là chỉ cho tướng chân thật của Phật. TẤT là nhất định, chỉ cho sự đương nhiên. “Nếu ngài thật có lòng bi mẫn đối với thế gian thì nhất định ngài phải thương xót đáp ứng nhu cầu đúng đắn của ta”. Phu nhân nói với sứ quân mang thư đến như vậy. Cũng là lời thỉnh cầu gián tiếp tới đức Phật.

PHẢI CHO ÔNG Y ÁO vì không có ông lặn lội đường xa mang thư tới đây, ta không đọc được những lời quí báu này. Tuy đó là nhiệm vụ của ông, không cho ông y áo, ông cũng phải làm để giữ cái đầu, nhưng phu nhân vẫn nêu công trạng và tặng áo cho ông, biểu thị lòng biết ơn của bà đối với sứ quân.

Chánh văn:

Lời niệm vừa dứt thì trên hư không, Phật hiện ra với thân tướng chẳng thể nghĩ bàn. Đại quang minh chiếu khắp. Thắng Man cùng quyến thuộc thảy đều tụ lại, chấp tay chiêm ngưỡng vái Phật và xưng tán đức đại Đạo sư:

Giải:

Phật tâm trong mỗi chúng sanh vốn thanh tịnh viên minh. Một khi sống lại được với tâm Phật ấy thì mê tối hết, cái sáng tràn khắp xuất hiện. Trong những bức hình của Phật và Bồ tát, ta hay thấy ánh hào quang tỏa chung quanh, hoặc như trong kinh diễn tả “Ánh sáng từ giữa 2 chặn mày của đức Như Lai” v.v… là muốn nói lên những loại QUANG MINH này. Nó là ánh sáng phát ra từ TRÍ và THÂN của Phật cùng chư vị Bồ tát. Quang minh nói đây là loại quang minh chiếu khắp pháp giới nên gọi là ĐẠI QUANG MINH.

Có 2 cách có thể thấy được thân Phật.

1. Những chúng sanh có cơ cảm với Phật. Một trong các cách để có cơ cảm với Phật là trong quá khứ đã từng tu tập niệm Phật tam muội, nên hiện đời không cần nương vào tam muội mà vẫn thấy được sắc thân Phật. Đây là chỉ cho sắc thân thô với 32 tướng tốt, là HÓA THÂN PHẬT.

2. Nương tam muội mà thấy Phật. Tức tâm phải lóng lặng thanh tịnh mới thấy được thân Phật. Nói cách khác, thân tâm phải thanh tịnh thì Phật thân mới hiện tiền. Phật thân nói đây là chỉ cho BÁO và PHÁP THÂN PHẬT.

BÁO THÂN có 2 thứ: TỰ THỌ DỤNG THÂN là báo thân viên mãn, do chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập thiện căn mà tạo nên, khắp giáp cả pháp giới, thân và cõi chẳng lìa nhau, gọi là thật báo trang nghiêm độ. Thân này khi chưa thành Phật thì chư vị Bồ tát chỉ được nghe tên chứ không thể thấy. THA THỌ DỤNG THÂN là do cảm ứng với từng căn cơ của chúng sanh mà ứng hiện. Đây là do chư Phật muốn chư vị Bồ tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnh mà tùy nghi ứng hiện. Các sự sai khác của báo thân, gọi là HÓA THÂN.

Tuy phân thành nhiều thứ báo và hóa, nhưng tất cả đều là chỗ hiện của tự tâm. Phật thì thấy từ ngoài đến nhưng thật ra đều từ tâm mà hiện. (06) Tâm Phật và Phật tâm của chúng sanh không khác. Dụng của chư Phật cũng chính là dụng Phật tâm của chính mình. Tâm càng thanh tịnh thì mình càng dễ cảm ứng với dụng của chư Phật, cũng là sử dụng càng dễ cái dụng Phật thân của chính mình. Tâm càng thanh tịnh thì Phật thân càng vi diệu.

Phật hiện thân với sắc thân không thể nghĩ bàn cộng với lời ca ngợi của phu nhân Thắng Man ở đoạn sau “Sắc thân Như Lai vô tận, trí tuệ cũng như vậy, tất cả pháp thường trụ” thì biết Phật thân nói đây còn ám chỉ cho BÁO hoặc PHÁP THÂN PHẬT. Nghĩa là, một niệm đốn ngộ tự tâm (07) của chính phu nhân vừa bùng vỡ.

Công đức bên trong đầy đủ thì thân tướng bên ngoài trang nghiêm đẹp đẽ, có lực làm cho người đối diện phải kính ngưỡng. CHIÊM NGƯỠNG là nhìn một cách kính phục, ưa thích, không rời mắt.

Sau là những lời xưng tán đức Phật của phu nhân, được chia làm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, để dễ giải thích.

Chánh văn:

Diệu sắc thân Như Lai

Thế gian không gì bằng

Cũng không thể nghĩ bàn (08)

Cho nên con kính lễ.

Giải:

SẮC THÂN NHƯ LAI với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp … ở thế gian không ai có được nên nói KHÔNG GÌ BẰNG. Đó là hóa thân Phật. SẮC THÂN NHƯ LAI không hình, không tướng, trùm khắp, vượt ngoài cái thấy suy tưởng của tri thức, nên nói KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. Đó là báo và pháp thân Phật. Muốn có những sắc thân đó, phải trải qua vô số kiếp tu hành tích trữ công đức. Không có lòng nhẫn nại, ý chí trường viễn và bi nguyện rộng lớn, không thể làm được. Cho nên CON KÍNH LỄ.

Chánh văn:

Sắc Như Lai vô tận

Trí tuệ cũng như vậy

Tất cả pháp thường trụ

Cho nên con qui y.

Giải:

Không hình, không tướng, trùm khắp nên sắc thân ấy VÔ TẬN. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Pháp thân ấy là thể của sắc nên hay hiện sắc. Bởi tánh của SẮC chính là TRÍ nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Bởi tánh trí tức là sắc nên gọi là pháp thân khắp giáp tất cả chỗ”. (09) Vì SẮC và TRÍ vốn không hai, nên SẮC vô tận thì … TRÍ TUỆ CŨNG NHƯ VẬY.

Hiện nay, ai cũng thấy pháp thế gian là không thường. Có rồi mất, sanh rồi tử, không có gì còn hoài. Nghĩa là, với cái thấy hiện nay của mình, các pháp là vô thường. Một khi sống được với tâm chân thật, mình sẽ có cái thấy khác, như Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Vì là tâm chân thật nên là tánh của các pháp. Tự thể hiển bày soi rõ hết thảy pháp hư vọng”. Nhận rõ tướng các pháp là hư vọng thì sanh hay diệt, có hay mất, ra hay vào … thảy đều hư vọng. TƯỚNG sanh diệt của pháp thì hư vọng nhưng TÁNH các pháp (là tâm chân thật) lại thường trụ, nên nói TẤT CẢ PHÁP THƯỜNG TRỤ, là chỉ cho pháp tánh hay pháp thân Như Lai bình đẳng, không tăng, không giảm, không đến, không đi, bất biến, thường trụ.

QUI là hướng về, Y là nương tựa. Đây là qui y Phật và qui y pháp. Cũng là qui y Phật và pháp tự tâm.

Chánh văn:

Khéo điều tâm lỗi ác

Cùng với 4 thứ thân

Đến chỗ bất tư nghì

Con nay xin kính lễ.

Giải:

TÂM LỖI ÁC là chỉ cho những tạo tác thuộc về ý, là chỉ cho ý nghiệp. 4 THÂN là chỉ cho những tạo tác về thân và miệng, tức thân và khẩu nghiệp, được gói trọn trong 4 thứ sát, đạo, dâm và vọng ngữ. ĐIỀU là điều phục, là chỉ cho việc làm chủ 3 nghiệp, không để chúng phát tán thành tội lỗi mà luân chuyển trong 6 đường. BẤT TƯ NGHÌ là không thể nghĩ bàn. 3 nghiệp của Phật thanh tịnh hoàn toàn thì tâm và sắc chẳng phải hai. SẮC THÂN có được từ cái chẳng phải hai với TRÍ ấy, không thể dùng tri thức phân biệt (10) hiện nay của mình mà thấy được, nên nói “Điều phục đến chỗ chẳng thể nghĩ bàn”. Trước một người như vậy, không thể nào không qui ngưỡng thán phục, nên CON NAY XIN KÍNH LỄ.

Chánh văn:

Biết các pháp nhĩ diệm

Trí thân vô quái ngại

Với pháp không để mất

Nên con nay kính lễ.

Giải:

NHĨ DIỆM, Kinh Lăng Già nói “Biết nhân pháp vô ngã, phiền não và nhĩ diệm, thường thanh tịnh không tướng, mà khởi tâm đại bi”. Thiền sư Hàm Thị giải thích NHĨ DIỆM là sở tri. Nhị thừa phá được phiền não chướng nhưng sở tri vi tế vẫn còn. Chỉ Phật mới thấu suốt được tận nguồn, nên nói BIẾT CÁC PHÁP NHĨ DIỆM.

TRÍ THÂN Phật như hư không, trùm khắp, không có bờ mé, là tánh của tất cả pháp nên nói “Trí thân vô quái ngại, với pháp không để mất (11)”.

Chánh văn:

Kính lễ sao cho xứng

Kính lễ không gì bằng

Kính lễ pháp tự tại

Kính lễ vượt nghĩ suy.

Giải:

KÍNH LỄ, bản chữ Hán là KHỂ THỦ, (12) là dập đầu sát đất mà lạy, biểu hiện cho sự thành kính, nên đây dịch thành kính lễ. Không có gì có thể kính lễ hơn được nữa, cũng không biết diễn tả lòng thành kính ấy thế nào, nên nói “Kính lễ sao cho xứng, kính lễ không gì bằng, kính lễ vượt nghĩ suy”.

KÍNH LỄ được lặp đi lặp lại nhiều lần, ngoài việc biểu tỏ lòng thành kính, còn nói lên lòng tha thiết của phu nhân đối với bậc Tôn sư của mình, cũng là biểu tỏ lòng tin thanh tịnh đối với tánh Phật của chính mình. Đó là điều kiện tiên quyết để bà xả thân thọ 3 đại nguyện và 10 hoằng thệ sau này.

Chánh văn:

Xin thương xót hộ trì

Khiến pháp chủng tăng trưởng

Cho đến thân tối hậu

Thường ở trước Như Lai

Phước nghiệp con đã tu

Hiện nay đến cuối đời

Do lực thiện căn ấy

Nguyện Phật hằng nhiếp thọ.

Giải:

Đây là điều mong muốn của phu nhân Thắng Man. Bà mong Phật che chở và hộ trì cho đến khi bà thành Phật. Sau là giải thích vào chi tiết.

“Pháp tánh bình đẳng trong tất cả chúng sanh”. Nghĩa là, ai cũng có sẵn tánh Phật ấy. Mê nó thì làm chúng sanh. Tỉnh đó thì làm Phật và Bồ tát. TÁNH PHẬT ấy gọi là PHÁP CHỦNG.

Vì pháp Phật có cạn có sâu, nên PHÁP CHỦNG còn để chỉ cho VỐN PHẬT PHÁP được huân tập nhiều đời của người tu. Cạn, là chỉ cho phần giáo lý dạy người cách sống để người có được một đời sống an lạc hạnh phúc ở cõi trời và người. Cao dần lên là phần giáo lý của Thanh văn, Duyên giác và Đại thừa. Tối cùng của Đại thừa chính là Nhất thừa. Sống lại được với tánh Phật của mình, chính là Nhất thừa, còn gọi là Phật thừa.

Người mà tập quen với chửi bới rồi, giờ nói ngừng không phải dễ. Tập quen với ma túy xì ke rồi, nói bỏ rất ít người bỏ được. Những thứ làm khổ mình như vậy, nói mình bỏ, mình còn thấy trần thân. Huống là nói bỏ ăn ngon, vợ đẹp, con ngoan, tiền tài, danh vọng … là những thứ đem đến cái vui trong hiện tại cho mình. Vào đến cửa Phật rồi, nói bỏ đi cái sở trường trong Phật pháp của mình, lại càng khó hơn... Thứ gì đã thành ruột rà của mình, không có ý chí trường viễn, không có tâm quyết tử rất là khó bỏ. Đúng là đường thành Phật “Dài lâu nghiêm tuấn, cũng kỳ khu khúc khủyu, không kém nguy nan”. (13) Bước tới hai bước, có khi lùi đến ba bước. Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng.

Lòng tha thiết của bà đối với con đường thành Phật rất lớn, nhưng bà biết nó lắm khó khăn, nên đã nguyện với đức Phật “Xin Phật hãy thương xót mà che chở hộ trì con”. Che chở HỘ TRÌ là, khi nào con quên tu thì hóa thân của chư vị sẽ nhắc cho con không quên, khi nào con làm bậy thì tạo cái duyên nhắc con đừng làm bậy v.v... Cái quả nhắc nhở gần nhất là tâm bất an. Thành ai nghĩ quấy và làm quấy mà bị quả báo liền tay là biết đang được chư Phật thương xót hộ trì rất chặt chẽ. Nguyện với đức Phật cũng chính là nguyện với tánh Phật của chính mình. Lời nguyện ấy chính là hành trang để bà đi trọn con đường mình đã chọn.

THÂN TỐI HẬU là thân cuối cùng trong cõi sanh tử như thân của A La Hán, Bích Chi Phật và Bồ tát. THÂN TỐI HẬU nói đây là cái QUẢ của việc nuôi lớn thánh thai PHẬT TÁNH, là thân tối hậu của Bồ tát chứ không phải của A La Hán, nên nói THƯỜNG Ở TRƯỚC NHƯ LAI. Tức quả Phật đã viên mãn.

Xin Phật thương xót che chở nhưng không phải theo kiểu đưa một nải chuối hay một bó nhang tới lạy hối lộ rồi cầu đủ thứ còn việc thiện thì bỏ mặc. Vì ĐA VĂN và TRÍ TUỆ nên bà hiểu, muốn có quả thì phải gieo nhân và nuôi lớn nó. Muốn được HỘ TRÌ và NHIẾP THỌ, bà phải hành thiện nghiệp, là cái nhân để có cái quả thiện. Như đứa con muốn được cha mẹ thương yêu thì phải làm vừa lòng cha mẹ bằng cách thực hiện những gì cha mẹ đã dạy. Muốn được chư Phật hộ trì nhiếp thọ, suốt đời này, bà sẽ hành thiện nghiệp, lấy đó làm thứ giữ gìn sự che chở hộ trì của chư Phật.

NHIẾP có 2 nghĩa là THU VÀO và GÌN GIỮ.

THỌ, cũng là THU VÀO hay LÃNH NẠP.

Hình thức nào có tính cách THU VÀO GÌN GIỮ, gọi là NHIẾP THỌ. Như Thầy Trụ Trì thu nhận đệ tử và đệ tử qui thuận Thầy, việc thu nhận đó là một hình thức của nhiếp thọ.

Nghiệp thiện một khi được huân tập mạnh, không những đưa đến cảnh giới tốt đẹp vi diệu cho mình mà nó còn có lực khiến mình đi mãi trên con đường thiện. Như 5 giới của người Phật tử tại gia có giới không trộm cắp. Người giữ giới quen rồi, khi móng tâm muốn lấy của ai thứ gì thì sự sợ hãi hay mất bình yên sẽ xuất hiện. Cái tâm không yên ấy chính là động lực làm mình không trộm cắp nữa. Vì sao? Vì thiện nghiệp đang NHIẾP THỌ mình. Thiện nghiệp nhiếp thọ mình nên thứ gì là thiện thì nó thu vào giữ đó, thứ gì không phải thiện thì nó không thu vào. Không thu vào thì không đẩy đi cũng thành đẩy đi.

Tương tự, chúng A La Hán, một khi đã hưởng được cái lạc do tịnh tâm mang lại, thì cái lạc ấy chính là thứ nhiếp thọ các vị, khiến các vị không còn bị dục lạc của thế gian lôi kéo. Cũng vậy, một khi đã nếm được sâu xa pháp vị của Đại thừa thì thứ gì đúng là pháp vị Đại thừa, tâm sẽ nhiếp thọ, thứ gì không đúng là Đại thừa nó sẽ không nhiếp thọ. Vì thế, ai từng gieo trồng thiện nghiệp công đức của Đại thừa SÂU ĐẬM rồi, pháp vị của chư vị Nhị thừa không thể thu nhiếp họ được, đừng nói là những dục lạc của thế gian.

Như vậy, công đức thiện nghiệp của mình chính là lực hộ trì che chở cho mình chứ không ai khác. Tha lực của chư Phật chính là dụng Phật tâm của mình nếu mình SỐNG LẠI hoặc TÙY THUẬN được với tâm Phật ấy. Nghĩ và thực hiện những thiện nghiệp của cõi trời người, hoặc tu theo Tam thừa đều gọi là TÙY THUẬN. Cho nên, phu nhân Thắng Man tha thiết khẩn cầu sự hộ trì của Phật bằng cách lấy việc cả đời hành thiện nghiệp của mình để giữ lấy sự hộ trì của bậc Tôn sư.

Chánh văn:

Khi Thắng Man nói kệ xong, bà cùng quyến thuộc và hết thảy đại chúng đồng đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc ấy Thế Tôn liền vì Thắng Man mà nói kệ:

Ta xưa cầu Bồ đề

Từng khai thị cho bà

Nay bà gặp lại ta

Đời sau cũng như vậy.

Giải:

Đây là lý do vì sao chỉ vài dòng ca tụng đức Phật của cha mẹ, phu nhân đã bộc phát niềm tin thanh tịnh đối với Phật, rồi phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chánh pháp. Tiền kiếp, trong giai đoạn còn là Bồ tát cầu Phật đạo, Phật đã từng khai thị cho bà, nên nói “Ta xưa cầu Bồ đề, từng khai thị cho bà”. Bà đã từng phát tâm và từng tu tập. Vì đức Phật là người từng nhiếp thọ bà trước đây, nên kiếp này đúng cái duyên đức Phật, bà lại bị nhiếp thọ. Nói đúng hơn là được nhiếp thọ. Việc nhiếp thọ được huân tập nhiều thì bản thân nó cũng chính là lực khiến sự nhiếp thọ càng bền vững. Vì thế, kiếp này được đức Phật nhiếp thọ nữa thì chắc chắn kiếp sau bà cũng được nhiếp thọ tiếp. Nên nói “Nay bà gặp lại ta, đời sau cũng như vậy”.

Chánh văn:

Nói kệ xong, trước đại chúng, Phật thọ ký A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề cho Thắng Man rằng “Bà nay xưng tán công đức thù thắng của Như Lai, do thiện căn này, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, ở nơi loài người và trời thường được làm vua tự tại, chỗ thọ dụng đều được đầy đủ, sanh ra chỗ nào cũng được thấy ta như hiện nay đang xưng tán ta không khác. Sẽ lại cúng dường vô lượng vô số chư Phật Thế Tôn.

Giải:

Đây là lời thọ ký của đức Phật. THỌ KÝ, nghĩa của nó tương tự như hai từ CÔNG NHẬN. Việc thọ ký này không phải Phật muốn và phán như vậy là nó ra như vậy. Chẳng qua vì Phật có cái thấy suốt từ nhân đến quả... Nhân ở quá khứ như vậy thì quả ở tương lai như vậy. Phật chỉ nói lại những gì mình đã thấy. Lời nói đó khi nào cũng đúng nên nó trở thành lời nói ấn chứng, gọi là thọ ký.

A NIỆU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ là chỉ cho quả vị Phật. Là lúc mà ta đã sống được hoàn toàn với tâm Phật của chính mình, là lúc cái mình đây cũng không còn. Đó là cảnh giới sự sự vô ngại của thế giới Hoa Nghiêm.

Từ quá khứ cho đến hiện nay, rồi từ nay cho đến khi thành Phật, phu nhân còn phải trải qua vô lượng vô biên thân. Cõi người cũng có mà cõi trời cũng có. Song dù ở chỗ nào thì phu nhân cũng được đứng đầu thiên hạ về cái gọi là TỰ TẠI, nên nói ĐƯỢC LÀM VUA TỰ TẠI.

TỰ TẠI là không vướng mắc, không bị thứ gì ràng buộc. Muốn tự tại được thì TRÍ PHÂN BIỆT phải hết, phải có cái nhìn như huyễn đối với thế giới, thân và tâm mà mình đang thọ nhận. Vì thế, đúng với ý nghĩa của từ TỰ TẠI, tức tự tại cả về thân lẫn tâm, thì phải là hạng Bồ tát Bất Động Địa, là địa thứ 8 trong 10 thánh Thập địa, mới có danh hiệu này.

Song cũng có thể dựa vào những duyên thấp hơn để có trường hợp tự tại. Hành thiện nghiệp của cõi trời người và nắm vững nhân quả mà sống, thì chưa đến được địa vị Bất Động, mình vẫn có cuộc sống khiến mình được tự tại. Như 5 giới của người tại gia chẳng hạn. Giới đầu tiên là KHÔNG SÁT SANH, nếu hạn chế được việc giết hại cả những sinh vật nhỏ thì mình sẽ tránh được bịnh tật. Còn không thì tùy mức độ sát, mà bịnh không đến nỗi quá nặng để mình không thể tự tại. Không TRỘM CẮP thì không tàn mạt đến nỗi quá bức xúc mà hết tự tại. Không TÀ DÂM thì không bị đau khổ về tình cảm gia đình, cũng là một duyên khiến mình được tự tại. Không nói nhiều, KHÔNG NHIỀU CHUYỆN thì cũng không có duyên khiến mình phải phiền não để không tự tại v.v... Quan trọng nhất là làm sao nắm được nhân quả.

NẮM ĐƯỢC NHÂN QUẢ là biết rằng, trong thế giới đây không có gì có quả mà không có nhân. Anh bị một cái gì đó thì nhất định thứ đó phải có nguyên do, không ở kiếp này thì ở kiếp trước hay kiếp trước nữa. Một sự kiện dù tốt hay xấu thì nó luôn có cái nhân của nó. Quả xấu vì nhân ác. Quả tốt vì nhân thiện. Anh không gây nhân ăn trộm thì có lỡ rớt đồ ra đó, chúng cũng không thấy mà lượm. Còn anh đã gây cái nhân tham ô thì cất kỹ bao nhiêu, nó cũng ra cho hết. Không gây nhân xấu thì chắc chắn không có quả xấu. Còn đã gây nhân xấu thì có lo nó cũng cứ ra, thành cũng không có gì để phải lo. Nắm được nhân quả như vậy, mình sẽ có tâm bình thản với những gì xảy ra cho mình dù tốt hay xấu. Cũng không có gì lo lắng hay tính trước tính sau đối với tương lai. Cái mà mình có thể tính và làm được trong hiện tại là luôn nghĩ thiện và làm thiện. Người có được những nhân duyên đó, dù chưa đạt được địa vị Bất Động, cũng là vua tự tại ở cõi đời này.

Xét đến trường hợp của phu nhân Thắng Man. Với thiện căn và trí tuệ mà bà đang có (14) thì dù chưa đạt được địa vị Bất Động, bà vẫn cứ tự tại. Đây là lý do Phật thọ ký cho phu nhân Thắng Man trong vô số kiếp ở cõi người và trời, chỗ thọ dụng điều được đầy đủ và làm vua tự tại. ĐẦY ĐỦ nghĩa là không thiếu. Dư hay không thì không biết, nhưng chắc chắn là không thiếu. Cứ cái gì là nhu cầu cần thiết cho bản thân thì phu nhân đầy đủ, đủ để phu nhân có được sự tự tại về cả thân lẫn tâm.

Một điều hạnh phúc lớn lao nữa của bà là, sanh ra chỗ nào bà cũng được thấy Phật. Vì Phật là sở hiện của tự tâm nên ai không thấy là chuyện của ai, Phật có xuất hiện ở đời hay không là chuyện của Phật. Với phu nhân, khi nào bà cũng được thấy Phật. Không hóa thân thì báo thân, không báo thân thì pháp thân. Thấy HÓA, BÁO hay PHÁP thì cũng đều là thấy Phật. Việc thấy Phật đây cũng là cái duyên giúp phu nhân càng thêm tự tại. Sẽ không có gì để lo lắng khi thấy bên mình luôn có sự hộ trì của chư Phật. Sẽ không có gì để lo lắng khi quán sát thế giới này bằng giác tâm. Giác chính là Phật. Tâm vô quái ngại thì đương nhiên là phải tự tại.

Tất cả những quả báo tốt đẹp đó đều xuất phát từ cái nhân là XƯNG TÁN CÔNG ĐỨC thù thắng của Như Lai. Vì sao chỉ xưng tán Như Lai mà được quả báo như thế? Vì việc xưng tán công đức Như Lai của bà phát xuất từ tâm chứ không chỉ ở miệng. Tâm bà thực sự nghĩ vậy nên miệng bà nói ra như vậy. Vì xuất phát từ tâm, nên sắc thân và trí tuệ của Như Lai chính là mục tiêu mà bà nhắm đến. Vì xuất phát từ tâm nên bà đã làm những gì mà Như Lai đã làm. (15) Bà đã phát 13 thệ nguyện, lấy đó làm phương châm sống của mình cho đến ngày thành Phật. Cách sống đó tạo nên các công đức thiện căn khiến bà có đời sống tự tại cả về vật chất lẫn tinh thần. Thân tâm tự tại thì Phật phải hiện tiền.

Cho nên, muốn được các công đức như phu nhân Thắng Man thì phải xưng tán Phật theo kiểu mà phu nhân đã xưng tán. Xưng tán không chỉ bằng miệng mà cả bằng tâm và thân nữa. Chỉ có miệng thôi, còn hành động lại đi ngược với những gì Phật đã dạy thì việc xưng tán ấy chẳng được công đức gì, có khi trở thành phỉ báng Phật là đằng khác.

Chánh văn:

Qua hai vạn a tăng kỳ kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Cõi nước Phật đó không có các đường ác và các thứ như đau thương, già, bịnh, khổ; Ngay cái tên bất thiện và ác nghiệp đạo cũng không có. Chúng sanh cõi nước đó hình sắc đoan nghiêm, đầy đủ 5 thứ cảnh vi diệu, hưởng toàn sự khoái lạc, hơn hẳn cõi Tha Hóa Tự Tại của chư thiên. Chúng sanh cõi nước đó đều qui thuận Đại thừa. Những ai học pháp Đại thừa như thế đều được sanh về đó”.

Giải:

Đây vẫn còn trong lời thọ ký của Phật. A TĂNG KỲ KIẾP là chỉ cho khoảng thời gian từ khi phát tâm tu hành đến khi thành Phật, không tính xuể với thời gian vô tận, nhưng cũng có thể là trong một đời, không nhất định. Tổ Đạt Ma dùng 3 độc tham - sân - si để ấn định cho cái vô số a tăng kỳ kiếp này. Hết 3 độc rốt ráo thì hết vô số a tăng kỳ kiếp đó. Phu nhân sẽ thành Phật với pháp hiệu là Phổ Quang Như Lai. 5 THỨ VI DIỆU là chỉ cho sự tịnh diệu trong 5 cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc. (16)

Cõi nước đó chỉ toàn người tu theo Đại thừa. Nghĩa là, ai không tu Đại thừa thì không về đó được. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Phải có thứ gì là ĐỒNG thì mới tương khớp với nhau, mới tìm đến nhau được. Phật gọi là đồng nghiệp. Đồng nghiệp ở đây là cùng tu Đại thừa.


2/ Phu nhân Thắng Man phát 10 hoằng thệ và 3 đại nguyện. Hội chúng thấy điềm lành, cũng phát nguyện đời đời cùng chung hạnh nguyện với bà.

Chánh văn:

Khi Thắng Man được thọ ký xong, vô lượng người và trời trong lòng đều phấn khởi. Hết thảy đều nguyện vãng sanh về thế giới của Phật kia. Lúc ấy, Thế Tôn cũng thọ ký cho họ được sanh về thế giới đó. Nghe Phật thọ ký xong, phu nhân Thắng Man chấp tay đối trước Như Lai phát 10 hoằng thệ:

Giải:

THỆ tức là THỆ NGUYỆN, là thề nguyền hay tuyên thệ. Thệ nguyện rộng lớn trùm khắp tất cả chúng sanh, nên gọi là HOẰNG THỆ NGUYỆN. Sau là 10 hoằng thệ mà phu nhân đã phát.

Chánh văn:

1. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, đối với các giới đã thọ không để phạm.

Giải:

Tu gì đó tu, Bồ tát lớn cỡ nào đó lớn, việc đầu tiên trong vấn đề tu hành là phải giữ giới. Vì GIỚI là tướng bên ngoài biểu hiện cho tâm bên trong. Chỉ khi trong tâm không còn phạm giới thì mới không có giới bên ngoài để thọ. Song đa phần chúng sanh thời mạt pháp thì luôn cần có giới để thọ. Ngay cả phu nhân Thắng Man, là người được Phật tán thán “Nghĩa này, chỉ có ngươi và các đại Bồ tát mới có thể vâng nhận, còn hàng Thanh văn và Độc giác thì chỉ nhờ tin mà vào”, mà lời thệ nguyện đầu tiên của bà cũng là giữ giới. Thì biết, GIỚI quan trọng thế nào đối với việc tu hành.

Quá khứ qua rồi không bàn đến. Hiện tại, cho đến khi thành Phật, với những giới nào bà đã thọ, bà sẽ không để phạm. Chẳng hạn, kiếp này cái duyên của bà là Phật tử tại gia thì 5 giới của Phật tử tại gia bà sẽ không để phạm. Nếu thọ giới Bồ tát thì với giới Bồ tát bà cũng không phạm. Trong một kiếp nào đó, nếu bà thọ Sa di ni thì bà sẽ giữ những giới của Sa di ni. Nếu bà thọ giới Tỷ kheo thì bà sẽ giữ giới Tỷ kheo v.v… Trước mắt, bà phát 10 hoằng thệ này thì bà sẽ không để phạm những gì mình đã nguyện.

Chánh văn:

2. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, đối với các bậc Sư trưởng chẳng khởi tâm kiêu mạn.

Giải:

Trong luận Tối Thượng Thừa, có người hỏi “Thế nào là tâm ngã sở?”, ngài Hoàng Bá trả lời “Là có chút tâm cho ta hơn người, tự nghĩ ta hay như thế. Tâm ngã sở ấy là bịnh trong niết bàn”. Xuất hiện tâm kiêu mạn vì có chút tâm cho ta hơn người. Chỉ cần MỘT CHÚT cho ta hơn người thôi, lòng kiêu mạn sẽ xuất hiện. Nói BỊNH TRONG NIẾT BÀN, thì biết cái bịnh này không phải chỉ xuất hiện ở người không biết tu, mà là khá phổ biến trong giới người tu, nhất là những người từng sở chứng được thứ gì đó trong việc tu hành. Tu một thời gian mà thấy mình hơn bạn hơn Thầy, cái thấy của Tổ Phật cũng không bằng mình, rồi mắng Tổ, mạ Phật, coi trời bằng vung thì biết, mình đang mắc cái bịnh trong niết bàn nói đây.

Phu nhân biết mình có công đức và trí tuệ hơn người. Bà cũng biết nếu không khéo, cái thấy hơn người đó của bà sẽ là cái nhân làm phát sinh lòng kiêu mạn, là một loại phiền não chướng, một loại bịnh trong niết bàn, khiến việc tu hành của bà bị đình trệ. Vì thế, lời nguyện thứ 2 là không khởi tâm kiêu mạn. Nguyện là do lòng thiết tha đối với con đường Phật đạo của mình, mà nguyện cũng là để chặn đứng một thói xấu. Bởi lời nguyện, ngoài tác dụng phát tâm của mình ra, bản thân nó cũng tạo ra những duyên giúp mình không rời được những điều mình đã hứa.

Chánh văn:

3. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, đối với chúng sanh không khởi tâm oán giận.

Giải:

Việc thứ ba không kém quan trọng là không khởi tâm oán giận. Bởi sân giận đốt cháy cả rừng công đức. Ký cóp bao nhiêu năm tháng, giận lên tiêu tán tất cả. Đối với những thiện nghiệp từ quá khứ đến nay, trải qua quá trình dài lâu nên mình không thấy, chỉ biết tin vào lời của người xưa. Nhưng ai đã từng ngồi thiền mới thấy nó thiêu hủy công đức của mình thế nào. Buồn hay vui mà ngồi thiền thì gắng một chút sẽ ngồi được, chứ sân giận oán hận thì không thể ngồi thiền. Nó sinh chướng rồi lùng bùng cả người, không nặng người thì nặng đầu rồi khó thở, bởi khí huyết chạy lung tung v.v… không cách gì ngồi được. Một ngày ngồi thiền là một ngày làm Phật. Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật. Thiền không được không phải hủy hoại hết công đức sao?

Ngoài ra, trí tuệ Phật hiển lộ là nhờ tâm lắng động. Sân giận lên thì như sóng thần nổi trên biển cả, che lấp cuốn trôi tất cả. Tâm chúng sanh lại huân tập rất tốt. Sân giận một lần, hai lần mà không có ý thức dứt bỏ thì nó sẽ có lực khiến mình sân hận hoài. Trí tuệ lu mờ thì mọi việc sẽ thành tăm tối. Nhân gian từng có câu “Giận mất khôn” là đó. Đây là đối với vấn đề tự lợi.

Với vấn đề lợi tha, nổi sân hay oán giận thể hiện lòng nhẫn nại của mình yếu, trí tuệ của mình kém, tình thương của mình đối với người ít ỏi. Nói ít ỏi là so với cái tôi của mình đây. Làm lợi ích cho người mà thủ 3 thứ đó làm hành trang thì khó mà thành công được. Trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca, thiền sư Sessan nói “Sân giận cuối cùng trở thành căm thù, trở thành đố kỵ và tai họa cho sự sống. Không thể biết sự độc hại sẽ dừng ở đâu?”. Không biết được sự độc hại sẽ dừng ở đâu khi mình luôn có tâm giận tức với người. Vì thế, KHÔNG KHỞI TÂM SÂN GIẬN là lời thệ nguyện thứ 3 của bà.

Chánh văn:

4. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, đối với sắc thân và những sự tốt đẹp của người, không khởi tâm ganh ghét.

Giải:

Thấy người hơn mình sinh ghét là tâm trạng của đa số người đời. Vì ai cũng có cái TÔI. Khuynh hướng của cái TÔI là luôn muốn được nổi bật, luôn muốn trong vị trí hàng đầu. Vì thế, thứ gì hơn nó, nó có khuynh hướng không ưa. “Ta dễ cảm thông với người khác khi sự bất hạnh hay tai ương chụp xuống đầu họ... Khi một người quen hứng chịu sự bất hạnh, ta ngạc nhiên làm sao khi một cảm giác sôi sục trong ta” nhưng “Những người bạn tốt, gần đây đã trở nên xa cách vì tôn ông bên cạnh vừa xây một cửa hàng”. (17) Thông cảm và chia sẻ với những bất hạnh của người khác thì dễ, nhưng vui vẻ tán thán thật lòng về những gì người khác hơn mình rất là khó. Không phải là người đại lượng không thể làm được.

NHỮNG SỰ TỐT ĐẸP là chỉ cho những thứ như tiền bạc, tài sản, vật dụng... nó cũng chỉ luôn cho trí tuệ, đức hạnh hay tánh tốt của một người. Thấy người tài trí hơn mình mà sinh tâm khó chịu, hoặc thấy người bố thí cúng dường nhiều thì không ưa, rồi tìm cách chê bai hay nói ra nói vô … đều biểu hiện cho tâm ganh ghét đố kỵ nói đây.

Với những việc tốt đẹp của người mà không tùy hỉ được thì chí ít là đừng ganh ghét. Vì ganh ghét hay đố kỵ ngoài việc biểu hiện tướng ngã của mình, nó còn bị quả báo không tốt. “Kinh nói, không có tội nào ác bằng đố kỵ với trí tuệ, tánh tốt và hành động thiện của người”. (18) Quả báo mình thấy rõ nhất trước mắt là sự bất ổn và mất an lạc của tâm. Ganh ghét, đố kỵ, ghen tuông … không phải là những cảm giác dễ chịu và hạnh phúc đối với mình. Đó là trạng thái đau khổ của ngạ quỉ và địa ngục.

Chánh văn:

5. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, dù vật thực không được nhiều cũng không có tâm lẫn tiếc.

Giải:

VẬT THỰC KHÔNG ĐƯỢC NHIỀU là chỉ cho phần vật chất mà phu nhân có được trong một đời. Tùy duyên thọ thân của mỗi đời mà sự thọ dụng ở mỗi đời khác nhau. Nhưng dù trong cái duyên vừa đủ ăn thôi, bà cũng nguyện không có tâm bủn xỉn đối với chúng sanh. Thói thường của người đời là chỉ cho khi đã dư giả, không thì thứ gì không xài mới tới tay người khác. Người tu Phật thì không như vậy. Ngày mai chưa biết thế nào, nhưng trước mắt có người cần giúp đỡ, thì mình nên san sẻ những gì mình có … Đó là tâm hạnh của Bồ tát, là việc làm giúp mình xả đi sự ngăn cách giữa cái tôi của mình với cái tôi của người, mở rộng lòng từ, phá dần tâm chấp thủ và trí phân biệt.

Ở bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì việc không lẫn tiếc này không chỉ nằm trong phạm vi của vật ngoài thân mà “Đối với nội ngoại pháp không có tâm lẫn tiếc”. NGOẠI là chỉ cho tài vật. NỘI là chỉ cho bản thân. Nếu thật sự thấy thân tâm thế giới này là mộng thì với tài sản và thân thể này, có gì mà không cho được khi điều đó mang lại lợi ích cho chúng sanh?

Chánh văn:

6. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận, đều vì thành thục chúng sanh bần khổ.

Giải:

Lời nguyện này giúp phá trừ sự chấp thủ của người tu cũng là để việc lợi ích cho mọi người được tốt đẹp. Vì có ngã nên có sự chấp thủ của ngã, gọi là ngã sở. Tâm chúng sanh của mình rất buồn cười. Với tiền bạc của người thì rộng rãi thỏai mái với việc bố thí lắm. Không có thì thôi, nhưng lỡ để dành được một đồng thì lập tức muốn có đồng thứ hai, thứ ba và … không biết bao giờ mới đủ cho khoảng lòng chúng sanh rộng mở của mình. Có bao nhiêu cũng thấy không đủ thì việc làm lợi ích cho thiên hạ tất sẽ hạn chế. Lấy tiền thiên hạ làm phước thì hăng, nhưng đụng đến tiền bạc của mình lập tức có so đo tính toán. Vì vậy, phải chặn đứng ngay ở niệm đầu tiên “Không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận cũng vì thành thục chúng sanh bần khổ mà thôi”.

THÀNH THỤC CHÚNG SANH là dùng phương tiện vật chất giúp đỡ khiến họ nhận ra được những gì nên làm, những gì không nên làm để cuộc sống của họ được vui vẻ và hạnh phúc. Bởi không ai giúp mình được hạnh phúc lâu dài nếu không tự mình có suy nghĩ và hành động phù hợp với qui luật Nhân Quả ở thế gian. Không có suy nghĩ đúng đắn và hành động đúng đắn thì người có giúp bao nhiêu, khổ vẫn chỉ hoàn khổ.

BẦN KHỔ không phải chỉ có bần khổ về vật chất mà còn chỉ cho sự bần khổ về tinh thần. Đói cơm đói gạo mà khổ là lẽ tất nhiên. Nhưng đầy đủ cơm, gạo, nhà lầu, xe hơi mà không biết chút gì về luật Nhân Quả ở thế gian, cũng là một thứ khổ không thiếu cái bần của người đời.

Chánh văn:

7. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, hành tứ nhiếp pháp mà chẳng cầu báo đáp, dùng tâm không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại mà nhiếp thọ chúng sanh.

Giải:

TỨ NHIẾP PHÁP là 4 pháp dùng để thu phục chúng sanh. Gồm có bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

1. BỐ THÍ là tặng những thứ mình có cho người. BỐ THÍ TÀI VẬT như giúp đỡ tiền bạc cơm gạo cho những người khó khăn. BỐ THÍ THÂN MẠNG, như ngày nay có người hiến thận hay hiến máu cứu người, đều thuộc loại bố thí này. BỐ THÍ SỰ KHÔNG SỢ như giúp người khi người bị hiếp đáp hoặc gặp chuyện bất bình giữa đường v.v... Hai trường hợp này không chỉ dành cho đối tượng là người mà còn cho cả loài vật. Cuối cùng là BỐ THÍ PHÁP, là cho ra những lời khuyên đúng thời đúng lúc, khiến người hồi tâm.

Dù là bố thí nội tài, ngoại tài hay bố thí pháp thì quan trọng là phải đúng lúc, đúng nơi. Người đang có nhu cầu về thứ gì thì việc bố thí của mình về thứ đó mới có tác dụng. Người đang nghèo đói cần ăn, mình không cho ăn mà cứ dài dòng văn tự “Cần phải tập bố thí cho người khác mới thoát khỏi cảnh đói nghèo” thì cũng giống như ngài Xá Lợi Phất, nhè người thổi lò mà dạy quán bất tịnh. Song muốn sử dụng đúng pháp đúng thời thì cần phải có CHÁNH PHÁP TRÍ. Nó là thứ để ta tới lui nhịp nhàng trong vấn đề lợi ích cho tha nhân.

Bố thí CHẲNG CẦU BÁO ĐÁP, là bố thí rồi thì quên nó đi, coi như chưa từng làm gì cho ai hết. Chưa từng làm gì cho ai thì người có đối xử với mình thế nào, mình cũng bình thường. Việc lợi ích cho người mới được dài lâu. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì ghi “Không vì mình mà hành tứ nhiếp pháp”. KHÔNG VÌ MÌNH vì làm vì người. Chỉ vì người mà bố thí nên dù người có thế nào với mình, mình cũng không quan tâm. Chỉ biết người cần ăn thì mình giúp họ no, người cần hết sợ thì mình giúp họ hết sợ, người cần một lời an ủi thì mình tặng một lời an ủi.

2. ÁI NGỮ là lời nói nhẹ nhàng thương yêu. Người đời có câu “Mật ngọt chết ruồi” vì phần lớn mọi người đều thích lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, gần gũi. Nhắm vào chỗ đó nên ÁI NGỮ là một trong 4 nhiếp pháp của Bồ tát. Song sự nhẹ nhàng nói đây là vì lợi ích của người, KHÔNG PHẢI VÌ MÌNH mà nói. Đây là sự khác nhau giữa ái ngữ của người đời và người tu. Dùng ÁI NGỮ, không phải để mình trở thành một người đáng mến trước mắt họ, cũng không phải vì những mục đích riêng tư của mình v.v… mà chỉ vì để người tiếp thu được lời phải, khiến người có cuộc sống vui vẻ, đạo hạnh tiến bộ, nên nói KHÔNG CẦN BÁO ĐÁP.

3. LỢI HÀNH là khởi thiện hạnh làm lợi ích cho mọi người, khiến họ sinh tâm thân ái mà theo mình học đạo. Thiền sư Lai Quả nói “Lợi hành có 2 thứ: Một là trợ giúp người hành đạo. Hai là làm lợi ích cho mọi người. Như người muốn ở tùng lâm không có y áo, không có lộ phí v.v… thì tìm cách cho họ áo chăn của mình, bán y bát của mình cho họ làm lộ phí. Chỉ lo cho người đầy đủ chẳng màng đến sự cần dùng của mình. Bồ tát vì lợi ích của mọi chúng sanh khiến cho họ được hoan hỉ an vui, lấy cái lợi của mình để làm lợi cho người. Lấy cái pháp của mình đã hiểu ra dạy cho người, lấy cái hạnh mình đã làm mà tập cho người. Người sống trái đạo thì khuyên họ hối cải … Phải biết tự mình hành đạo là công nhỏ, khuyên người hành đạo là công to, thế nên cái đạo LỢI HÀNH là vô tận vậy”.

4. ĐỒNG SỰ là thuận theo căn tính ưa thích của từng người mà tùy phần thị hiện cùng làm công việc như họ để khuyến hóa họ. Nghĩa là, muốn vớt người đang ngụp lặn giữ dòng thì cũng phải nhảy xuống chỗ họ mà vớt, không thể đứng trên bờ huơ tay huơ chân và miệng thì kêu inh ỏi. Do bi nguyện nên chư vị Bồ tát có thể hóa thân thành anh em, cha mẹ, vợ chồng, con cái hoặc làm cùng nghề, hoặc cùng một nghiệp với người mình muốn hóa độ. Như cùng nghiệp uống rượu, nghiệp nhiều chuyện, hay cùng một nghề giáo viên chẳng hạn. Có vậy, mới có điều kiện hướng người cùng về Chánh Đẳng Chánh Giác. Thiền sư Lai Quả nói “Muốn độ người ăn xin thì phải cùng người ấy làm nghề ăn xin để độ họ … muốn độ con heo thì cũng phải đầu thai thành con heo để mà độ … gọi là đồng sự nhiếp”.

Suy nghĩ và hành động của mình một khi đã thành thói quen, (19) rất là khó bỏ. Như những người nghiện rượu. Có người biết rượu là độc, tương lai sẽ xơ gan, sẽ xảy ra tai nạn, là xô sát … mà thấy rượu là quên tất cả. Đó là vì thói quen có năng lực rất mạnh (Phật gọi là nghiệp lực). Nó chính là động lực đẩy ta luân hồi trong sanh tử. Song thói quen này thuộc về hành động, chỉ cần mình đủ ý chí là bỏ được ngay. Nguy cơ nhất là thói quen nằm ở suy nghĩ, mà ta thường gọi là định kiến hay quan niệm. Cái kiểu “Nam vô tửu như kỳ vô phong” thì thôi, không biết đời nào mới chay tịnh được. Phải chờ một trận “sóng rượu” nào đó khiến mình chết đi sống lại với nó, mới mong thay đổi chút gì …

Với những vui, buồn, thương, giận và suy nghĩ của con người, là thứ được huân tập thành ruột thành rà từ vô thủy kiếp đến nay, lại càng khó bỏ. Nói chúng là vọng buông đi, không mấy ai chịu buông. Buông mà thấy chướng thân, chướng tâm thành không dám buông thì không có gì để nói. Nhưng có người buông được mà không chịu buông. Tiếc! Ngay cả sự vật vã, đau khổ, buồn bã, một khi quen với nó rồi, nó cũng dẫn người chạy lòng vòng như một cái thú chứ chẳng phải chơi. Bà vật vã, đau khổ, mất cân bằng vì đứa con thân yêu vừa qua đời, nhưng khi được các bậc thầy chỉ cho phương thức đơn giản để trị đau khổ thì hình như bà không muốn. Bà sợ hình ảnh của con sẽ phai mờ trong ký ức của bà thì phải … Không muốn thoát khổ thì không ai có thể giúp mình hết khổ. Cũng như không bỏ được những thói quen về thân, khẩu, ý thì không thể có được cuộc sống bình an hạnh phúc, nói gì đến việc làm Phật, làm Tổ. Ông Tổ vật lý Einstein nói “Đời nay thay đổi một tư kiến còn khó hơn phá một hạt nhân nguyên tử”. Song nếu không thay đổi được những suy nghĩ sai lầm - là nền tảng cơ bản cho một hành động sai lầm, là nguyên nhân dẫn đến khổ đau - thì làm sao có thể thành thục chúng sanh? Mới thấy, thành thục cho được chúng sanh trong tâm đã khó, nói gì là chúng sanh bằng xương bằng thịt ngoài tâm. Sức lực là vô kể mà thời gian thì vô tận. Không có tâm “Không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại” khó mà làm được. Vì thế, nó trở thành một trong các lời thệ nguyện của phu nhân Thắng Man.

Bản Hán của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì ghi là TÂM KHÔNG ÁI NHIỄM thay cho tâm không tham, không lợi. TÂM KHÔNG ÁI NHIỄM, nghĩa của nó rõ ràng và dễ hiểu hơn ‘Tâm không tham, không lợi’. Như với việc LỢI HÀNH, giúp người với tâm không ái nhiễm thì không vì thương mới giúp, ghét thì không. Giúp rồi cũng không lấy đó để tính ơn, tính nghĩa. Chỉ với mục đích duy nhất là làm lợi ích cho người mà thôi.

Trong cảnh ĐỒNG SỰ, nếu có tâm ái nhiễm thì thay vì hướng người đó về đạo Bồ đề, mình lại bị người lôi theo nghiệp tập của người. Thay vì làm một anh say rượu để lôi những anh say rượu cùng tỉnh, mình lại thành một tay bợm nhậu của đám xỉn say. Hạnh nguyện tiêu tùng mà công phu thì sập tiệm. Vì vậy, tâm không ái nhiễm rất cần thiết cho pháp đồng sự.

Chánh văn:

8. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, nếu gặp những ai không nơi nương tựa, bị các thứ tối tăm ràng buộc, bịnh tật, ưu não, nguy ách thì con chẳng bao giờ bỏ rơi họ, nguyện sẽ làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ.

Giải:

BI và TRÍ là thứ sẵn đủ trong mỗi chúng sanh, chỉ do vô minh che lấp mà thành nhân ngã phân biệt. Song dù ở hoàn cảnh nào thì bản chất tốt đẹp kia vẫn không mất. Vì thế, ai gặp kẻ cô độc, bần hàn, đau khổ cũng thấy động lòng thương xót và muốn giúp đỡ. Song người hay gặp khổ nạn, tai ương, nghèo khổ thường là người thiện căn kém cõi. Nói THƯỜNG chứ không nói TẤT CẢ. Thiện căn kém thì tập nghiệp xấu cũng nhiều. Tham nhiều, sân nhiều, mà ngu si cố chấp cũng nhiều. Ngu si cố chấp nhiều nên nhận lãnh của người thì nhiều mà khi nào cũng sinh tâm ghét bỏ, ganh tỵ, oán thù. Cho một đòi hai, thêm trò gian dối lừa phỉnh. Chỉ biết cái gì là vừa lòng, chứ không phân biệt được cái gì là tốt cho mình, cái gì không tốt cho mình, nên khuyên lời phải ít chịu nghe. Tâm xấu xa mờ mịt nên cảnh giới chung quanh không thể thuận lòng. Không thuận lòng thì sân hận và tham lam càng tăng trưởng. Nghĩa là, đủ thứ rối ren và rắc rối … Vì vậy, lòng tốt của mình đối với người dễ sinh giới hạn, lòng nhiệt tình của mình dễ bị lụi tàn. Việc nhiếp hóa thành thất bại. Để khắc phục điều đó, bà đã nguyện “Chẳng bao giờ bỏ rơi họ, nguyện sẽ làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ”.

LÀM NHIỀU ĐIỀU LỢI ÍCH để họ hết khổ là dùng nhiều phương tiện làm cho họ thay đổi những quan niệm sai lầm. Vì họ chỉ hết khổ thật sự khi tự họ nghĩ thiện và làm thiện. Thay đổi một tư kiến không phải là điều dễ làm. Không phải trong một đời mà có thể làm xong. Cũng không phải chỉ thuần những thuận hạnh mà có thể làm thay đổi đi một tư kiến. Có khi phải dùng cả những nghịch hạnh để mà nhiếp hóa. Cho nên, LÀM LỢI ÍCH không có nghĩa là làm cho người được sung sướng hạnh phúc. (20) Có khi rồi cũng cần một sự đau khổ trong hiện tại là đằng khác. Chủ yếu là để người chuyển đi một tư kiến sai lầm, hầu có được một cuộc sống thiện về lâu về dài cho những kiếp sau.

Chánh văn:

9. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, phàm thành ấp hay tụ lạc nào mà con nhiếp giữ, nếu có các ác luật nghi hủy phạm giới cấm thanh tịnh của Như Lai thì điều phục được, con sẽ điều phục; nhiếp thọ được, con sẽ nhiếp thọ. Vì cớ sao? Vì điều phục và nhiếp thọ thì chánh pháp được tồn tại lâu dài. Chánh pháp tồn tại lâu dài thì chúng sanh ở các cõi trời và người sẽ thêm nhiều, còn ác đạo thì giảm thiểu. Có thể khiến cho bánh xe pháp của Như Lai thường chuyển.

Giải:

Hiện thân kiếp này của bà là vương phi nên bà nói “Phàm thành ấp hay tụ lạc nào mà con nhiếp giữ”. Song dù không là vương phi thì nơi nào bà đã đặt chân đến, nơi đó chính là nơi bà thực hành hạnh nguyện của mình, nên nói NHIẾP GIỮ.

ÁC LUẬT NGHI là những hành động đưa con người đến cái quả là bịnh tật, tai họa và đau khổ. Theo các kinh luận thì những công việc như bùa thuật, săn bắn, làm các nghề sinh sát, hàng rượu v.v… đều gọi là ác luật nghi. Ngoài ra nó còn chỉ cho những hành động phạm giới mà Như Lai đã đặt ra, như Phật tử tại gia mà phạm 5 giới của người tại gia, Tỷ kheo mà phạm 250 giới của Tỷ kheo v.v... Luận Câu Xá nói “Ác luật nghi là điều mà người trí quở trách nhàm chán nên gọi là ác hành. Vì không ngăn hành vi ác của thân và miệng nên gọi là bất luật nghi. Nó làm chướng ngại giới luật thanh tịnh nên gọi là ác giới”. Vì lẽ đó mà đây nói “Các ác luật nghi hủy phạm giới cấm của Như Lai”.

ĐIỀU PHỤC và NHIẾP THỌ đều mang ý nghĩa là dẹp đi các ác luật nghi ấy, không để nó có cơ hội phát triển. Song NHIẾP THỌ còn mang thêm tính THUẬN THEO. Không những chỉ bỏ đi các ác luật nghi mà còn quay về qui thuận Phật pháp. “Điều phục được thì con điều phục, nhiếp thọ được thì con nhiếp thọ” là, việc nào bà cũng gắng hết sức mình. Song thứ gì cũng phải tùy duyên. Không có duyên thì ngay cả Phật cũng bó tay nói là bà. Bà không phải là thứ quyết định mọi vấn đề mà chỉ là cái duyên hy vọng để cái quả gặt được trở nên tốt hơn. Vì thế, tùy sự tùy việc mà làm để đạt được kết quả tối cùng cho sự việc đó. Không đúng duyên thì trước mắt, bà cũng không điều phục, cũng không nhiếp thọ. Chờ gieo duyên, kiếp sau tính tiếp.

VÌ SAO là hỏi để hiểu vì sao phải điều phục và nhiếp thọ những thứ đó. Vì điều phục pháp ác và nhiếp thọ người qui thuận Phật pháp thì thiện pháp được tăng trưởng. Thiện pháp tùy thuận với chánh pháp. Chánh pháp nhiếp thọ thiện pháp. Thiện pháp còn thì chánh pháp còn. Chánh pháp còn thì thiện pháp còn. Nên nói “Điều phục và nhiếp thọ thì chánh pháp được tồn tại lâu dài”.

Pháp thế gian là pháp duyên khởi. Pháp này luôn liên quan mật thiết đến pháp kia. Cái xấu của pháp này kéo theo cái xấu của pháp kia. Cái tốt của pháp này cũng kéo theo cái tốt của pháp kia. Chặn đứng được pháp ác này thì sẽ chặn bớt được pháp ác khác. Pháp thiện này tăng trưởng thì pháp thiện khác cũng tăng trưởng. Vì thiện pháp tùy thuận với chánh pháp nên thiện pháp tăng trưởng thì chánh pháp tồn tại lâu dài.

Như chuyện ma túy xì ke chẳng hạn. Ma túy thì thường đi liền với trộm cắp, giết người, đỉ điếm, bệnh tật và tham nhũng. Ngăn chặn được ma túy thì cũng ngăn chặn được những thứ còn lại. Người sống thiện, không dính vào những việc xấu thì dễ gần gũi và chấp nhận giới luật cũng như những lời Phật dạy trong kinh hơn là những người phạm vào các giới luật v.v… Như người không nghiện rượu, không tà dâm v.v… thì dễ dàng chấp nhận 5 giới của Phật tử tại gia hơn là một chàng bợm nhậu hay một cô nàng đang ngoại tình. Do đó việc nhận lãnh chánh pháp của Như Lai cũng dễ dàng hơn. Nên nói “Có thể khiến cho bánh xe pháp của Như Lai thường chuyển”.

Chánh văn:

10. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ đề, nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất. Vì cớ sao? Vì để mất chánh pháp tức là mất Đại thừa. Để mất Đại thừa tức là mất Ba la mật. Để mất Ba la mật thì buông Đại thừa. Chư Bồ tát nào nếu đối với pháp Đại thừa không có tâm quyết định, nhiếp thọ chánh pháp không kiên cố thì chẳng thể kham nhận cảnh giới siêu vượt phàm phu, là tổn thất rất lớn.

Giải:

Đây là lời hoằng thệ cuối cùng của bà: Nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất, là thọ nhận và gìn giữ chánh pháp không để mất. CHÁNH PHÁP là tất cả những gì mà Như Lai và chư vị Bồ tát đã nói và đã chứng. Phần nói là những thứ như kinh, luật, luận của Tam thừa. Phần chứng là phần thể nghiệm của bản thân về những gì được nói đó. CHÁNH PHÁP nói đây là chỉ cho Đại thừa. Vì Đại thừa thu nhiếp hết các thừa dưới mà phần thâm nghĩa của Đại thừa lại chính là Phật thừa. Song những gì thuộc về hữu vi như kinh, luật, luận, pháp môn thì vô thường. Chỉ có pháp vô lậu vô vi mới thường hằng bất biến. Vì vậy, chánh pháp hay Đại thừa nói đây là phần trực nghiệm chủng vô lậu của bản thân, là muốn nói đến phần thâm nghĩa của Đại thừa. Một khi trực nghiệm được phần thâm nghĩa của Đại thừa thì gom thâu đầy đủ. Tất cả pháp đều là Phật pháp.

ĐẠI THỪA là gì?

Trên văn từ định nghĩa, Đại thừa có rất nhiều nghĩa. Hãy nghe Bồ tát Long Thọ nói về nghĩa Đại thừa trong luận Thập Nhị Môn “Đối với Nhị thừa thì trên nên gọi là Đại thừa. Hay diệt trừ các khổ của chúng sanh cho việc lợi ích lớn nên gọi là Đại. Chư Phật là bậc tối đại mà thừa này hay đến nên gọi là Đại v.v… Phần thâm nghĩa của Đại thừa chính là KHÔNG. Nếu thông suốt nghĩa này là thông suốt Đại thừa, đầy đủ các Ba la mật, không có chướng ngại”.

Câu cuối là câu đáng để ta ghi nhận: Thông suốt nghĩa KHÔNG thì thông suốt ĐẠI THỪA, đầy đủ các Ba la mật. THÔNG SUỐT, nghĩa là phải tự mình trực nhận, tự mình kinh nghiệm qua. Còn chưa suốt được thì phải mượn phần văn tự sau để tạm thông về cái KHÔNG đó.

KHÔNG là chỉ cho cái KHÔNG của tâm mình. Những thứ cảm giác như vui, buồn … hay những dòng suy nghĩ mình đang sở hữu đây không phải là tâm mình. Phật gọi chúng là vọng tưởng. KHÔNG, nghĩa là LY (21) hết những thứ đó đi. Nhưng không phải là trạng thái không tịch của các vị Nhị thừa, còn có cảnh giới để chứng đắc. Trạng thái không tịch đó, Tổ cũng gọi là vọng mà là vọng giác. Khi tâm không bị vướng vào hai thứ trên, nó sẽ trở lại trạng thái nguyên thủy của nó: Thanh tịnh, trùm khắp, với vô vàn công đức chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh. Đạt được cái KHÔNG đó là thâm nhập được cội nguồn chân thật của tất cả pháp. Cái không ấy chính là THỂ TÁNH của tất cả thế gian và mọi loài chúng sanh. Kinh luận gọi cái không ấy là tánh không, là chân như, là chân không diệu hữu, là Phật, là Như Lai. Phần thâm sâu của Đại thừa chính là cái KHÔNG này. Cái không ở NHÂN, (22) gọi là tánh không hay Phật tánh. Cái không ở QUẢ, (23) gọi là chân không diệu hữu hay Như Lai. (24) Chính là Phổ Quang Như Lai mà phu nhân được thọ ký trong tương lai.

Nghĩa là, sau một quá trình dài vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp NHIẾP THỌ CHÚNG SANH trong tâm và NHIẾP THỌ CHÚNG SANH ngoài tâm, bà sẽ trở về được tâm chân thật của chính mình, gọi là thành Phật.

Như vậy, lời nguyện NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP CHẲNG ĐỂ MẤT với một dọc dài những danh từ và lý luận … gom lại chỉ có một ý nghĩa duy nhất: Mất chánh pháp thì không thể thành Phật với pháp hiệu là Phổ Quang Như Lai mà Phật đã thọ ký. Vì thế, từ khi phát những lời hoằng thệ này cho đến khi thành Phật, bà nhất quyết nhiếp thọ chánh pháp không để mất. Không mất nhiếp thọ chúng sanh trong tâm thì trí Phật được hiển lộ. Không mất nhiếp thọ chúng sanh ngoài tâm thì bi nguyện được tròn đầy. Bi trí cả hai đều đầy đủ thì viên mãn quả Phật.

Giờ nói về việc “Mất Đại thừa là mất Ba la mật”.

Trong luận Đại Thừa Khởi Tín, BA LA MẬT là đối tượng tu hành của hạng Giải Hạnh Phát Tâm. Là những người đã có niềm tin sâu sắc và thâm hiểu được ít nhiều về tánh Phật của mình dù chưa thực chứng được Phật tánh là gì. Pháp tu của những vị này là LY TƯỚNG, tức không còn đặt nặng vào những hình tướng bên ngoài như kính Phật, cúng dường Tăng hay chỉ dừng ở mức độ tàm quí và loại bỏ các niệm ác. Các vị đã bước qua giai đoạn phá trừ sự sanh khởi của tâm. Niệm thiện hay niệm ác đều buông, để đưa tâm về chỗ vô trụ vốn sẵn của nó.

BA LA MẬT, là cứu cánh hay đến bờ kia. Pháp nào đưa người tu đến bờ giác ngộ rốt ráo gọi là Ba la mật. Muốn được gọi là Ba la mật thì pháp ấy phải hội đủ 5 điều kiện: Không nhiễm trước, không luyến tiếc, không tội lỗi, không phân biệt và hồi hướng chân chính. (25)

Với những điều kiện của BA LA MẬT trên, nếu không nhiếp phục được chúng sanh trong tâm và không có bi nguyện sâu dày thì khó mà thực hiện được các Ba la mật. Vì thế nói “Nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất vì để mất chánh pháp tức là mất Đại thừa. Để mất Đại thừa tức là mất Ba la mật”. Không thực hiện được các hạnh Ba la mật, tức buông phương tiện tu hành và buông luôn việc “đến bờ kia”, nên nói “Để mất ba la mật thì buông Đại thừa”.

“Đối với pháp Đại thừa không có tâm quyết định” là nói đến niềm tin của mình đối với Đại thừa chưa dứt khoát. Nay Đại thừa, mai Tiểu thừa, ngày kia đi làm việc phước thiện. Nay tu pháp này, mai lựa pháp khác v.v… chẳng trụ đâu được lâu, cứ “Phất phơ như lông trong hư không”. Tâm không quyết thì vui đâu gá đó. Làm việc gì cũng như sốt rét cách ngày, gặp khó liền nản, nên nói “Nhiếp thọ chánh pháp không kiên cố”.

Tu hành mà niềm tin không vững vàng thì trên sự chẳng thể khả quan, kết quả cũng không thể có. CẢNH GIỚI SIÊU VIỆT PHÀM PHU là chỉ cho phần thâm nghĩa của Đại thừa. Cảnh giới PHÀM PHU nói đây cũng chỉ luôn cho trạng thái không tịch của Nhị thừa.

Chánh văn:

Thế Tôn! Nếu hiện tại và vị lai mà nhiếp thọ chánh pháp thì chư vị Bồ tát sẽ được đầy đủ lợi ích rộng lớn không có bờ mé. Con phát các thệ nguyện này, dù thánh chủ Thế Tôn đã chứng tri, nhưng với các chúng sanh căn lành cạn mỏng, có người sẽ khởi lưới nghi. Vì 10 điều thệ nguyện này khó thành tựu nên các người đó đêm dài tập quen với pháp bất thiện, sẽ chịu nhiều khổ não. Vì muốn lợi ích hơn cho họ, nay đối trước Phật con xin chân thành phát nguyện. Bạch Thế Tôn! Con nay phát 10 thệ nguyện này, nếu chân thật chẳng hư dối thì trước đại chúng đây, hoa trời sẽ rơi, âm thanh vi diệu của trời sẽ trổi.

Giải:

Đây là lời gút kết của phu nhân Thắng Man. Nếu như 10 điều bà nguyện đây là chân thật không hư dối thì xin cho hoa trời mưa xuống, nhạc trời trổi lên để chứng minh điều bà đã thệ nguyện. CHÂN THẬT KHÔNG HƯ DỐI là, bà đã phát nguyện thì nhất định bà sẽ làm được và những lời hoằng thệ đó là phương tiện đúng đắn dẫn bà đến cứu cánh. Bà xin như vậy để làm gì? Để khuyến dụ mấy vị căn lành cạn mỏng, là chỉ cho mấy vị còn vướng nặng ở tướng bên ngoài. Vì sao lại chấp vào tướng bên ngoài? Vì không đủ trí tuệ.

Những gì phu nhân vừa nói, Phật đều chứng tri vì Phật có trí tuệ nhìn thấu tất cả. Nhưng với người căn lành cạn mỏng thì khác. Vì không đủ trí tuệ nên các vị chỉ biết dựa vào những hình thức bên ngoài. Với hình tướng của một người nữ lại là một vị vương phi giàu sang phú quí, nói đến chuyện tu hành đã là khó, huống là nguyện làm những điều quá khó làm. Vì thế những hiện tướng như hoa trời rơi, âm thanh vi diệu trổi là việc cần thiết. Bà phải nương vào những ảnh tượng đó để khuyến dụ tha nhân. Phần sau chứng minh điều bà làm không hề dư thừa.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man ở trước Như Lai vừa dứt lời xong, thì trên hư không mưa hoa liền rơi, âm thanh vi diệu cõi trời liền trổi với lời khen ngợi “Lành thay, phu nhân Thắng Man! Đúng như lời bà nói, chân thật không có đổi khác”. Khi chúng hội thấy điềm lành đó, tâm không còn nghi hoặc mà rất vui mừng, đồng thanh xướng lên “Nguyện cùng phu nhân Thắng Man sanh ra chỗ nào cũng cùng chung hạnh nguyện”.

Phật Thế Tôn thọ ký cho họ được như sở nguyện.

Giải:

Dù trước đó Phật đã xác nhận phu nhân sẽ thành Phật ở cõi đó vào thời gian đó, nhưng khi Thắng Man phát lời thệ nguyện, hội chúng nghe thì nghe, mà tin thì không dám tin. Đúng như điều bà đã dự đoán. Những lời bà nói ra chỉ có Phật mới chứng tri được, còn chúng hội thì phải “Thấy điềm lành đó, tâm không còn nghi hoặc mà rất vui mừng, đồng thanh xướng lên rằng …”. Nhờ thấy điềm lành đó, chúng hội mới chịu tin. Song nhờ vậy, ta mới thấy mình có phần: Người dù căn lành cạn mỏng bao nhiêu cũng có thể thọ 10 hoằng thệ này. Chỉ cần có niềm tin và có quyết tâm thì sẽ làm được. Không phải chỉ người có trí tuệ như phu nhân Thắng Man mới dám thệ nguyện.

ĐIỀM LÀNH nói đây là chỉ cho những duyên giúp cho một vị Bồ tát thực hành bi nguyện của mình được vuông tròn. Nếu thực là một vị có công phu đắc lực, có lòng tha thiết đối với vấn đề lợi ích cho tha nhân, thì mình sẽ có được những phần duyên trợ giúp này. Nó không hẳn chỉ nằm ở việc hoa trời rơi hay nhạc trời nổi mà rất nhiều hình thức bình thường khác. Có khi chỉ là một duyên bình thường khiến lời nói của mình có giá trị để người phát niềm tin thuận theo, khiến việc nhiếp hóa được dễ dàng.

Cha anh bạn tôi là một người rất thực tế. Nói thực tế vì ông không tin vào việc phước thiện, không tin vào những thứ mà mắt thường không cảm nhận được. Như nói đến tiền bạc thì không thể do bố thí cúng dường mà được giàu sang. Phải là tích chứa, thâu gom và làm cật lực mới có tiền. Quan niệm như vậy nên ông không thích bố thí cúng dường, cũng không thích con cháu mình bố thí cúng dường. Hai chữ ‘thực tế’ muốn nói đây là như vậy.

Anh không muốn cha vướng vào những suy nghĩ không đúng, có thể trải dài sự nghèo khó vào những kiếp sau, nên trong những buổi chuyện trò anh hay nói về phước đức, là cái quyết định rất nhiều đối với đời sống thường nhật của một con người. Nghe thì nghe, nhưng tin thì tôi biết ông cụ không tin.

Nhân duyên đến, cây đèn lớn như một dĩa bay trên trần nhà bỗng nhiên rớt xuống. Nó rớt vào lúc mà người xích lô vừa đi ra và ông cụ chưa kịp bước tới. Câu mà ông cụ buộc miệng nói sau đó là “Không có phước thì chết rồi! Mình không chết mà thằng xích lô chết, mình cũng chết”. Nghĩa là, trong thâm tâm, ông cụ đã ít nhiều công nhận phước đức là thứ quyết định ít nhiều ở cuộc đời này, không hẳn chỉ có sức lực của con người. Đó là dấu hiệu thay đổi đầu tiên cho một tư kiến, là cái nhân để có những cái quả khác trong tương lai.

Thật ra, những loại điềm lành đó không hẳn chỉ do công đức hạnh nguyện của người nhiếp hóa mà còn có phần phước đức của người được nhiếp hóa nữa. Thấy được điềm lành đó để tin mà làm theo còn phụ thuộc vào phần phước đức của người được thấy. Không có phước báu và căn lành của chính mình thì không đủ duyên để gặp được những điều như vậy, để niềm tin hình thành mà phá đi những tư kiến không đúng.

Chánh văn:

Lúc ấy phu nhân đối trước Phật phát thêm 3 đại nguyện. Dùng nguyện lực ấy làm lợi ích vô lượng vô biên cho loài hữu tình:

1. Nguyện dùng thiện căn này đời đời sanh được chánh pháp trí.

2. Được chánh pháp trí rồi, con nguyện sẽ vì chúng sanh giảng nói không nhàm mỏi.

3. Vì nhiếp thọ chánh pháp, con nguyện chẳng tiếc thân mạng mình.

Giải:

Đợi hội chúng phát nguyện xong, bà mới khởi xướng tiếp 3 đại nguyện. 3 đại nguyện này rất quan trọng, nhất là đại nguyện đầu tiên. Không có đại nguyện này thì các hoằng thệ trên khó thành tựu. Vì không có CHÁNH PHÁP TRÍ thì không thể hàng phục 3 nghiệp đến chỗ rốt ráo. Không có CHÁNH PHÁP TRÍ thì việc lợi ích cho tha nhân cũng bị hạn chế. Vì sao? Vì lòng nhiệt tình không chưa đủ, cần phải có trí tuệ thì trên SỰ mới được hanh thông. Ngược lại không có 10 hoằng thệ làm phương tiện thì việc nguyện cầu CHÁNH PHÁP TRÍ đây cũng khó mà thành tựu.

1. Nguyện đời đời sanh được chánh pháp trí.

NGUYỆN là mong ước. Bà mong ước khi nào sanh ra cũng đều có chánh pháp trí. CHÁNH PHÁP TRÍ là cái trí thuộc về chánh pháp chứ không phải là tà pháp. Thấy đúng được thực chất của vạn pháp là mình đang có CHÁNH PHÁP TRÍ. (26) Tuy là nguyện nhưng điều nguyện ấy phải thành sự thật. Vì thế, nó được đổi bằng phước đức và trí tuệ mà bà đang có, đang làm và sẽ làm, thông qua 10 hoằng thệ trên, nên nói NGUYỆN DÙNG THIỆN CĂN ấy. Không phải chỉ trong hiện tại hay một vài kiếp mà với tất cả mọi kiếp cho đến khi thành Phật, nên nói ĐỜI ĐỜI.

DUYÊN KHỞI là qui luật chi phối tất cả vạn pháp ở thế gian suốt cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, được biểu hiện thông qua NHÂN DUYÊN và NHÂN QUẢ. (27) Nếu ta thực sự nhìn vạn pháp ở thế gian bằng cái nhìn đó, là ta đang sở hữu được CHÁNH PHÁP TRÍ. Tùy theo mức độ nhận biết thô hay tế mà mình có CHÁNH PHÁP TRÍ cạn hay sâu, toàn bộ hay từng phần. Đây là do mức độ thanh tịnh của tâm.

Như nói về LÝ NHÂN QUẢ, gọi là nắm được nhân quả là khi ta có niềm tin và trực nghiệm được nó trong cuộc sống của chính mình. Như nghe dạy bố thí cúng dường thì được đầy đủ. Thực hiện nó, mình thấy đúng như vậy. Vì thế, mình tin và tiếp tục sống với niềm tin đó. Việc này bồi tiếp việc kia, niềm tin được củng cố bằng hiện thực, hiện thực làm tăng trưởng niềm tin. (28) Song đó chỉ là ngay nơi quả mà nghiệm quả. Còn thấy ngược trở lại cội nguồn của những thứ đó, thấy cho được cái nào là nhân của cái nào, vì sao biết bố thí là nhân của sự giàu sang thì chỉ có Phật và các bậc thánh mới thấu được. Nên cũng cùng là cái nhìn Nhân Quả, nhưng mức độ cạn sâu đã có khác nhau. Duyên Khởi cũng vậy … (29)

Có CHÁNH PHÁP TRÍ thì mình có cái nhìn đúng đắn đối với vạn pháp ở thế gian. Đó là yếu tố giúp mình có cuộc sống thái bình, an lạc. Thế giới ngày nay tranh tàn, gây hấn là do không nắm được qui luật đang chi phối sâu xa thế giới và mọi loài chúng sanh đây. Muốn cái quả là hoa nhưng lại gieo cái nhân cỏ. Muốn giàu sang nhưng không gieo nhân bố thí, cúng dường, lại gieo cái nhân trộm cướp, tham nhũng, lừa gạt v.v... Ngược lại nhờ biết ứng dụng NHÂN DUYÊN rộng rãi mà các ngành khoa học, kỹ thuật v.v… phát triển vượt bực.

Theo kinh Lăng Nghiêm và luận Đại Thừa Khởi Tín, cội nguồn tâm thể của một chúng hữu tình vốn thanh tịnh trùm khắp, nhưng vì không tánh nên không tự giữ, bất giác mà sinh cái thấy hư vọng cùng cảnh giới hư vọng như hiện nay. CÁI THẤY HƯ VỌNG, chỉ cho cái thấy của mình đây, thuộc về tâm. CẢNH GIỚI HƯ VỌNG là chỉ cho thân căn và thế giới mà mình đang thọ nhận. Gọi là HƯ VỌNG vì nó có tướng mà không có tánh. Như người tỉnh mà mê rồi thấy hiện ra mọi thứ trong mộng. Hoặc như đi trong sa mạc khát qua mà thấy nước. Tuy hư vọng nhưng vì không biết là hư vọng, nên trên cảnh hư vọng ấy lại sinh phân biệt ta, người, tốt, xấu … rồi tạo nghiệp luân chuyển trong 6 đường. (30) Hành động nào được huân tập nhiều, đủ duyên sẽ có sức mạnh biến hiện ra cảnh giới đó để mình thọ nhận. Như huân tập những chủng nhân tham lam, đố kỵ, sân giận thì tự tâm sẽ biến hiện ra thân tướng cùng các cảnh giới đau khổ như địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ hay những loại ‘địa ngục trần gian’ mà mình đang thấy hiện nay.

Không có thói quen tạo ra những chủng nhân đó thì không có các cảnh giới đó. Đây là lý do vì sao trong Phật pháp không lấy tứ cú (31) ấn định cho thực tánh của vạn pháp. Bởi vạn pháp không tánh, chỉ tùy duyên mà thấy có, thấy không v.v…

Như vấn đề địa ngục, không thể khẳng định là có hay không. Nếu mình từng gây nhân địa ngục thì đủ duyên, mình sẽ có cảnh giới địa ngục để mà thọ nhận. Nếu mình không gây chủng nhân địa ngục thì không bao giờ mình có cảnh giới địa ngục. CÓ với người có chủng nhân đó, KHÔNG với người không có chủng nhân đó. Gặp được nhau là vì cùng có chủng nhân nào đó với nhau. Mọi thứ đều từ tâm, theo thức mà có sai khác, nên nói TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC.

Do cái thấy trên mà thế gian dưới mắt Phật Tổ chỉ là một trường đại mộng. Mộng, thành đủ duyên thì thấy có TƯỚNG nhưng TÁNH thì không. Vì thế mới có khái niệm DUYÊN KHỞI - KHÔNG TÁNH. Pháp không tánh mới duyên khởi được. Thấy pháp duyên khởi thì biết là pháp không tánh.

Cái nhìn DUYÊN KHỞI - TÁNH KHÔNG thâm sâu hơn cái nhìn NHÂN DUYÊN - NHÂN QUẢ nói trước. Đây là lý do vì sao trí tuệ của Nhị thừa không sánh được với trí tuệ của các vị Bồ tát đăng địa và chư Phật. Nhị thừa chỉ mới thấy được NHÂN DUYÊN - NHÂN QUẢ nhưng chưa thấu được THỰC TƯỚNG của NHÂN DUYÊN - NHÂN QUẢ, chưa thấy được mặt huyễn hóa của vạn pháp. Đó là do chưa thấu được TÂM THỂ thanh tịnh trùm khắp, là cội nguồn chân thật của mọi loài chúng sanh cũng như cảnh giới thế gian và niết bàn mà các vị đang thọ nhận. Phần sau của kinh này gọi CỘI NGUỒN ấy là TRÍ TÁNH KHÔNG, chỉ cho nhân Phật tánh mà cái quả chính là niết bàn Như Lai Tạng.

Loại CHÁNH PHÁP TRÍ thâm sâu nhất, gọi là Nhất Thiết Chủng Trí, chỉ cho trí tuệ Phật. Chính là TRÍ TÁNH KHÔNG đó thôi, nhưng bây giờ TƯỚNG và DỤNG của cái THỂ ấy đã hiển bày đầy đủ. Loại CHÁNH PHÁP TRÍ này chư vị Bồ tát ở các địa trên đã có, nhưng không được viên mãn và đầy đủ như ở Phật. Nó là cái trí chiếu soi thẩm thấu tất cả dù là chỗ vi tế nhất.

Trong tất cả SỰ từ việc tu hành, làm lợi ích cho tha nhân, cho đến các việc trong đời sống thường nhật đây, CHÁNH PHÁP TRÍ càng thâm sâu thì trên SỰ mình càng ít lầm lẫn, việc lợi ích cho tha nhân dễ có kết quả. Như với việc tu hành, nắm được NHÂN QUẢ tức biết nhân nào quả nấy thì mình không gieo lộn nhân để trơ mắt chờ cái quả không bao giờ có. Như giáo lý của một ngoại đạo ngày xưa nói “Muốn hết tội lỗi đã gây trước đây thì phải vùi mình trong cát nóng”. Nắm được nhân quả, mình hiểu vùi mình trong cát nóng chỉ là cái nhân của phỏng da ngứa ngáy chứ tội lỗi không thể hết. Muốn hết tội lỗi, phải sám hối ở tự tâm, tức “Sám lỗi trước, chừa lỗi sau” thì tội nghiệp mới tiêu trừ. Nhân quả trước sau rất rõ ràng. Dù không biết đạo chăng nữa, mình cũng thấy được tính hợp lý và bất hợp lý trong mỗi lời nói.

Hoặc như việc tu Phật. Phật chính là cái KHÔNG thanh tịnh trùm khắp của tâm. Phật với 32 tướng tốt chỉ là sở hiện của tự tâm mà thôi. Nói cách khác, Phật chính là cái tâm không sanh không diệt của chính mình. Nhưng vì không tỉnh, mình đã nhận những cái sanh diệt như buồn, vui, suy nghĩ v.v… là mình mà bỏ mất cái tâm chân thật. Vì vậy, muốn làm Phật thì việc tiên quyết là làm sao LY cho được những tâm niệm sanh diệt. Nghĩa là, cái sanh diệt ở tâm phải hết, cái không sanh diệt của tâm mới hiển bày. Nhân là vô sanh thì quả mới vô sanh. Nhân là Phật tánh thì quả mới là niết bàn Phật. Những thứ như học hỏi, kiến thức, việc phước thiện, dịch kinh, giải luận chỉ là phương tiện để mình có điều kiện làm lợi ích cho tha nhân, là phương tiện giúp mình LY dần những sanh diệt của tâm phàm phu để đi lần về cái không sanh diệt. Chỉ là nhân duyên gián tiếp giúp mình qua đò được dễ dàng, không phải là điều kiện tiên quyết cho việc làm Phật. Muốn làm Phật phải quét đi những tâm niệm sanh diệt, phải nhận cho ra TÁNH thật của những thứ đó. Thành làm việc phúc thiện nhiều bao nhiêu mà cái sanh diệt của tâm không chịu LY thì không thể thành Phật. Cũng như muốn thành A La Hán mà lấy một mớ chữ nghĩa rậm như rừng Phi châu làm nhân, còn việc thiền định lại bỏ mặc thì quả A La Hán không bao giờ với tới.

Việc làm lợi ích cho tha nhân cũng vậy. Nắm được NHÂN DUYÊN - NHÂN QUẢ, việc làm của mình sẽ có hiệu quả và ít vướng vào những chuyện không đâu. Như việc nhiếp hóa tha nhân. Nắm được Nhân Duyên, mình sẽ hiểu có duyên mới độ được người, không duyên thì đầy đủ lực dụng thần thông như Phật cũng chịu. Đức Phật không độ được bà già nhưng vị đệ tử nhỏ nhất tăng đoàn lại độ được bà già. Huệ Minh dưới trướng Ngũ Tổ bao năm cũng chỉ là kẻ đứng ngoài cửa. Lục Tổ Huệ Năng chỉ đến nhà trù 8 tháng, đã là kẻ nắm được huyết mạch của Tổ Thầy, cũng chính là người khiến Huệ Minh sáng tâm. Có cái nhìn NHÂN DUYÊN rồi, mọi sự ở đời không có gì để thắc mắc. Đủ nhân đủ duyên thì pháp hiện hình. Không đủ nhân đủ duyên thì pháp liền không. Công hạnh của một vị Bồ tát chỉ là gieo cái nhân, giúp thêm cái duyên để hy vọng sự việc được tiến triển tốt đẹp. Chư vị không phải là yếu tố quyết định để người này được hạnh phúc hay người kia phải đau khổ. Hạnh phúc hay đau khổ còn lệ thuộc vào bản thân của chúng hữu tình đó.

Hoặc như lời nguyện của phu nhân Thắng Man “Nếu gặp những ai không nơi nương tựa, bị các thứ tối tăm ràng buộc, bịnh tật, ưu não, nguy ách thì con chẳng bao giờ bỏ rơi họ, nguyện sẽ làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ”. Song người ta chỉ thật sự hết khổ khi và chỉ khi suy nghĩ và hành động của họ hướng thiện. “Có phước nắm gạch thành vàng. Không phước nắm vàng thành gạch”. Nắm được nhân như thế mới cho ra quả như thế thì việc làm của mình mới có đầu đuôi rõ ràng, mình mới làm tròn những điều mà mình đã nguyện. Giúp đỡ tiền bạc chỉ là phương tiện ban đầu. Chủ yếu là làm sao để người hướng thiện và làm thiện. Nếu cho việc giúp đỡ tiền bạc vật chất là việc làm rốt ráo có thể mang lại hạnh phúc lâu dài cho người thì chưa chắc. Vì sao? Vì pháp không có xấu tốt, nhưng lòng tham của con người là vô hạn nên tiền bạc vật chất trở thành con dao hai lưỡi. Không khéo, mình lại đẩy họ loanh quanh mãi trong bể khổ trầm luân túng thiếu chứ không hẳn đã “Làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ”.

Do một tai nạn, cô gái bị chấn thương cột sống và nằm luôn một chỗ. Phường khóm giúp đỡ bằng cách cho một mảnh đất dựng tạm cái chòi để hai mẹ con có chỗ che nắng che mưa. Bà con làng xóm thì chăm sóc công không và bưng cơm đổ cứt cho cô gái thay người mẹ già. Việc đó được lan truyền, các nhà mạnh thường quân tới lui nhộn nhịp. Trong đó có người thân của tôi. Cái kết cuộc mà tôi nghe được từ người thân là “Bây giờ những kẻ tốt bụng trước kia đã thành những tay chủ thầu. Tiền của những mạnh thường quân chính là động lực khiến sự việc trở nên tồi tệ. Luôn có một người đàn ông lấp ló canh giữ để thu giữ những đồng tiền ấy. Cô gái không còn như xưa, bây giờ đã có những biểu hiện đòi hỏi, than van và những giọt nước mắt không thành thật”. Cái đáng tội ấy có lẽ là do áp lực của những người chung quanh. Tiền bạc cũng bắt đầu vơi bớt vì không ai thích lòng tốt của mình bị lợi dụng.

Kể ra đây, không phải để mình hạn chế đi sự giúp đỡ người khác mà để thấy, thương người bằng cách đó thôi chưa hẳn đã làm lợi ích thiết thực cho người. Có thực mới vực được đạo nên bố thí tài vật hay tiền bạc luôn là bước đầu cần thiết để người người có nhân duyên với nhau, nhưng nó chưa hẳn là thứ quyết định để mọi việc trở thành tốt đẹp. Đây là điều đòi hỏi mình phải có CHÁNH PHÁP TRÍ để nhìn sự việc cho đúng đắn.

Sau là nói về vấn đề DUYÊN KHỞI - KHÔNG TÁNH.

Như trên đã nói, mọi thứ ở thế gian đều do huân tập mà thành. Nghĩa là mọi thứ từ sự vật cho đến con người và luôn cả vũ trụ đây, không thứ nào có tánh. Cái mình gọi là TÁNH chẳng qua chỉ là những thứ được huân tập nhiều thành thói quen, rồi gọi cái thói quen ấy là tánh. Hoặc do một duyên nào đó pháp hiện tướng rồi mình tưởng cái tướng ấy là tánh của pháp. Nắm được cái không tánh này, mình mới dám kiên trì chuyển hóa chính mình và giúp người chuyển hóa. Việc tu hành mới không bị dở dang.

Như người hay la hét, vì la hét đã thành thói nên đụng chuyện là la hét nổi lên. Giống như người nghiện ma túy hay nghiện rượu, tới cơn là phê. Vì nó được lặp đi lặp lại trường kỳ, lại là thứ tưởng chừng như không thể bỏ, nên mình cho những thứ được huân tập ấy là TÁNH của pháp. Gọi là TÁNH vì nó mang tính không đổi.

Thật ra thứ gì cũng bỏ được, vì tất cả đều không tánh. Không tánh thì không có cái “không đổi”. Chỉ cần ý thức và có biện pháp để dừng đi thói quen, thì thói quen ấy sẽ hết. Song đã là thói quen thì cần rất nhiều thời gian để thay đổi. Không thể ngày một ngày hai mà có kết quả liền được. Nắm vững mặt không tánh cũng như tính huân tập của vạn pháp như vậy, mình mới có đủ niềm tin và nhẫn lực khi nhiếp hóa chính mình, mới bình thản với những khó khăn khi cần chuyển hóa một lối sống hay một tư tưởng của tha nhân.

Trường học, tùng lâm hoặc các trại cải tạo nhân phẩm được lập ra đều do ứng dụng cái DUYÊN KHỞI - KHÔNG TÁNH này của vạn pháp. KHÔNG TÁNH nên không có gì không thay đổi được. DUYÊN KHỞI thì cùng một nhân nhưng nếu duyên khác đi thì quả cũng sẽ khác. Dù bản tánh xấu xa bao nhiêu mà thay đổi đi các duyên chung quanh như môi trường, con người, phương cách sống v.v… thì cái quả nhận được cũng sẽ khác. Vấn đề là ở ý chí và thời gian.

Với những người không biết đạo, việc ứng dụng này là kết quả của nhiều thử nghiệm trước đó. Với người hiểu đạo, lập định mọi thứ là do nắm được mặt NHÂN DUYÊN và KHÔNG TÁNH này của vạn pháp. Dạy người tránh ác làm lành, tu hành v.v… đều là căn cứ vào tính HUÂN TẬP và KHÔNG TÁNH của vạn pháp mà lập để đời sống của người được an lạc hạnh phúc, xã hội được yên bình, thiên tai hoạn nạn đỡ xảy ra. Căn tánh của chúng sanh vô vàn sai biệt nên hóa thân và phương tiện của chư vị Bồ tát cũng đầy dẫy sai biệt.

Là pháp DUYÊN KHỞI nên pháp nào cũng có mặt đối đãi của nó. Có khi cùng một nội dung mà có hai hình tướng hoặc cùng một hình tướng mà có hai nội dung. Như đều là biểu hiện của VIỆC LỢI ÍCH CHÚNG SANH nhưng không phải chỉ có hình thức nhẹ nhàng mới biểu hiện được điều đó, còn la rầy thì không. Không phải chỉ có những hình thức mang lại niềm vui cho người trong hiện tại mới là làm lợi ích cho người, còn những hình thức gây đau khổ cho người không phải là làm lợi ích cho người. (32) Ngược lại, hình tướng la rầy cũng có thể biểu hiện cho tình thương mà cũng có thể biểu hiện cho sự oán ghét. Do tính đa dạng như vậy của pháp mà ngay nơi cách nhìn của mình đối với vạn sự vạn vật, đã cần đến CHÁNH PHÁP TRÍ, huống là việc nhiếp thọ chúng sanh với vô vàn hình thức và chủng duyên sai biệt. Song sai biệt đa đạng bao nhiêu, chỉ cần có CHÁNH PHÁP TRÍ thì mọi việc liền xong. Trí phân biệt càng giảm thì CHÁNH PHÁP TRÍ càng thâm sâu. Ứng duyên liền cảm. Có cảm liền ứng. Những hình thức có khi mình thấy xấu nhưng vô tâm và sử dụng đúng duyên thì mọi thứ vẫn thành tốt đẹp.

Thiền sư Sengai một đêm đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt. Ông bắt gặp chiếc ghế đã giúp cậu ta leo qua tường ra ngoài. Ông cất ghế và đứng vào đó. Trở về, cậu đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Cậu hoảng sợ khi thấy mọi việc bị bại lộ. Nhưng Sengai nhỏ nhẹ bảo “Sáng sớm nay trời rất lạnh, con cẩn thận kẻo bị cảm”. Từ đó, người đệ tử không bao giờ ra đường vào ban đêm.

Ngược lại, thiền sư Ekido lại giống như một bạo chúa. Do bận tâm theo dõi một cô nàng ở cổng đền nên đệ tử ông đã đánh sai chuông báo thức lúc trời sáng. Ekido xuất hiện và phan cho cậu một gậy khiến cậu lăn quay. Cái chết của vị đệ tử chẳng khiến Ekido bận lòng, nhưng 10 vị đệ tử còn lại thì đều đắc đạo vì quá khiếp đảm.

Đây chỉ dùng tạm vài luận giải và ví dụ để ta hiểu mức quan trọng của CHÁNH PHÁP TRÍ, để hiểu vì sao phu nhân Thắng Man nguyện đời đời sanh ra chỗ nào cũng có CHÁNH PHÁP TRÍ. Còn CHÁNH PHÁP TRÍ không phải là những kiến thức lụn vụn đó. Thứ gì từ cửa vào thì không phải là của báu trong nhà. CHÁNH PHÁP TRÍ là phần trí có được do sự tu tập từ bản thân. Tâm thanh tịnh thì bản trí xuất hiện.

Biết rõ ràng và chính xác về những ưu cũng như khuyết điểm của chính mình, biết cái gì là tốt cho mình, cái gì không cần thiết với mình, biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm, cái gì nên nghe, cái gì cần giữ vững lập trường... chính là bước đầu của cái gọi là có CHÁNH PHÁP TRÍ.

2. Giảng nói không biết mệt mỏi.

GIẢNG NÓI đây có 2 cách: Một là bằng ngôn ngữ và chữ nghĩa. Hai là bằng chính hành động và cách sống của mình. Tùy duyên mà sử dụng các phương thức ấy. Với người thích nghe thì nói. Với người thích tham khảo sách báo thì viết. Với người chỉ có hành động cụ thể mới có thể nhiếp hóa được họ thì dùng cách sống của mình để mà nhiếp hóa. you

Nói KHÔNG BIẾT MỆT MỎI là nói đến khi nào hết nói được thì thôi. Kiếp này hết duyên chưa kịp nói thì sang kiếp sau nói tiếp. Cứ có miệng là có nói, có tay là có viết. Nói đến khi nào thiên hạ chịu hướng thiện và làm thiện. Hướng thiện làm thiện rồi nói tiếp cho đến khi thiên hạ thành Phật. Nói không biết mệt mỏi, nói không có thời hạn … nhưng đúng lúc, đúng thời, đúng duyên và vừa đủ. Người muốn nghe mà mình nói là nhân duyên quá tốt. Nhưng người không muốn nghe mà đúng lúc cần nói thì cũng cứ nói. Tổ Ấn Quang, tông Tịnh Độ nói “Phàm người đáng nói thì dù cho đối nghịch với ta cũng phải vì người mà nói, khiến người gặp được điều lành, tránh xa điều dữ, lìa khổ được lạc”.

GIẢNG NÓI không phải vì nhiều chuyện, không phải vì tịnh không được, mà nói để mong được chút lợi ích nào đó cho mọi người, nên việc GIẢNG NÓI KHÔNG BIẾT MỆT MỎI đây chỉ được thực hiện sau khi đã có chánh pháp trí. Vì phải có chánh pháp trí thì lời nói của mình mới “không bạ đâu nói đó”. Nói theo kiểu “Cúng quýt sẽ làm cho người chết không siêu thoát được” hay “Phật tánh biết đi” là nói mà không có chánh pháp trí. Dạy người lầm nhân lộn quả như thế là dạy người trực chỉ về 3 đường dữ. Mình thê thảm mà người cũng thê thảm lây. Nói chung, chưa có chánh pháp trí thì im lặng khi nào cũng là … vàng.

3. Chẳng tiếc thân mạng để nhiếp thọ chánh pháp.

Lời nguyện thứ 3 là dù phải hy sinh thân mạng này để nhiếp thọ chánh pháp thì cũng phải hy sinh. Như đã nói, CHÁNH PHÁP là chỉ cho Đại thừa. Chính xác hơn là chỉ cho ông Phật của chính mình. NHIẾP THỌ là nhận lãnh, giữ gìn. Sống được với tâm Phật ấy chính là NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP. Muốn sống được với tâm Phật rộng lớn của mình thì phải buông đi cái tôi vị kỷ nhỏ hẹp. Không coi trọng thân bên ngoài thì cái tinh túy bên trong mới phát ra được. Nhưng nhớ, không coi trọng và giữ thân để có phương tiện tu hành là 2 thứ hoàn toàn khác nhau.

Hồi mới đến với đạo, tuy đã hành thiền nhưng cái tật hay soi gương thì tôi không bỏ. Rất thích soi gương dù thân tướng không có gì đẹp đẽ. Một đêm, đang mơ mơ màng màng thì tôi nghe có người nói bên tai “Thân đó mà không để nó lụi tàn đi thì cái tinh túy bên trong không bao giờ phát được”. Suốt ngày cứ soi tới soi lui như thế là do mình yêu thích cái thân. Tu mà còn thích thân thì gặp khó sẽ nản, thấy bịnh sẽ lùi. Song không có tâm dám bỏ thân trên bồ đoàn thì cái tinh ba của chính mình không bao giờ hiển lộ. Vì thế, muốn nhiếp thọ chánh pháp thì đừng tiếc thân mạng.

Tâm Phật đã hiển bày thì trí tuệ và từ bi phải xuất hiện. “Nguyện hóa độ chúng sanh đến tận vi lai chẳng sót một ai khiến họ đều được vô dư niết bàn” là việc mà một vị Bồ tát phải làm để hoàn thành con đường Phật đạo của mình, để trí tuệ được viên mãn. Chánh pháp là thứ đi ngược lại với tánh dục của chúng sanh, nhiếp hóa họ về vô dư niết bàn không phải là việc làm trong một sớm một chiều, không phải là việc làm dễ dàng hay vui sướng. Rất nhiều chướng ngại và gian nan. Tiếc thân mạng thì thấy khó sẽ bỏ, thấy chướng đành buông v.v… Vì thế, muốn nhiếp hóa chúng sanh thì không thể coi trọng thân này. Không trọng thân thì mới dám nói và dám làm.

Xưa đại sư Trí Khải nghe kinh Lăng Nghiêm là một bí truyền rất quí ở Ấn Độ, nên sớm chiều Sư xoay mặt về hướng tây thành lễ bái, nguyện kinh sớm được truyền bá đến nước Sư. Hơn 100 năm sau, có Sa môn Bát Thích Mật Đế mang kinh đến. Nhưng vì lệnh cấm ở Ấn Độ quá nghiêm ngặt, nên muốn mang kinh đến, Bát Thích Mật Đế đã phải xẻ thịt bắp đùi nhét kinh bằng lụa mỏng vào rồi băng lại, vượt biển mà đến đất Huệ Thành.

Kinh luận là phương tiện lưu truyền của chư Phật, là thứ giúp chúng sanh nghĩ thiện và làm thiện, cũng là thứ dùng để ấn chứng cho việc tu hành. Lưu truyền kinh rộng rãi là tạo cơ hội để người hết khổ và có phương tiện nhập đạo. Nếu ngài Bát Thích Mật Đế quí thân mạng thì kinh không có điều kiện để lưu truyền rộng rãi, việc lợi ích tha nhân bị hạn chế. Vì thế, muốn nhiếp thọ chánh pháp thì không thể lẫn tiếc thân mạng.

Chánh văn:

Thế Tôn nghe lời nguyện ấy xong, bèn nói với phu nhân “Như tất cả sắc đều nằm trong không giới. Cũng vậy, các nguyện nhiều như cát sông Hằng của chư Bồ tát đều nằm trong nguyện này. 3 nguyện này là chân thật quảng đại”.

Giải:

Đây là lời ấn chứng của Thế Tôn, xác định chỉ cần phát 3 đại nguyện này là đủ tất cả các đại nguyện khác. Nói CHÂN THẬT vì với 3 đại nguyện ấy, Bồ tát sẽ đạt được chỗ cứu cánh viên mãn. Nói QUẢNG ĐẠI vì nó rộng lớn và bao trùm tất cả.


3/ Phu nhân nương thần lực của Phật nói về nghĩa quảng đại của việc nhiếp thọ chánh pháp. Qua đó nêu bày thực tướng của người nhiếp thọ chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp và chánh pháp. Hiển bày mối liên hệ mật thiết giữa nhiếp thọ chánh pháp, Đại thừa và Ba la mật. Dùng 6 độ Ba la mật xả bỏ thân, mạng và tài sản để hoàn thành đại nguyện nhiếp thọ chánh pháp.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man lại bạch với Phật “Nay con muốn nương vào lực oai thần biện tài của Phật nói về đại nguyện. Mong Thế Tôn rủ lòng chấp thuận”.

Giải:

Phu nhân xin phép Phật giảng nói về đại nguyện. Thần lực của Phật với dụng Phật tâm của bà không khác nên nói NƯƠNG VÀO THẦN LỰC. (33) Điều bà sắp nói thuộc về phần giáo nghĩa thâm sâu, không có phần DỤNG Phật tâm này thì việc nói ấy không thể thấu đáo và không tránh được sự lầm lẫn. Nên trước mỗi phần giảng thuyết bà lại nói “Nương vào lực oai thần của Phật”.

Chánh văn:

Phật nói với Thắng Man “Bà cứ nói tùy ý”.

Giải:

Phật gật đầu chấp thuận. NÓI TÙY Ý là cứ nói theo ý của bà, muốn nói gì đó nói.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man nói “Bồ tát có các nguyện nhiều như cát sông Hằng. Tất cả đều nằm trong một đại nguyện. Đó là nhiếp thọ chánh pháp của Như Lai. Thế đó, nhiếp thọ chánh pháp chân thật quảng đại”.

Giải:

Trước khi giải thuyết rộng về nghĩa ĐẠI NGUYỆN, bà thâu tóm và mở đầu “Tất cả đều nằm trong một đại nguyện. Đó là nhiếp thọ chánh pháp của Như Lai”. Nghĩa là con chỉ cần nói về nghĩa của NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP là xem như nói đủ tất cả mọi đại nguyện. Nhiếp thọ chánh pháp bao trùm hết tất cả nên bà cũng chỉ làm một việc là nhiếp thọ chánh pháp mà thôi.

Nhiếp thọ chánh pháp có 2 phần:

1. Sống được với Phật tâm của chính mình.

2. Dùng bi nguyện nhiếp thọ những người hữu duyên.

Những phần bà nói sau sẽ loanh quanh trong 2 vấn đề ấy. Bà sẽ phân tích lý giải để hành giả tu hành nhận hiểu chánh pháp không sai lầm, để biết việc tu hành của hành giả đã đến đâu, tránh tình trạng biết ít cho là nhiều, chưa được mà tưởng được, khiến công phu bị đình trệ, việc tu hành thành dở dang. Bởi chí nguyện dù cao cả bao nhiêu mà đường lối không rõ ràng, những diễn biến phức tạp của tâm không nắm được, dụng thuốc không đúng bịnh thì việc thực hành theo đó sẽ đình trệ. Chí nguyện cao cả ấy cũng có ngày lụi tàn. Việc này không phải ít gặp ở người thời nay.

Chánh văn:

Phật nói “Lành thay, Thắng Man! Bà tu tập đã lâu, trí tuệ cùng phương tiện sâu xa vi diệu. Hiểu được những nghĩa mà bà đã nói phải là người đã đêm dài trồng sâu các căn lành. Nhiếp thọ chánh pháp như bà nói đó là việc mà chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai đã nói, nay nói và sẽ nói. Ta được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng thường dùng mọi thứ tướng mà nói đến nhiếp thọ chánh pháp. Như vậy, xưng tán nhiếp thọ chánh pháp thì công đức có được không có bờ mé. Trí tuệ của Như Lai cũng không có bờ mé. Vì sao? Vì nhiếp thọ chánh pháp có đại công đức, có đại lợi ích”.

Giải:

Đây là lời tán thán của Phật đối với phu nhân Thắng Man.

TRÍ TUỆ là chỉ cho cái quả mà bà đã nhận được do công phu tu tập của mình. SÂU XA VI DIỆU vì TRÍ ấy là DỤNG của cái THỂ chân tâm mà bà đã chứng nghiệm được. Nhà thiền gọi nó là trí vô sư, là cái trí không do học hỏi thu gom từ ngoài vào mà từ trong chính bà. Các kiến giải tu chứng ấy không ngoài những gì Như Lai đã nói trong kinh. Song kinh bây giờ là thứ dùng để ấn chứng chứ không phải là thứ để học hỏi. Đây là lý do vì sao Phật nói trí ấy sâu xa vi diệu.

Những thứ trợ giúp để bà có được trí vô sư như pháp môn, công hạnh v.v... gọi là PHƯƠNG TIỆN. (34) Do biết dùng phương tiện đúng thời, trị đúng bịnh, buông đúng lúc nên nói SÂU XA VI DIỆU.

ĐÊM DÀI là chỉ cho sự miệt mài, chăm chỉ, không hề ngơi nghỉ. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Phải cùng trình độ với nhau thì mới cảm thông được nhau. Không thì như anh học lớp ba mà nghe chàng lớp sáu nói chuyện về toán học của lớp sáu. CĂN LÀNH đây không phải chỉ cho việc lành của người làm phước thiện mà chỉ cho người tu pháp Đại thừa. Cúng dường, bố thí nhiều bao nhiêu mà trí tuệ không có thì đọc kinh đọc luận như đọc thần chú. Úm lam xóa ha, Úm lam xóa ha … Đọc thì đọc rất xuông nhưng hiểu thì để dành cho chư Phật Tổ. Đại loại là vậy.

Phật xác nhận những điều phu nhân nói: Việc mà phu nhân sắp nói chính là việc mà ba đời chư Phật đều nói. Đức Phật cũng chỉ nói về điều đó mà thôi. Nói tây, nói đông, nói kinh, nói luận, nói đủ thứ trên đời … chỉ để qui về một mối là nhiếp thọ chánh pháp, nên nói DÙNG MỌI THỨ TƯỚNG mà nói đến nhiếp thọ chánh pháp.

Nhiếp thọ chánh pháp thành công thì trí tuệ Phật hiển bày với vô vàn công đức vi diệu. Đó là lý do vì sao nói xưng tán nhiếp thọ chánh pháp thì có vô vàn công đức. Trí tuệ Như Lai không lệ thuộc trong không gian và thời gian nên nói KHÔNG CÓ BỜ MÉ.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man lại bạch Phật rằng “Thế Tôn! Con sẽ nương vào lực oai thần của Phật mà thuyết về nghĩa QUẢNG ĐẠI của nhiếp thọ chánh pháp”.

Phật bảo “Bà cứ nói”.

Giải:

Phật cho phép.

Chánh văn:

Thắng Man thưa “Nghĩa QUẢNG ĐẠI của nhiếp thọ chánh pháp là, vì được vô lượng tất cả Phật pháp, có thể nhiếp thâu 8 vạn hành uẩn. Thí như vào thuở kiếp sơ nổi lên các loại mây màu mưa các mưa báu. Mây thiện căn nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế, có thể mưa vô lượng mưa phước báu.

Đây là ví dụ thứ nhất dùng để dụ cho nghĩa QUẢNG ĐẠI đầu tiên của việc nhiếp thọ chánh pháp. QUẢNG là rộng, ĐẠI là lớn. Nói về nghĩa QUẢNG ĐẠI của nhiếp thọ chánh pháp là làm rõ cái nghĩa “Vì sao nói nhiếp thọ chánh pháp là quảng đại, là chân thật”.

HÀNH, chỉ cho sự dịch chuyển. UẨN, chỉ cho sự nhóm họp. HÀNH UẨN là chỉ cho tất cả mọi hiện tướng có tính dịch chuyển dời đổi, là chỉ cho pháp hữu vi.

Nói QUẢNG ĐẠI, vì nhiếp thọ được chánh pháp thì có thể sở hữu được tất cả pháp hữu vi, được vô lượng tất cả Phật pháp. Vì sao? Vì nhiếp thọ chánh pháp là trở về được với tâm chân thật của chính mình, mà tâm chân thật ấy lại chính là tánh của tất cả pháp, nên nói “Được vô lượng tất cả Phật pháp …”

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dùng hình ảnh biển lớn và hòn bọt nhỏ để ví cho sự mê muội của chúng sanh. Chúng sanh mê muội nên chỉ nhận hòn bọt nhỏ làm mình mà bỏ mất biển lớn. Nhiếp thọ chánh pháp là trở lại với hình tướng biển lớn ấy. Cái rộng lớn mênh mông ấy chứa không sót thứ gì. Các thiện căn công đức của trời, người, Bồ tát v.v… đều không ngoài cái biển lớn ấy. Phước báu vô lượng nên nói MƯA VÔ LƯỢNG MƯA PHƯỚC BÁU.

Chánh văn:

Thế Tôn! Cũng như đại thủy thuở kiếp sơ có thể sanh ra ba ngàn đại thiên giới tạng cùng bốn trăm vạn các châu lục. Nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế, xuất sanh vô lượng Đại thừa giới tạng cùng với lực thần thông của chư Bồ tát, các loại pháp môn, đầy đủ các an lạc của tất cả thế gian và xuất thế gian, tất cả những gì mà trời và người chưa từng có.

Giải:

Đây là ví dụ thứ hai dùng để dụ cho nghĩa QUẢNG ĐẠI thứ hai của nhiếp thọ chánh pháp.

Thứ gì có phần hạn không xen tạp lẫn nhau gọi là GIỚI. GIỚI cũng có nghĩa là nhân, là nhân sinh ra các pháp. TẠNG có nghĩa là ẩn tàng cũng có nghĩa là tích chứa. Ngài Tuệ Sĩ ghi chú phần BA NGÀN ĐẠI THIÊN GIỚI TẠNG như sau “Vũ trụ luận trong thuyết Như Lai Tạng gọi thế giới là giới tạng. Vì mọi chủng loại đều được sản sinh từ thai tạng của Như Lai”. Theo cách giải thích đó thì TẠNG là chỉ cho Như Lai Tạng, là chỗ từ đó có GIỚI. Vậy nghĩa chính của GIỚI TẠNG nằm ở chữ GIỚI, còn TẠNG là nói về xuất xứ của cái GIỚI ấy.

Dựa vào sự giải thích trên thì có thể tạm hiểu về ĐẠI THỪA GIỚI TẠNG như sau: Những phần hạn hoặc chủng nhân nào có liên quan đến Đại thừa, gọi là ĐẠI THỪA GIỚI TẠNG. Giới, định, tuệ, kinh, luật, luận, 18 pháp bất cộng của Đại thừa, 4 vô sở úy v.v… đều được xem là GIỚI TẠNG ĐẠI THỪA. Các thứ này nhiều vô số nên nói VÔ LƯỢNG. Những loại Đại thừa giới tạng đó đều từ Phật tâm lưu xuất. Nhiếp thọ chánh pháp chính là sống lại được với Phật tâm ấy, nên nói “Nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế, xuất sanh vô lượng giới tạng Đại thừa, cùng lực thần thông của chư Bồ tát …”

Chánh văn:

Cũng như đại địa gánh vác 4 trọng trách. Thế nào là 4? Một là đại hải, hai là đồi núi, ba là thảo mộc, bốn là chúng sanh. Nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế. Thiện nam tử và thiện nữ nhân có thể gánh vác 4 thứ trọng trách dụ như đại địa kia. Thế nào là 4? Với những kẻ không có bạn lành, không hiểu biết thường làm việc phi pháp thì dùng thiện căn của cõi trời người mà thành thục họ. Ai cầu Thanh văn thì trao cho Thanh văn thừa. Ai cầu Độc giác thì trao cho Độc giác thừa. Ai cầu Đại thừa thì trao cho Đại thừa. Đó gọi là nhiếp thọ chánh pháp.

Giải:

Đây là ví dụ thứ ba dùng để dụ cho nghĩa QUẢNG ĐẠI thứ ba của nhiếp thọ chánh pháp.

4 thứ đại hải, cây cỏ, đồi núi và chúng sanh đều nương đất mà có, nên nói ĐẠI ĐỊA GÁNH VÁC 4 TRỌNG TRÁCH. Nhiếp thọ chánh pháp cũng giống như đại địa kia, là chỗ để 4 thứ nương tựa phát sinh. 4 thứ đó là thiện căn cõi trời người, Thanh văn, Duyên giác và Đại thừa.

1. THIỆN CĂN CÕI TRỜI NGƯỜI, là chỉ cho phước báu của thế gian và chư thiên. Giữ 5 giới, tu 10 thiện, bố thí cúng dường để cầu sự sung sướng đầy đủ ở thế gian … đều là pháp giúp ta có được loại thiện căn này.

Giữ 5 giới, 10 giới là dùng để đối trị với các việc không hiểu biết và phi pháp. KHÔNG HIỂU BIẾT là không biết Lý Nhân Quả đang chi phối thế gian này, không biết đạo đức tối thiểu của một con người là trách nhiệm và bổn phận của mình đối với gia đình và xã hội. LÀM VIỆC PHI PHÁP là làm những việc trái với đạo đức của con người như ăn trộm, ăn cướp, giết người, buôn xì ke, bán dâm v.v…

2. THANH VĂN là chỉ cho người tu lấy quả A La Hán làm chỗ đến cuối cùng. Nương theo Lý Nhân Quả (TỨ ĐẾ) mà tu.

3. DUYÊN GIÁC là chỉ cho người tu lấy quả Bích Chi Phật làm chỗ đến cuối cùng. Nương theo Lý Nhân Duyên (THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN) mà tu.

4. ĐẠI THỪA là tu để thành Phật. Việc hàng phục tâm được thực hành cùng với việc làm lợi ích cho tha nhân. Bi trí đầy đủ mới đạt được quả vị tối cùng.

Đáp ứng đúng nhu cầu của người thì người mới có tâm thực hành đến chỗ rốt ráo, vì thế nói “Người cầu Thanh văn thì trao cho Thanh văn thừa, người cầu … ”. Nghĩa là, tùy tánh dục và căn cơ của đối tượng mà trao pháp. Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nhiếp thọ chánh pháp đều phải gánh 4 trọng trách này. Điều này cho thấy, dù mình tu Đại thừa chăng nữa, cũng không có nghĩa chỉ có Đại thừa mới là pháp của Phật. Tùy duyên của từng vị xuất hiện ở đời mà có vị thì chuyên dạy về thiện pháp của cõi trời người, vị thì dạy Tiểu thừa, Trung thừa, vị thì dạy Đại thừa … Nhiều hình thức sai khác như thế nhưng tất cả đều là pháp của chư Phật, không có thứ nào không phải là Phật pháp.

Nói sai biệt là vì ứng với căn cơ của chúng sanh. Như người học lớp 12 thì phải có chương trình của lớp 12. Nhóc học lớp 2 thì phải dạy chương trình lớp 2. Có nhiều lớp sai khác như thế nhưng cuối cùng cũng là tốt nghiệp v.v…

Quan trọng là phải biết ứng dụng đúng duyên. Đúng duyên là trình độ nào thì phải học pháp tương ưng với trình độ ấy. Lớp 12 mà lấy chương trình lớp 2 ra dạy, rồi cho đó là lớp 12 thì không được. Chư vị thiện tri thức lên tiếng bài bác cũng vì lý do này không phải do chương trình lớp 2 hay lớp 12 không đúng.

Tương tự, dù là tu giải thoát hay tu tà tà để làm tiên ở cõi trần thì đều là pháp của Phật. Song tu phước thì phải rõ là tu phước mà tu Phật thì phải rõ là tu Phật. Nói tu Phật mà chỉ lấy mỗi việc phước thiện làm chính còn việc buông bỏ vọng tâm lại bỏ mặc thì trật. Cũng như Niệm Phật. Niệm tà tà hay niệm miên mật đều được. Bởi ít nhiều là tùy mình, hưởng phước lộc thế nào cũng chỉ là mình, không ai cấm cản hay tranh cạnh gì với mình được. Nhưng Niệm Phật vài ba chữ một ngày mà nghĩ chết sẽ vãng sanh cực lạc thì đó là tưởng chứ không phải thật. Tưởng mà cho là thật, đến khi chết, không thấy mình lên cực lạc mà chui vào đâu đó rồi nghĩ mình bị gạt, nổi khùng lên thì sẽ đọa vào đường dữ như ngài Thiện Tinh lầm quả vị Tứ thiền cho là chứng A La Hán mà đọa địa ngục vậy. Dụng pháp trật nguy hiểm như thế, nên tuy đồng một đích đến mà khi còn trong duyên thì phải phân làm 4 thứ rõ ràng.

Thiện tri thức xuất hiện chính là để điều chỉnh những sai trật ấy, là đang thực hiện hạnh nguyện như phu nhân Thắng Man đã nguyện ở phần hai. Đó là tấm lòng của chư vị đối với chúng sanh trong quá trình thực hiện nhiếp thọ chánh pháp của các ngài.

Cái tội của mình là hay lầm giữa cái sai của việc ứng dụng pháp và pháp. Chư vị phê bình là phê bình việc mình ỨNG DỤNG pháp sai, nhưng mình lại cho rằng chư vị chê PHÁP mình đang ứng dụng là sai. Pháp vốn không có tốt xấu. Theo duyên mà thành tốt xấu. Đúng duyên thì tốt, không đúng duyên thành xấu. Như việc cầu an, cầu siêu … nếu dùng nó để nhiếp hóa người, vì tâm người muốn vậy nên tạm dùng nó để nhiếp hóa rồi từ từ hướng họ về đạo vô thượng hay dạy họ Lý Nhân Quả … thì không lỗi. Song lấy việc đó làm sự nghiệp, lâu ngày sự nghiệp ấy trở thành đích đến, trở thành trụ cột của cả một hệ thống Phật pháp thì trật. Không hiểu được điều này nên trong môi trường Phật pháp hay sinh tranh cải thị phi cũng như có cái nhìn thị phi đối với chư vị thiện tri thức.

Phước báu trời người, Tiểu thừa, Trung Thừa hay Đại thừa đều là pháp của Phật. Cũng đều qui về Nhất thừa. Cũng chỉ để giúp mình nhận ra tâm Phật của chính mình. Song tùy duyên mà có sai khác. Trong cái duyên là pháp Tiểu thừa thì nó chỉ là Tiểu thừa. Trong cái duyên là Đại thừa thì nó là Đại thừa. Đại thừa không thể là Tiểu thừa. Song Tiểu hay Đại thì rốt cuộc cũng chỉ là phương tiện, cũng đều phải quăng tất cả để nhập Nhất thừa. Mà nhập Nhất thừa thì không có thừa để nhập, không có thừa để nương. Vì thế Tiểu hay Đại không quan trọng. Quan trọng là nó có trị được bịnh của mình vào lúc mình đang bịnh hay không. Hết bịnh mới là quan trọng.

Tất cả pháp đều là Phật pháp nếu mình thấy đúng bản chất của nó trong cái duyên nó đang an trụ. Không nhìn đúng bản chất của sự vật thì Phật cũng thành ma.

Nắm vững được pháp của Phật và biết trao pháp đúng đắn cho người để người được lợi ích chính là mình đang thực hành nhiếp thọ chánh pháp.

Chánh văn:

Các thiện nam tử và thiện nữ nhân có thể gánh vác 4 thứ trọng trách dụ như đại địa kia. Thế Tôn! Nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân kiến lập đại địa có thể gánh vác 4 thứ trọng trách. Vì tất cả chúng sanh mà làm người bạn không mời thỉnh, làm mẹ pháp ở thế gian, dùng đại bi để lợi ích và thương xót loài hữu tình. Cũng như đại địa là chỗ sanh ra 4 thứ báu.

Giải:

Trên là nêu ra 4 loại Phật pháp từ cạn đến sâu. Đây là vô đề để qui kết trách nhiệm. Tu Phật thì phải đảm đương 4 loại Phật pháp đó, như đất đảm đương 4 thứ đại hải, cây cỏ v.v…

KIẾN LẬP ĐẠI ĐỊA là chỉ cho việc nhiếp thọ chánh pháp của người tu. Chính là xây dựng lại nền móng cũng như mở rộng mảnh đất tâm vốn sẵn đủ của mình.

Thói thường ở đời thì có thích mới có mời thỉnh. Không ai đi thỉnh thứ mình không thích. Song lợi ích cho chúng sanh thì không phải chỉ có thuận hạnh mà còn cả nghịch hạnh nữa. Nghịch hạnh thì chắc chắn không ai ưa, nên nói KHÔNG MỜI THỈNH. Song dù là thuận hay nghịch thì thiện nam tử hay thiện nữ nhân ấy đều mang lại lợi ích cho chủ nhân, nên nói là BẠN. Tóm lại, KHÔNG THỈNH MỜI mang ý nghĩa: Tùy duyên mà đến để làm lợi ích cho người.

Thói thường của người đời là người thân thì thứ gì cũng cho được, còn không thân thì tính toán ngược xuôi, thấy người khổ thì thương mà thấy người vui vẻ sung sướng lại cành nanh, ghét bỏ v.v… Đã tính toán và ghét bỏ thì khó mà nhiếp hóa được người. Vì thế, muốn nhiếp hóa chúng sanh bằng xương bằng thịt thì phải có ĐẠI BI. Đại bi là lòng thương xót rộng lớn. Không phải người thân của tôi tôi mới thương, không phải nghèo đói tôi mới cho, không phải người cùng khổ tôi mới đoái hoài. Chỉ cần có duyên chớ không cần thân hay sơ, nghèo hay giàu, cùng khổ hay vui sướng … Có duyên thì tùy duyên mà làm lợi ích cho người để dẫn người về đạo vô thượng. Như người mẹ với tấm lòng rộng mở bình đẳng đối với con cái. Dạy người những điều hay lẽ phải để người có cuộc sống an vui nên gọi là mẹ pháp.

Gánh vác 4 trọng trách thì sẽ cho ra 4 thứ đại báu. Sau sẽ nói về 4 thứ đại báu đó.

Chánh văn:

Thế nào là 4? Một là vô giá, hai là giá cao, ba là giá vừa, bốn là giá thấp. Nhiếp thọ chánh pháp cũng như thế. Thiện nam tử, thiện nữ nhân kiến lập đại địa, chúng hữu tình gặp rồi sẽ thu được 4 thứ báu rất là thù thắng trong tất cả báu. Thế nào là 4? Các chúng sanh một khi đã gặp bạn lành thì hoặc thu được thiện căn của cõi trời người, hoặc chứng Thanh văn, hoặc chứng Bích Chi Phật, hoặc được thiện căn công đức của Vô thượng thừa. Đó gọi là nhiếp thọ chánh pháp. Thiện nam tử và thiện nữ nhân kiến lập đại địa, chúng hữu tình gặp rồi, liền có thể thu được 4 thứ đại báu. Thế Tôn! Xuất sanh đại báu đó gọi là chân thật nhiếp thọ chánh pháp.

Giải:

4 thứ báu từ giá thấp đến giá cao là chỉ cho 4 pháp đã nêu trên. Thấp nhất là phước báu cõi trời người. Cao nhất là thiện căn công đức của Vô thượng thừa. Tức chỗ tột cùng của Đại thừa, là Nhất thừa.

BẠN LÀNH là chỉ cho thiện nam tử, thiện nữ nhân kiến lập đại địa, là chỉ chung cho các vị thiện tri thức. Dù là một bậc tôn trưởng cao cả, một người đầu đường xó chợ hay một đứa con nít … Người nào giúp mình thấy được lẽ phải của cuộc sống, người đó gọi là BẠN LÀNH.

Theo đây thì thấy, gặp được người dạy cho mình làm việc phước thiện hay tu hành là mình đang có được phước báu rất lớn. Thiền sư Thánh Nhất nói “Khi pháp bảo đến tai chính là nhờ kết quả của thiện nghiệp trong quá khứ mà ta có thể được nghe, rồi hiểu phước đức của mình và tôn kính pháp. Hạnh phúc thì vô biên và công đức thì vô lượng!”. Nhờ phước báu đã gieo trong quá khứ, mình mới nghe được những lời chỉ dạy chân tình. Nghe pháp mà đúng căn cơ trình độ của mình thì chắc ai cũng nếm qua cái mùi hạnh phúc vô biên rồi. Nhưng đó là mấy bài pháp không đụng đến ngã tướng của mình. Còn lời dạy nào đụng đến ngã tướng hay tật xấu của mình thì cái hạnh phúc kia sẽ bị bóp méo. Vì thế mình hay có khuynh hướng né xa những gì làm tổn thương đến mình. Tạo thiện nghiệp để được phước báu, nhưng khi phước báu đến tai mình lại chối bỏ. Rất là phí phạm!

Nghe được những lời dạy làm tổn thương mình mà bình thản được với những tổn thương ấy, rồi bỏ đi các thói xấu đang vướng phải mới thật là “Hạnh phúc thì vô biên và công đức thì vô lượng!”.

Như vậy người ban ra 4 thứ báu hay người nhận được 4 thứ báu đều là đang thực hành nhiếp thọ chánh pháp. Chỉ tùy thô tế mà có cạn sâu. Chỗ xuất sanh đại báu đó gọi là CHÂN THẬT NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP.

Chánh văn:

Thế Tôn! Nói nhiếp thọ chánh pháp đó, không khác chánh pháp, không khác nhiếp thọ chánh pháp. Chánh pháp tức là nhiếp thọ chánh pháp. Thế Tôn! Không khác Ba la mật, không khác nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp tức là Ba la mật. Vì sao?

Giải:

NÓI NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP ĐÓ là nói đến “Chân thật nhiếp thọ chánh pháp” vừa nói trên. Nếu là chân thật nhiếp thọ chánh pháp thì nó không khác chánh pháp, không khác nhiếp thọ chánh pháp. Đây là muốn nói đến thực chất của 3 thứ đó, là chỉ cho cội nguồn chân thật nhất tâm, là TÁNH THỂ của vạn pháp. Cùng một cội nguồn nên chúng không khác. Do mê mà có mọi hình tướng khác nhau nên chúng không một. KHÔNG MỘT CŨNG KHÔNG KHÁC là khái niệm dùng để chỉ cho thực tánh hay thực tướng của vạn pháp như luận Trung Quán đã nêu bày.

NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP là chỉ cho hành động năng nhiếp thuộc về chủ thể. CHÁNH PHÁP là chỉ cho sở nhiếp, chính là pháp được nhiếp. Như người tu Thanh văn thừa thì nhiếp thọ chánh pháp thuộc về hành giả tu pháp Thanh văn đó. Còn pháp Thanh văn là chánh pháp. Chính xác hơn, tâm năng chứng thì NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP. Cảnh giới sở chứng là CHÁNH PHÁP. Trong 3 loại đại báu đầu, ngay cả cảnh giới sở chứng của các vị Duyên giác vẫn còn trong vòng năng giác sở giác. Chỉ có hàng Bồ tát thực chứng được cội nguồn chân thật của vạn pháp thì cái chứng ấy mới không còn năng sở. Phu nhân muốn nhấn mạnh đến chỗ thực chứng đó, là phần “NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP không khác chánh pháp, không khác nhiếp thọ chánh pháp. Chánh pháp tức là nhiếp thọ chánh pháp”. Đây là mức phải đến của người tu Đại thừa, cũng là cái nhân vô sanh để có quả là niết bàn Phật. Tuy chánh pháp có đến 4 nhưng rồi cũng qui về Nhất thừa, nên gọi là chân thật nhiếp thọ chánh pháp.

Vì sao đây lập lại 2 lần NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP? Là do chủ thể năng nhiếp có 2. Tuy đều là năng nhiếp chánh pháp nhưng trong 2 thứ năng nhiếp này, một là xuất sanh 4 loại báu, một là nhận được 4 loại đại báu đó. Là năng sở của nhau, nhưng cả hai đều là năng nhiếp của một cái sở là chánh pháp. Nghĩa là, loại năng nhiếp thứ hai vừa làm nhiệm vụ năng nhiếp chánh pháp vừa làm nhiệm vụ sở nhiếp của cái năng nhiếp thứ nhất. Vì thế nói “Nhiếp thọ chánh pháp đó, không khác chánh pháp, không khác nhiếp thọ chánh pháp”.

KHÔNG KHÁC vì cùng một THỂ mà ra. Nói TỨC là như vậy. Ngay đó nhưng có thể chính đó mà cũng có thể chưa phải là đó. Khi chưa về được cội nguồn chân thật thì vẫn còn hai còn ba. Về được rồi thì thấy không hai không ba.

Như căn - trần - thức có chung một cội nguồn thanh tịnh là nhất tâm, song do bất giác mà biến hiện ra 3 thứ căn - trần - thức. Vì 3 thứ đó có hình thức không giống nhau nên nói KHÔNG MỘT, nhưng cả ba đều không ngoài cái THỂ chân thường, nên nói KHÔNG KHÁC.

Như nước bình thường và sóng. Hình thức của sóng khác nước nên có hai tên, nhưng cả hai đều là nước biển. Khi không có gió thì sóng chính là nước. Cái này không phải cái kia nhưng không lìa khỏi cái kia, nên nói là TỨC. Cái CÙNG chỉ cho cái KHÔNG KHÁC. Cái KHÁC chỉ cho cái KHÔNG MỘT. TỨC là như vậy.

Đây chỉ tạm dùng thí dụ và lý luận để hiểu sơ về điều phu nhân Thắng Man muốn nói, còn chỗ năng sở dứt bặt đó - đây nói KHÔNG KHÁC hoặc TỨC - là chỗ phải tự trực chứng lấy. Cái TÁNH THỂ ấy không thể dùng tri thức đây mà diễn tả được.

“Không khác Ba la mật, không khác nhiếp thọ chánh pháp” là muốn nói “Nhiếp thọ chánh pháp đó, không khác Ba la mật, không khác nhiếp thọ chánh pháp”. Ý nghĩa tương tự như đã giải thích trên.

VÌ SAO? là để giải thích phần “Nhiếp thọ chánh pháp tức là Ba la mật”. Vì sao nói nhiếp thọ chánh pháp chính là Ba la mật? Vì Ba la mật là đến bờ kia. Chân thật nhiếp thọ chánh pháp chính là cái bờ đó. Nên nói nhiếp thọ chánh pháp tức là Ba la mật.

Sau là nói về 6 Ba la mật, qua đó hiển thị mặt nhiếp thọ chánh pháp liên quan thế nào đến Ba la mật.

Chánh văn:

Thiện nam tử, thiện nữ nhân khi nhiếp thọ chánh pháp, nếu cần dùng BỐ THÍ để thành thục chúng sanh thì lấy bố thí để mà thành thục … Cho đến xả thân thuận theo ý họ mà thành thục họ, khiến họ được an trụ trong chánh pháp, gọi là THÍ BA LA MẬT.

Giải:

Hành giả khi tu hành hoặc làm lợi ích cho tha nhân đều trải qua phần bố thí này. Bố thí là phương tiện để đưa ta đến bờ kia. Phương tiện thì không có tính bất di bất dịch nên nói NẾU CẦN. Cần mới dùng, không cần thì thôi. Mục đích của việc bố thí này là để THÀNH THỤC CHÚNG SANH. Tùy duyên mà việc thành thục chúng sanh có hai:

1. Thành thục chúng sanh trong tâm: Chỉ khi đến được hạng BẤT ĐỘNG ĐỊA, là hạng không còn bị trí phân biệt chi phối, ta mới chắc là mình đã hết tham và hết sân. Còn trước đó, vẫn phải coi chừng. Nếu cần thành thục những niệm tham trong tâm thì khi bố thí không cần quan tâm đến đối tượng (Như Phật bố thí vợ con chẳng hạn). Cứ thấy còn tâm hẹp hòi, bỏn xẻn, còn sự tính toán thì phải bố thí ngay để phá đi tâm chấp thủ. Đối tượng được bố thí sẽ có nhân duyên với mình sau này.

2. Thành thục chúng sanh ngoài tâm thì việc bố thí nào thành thục được chúng sanh thì bố thí, không thành thục được thì không bố thí. Chẳng hạn cho nó tiền đi nhậu mà nhắm bảo nó bỏ rượu được thì hãy bố thí. Còn bố thí để nó thỏa mãn thêm cơn nghiện, rồi đâm đầu vào xe tải thì thôi, để tiền cúng dường cho chư vị đại đức cao tăng, cầu chư Phật gia hộ khiến nó gặp được chư vị Bồ tát đủ năng lực cứu nó còn hơn.

THÂN là chỉ cho thân thể của mình đây. Gồm có đầu, não, chân, tay v.v… XẢ THÂN là cho đi những thứ đó. Như bây giờ người ta hay đi hiến máu, cũng là một loại xả thân. Người nào xin mình một cánh tay rồi nói “Tôi nguyện sẽ tu cho đến khi thành Phật nếu được bà cho cánh tay của bà”. Nghe vậy mà mình tặng họ cánh tay liền, gọi là “Xả thân thuận theo ý họ mà thành thục họ, khiến họ được an trụ trong chánh pháp”.

XẢ THÂN còn mang ý nghĩa là làm việc hết mình cho mọi người. Như mẹ xả thân cho con hoặc người ta yêu nhau rồi xả thân vì nhau. Xả thân nói đây cũng như vậy, nhưng không phải vì yêu thương nhau mà xả thân. Hình thức thì giống mà tinh thần thì khác. Xả thân là vì con đường tối thượng của mình đòi hỏi mình phải xả thân để tiêu trừ ngã chấp. Cái xả thân đó vô tình trở thành cái duyên khiến người động lòng cùng hướng về đạo vô thượng với mình.

Việc bố thí thành thục chúng sanh này không phải chỉ có trong một đời. Có bố thí là có gieo duyên. Có DUYÊN và có CHÁNH PHÁP TRÍ thì có ngày sẽ thành thục được người hữu duyên. Song do sự hạn hẹp vì điều kiện của người tu trong hiện tại mà có khi cần phải chọn cái trước mắt làm trước, cái chưa đủ điều kiện làm sau. Như trong kinh Niết Bàn Phật dạy, người có thể độ được trong đời này thì phải độ trước, kẻ chưa có điều kiện để đó từ từ độ sau …

Cái khó là phải biết rõ mình trong vấn đề ấy thế nào. Việc này đòi hỏi cần có chánh pháp trí. Muốn có chánh pháp trí thì phải có công phu. Thành loại bố thí để thành thục chúng sanh trong tâm rất cần thiết với mình. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.

Phần Ba la mật dùng để thành thục chúng sanh này đặt nặng ở việc thành thục chúng sanh ngoài tâm. Thành thục chúng sanh ngoài tâm nhưng chính là để thành thục chúng sanh trong tâm. Đây là giai đoạn lấy đại bi để viên mãn đại trí.

Như nói thế giới này như huyễn. Nhưng đối duyên cần cho thân này để thành thục chúng sanh, mình chưa dám cho, thì cái như huyễn mình biết được đó chỉ mới trên mồm mép lý thuyết chứ thực tế thì chưa có gì như huyễn đối với mình. Nghĩa là, LÝ và SỰ của mình chưa hòa hợp viên dung. LÝ SỰ chưa viên dung thì cảnh giới SỰ SỰ VÔ NGẠI của chư Phật còn cách rất xa. Cho nên, giai đoạn dùng bi nguyện để thành thục chúng sanh đây chính là giai đoạn để người tu thực hiện phần LÝ SỰ VIÊN DUNG của mình. Vì thế phần bố thí đây gọi là BỐ THÍ BA LA MẬT. Bố thí mà đến được bờ kia.

CHÁNH PHÁP nói đây bao gồm 4 loại pháp người, trời, Thanh văn … Vì thế đi trên những con đường đó gọi là AN TRỤ CHÁNH PHÁP. Thiền sư Ryokan nghe tin người cháu trai của ông phá tán tiền bạc sự nghiệp vào những chỗ ăn chơi trác tán. Ông trở về, người cháu vui mừng mời chú ở lại một đêm. Ryokan thiền định suốt đêm. Sáng hôm sau ông cột lại dây giày trước khi đi, nhưng vì run tay ông không làm được việc đó. Người cháu cúi xuống giúp chú làm tiếp công việc còn lại. Ông nói “Cám ơn con. Con người ai rồi cũng già và yếu dần. Con hãy bảo trọng lấy mình!”. Rồi ông từ giã cháu ra đi mà không hề có một lời nào về sự chơi bời phá tán của cháu. Nhưng kể từ sáng hôm đó, người cháu không còn đốt tiền vào những trò vô bổ nữa. Giúp người trở lại con đường chánh như vậy là một dạng của việc “Khiến người AN TRỤ TRONG CHÁNH PHÁP”.

Chánh văn:

Nếu cần dùng GIỚI để thành thục chúng sanh thì thủ hộ 6 căn, tịnh thân, khẩu, ý cho đến tất cả mọi oai nghi. Tùy thuận ý họ mà thành thục họ, khiến họ có thể an trụ trong chánh pháp, gọi là GIỚI BA LA MẬT.

Giải:

GIỚI là phần quan trọng không chỉ cho Tăng Ni mà còn cả cư sĩ nữa. Hiện nay nó chính là thứ đánh giá đạo hạnh của ngươi tu. Như bây giờ Phật tử mình đi cúng dường thì đương nhiên phải cúng dường cho chư Tăng Ni thanh tịnh. Thanh tịnh ở tâm thì mình khó biết, nhưng tối thiểu phải có cái thanh tịnh ở thân. Mình không thể cúng dường cho một vị Tăng đang có vợ, uống rượu bia, hút thuốc lá hay suốt ngày cắm đầu vào phim sex. Vì sao? Vì đạo Phật là đạo bỏ đi những tham dục của người đời. Mình cúng dường và tôn trọng chư vị cũng vì chư vị làm những cái mà mình không làm được. Do ý muốn của chúng sanh như vậy nên chí ít chư vị phải trang bị đầy đủ những thứ đó, để chúng sanh có chỗ nương tựa tôn kính, thích đến chùa cúng dường, lễ bái Tam Bảo, nghe pháp và đủ lòng tin mà thực hành pháp đã nghe. Đó là “Tùy thuận ý họ để thành thục họ”.

Không vợ con, rượu bia, thuốc lá, không xem phim v.v… là THỦ HỘ CÁC CĂN mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thủ hộ được những thứ đó không chỉ ở mức độ thô mà còn tế hơn nữa, gọi là TỊNH THÂN, KHẨU, Ý.

Song phải nhớ, hình thức GIỚI cũng chỉ là phương tiện. Nó không mang tính bất di bất dịch. Vì có phá giới mà cần có giới để ngăn ngừa. Vì tâm còn nhiễu loạn nên phải dùng giới để nhiếp. Vì thành thục chúng sanh mà giới được lập bày. Nó chỉ là pháp Nhân Duyên. Trong cái duyên như thế thì nó như thế chứ nó không phải là chân lý để làm chuẩn cho tất cả mọi pháp ở thế gian mà khi nào hình tướng ấy cũng phải như vậy.

Chánh văn:

Nếu cần dùng NHẪN để thành thục chúng sanh thì với người hay chửi mắng, hủy nhục, phỉ báng, nhiễu loạn thì dùng tâm không tức giận và nhẫn lực tối thượng của tâm lợi ích, cho đến sắc mặt cũng không đổi khác, tùy thuận ý họ mà thành thục họ, khiến họ an trụ trong chánh pháp, gọi là NHẪN BA LA MẬT.

Giải:

Tật chúng sanh của mình là hễ người đụng đến mình là mình trả đũa lại liền cho ngang cơ với người. Đây phu nhân Thắng Man khuyên, thiện nam tử thiện nữ nhân nào đang thực hiện nhiếp thọ chánh pháp thì phải bỏ đi cái tật hay trả đũa. Phải dùng tâm không tức giận và lực tối thượng của tâm lợi ích mà nhiếp hóa người hữu duyên. Trả đũa thì cứ đũa trả hoài. Hiềm khích thêm nhiều chứ chẳng thể nhiếp hóa được ai.

Sắc mặt không đổi khác nói đây là nói lên tình trạng bất động của người tu. Bất động nghĩa là không tức giận không buồn phiền với sự phỉ báng, chửi mắng đó. Bất động vì có sự thông cảm, hiểu biết, vì lòng bi rộng lớn, không phải bất động theo kiểu “làm cho lại gan” khiến người thêm tức tối, sân giận.

Việc tu hành cũng như việc ngoài đời, một khi mình đã có một mục đích hay một lý tưởng để đeo đuổi, thì với giá nào mình cũng làm để đạt được mục đích đó. Nếu lý tưởng của mình là làm tất cả vì lợi ích của người thì cái lý tưởng ấy chính là NHẪN LỰC TỐI THƯỢNG của tâm lợi ích. Gọi là NHẪN LỰC vì cái lực ấy do tùy thuận theo ý người mà có. Nó chính là động lực để mình dẹp mọi tức giận, bất động trước mọi khó khăn mà chỉ biết đến mục đích duy nhất của mình: Vì lợi ích của người, vì con đường tối thượng của mình. Mình sẽ làm tất cả những gì khiến mục đích của mình thành công. Dù phải thí xả cả thân mạng để thành công mình còn phải làm, huống chỉ vài lời phỉ báng, hủy nhục? Thuận người mà cũng chính là thuận mình nên tuy NHẪN mà không có gì để nhẫn. Gọi là NHẪN BA LA MẬT.

Chánh văn:

Nếu cần dùng TINH TẤN để thành thục chúng sanh thì với chúng sanh đó, chẳng khởi tâm giải đãi hèn kém mà phải khởi cái tinh tấn bậc nhất của đại lạc dục, với 4 oai nghi thì thuận theo ý họ mà thành thục họ, khiến họ an trụ được trong chánh pháp, gọi là TINH TẤN BA LA MẬT.

Giải:

CẦN DÙNG TINH TẤN là chỉ cho những chúng sanh lấy sự tinh tấn của người làm mẫu lý tưởng của mình. Như người thích thiện tri thức của mình phải ngồi thiền 3 cử một ngày thì hình tướng siêng năng ấy được lập bày, không thể lấy hình tướng nằm dài ngủ ngày ngủ đêm như tích của một vị thiền sư mà khuyến dụ được họ. Còn với người mà hình tướng không quan trọng, chỉ cần sự tinh tấn ở tâm mình thì dùng cái tinh tấn ở tâm mà nhiếp hóa họ. Người thích tụng kinh sám hối ba thời phải đủ, thì hình thức sám hối ba thời được lập bày v.v… Nói chung, mọi hình tướng tinh tấn được lập bày là vì thuận ý chúng sanh để nhiếp hóa họ, nên nói VỚI 4 OAI NGHI... Còn bản thân những tướng đó không có thứ gì là chuẩn mực nhất định để mọi người phải giữ chặt. Duyên khởi là như vậy.

ĐẠI LẠC DỤC là chỉ cho cái dục hướng thượng, là chỉ cho ý muốn cầu Phật đạo và làm lợi ích cho tha nhân … Cái DỤC ấy không mang đến sự đau khổ mà mang đến sự an vui to lớn, bởi nó mang tính vị tha, không mang tính vị kỷ. Vị tha thì tùy thuận được với cội nguồn chân thật nhất tâm. Cội nguồn ấy vốn thường, lạc, ngã, tịnh nên cái DỤC ấy mang tính ĐẠI LẠC.

Chánh văn:

Nếu cần dùng TỊNH LỰ để thành thục chúng sanh thì với chúng sanh đó, dùng tâm không tán loạn để thành tựu chánh niệm, những việc từng làm không bao giờ quên mất, thuận theo ý họ mà thành thục họ, khiến họ an trụ trong chánh pháp, gọi là TỊNH LỰ BA LA MẬT.

Giải:

TỊNH LỰ là chỉ cho thiền định. Đối cảnh mà không để cho ngoại vật làm lay động thì tâm không thể tán loạn. Đó là thành tựu chánh niệm. Có chánh niệm thì việc nào ra việc đó rõ ràng không hề lầm lẫn. KHÔNG QUÊN MẤT không phải là cái nhớ của ý thức, không muốn nhớ cũng cứ nhớ, mà là cái nhớ của chánh niệm. Như người thầy thuốc dùng thuốc trong hộc. Cần thì có thuốc, không cần thì thuốc được cất kỹ trong hộc. Kinh Hoa Nghiêm nói “Tổng Trì Đại Quang Minh ThânVương được môn Đà La Ni Quang Minh Giải Thoát ghi nhớ tất cả pháp không quên mất”.

Chánh văn:

Nếu cần dùng TRÍ TUỆ để thành thục, thì đối với chúng sanh nào vì lợi ích mà hỏi các pháp nghĩa thì dùng tâm không nhàm mỏi, vì họ diễn nói tất cả các luận, tất cả minh xứ cho đến mọi thứ công xảo, khiến họ được chỗ tận cùng, tùy thuận ý họ mà thành thục họ khiến họ an trụ trong chánh pháp, gọi là TRÍ TUỆ BA LA MẬT.

Giải:

TRÍ TUỆ là chỉ cho trí Bát Nhã. Nó là dụng của Phật tâm sẵn có trong mỗi chúng sanh, do vô minh mà mình không thể sử dụng được nó. Những lời phu nhân đang nói đây cũng xuất phát từ loại trí ấy. PHÁP NGHĨA là nghĩa lý của kinh luận hoặc những hiểu biết trong cuộc sống có liên quan đến chánh pháp.

MINH XỨ là chỉ cho 5 minh. CÔNG XẢO MINH là một trong 5 minh đó. Nó chuyên về những thứ như kỹ thuật, công nghệ thế gian, văn tự toán số, thơ ca, ấn loát, các sách luận về địa, thủy, hỏa, phong v.v… Dùng các thứ này là để diễn nói cho người chứ không phải học những thứ đó mà thành Phật được. Vì sao diễn nói cho người? Vì người muốn như thế nên mình phải mượn những thứ đó để thu phục lòng người. Những thứ như công nghệ kỹ thuật thế gian là những thứ giúp người có phương tiện sống ở đời, nó thuộc mặt vật chất. Những thứ còn lại là vì theo tánh dục của người, thuộc về mặt tâm linh. Như người mê bói toán tử vi thì chỉ có tử vi bói toán mới khiến họ quan tâm. Mình phải giỏi mấy thứ đó mới có thể làm người tin tưởng và gần gũi mình. Có tin tưởng gần gũi, mới nhiếp hóa người về chánh pháp được.

Tử vi, bói toán hay sách luận địa, thủy v.v… bản thân nó không có lỗi, cũng không phải là tà pháp hay chánh pháp. Nó trở thành tà hay chánh, lỗi hay không lỗi là tùy duyên. Duyên ở đây là người sử dụng nó. Nếu mình sử dụng nó mà không nhìn đúng bản chất của nó thì nó thành lỗi. Còn sử dụng nó mà biết rõ bản chất của nó, dùng nó như một loại phương tiện tạm thời thì nó không lỗi. Vì thế, khi chưa có trí tuệ Phật thì rất cần phân rõ chánh tà, khi đã có trí tuệ thì tất cả pháp đều là Phật pháp.

Như số tử vi. Cái quyết định tốt hay xấu của một con người là những vì sao được ghi trong đó. Khi ta thấy những vì sao đó là thứ quyết định vận mạng của mình rồi cúng sao giải hạn để thoát khỏi tai ương, mà bỏ qua mặt đạo đức phước thiện trong hiện tại thì lúc đó tử vi trở thành tà pháp. Kiểu đó chính là mê tín dị đoan. Vì sao là tà pháp? Vì mình nhìn không đúng bản chất của nó. Nó khiến mình lầm nhân lộn quả. Lầm nhân lộn quả thì sẽ đọa vào 3 đường dữ, nên gọi là tà pháp.

Nếu biết những vì sao trong tử vi chỉ là những thứ đại diện cho một thói quen. Phật gọi là nghiệp tập. Những nghiệp tập trong quá khứ đã khiến mình có cuộc sống hạnh phúc hay đau khổ trong hiện tại, được thể hiện qua sự kết hợp giữa những vì sao, mà cung phúc đức là thứ quyết định rất lớn, thì lúc ấy tử vi không phải là tà pháp. Vì sao nó không phải là tà pháp? Vì mình nhìn đúng bản chất của nó. Cái quyết định hạnh phúc và đau khổ của con người không phải là những vì sao mà chính là những nghiệp tập của chính mình. Vì thế tử vi không phải là thứ quyết định vận mệnh của mình. Nó chỉ là thứ giúp mình nhận rõ những thói quen tốt và xấu trong mình. Loại bỏ chúng đi hay khuếch trương chúng lên để cuộc sống của mình được hạnh phúc vui vẻ. Ngoại trừ loại định nghiệp thì mình phải chịu, còn lại đều có thể thay đổi bằng hành vi và ý nghĩ thiện của chính mình. Thấy đúng bản chất của nó như vậy thì nó không còn là tà pháp.

Như sao Địa kiếp ấn định cho tánh ích kỷ, nóng nảy. Gọi là tánh vì cái nóng nảy ấy đã thành thói quen. Phật gọi là tập nghiệp. Ai có loại sao đó trong bản mệnh thì tánh tình hay nóng nảy ích kỷ và thường gặp nhiều chuyện không hay. Dù nó kết hợp đúng bộ với các sao Thiên tướng v.v… thì nó vẫn tiềm ẩn mối nguy hại. Điều này không có gì thắc mắc. Ích kỷ và nóng nảy thì đưa đến kết quả gì ở cuộc sống này? Không được gì hết ngoài bịnh hoạn, đau khổ và tiềm ẩn tai ương. Muốn không bị ảnh hưởng bởi cái xấu của nó thì mình phải quăng nó ra khỏi bản mệnh của mình. Nghĩa là, mình phải làm chủ được tánh nóng giận và mở lòng với mọi người. Nói chung là xem xét vào chính bản thân mình để bỏ đi các tập nghiệp xấu, khuyếch trương những tập nghiệp tốt.

Sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng không phải cuộc đời nào cũng giống nhau. Là bởi còn tùy cái duyên phúc đức trong hiện đời. Lại còn tùy vào sự cảm ứng của ông Thầy với chủ nhân. Phải thầy dỏm thì coi như xong. Cho nên, đặt niềm tin vào những thứ tương đối thì chỉ bấp bênh và khổ não. Không bằng cứ sống thiện và làm thiện, để ý gì đến những thứ ấy cho phiền phức.

Khiến họ được CHỖ TẬN CÙNG là giúp họ đạt được chỗ thâm diệu của môn công xảo cũng như nhận ra đúng bản chất của môn công xảo đó. Có gì không ngoài tâm mà phải bận tâm theo những hình thức đó? Theo tánh dục của tha nhân mà giúp tha nhân không lầm lẫn nhân quả ở thế gian, là giúp họ thành tựu an trụ trong chánh pháp.

Phần học pháp thế gian này, đến phần trí tuệ Ba la mật mới đề cập đến, vì nó đòi hỏi người tu phải có trí tuệ. Có trí tuệ thì dùng pháp mới không lầm lẫn. Không thì dụng pháp nhiếp hóa tha nhân một thời gian mình thành thầy bói lúc nào không hay, còn không thì lang thang đâu đó rồi quên mất đường về. Đó là dụng pháp nhiếp hóa người mà bị pháp nhiếp hóa mình.

Phải có cái trí nhận rõ được bản chất của sự vật thì mới không bị chúng kéo lôi. Thứ gì cũng chỉ là phương tiện, như huyễn như hóa, không có gì ngoài tâm. Chưa có trí tuệ mà dính vào mấy thứ này sớm thì sẽ bị ma Ba Tuần dẫn đường. Việc này hiện nay không phải là không có. Đây là do dụng pháp mà không biết đến căn cơ trình độ của mình. Nghe Phật dạy học tập ngũ minh là cắm đầu vào học mà không xem lại căn cơ của mình thế nào, không xem kỹ Phật dạy khi nào mới học mấy thứ đó. Vào thế giới nhân duyên mà khi hành xử, lại bỏ mất mặt nhân duyên của pháp nên đường tu có khi thành lỡ dở.

Chánh văn:

Cho nên, bạch Thế Tôn! Không khác Ba la mật, không khác nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp tức là Ba la mật”.

Giải:

Đây là lời tổng kết của phu nhân Thắng Man sau khi nói về 6 Ba la mật. Trên nói về nhiếp thọ chánh pháp không khác Ba la mật. Rồi hỏi “Vì sao?” để giải thích. Giải thích xong, đây kết luận lại một lần nữa.

Chánh văn:

Phu nhân lại bạch Phật rằng “Con nay lại nương vào lực oai thần biện tài của Phật nói về nghĩa ĐẠI”.

Phật hỏi “Thế nào là nghĩa ĐẠI?”.

Giải:

Trên đã giải thích về cái quảng đại của nhiếp thọ chánh pháp. Đây sẽ giải thích vì sao nói nhiếp thọ chánh pháp là ĐẠI.

Chánh văn:

Phu nhân thưa “Người nhiếp thọ chánh pháp không khác nhiếp thọ chánh pháp, không khác người nhiếp thọ chánh pháp. Thiện nam tử và thiện nữ nhân nhiếp thọ chánh pháp chính là nhiếp thọ chánh pháp...

Giải:

Trên nói về việc NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP và CHÁNH PHÁP. Đây nói về NGƯỜI NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP và việc NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP. Chúng không một cũng không khác. KHÔNG MỘT vì người nhiếp thọ chánh pháp không phải là hành động nhiếp thọ chánh pháp. Nhưng không có hành động nhiếp thọ chánh pháp đó thì không có người nhiếp thọ chánh pháp nên chúng KHÔNG KHÁC. Kiểu lập luận này y hệt kiểu lập luận về NGƯỜI ĐI và SỰ KIỆN ĐI trong luận Trung Quán. KHÔNG MỘT CŨNG KHÔNG KHÁC là muốn nói đến thực tánh hay thực tướng của vạn pháp, là chỉ cho cội nguồn chân thật nhất tâm. Ngay cội nguồn đó chủ thể và hành động chỉ đồng là biển tánh chân như, nên nói “Thiện nam tử hay thiện nữ nhân nhiếp thọ chánh pháp cũng chính là nhiếp thọ chánh pháp”. Đây là lúc bỏ được hòn bọt nhỏ trở về với biển cả mêng mông. ĐẠI là như vậy. Điều này sẽ được nói rõ ở phần sau.

Vì sao? Là để giải thích.

Chánh văn:

… Thiện nam tử và thiện nữ nhân nhiếp thọ chánh pháp, vì chánh pháp mà xả bỏ thân, mạng, tài sản. Vì XẢ BỎ THÂN nên chứng được hậu tế của sanh tử, không còn bệnh lão, được pháp thân Như Lai bất tư nghì thường trụ, bất hoại, không có đổi khác, rốt ráo tịch diệt. Vì XẢ BỎ MẠNG nên chứng được hậu tế của sanh tử, không còn tử, được cái vô biên thường trụ, thành tựu các thiện công đức chẳng thể nghĩ bàn, an trụ trong tất cả Phật pháp thần biến. Vì XẢ BỎ TÀI SẢN nên chứng được hậu tế của sanh tử, siêu vượt loài hữu tình, được quả báo viên mãn không giảm cũng không cùng, đầy đủ công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sanh tôn trọng cúng dường. Thế Tôn! Thiện nam tử và thiện nữ nhân nào chịu xả bỏ thân mạng và tài sản để nhiếp thọ chánh pháp, sẽ được chư Như Lai thọ ký.

Giải:

Hậu tế và tiền tế là nói đến chỗ sanh khởi và chấm dứt của sanh tử. Thấy được hậu tế của sanh tử là thấy được bản chất thật của sanh tử, tức thấy được cội nguồn chân thật của sanh tử. Nhận ra được cội nguồn của sanh tử là được pháp thân Như Lai. Được pháp thân Như Lai thì nhận ra được tính huyễn mộng của sanh tử. “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ” nên nói không còn lão, bệnh, tử. Lão, bệnh, tử chỉ là thứ huyễn hóa không thật, chỉ vì lợi ích của chúng sanh mà hóa hiện lão, bệnh, tử như ngài Duy Ma Cật nói “Vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh”.

Câu cuối là điều kiện để được Như Lai thọ ký. Tu là để hết khổ, để được đầy đủ mọi thứ như ý nguyện, nhưng đây nói “Xả bỏ thân, mạng và tài sản”. Cho nên, chỉ có chí nguyện của chư vị Bồ tát mới có phần.

MẠNG không khác THÂN, nhưng thường mình chỉ nghe nói mạng sống chứ không nghe nói thân sống. Thành XẢ THÂN thì còn thở được chứ XẢ MẠNG thì coi như hết đời. Đó là luận về hình thức cho vui. Thật ra 3 hình thức xả thân, mạng, tài sản này không chỉ nằm trên hình thức bên ngoài. Nó mang ý nghĩa thâm sâu hơn nhiều. Bởi nếu chỉ có những hình thức đó mà thoát được sanh tử và thấy được pháp thân thì mấy chàng cảm tử Irad đều thành Phật hết. Song muốn thành Phật thì dòng vọng tưởng phải hết. Nói cách khác, ngũ ấm phải GIAI KHÔNG mới thành Phật được chứ không chỉ có tan thân nát mạng thôi mà được thành Phật.

Nói xả tài sản, xả thân, xả mạng là muốn nói đến phần buông xả bên trong của mình. Làm như vậy là để PHÁ ĐI TÂM CHẤP ĐẮM, đưa tâm về lại chỗ vô trụ của nó.

Thiền định thật giỏi mà không có phần bố thí tài sản làm lợi ích chúng sanh thì sẽ như vị La Hán đệ tử của ngài Mục Kiền Liên, chứng quả rồi nhưng chết đói. Nhờ việc bố thí này mà được “Đầy đủ công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sanh tôn trọng cúng dường”. Ngoài ra, trừ một số người coi thân mạng không bằng tài sản, thà chết chứ không chịu mất của, thì phần lớn, muốn xả đến thân mạng phải xả tài sản trước. Tài sản là thứ ngoài thân, ngoài thân mà không dám xả, làm sao xả được những thứ thuộc thân. Trong cả 2 trường hợp, việc thí xả tài sản không kém quan trọng so với việc thí xả 2 thứ kia. Vì lẽ đó, ngoài xả thân mạng đây còn nêu cả việc bố thí tài sản.

XẢ THÂN, như đã nói, là hết lòng làm lợi ích cho mọi người để cùng họ hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

MẠNG nói đây là muốn nói đến tướng thọ mạng trong kinh Viên Giác. XẢ MẠNG là vượt qua trạng thái thanh lương sáng chiếu mà nhiều người đã lầm tưởng là chỗ giác ngộ rốt ráo và dừng trụ luôn ở đó. Thật ra, nó chỉ mới là bờ mé của thức ấm, là cội nguồn của 2 thứ sanh tử. Phần này sẽ được giải thích rõ trong phần 4 tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng dưới.

Chánh văn:

Thế Tôn! Các vị thiện nam tử và thiện nữ nhân, khi chánh pháp muốn diệt, có các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cùng nhau kết bè kết đảng khởi nhiều tranh tụng thì vì tâm không dua nịnh, không lừa dối, ưa thích chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp nên các vị nhập vào nhóm bạn lành. Người thuộc nhóm bạn lành thì nhất định được chư Phật thọ ký. Thế Tôn! Con thấy nhiếp thọ chánh pháp có đại lực ấy. Như Lai lấy đó làm con mắt, làm pháp căn bản, làm pháp dẫn đạo, làm pháp thông đạt.

Giải:

Chánh pháp muốn diệt là nói đến thời chánh pháp không còn hưng thịnh. Trong giáo đoàn Tăng Ni và Phật tử đã xuất hiện những thành phần bê bối, giới luật không nghiêm, dùng chùa chiền Phật pháp làm chỗ kiếm ăn thay vì xả bỏ thân mạng tài sản như Phật đã dạy. Đã có tư lợi riêng tư thì phải có thị phi, bè phái, mất đoàn kết.

Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di là hai phái nam nữ thuộc xuất gia và tại gia, gọp chung thành 4 hạng. Chư vị là những người nắm giữ mạng mạch của Phật pháp. Nếu chư vị lấy lý tưởng cao cả làm ngọn đuốc dẫn đường cho mình thì chánh pháp vững mạnh. Nếu chư vị lấy ý riêng và danh lợi làm chỗ đến thì Phật pháp lụi tàn.

BẠN LÀNH là muốn nói đến những vị không vì danh lợi mà tham gia, tranh tụng, đấu tranh, kiện cáo làm Phật pháp rối nùi, khiến Phật tử mất lòng tin đối với Phật pháp. Những người ưa thích chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp là những người đặt lợi ích của mọi người trên lợi ích của mình. Đã đặt lợi ích của người trên lợi ích của mình thì không bao giờ để những cái vừa lòng hay không vừa lòng của mình làm ảnh hưởng đến Phật pháp. Vì Phật pháp mà xả bỏ thân mạng và tài sản, huống chỉ vài ý tưởng riêng tư? Đây là những người được chư Phật thọ ký, được chư Phật hộ trì, là những người nắm giữ mạng mạch của Phật pháp.

Nhiếp thọ chánh pháp có ĐẠI LỰC ẤY là nói đến cái lực khiến hành giả không dính đến việc tranh cải, thị phi, bè phái. Không tranh cải, đấu tranh không có nghĩa là im lặng để tà pháp ngự trị thế gian. Cũng như không khuất phục cái xấu, không để cái tà làm lủng đoạn chánh pháp không có nghĩa là phải dành giựt, đấu tranh làm Phật pháp rối bời. Nếu là bậc Tôn trưởng có chánh pháp trí thì tà pháp sẽ biến thành lực trợ duyên cho chánh pháp hiển lộ. Cho nên, quan trọng vẫn là nhiếp thọ chánh pháp. Vì thế nói “Như Lai lấy đó làm con mắt, làm pháp căn bản, làm pháp dẫn đạo, làm pháp thông đạt”. Nhiếp thọ chánh pháp thì có chánh pháp trí. Có chánh pháp trí thì không lầm lẫn nên nói LÀM CON MẮT. Đó là nền tảng cho việc tu hành cũng như việc lợi ích cho tha nhân nên nói làm PHÁP CĂN BẢN, làm PHÁP DẪN ĐẠO. Có chánh pháp trí thì mọi việc thông suốt vô ngại nên nói làm PHÁP THÔNG ĐẠT.

Chánh văn:

Thế Tôn nghe phu nhân Thắng Man nói nhiếp thọ chánh pháp có đại oai lực thì khen rằng “Đúng vậy! Đúng vậy! Lành thay, Thắng man! Đúng như bà đã nói, nhiếp thọ chánh pháp có lực oai đức lớn. Như đại lực sĩ chạm nhẹ vào tử huyệt thì rất đau đớn và càng tăng trọng bịnh. Cũng vậy, này Thắng Man! Nếu chỉ nhiếp thọ chánh pháp ít phần thôi sẽ làm cho ma Ba Tuần thống thiết, sầu não, buồn khóc, than thở. Cũng vậy, này Thắng Man! Ta thường thấy không có một pháp thiện nào khiến ma Ba Tuần sầu não giống như nhiếp thọ chánh pháp dù chỉ ít phần.

Giải:

Đây là nói về tác dụng của việc xả bỏ thân mạng và tài sản để nhiếp thọ chánh pháp. ĐẠI LỰC SĨ là chỉ cho người có sức mạnh. “Như đại lực sĩ chỉ chạm nhẹ vào tử huyệt là đã sanh đau đớn và tăng trọng bịnh”. Tử huyệt đây không biết là tử huyệt của lực sĩ hay tử huyệt của người khác. Nhưng dù là tử huyệt của ai thì cũng đều nói lên năng lực công đức của nhiếp thọ chánh pháp. Nếu mình chịu xả bỏ thân mạng và tài sản để nhiếp thọ chánh pháp, dù chỉ ít phần thôi, cũng làm cho ma Ba Tuần đau đớn khổ sở. Ma Ba Tuần là chỉ cho những vô minh hoặc nghiệp chướng ngại trong chính bản thân mình. Chỉ có chân thật nhiếp thọ chánh pháp mới làm ma Ba Tuần sợ hãi, mới hàng phục tối cùng những vô minh vi tế của bản thân.

Chánh văn:

Này Thắng Man! Thí như trâu chúa hình sắc đoan chánh, thân lượng đặc thù, hơn hẳn các trâu khác. Cũng vậy, này Thắng Man! Người tu Đại thừa, nếu nhiếp thọ chánh pháp ít phần thôi cũng có thể hơn hẳn tất cả thiện pháp của Thanh văn và Độc giác. Này Thắng Man! Như vua của mọi núi là Tu Di, cao lớn hùng vĩ hơn hẳn các núi khác. Cũng vậy, này Thắng Man! Người mới thú hướng Đại thừa, dùng tâm nhiêu ích chẳng tiếc thân mạng nhiếp thọ chánh pháp thì có thể vượt hẳn người trụ lâu trong thiện căn Đại thừa mà tiếc thân mạng. Cho nên, này Thắng Man! Bà phải dùng nhiếp thọ chánh pháp mà khai thị giáo hóa cho tất cả chúng sanh. Như thế, nhiếp thọ chánh pháp được đại phước lợi và đại quả báo.

Giải:

Đây là dùng ví dụ để hiển bày oai đức của việc xả bỏ thân mạng mà nhiếp thọ chánh pháp. Việc này cũng giống như đi cứu người bị nạn sông nước. Người tiếc thân mạng thì không thể nào bương chải cứu người như người chẳng tiếc thân mạng, chỉ nghĩ đến việc cứu người.

Tiếc thân mạng tài sản vì còn thấy những thứ đó là thật. Thấy thật vì chưa có được loại chánh pháp trí thâm sâu, chưa thấy được “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Còn người dám xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chánh pháp là người đã nắm vững lý duy tâm, chánh pháp trí đã vững vàng. Đây là lý do vì sao nói người tuy mới bước vào Đại thừa mà dám xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chánh pháp thì hơn hẳn người tuy trụ lâu trong thiện căn Đại thừa mà lẫn tiếc thân mạng. Đó là nói về người cùng tu Đại thừa. Với Thanh văn và Duyên giác thì công đức còn hơn hẳn.

Đại thừa có oai lực lớn như vậy nên Phật bảo phu nhân Thắng Man nên dùng Đại thừa để khai thị giáo hóa mọi người.

Chánh văn:

Này Thắng Man! Ta trong vô số a tăng kỳ kiếp, xưng tán nhiếp thọ chánh pháp có các công đức như thế không hề thôi nghỉ. (35) Cho nên, nhiếp thọ chánh pháp thành tựu như vậy vô lượng công đức. Nay bà nên nói lại việc nhiếp thọ chánh pháp mà ta đã nói, đều là chỗ ưa thích của tất cả chư Phật”.

Giải:

Đây, đức Phật kết luận về công đức nhiếp thọ chánh pháp, đồng thời khuyên phu nhân Thắng Man lặp lại những gì mà chư Phật đã nói về nhiếp thọ chánh pháp.

Chánh văn:

Thắng Man bạch Phật “Lành thay, bạch Thế Tôn! Nhiếp thọ chánh pháp gọi là Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa xuất sanh tất cả Thanh văn, Độc giác, cùng các thiện pháp của thế và xuất thế gian. Như ao A Nậu Đạt chia làm 8 sông lớn. Cũng vậy, Đại thừa xuất sanh tất cả Thanh văn, Độc giác, cùng các thiện pháp của thế gian và xuất thế gian. Cũng như tất cả hạt giống, thảo mộc, rừng cây đều nương nơi đại địa mà được sanh trưởng. Cũng vậy, tất cả Thanh văn, Độc giác, cùng các thiện pháp của thế gian và xuất thế gian đều nương nơi Đại thừa mà sanh trưởng. Cho nên, bạch Thế Tôn! Trụ nơi Đại thừa, nhiếp thọ Đại thừa là trụ nơi nhiếp thọ Thanh văn, Độc giác cùng các thiện pháp của thế gian và xuất thế gian.

Giải:

Trên, phân bày chánh pháp có đến 4 thứ là thiện căn cõi trời, người, Thanh văn, Duyên giác và Vô thượng thừa. Đây phu nhân nói thẳng “Nhiếp thọ chánh pháp gọi là Đại thừa”. Vì sao? Vì nhiếp thọ Đại thừa thì đầy đủ luôn 3 thừa dưới mà chỗ thâm sâu tối cùng của Đại thừa chính là Vô thượng thừa. Vì thế, thay vì nói 4 thứ, đây chỉ thẳng Đại thừa. Nghĩa là, tu thẳng vào Đại thừa thì đủ cả 3 thừa kia mà tương lai sẽ đủ luôn 4 thừa. Đây là nghĩa ĐẠI của việc nhiếp thọ Đại thừa.

Ngoài ra, tu hành là cả một quá trình dài đăng đẳng từ tiền kiếp đến vị lai, tu thẳng được vào Đại thừa vì quá khứ đã từng tu tập phước đức của cõi trời, người, Thanh văn, Độc giác và Đại thừa. Vì thế nói “Trụ nơi Đại thừa, nhiếp thọ Đại thừa là trụ nơi nhiếp thọ Thanh văn, Độc giác cùng các thiện pháp của thế gian và xuất thế gian”. Như người học thẳng vào lớp 12 thì chương trình từ lớp 11 trở xuống đều đã thông suốt mới học lớp 12 được. (36)


4/ Chỉ rõ 3 thứ vô minh: Vô minh trụ địa, tứ trụ địa phiền não và hiện khởi phiền não. Hiển bày 2 loại sanh tử là Biến dịch sanh tử và Phần đoạn sanh tử. Cho thấy Niết bàn của La Hán và Bích Chi Phật chưa phải là Niết bàn rốt ráo. Chưa chứng được chỗ rốt ráo nên tâm La Hán và Bích Chi Phật còn nhiều hạn chế, trí tuệ và công đức của chư vị không thể như Phật.

Chánh văn:

Như Phật Thế Tôn nói LỤC XỨ là chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, biệt giải thoát, tỳ nại da, chánh xuất gia và thọ cụ túc. Vì Đại thừa mà nói 6 thứ này. Vì sao? Chánh pháp trụ là vì Đại thừa mà nói. Đại thừa trụ thì chánh pháp trụ. Chánh pháp diệt là vì Đại thừa mà nói. Đại thừa diệt thì chánh pháp diệt. Biệt giải thoát và tỳ nại da, 2 pháp này danh thì khác mà nghĩa lại đồng. Tỳ nại da là pháp học của Đại thừa. Vì sao? Vì cầu Phật rồi xuất gia mà thọ cụ túc. Cho nên, giới uẩn Đại thừa là tỳ nại da, là chánh xuất gia, là thọ cụ túc.

Giải:

“Chánh pháp trụ là vì Đại thừa trụ, chánh pháp diệt là vì Đại thừa diệt” nói lên tầm mức quan trọng và tính quyết định của Đại thừa đối với chánh pháp.

BIỆT GIẢI THOÁT là chỉ cho phần GIỚI, như 5 giới của Phật tử tại gia, 250 giới của Tỷ kheo v.v… TỲ NẠI GIA là một trong 3 pho tam tạng nói về LUẬT, cũng bao gồm những điều răn dạy như giới, nên đây nói “Biệt giải thoát và tỳ nại da, 2 pháp này danh thì khác mà nghĩa lại đồng”. Chúng là pháp học của Đại thừa. Nói chúng là pháp học của Đại thừa vì có cầu làm Phật mới xuất gia và thọ cụ túc. CỤ TÚC là giới của Tỷ kheo và Tỷ kheo ni, là giới cao nhất trong BIỆT GIẢI THOÁT.

GIỚI UẨN là chỉ cho sự nhóm họp của tất cả giới. CHO NÊN … là câu tóm kết về giới Đại thừa.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! A La Hán thì không có xuất gia và thọ cụ túc. Vì sao? Vì A La Hán chẳng cầu Như Lai rồi xuất gia mà thọ cụ túc.

Giải:

Chư vị La Hán ngày xưa, thấy vị nào cũng đầu tròn áo vuông không có vị nào mang tướng cư sĩ. Đây vì sao nói A La Hán không có xuất gia và thọ cụ túc? Chỉ vì các vị cầu quả A La Hán mà không cầu quả vị Phật. Vì cái cớ ấy mà nói các vị không xuất gia, không thọ cụ túc dù mấy thứ đó các vị làm đầy đủ.

Chánh văn:

A La Hán có cái tưởng sợ sệt mà qui y Như Lai. Vì sao? Vì đối với mọi việc làm, A La Hán có cái tưởng sợ sệt như có người cầm kiếm muốn đến hại mình. Cho nên, A La Hán chẳng chứng được sự an lạc do xa lìa rốt ráo. Thế Tôn! Qui y mà chẳng nhờ qui y, như các chúng sanh không có qui y, cái gì cũng sợ sệt. Vì để an ổn mà cầu qui y. Thế Tôn! A La Hán cũng vậy, có tâm sợ sệt nên qui y Như Lai. Cho nên A La Hán và Bích Chi Phật sanh pháp vẫn còn, phạm hạnh chưa thành, chỗ làm chưa xong, còn có chỗ đoạn, vì chưa được cứu cánh, còn cách xa Niết bàn. Vì sao? Vì chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới chứng được Niết bàn, thành tựu vô lượng tất cả công đức chẳng thể nghĩ bàn. Chỗ cần đoạn đều đã đoạn, rốt ráo thanh tịnh, làm chỗ chiêm ngưỡng cho loài hữu tình, siêu vượt cảnh giới Nhị thừa và Bồ tát. A La Hán thì chẳng như thế. Nói ‘được Niết bàn’ chỉ là phương tiện của Phật. Cho nên, A La Hán còn cách xa Niết bàn.

Giải:

Mấy vị không cầu Phật đạo chỉ cầu A La Hán vì các vị có tâm sợ sệt đối với thế gian, chỉ muốn cầu sự an ổn cho mình. Vì thế, qua được phần thọ ấm và tưởng ấm, các vị trụ luôn trong trạng thái yên lắng của hành ấm không chịu ra nữa. Trong khi muốn thành Phật thì phải trải dài sanh tử nhiếp hóa chúng sanh hữu duyên. Đó chính là quá trình tiếp duyên để thanh lọc phần tập khí ẩn sâu trong thức tạng của mỗi người. Vào ma đạo để thành Phật đạo. Kinh Duy Ma nói “Bồ tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật đạo”. Vào phi đạo mà không để ma đạo làm nhiễm là thông đạt Phật đạo. Vì có tâm sợ sệt, không dám vào ma đạo để hoàn thành Phật đạo nên nói “A La Hán chẳng chứng được sự an lạc do xa lìa rốt ráo”. XA LÌA RỐT RÁO là xa lìa phần tập khí từ vô thủy vô minh, đây gọi vô minh trụ địa. Bởi phần vô minh trụ địa này chưa hết nên các phiền não sẽ sanh khởi khi tiếp duyên. Tâm đã hưởng được cái lạc của sự không sanh khởi mà giờ khởi lại thì thấy bất an. Quả là phiền não!

Như người nghiện rượu rồi cai rượu. Gọi là người hết nghiện khi đối duyên có rượu mà mình vẫn bình thản y nhiên. Cái bình thản đó là do thói quen uống rượu đã hết mà chủng tử mê rượu cũng bị dẹp bỏ hoàn toàn. Còn cai rượu, không tiếp duyên với rượu thì yên mà có rượu, lòng vẫn thấy lợn cợn thì chưa gọi là hết con ma rượu. Đó là vì thói quen uống rượu thì hết mà hơi hướm (tập khí) uống rượu bên trong vẫn còn. Tu Đại thừa chính là để thanh lọc luôn phần tập khí này.

Chúng sanh, như người nghiện rượu, tìm rượu uống để thỏa mãn cơn nghiện, thành cứ theo cái lực của thói quen ấy mà sanh tử vô hạn định. A La Hán thì như các vị đã cai rượu mà chưa hết tập khí uống rượu. Nên không có rượu thì các vị yên ả (vì không còn bị thói quen chi phối) mà thấy rượu thì sự sanh khởi của tâm lại thành hình. Đụng duyên thì không yên ổn, mà tới luôn như chúng sanh thì không được, nên các vị tính đường tránh duyên cho khỏe, nhập Niết bàn cho ăn chắc. Quá trình tu Đại thừa chính là đối duyên để trừ bỏ hẳn cái gốc tập khí bên trong này. Nói chính xác là để phá đi tâm phân biệt của mình. Hết tâm phân biệt thì nước hay rượu không khác nhau. Độ người hữu duyên cũng chính là độ ngay mình.

Võ Tắc Thiên đời Đường thỉnh 2 lão thiền sư vào cung rồi sai thị nữ hầu hạ tắm rửa cho 2 vị. Bà quan sát thấy thiền sư Lão An ở Tung Sơn thuộc phái thiền Nam Tông thì vui vẻ tự nhiên, còn Thần Tư thuộc phái thiền Bắc Tông thì không được tự nhiên. Bà khen “Nhờ tắm mới biết được bậc đại nhân”. Bậc đại nhân nói đây là chỉ cho thiền sư Lão An. Bởi lòng ông rỗng rang, không vướng vào ái dục cũng không vướng vào giới luật nên mọi thứ thành tự nhiên. Còn Thần Tư, vì tâm phân biệt chưa hết nên còn e ngại.

Qui y với Phật tâm của chính mình thì sẽ được 4 thứ không sợ. Song chư vị Nhị thừa chưa qui y được với Phật tự tâm mà chỉ mới qui y với Phật ngoài tâm, vẫn còn bị sự sợ hãi chi phối. Vì thế, tuy qui y rồi mà vẫn “Như các chúng sanh không có qui y” nên nói “Qui y mà chẳng nhờ qui y”.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Nói “A La Hán và Bích Chi Phật quán sát được 4 trí giải thoát rốt ráo, đắc tô tức xứ” là do Như Lai nói theo ý họ, chẳng phải là cái nói liễu nghĩa.

Giải:

Phần LÝ Phật dạy Thanh văn và Duyên giác chưa phải là phần LÝ rốt ráo. LIỄU NGHĨA là chỉ cho phần LÝ rốt ráo, là nói về cội nguồn tột cùng.

4 TRÍ GIẢI THOÁT là chỉ cho 4 trí sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau. Kinh sẽ giải thích rõ ở phần sau. TÔ TỨC XỨ là chỉ cho chỗ ngưng dứt ngơi nghỉ, chỉ cho trạng thái Niết bàn của hàng La Hán.

NÓI THEO Ý HỌ là tùy theo căn cơ của họ mà nói. Căn cơ của người chỉ mới tới đó thì chỉ nói tới đó thôi. Nói nữa, chúng ngán chúng đi hết thì mất cả chì lẫn chài. Đây là do tâm chúng sanh nhiều tầng nhiều lớp, nói thật không chịu nghe mà phải nói lòng vòng.

Vì sao? Là để giải thích vì sao nói phần lý Phật dạy Thanh văn Duyên giác đó chưa phải là chỗ rốt ráo.

Chánh văn:

Vì có 2 thứ tử. Một là phần đoạn tử. Hai là biến dịch tử. PHẦN ĐOẠN TỬ là sự tương tục của loài hữu tình. BIẾN DỊCH TỬ là, A La Hán, Bích Chi Phật, tự tại Bồ tát tùy ý sanh thân cho đến quả vị Bồ đề.

Giải:

A LA HÁN là quả vị tối cùng của Thanh văn.

BÍCH CHI PHẬT là quả vị tối cùng của Duyên giác.

TỰ TẠI BỒ TÁT TÙY Ý SANH THÂN là chỉ cho các vị Bồ tát thuộc hàng Thập Địa. Các vị đã trực chứng được nhân Phật tánh nên có thể theo ý nguyện mà hiện thân tướng làm lợi ích chúng sanh, nên nói TỰ TẠI.

QUẢ VỊ BỒ ĐỀ là chỉ cho quả vị Phật. CHO ĐẾN QUẢ VỊ BỒ ĐỀ là chỉ cho hàng Bồ tát sát quả vị Phật.

Các vị đó chỉ mới qua được PHẦN ĐOẠN TỬ mà còn vướng phần BIẾN DỊCH TỬ.

PHẦN ĐOẠN TỬ là chỉ cho sự tương tục của loài hữu tình. Theo luận Thành Duy Thức, khi nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não chướng làm duyên thì sinh ra cái quả dị thục thô phù trong tam giới với thân mạng sống lâu hay chết yểu. Do sức nhân duyên mà có sự hạn định đó nên gọi là PHẦN ĐOẠN SANH TỬ. Tức nhân duyên tụ thì có thân, nhân duyên tan thì thân mất như thân ta hiện nay với sự sống chết rõ ràng liên tục.

Khi nghiệp vô lậu làm nhân, sở tri chướng làm duyên thì sinh ra cái quả là thân mạng thù thắng vi tế. Do bi nguyện mà thân mạng này chuyển dịch không hạn định nên gọi là BIẾN DỊCH. Đây là do định lực vô lậu làm duyên trợ giúp chiêu cảm ra, nên diệu dụng khó lường. Thân biến dịch này chính là ý sanh thân của chư vị Bồ tát Thập địa cùng với thân của A La Hán và Bích Chi Phật.

Chánh văn:

Trong 2 thứ tử, do PHẦN ĐOẠN TỬ mà nói A La Hán và Bích Chi Phật sanh được cái trí TA SANH ĐÃ TẬN. Do chứng được quả hữu dư nên sanh được cái trí PHẠM HẠNH ĐÃ THÀNH, là chỗ mà tất cả ngu phu đều chẳng thể làm, 7 loại học nhân chưa thể thành tựu. Phiền não tương tục đã đoạn rốt ráo, nên được cái trí VIỆC LÀM ĐÃ XONG. Thế Tôn! Nói được cái trí CHẲNG THỌ HẬU HỮU là, A La Hán và Bích Chi Phật chưa thể đoạn tất cả phiền não, chẳng rõ tất cả trí thọ sanh. Vì sao? Vì A La Hán và Bích Chi Phật chưa đoạn hết hữu dư phiền não nên chẳng thể rõ tất cả thọ sanh.

Giải:

Đây là giải thích về 4 danh xưng mà Phật đã gắn cho A La Hán. Nói TA SANH ĐÃ TẬN là tận được phần đoạn tử của chúng sanh, không phải tận được phần biến dịch tử. TA SANH ĐÃ TẬN mà gọi là TRÍ vì không có thứ gì ngoài tâm. Khi đạt được cái trí đó, tức an trụ được trong trạng thái thanh tịnh của tâm thì các chủng tử hữu lậu không còn sanh khởi biến hiện thành thế giới, thân và tâm như chúng ta đang thọ nhận hiện nay, nên nói SANH ĐÃ TẬN.

Nói PHẠM HẠNH ĐÃ THÀNH vì chứng được quả hữu dư. Quả hữu dư là chứng quả rồi mà còn dư lại một chút gì đó. Cái chút đó chỉ cho phần vô minh nghiệp tướng. PHẠM HẠNH là thứ có được sau khi hàng phục hết những hoặc nghiệp của chúng sanh. Thân, khẩu, ý không còn điều kiện tạo nghiệp nên nói PHẠM HẠNH ĐÃ THÀNH. Hữu dư phiền não là chỉ cho phần vô minh trụ địa.

Thanh văn có 4 bực là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Tuy là 4 nhưng thành 8 vì có phần ngay đó mà có phần hướng đến đó. Như quả Tu Đà Hoàn thì còn có phần hướng đến Tu Đà Hoàn. Trừ quả A La Hán là phạm hạnh đã thành. 7 quả còn lại đều trong giai vị hướng đến, tức phạm hạnh chưa thành tựu. Đó là 7 HẠNG HỌC NHÂN chưa thể thành tựu.

Không phải Phật, không phải 7 loại học nhân, không phải là Bồ tát, gọi là NGU PHU.

PHIỀN NÃO TƯƠNG TỤC là chỉ cho những thứ như vui, buồn, suy nghĩ v.v… là những sanh khởi của tâm khi đối duyên tiếp cảnh. (37) Ngoài không tiếp duyên, trong thì phá bỏ sự sanh khởi của pháp trần nên phần phiền não tương tục này không còn. Loại phiền não tương tục này hết thì chứng được cảnh giới rỗng không an lạc của tâm. Ba nghiệp đã hàng phục nên không còn nhân duyên để có thân kế tiếp. Thân kế tiếp đó gọi là HẬU HỮU. Nên nói VIỆC LÀM ĐÃ XONG.

Song cái gọi là không còn thọ đời sau đó chỉ mới là chấm dứt thân phần đoạn của chúng sanh chứ chưa phải là chỗ rốt ráo không còn thọ đời sau. Vì không biết nên tưởng là không còn thọ thân sau, nhưng thật ra vẫn còn thọ thân sau. Đó là thân biến dịch. Thân biến dịch này là cái quả của vô minh nghiệp tướng kết hợp với nhân vô lậu mà thành.

Sau là nói rõ về PHIỀN NÃO để biết loại phiền não mà A La Hán và Bích Chi Phật đoạn được chưa thực rốt ráo.

Chánh văn:

Phiền não có 2: Trụ địa phiền não và khởi phiền não. TRỤ ĐỊA có 4. Thế nào là 4? Kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa. Bạch thế Tôn! 4 thứ trụ địa này có thể sanh tất cả biến khởi phiền não. KHỞI PHIỀN NÃO là, sát na sát na cùng với tâm tương ưng.

Giải:

Thấy thì đủ thứ tên, nhưng phân thành 2 loại chính là trụ địa và biến khởi. TRỤ ĐỊA là phần ẩn sâu bên trong. Còn BIẾN KHỞI là phần mà trí tuệ phàm phu chúng ta có thể cảm nhận được. Phần ẩn sâu bên trong chia làm 4 thứ. Sẽ liệt kê và giải thích sau đây.

I. TRỤ ĐỊA PHIỀN NÃO: Loại trụ địa phiền não này là nền tảng để ta có loại BIẾN KHỞI PHIỀN NÃO thứ hai. Vì có 4 loại trụ địa này làm nền tảng mà khi đối duyên, mình mới sanh khởi phiền não như buồn, thương, giận, ghét v.v…

1. KIẾN NHẤT XỨ TRỤ ĐỊA là chỉ cho mọi KIẾN HOẶC trong tam giới. Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới là cõi giới mình đang sống đây. Với Dục giới, KIẾN HOẶC là chỉ cho quan niệm sống của mình. Nó thuộc về LÝ. Như thấy “Tiền là tất cả ở thế giới này. Có nó mình có tất cả”. Cái thấy đó là một thứ thuộc Kiến nhất xứ trụ địa. Kiến nhất xứ trụ địa là thứ dẫn đường cho những hành tác của mình trong đời sống. Kiến thay đổi thì hành tác của mình sẽ thay đổi.

2. DỤC ÁI TRỤ ĐỊA là chỉ cho mọi thứ TƯ HOẶC ở Dục giới này. TƯ HOẶC là chỉ cho những thứ thuộc về hành động thói quen. Ở cõi Dục này thì mọi hành động thường liên quan đến ái và dục nên lấy tên đó mà đặt. Nếu gặp được chánh pháp, kiến hoặc một khi đã dứt thì không còn trở lại, nhưng tư hoặc thì có thứ dứt liền được mà có thứ chưa thể dứt liền, cần phải có thời gian và ý chí trường viễn để hàng phục nó.

Như người ngoài đời, thường ai cũng có quan niệm “Tình yêu và tiền bạc là hạnh phúc của con người”. Nhưng sau những thăng trầm của cuộc đời, có người lại nhận ra rằng “Tu là cội phúc, tình là dây oan”. Nhận rõ được vậy, nhưng đụng duyên vẫn cứ vướng vào cái dây oan nghiệt đó, còn cội phúc thì mãi lần khần. Đó là do kiến hoặc đã thay đổi mà tư hoặc thì một lần chưa thể xong. Bởi chủng tử ái dục còn tiềm ẩn bên trong chưa tróc gốc thành gặp duyên liền phát khởi. Tu chính là thay đổi kiến hoặc và bào mòn tư hoặc. 6 Ba la mật là phương tiện để dứt bỏ phần tập khí ẩn sâu trong thức tạng này.

3. SẮC ÁI TRỤ ĐỊA

4. HỮU ÁI TRỤ ĐỊA

2 trụ địa này thuộc về tư hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc, là cõi giới phải có thiền định mới nhập được.

4 trụ địa này tuy không phải một nhưng cũng không phải khác. KHÔNG PHẢI MỘT, vì năng lực thô tế của chúng không giống nhau. Như dục ái trụ địa là tư hoặc của cõi Dục, còn hữu ái trụ địa là tư hoặc của cõi Vô sắc. Nếu vào được cõi Vô sắc thì phần dục ái ở cõi Dục không còn. Không phải một là như vậy. KHÔNG KHÁC vì hữu ái trụ địa là nền tảng để dục ái trụ địa sanh khởi, như 4 trụ địa là nền tảng để khởi phiền não sau sanh khởi.

II. KHỞI PHIỀN NÃO là sát na sát na cùng với tâm tương ưng. SÁT NA, sát na là chỉ cho thời gian rất ngắn, niệm này nối tiếp niệm kia. TÂM TƯƠNG ƯNG và TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG là 2 khái niệm đã được giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

Nói TÂM TƯƠNG ƯNG là khi tâm có sự tương ưng hòa hợp với cảnh. Như nghe tiếng mèo kêu ban đêm. Nghe mà bình thản không có ý niệm gì khởi lên trong lòng thì không rơi vào tình trạng tâm tương ưng nói đây. Còn nghe mà thấy hãi hùng rồi trong đầu hiện lên bao cảnh ma quái là tâm mình đang có sự tương ưng với cảnh. Sự sợ hãi rồi bao thứ khác khởi lên đó là một dạng thuộc KHỞI PHIỀN NÃO. Gọi là BIẾN KHỞI vì một khi cái này khởi lên thì kéo theo vô vàn những thứ khác khởi lên. BIẾN là chỉ sự lan rộng tỏa khắp.

Hoặc là những tư tưởng hay hình bóng hiện lên trong tâm – gọi là pháp trần – nếu những ý tưởng đó hiện lên rồi qua đi như một chiếc bóng không để lại dấu vết thì không xuất hiện khởi phiền não. Nhưng một ý tưởng nào đó vừa xuất hiện mà mình thấy vui hay buồn vì ý niệm đó, tức là tâm mình đã rơi vào tình trạng tương ưng với cảnh. Cảnh đây là pháp trần. Những thứ vui hay buồn đó đều thuộc BIẾN KHỞI PHIỀN NÃO. Đó là ý nghĩa của câu “Sát na, sát na cùng với tâm tương ưng”.

Theo sự phân tích trên thì rõ ràng 4 thứ trụ địa là chỗ sanh tất cả biến khởi phiền não. Do có sẵn những quan niệm trong đầu nên khi gặp duyên, thứ gì hợp với quan niệm của mình thì sinh vui thích vừa lòng, không hợp với quan niệm suy nghĩ của mình thì sinh buồn bã khổ sở. Hoặc do yêu thương mà sinh tâm hoan hỉ hoặc do lòng mong muốn không được thỏa mãn mà sinh đau khổ v.v... Quan niệm thì thuộc KIẾN TRỤ ĐỊA. Yêu thương và mong muốn thuộc DỤC ÁI TRỤ ĐỊA. Những cảm giác buồn, vui, hạnh phúc, đau khổ thuộc KHỞI PHIỀN NÃO.

4 trụ địa dẹp rồi thì khởi phiền não cũng không còn. Đó là vì nhân diệt thì quả diệt.

Chư vị La Hán và Bích Chi Phật vừa bỏ được kiến hoặc vừa bỏ được cả tư hoặc ở cả 3 cõi. Tức LÝ và SỰ của chư vị đã viên dung, nhưng do phần LÝ chư vị nhận được không phải là phần LÝ rốt ráo nên phần LÝ SỰ VIÊN DUNG của chư vị cũng không được rốt ráo, nên chư vị không có được phần SỰ SỰ VIÊN DUNG như của chư Phật.

Sau sẽ đưa ra lý do vì sao Niết bàn của chư vị không được như Niết bàn của chư Phật.

Chánh văn:

Thế Tôn! Còn VÔ MINH TRỤ ĐỊA là tâm bất tương ưng từ vô thủy đến nay.

Giải:

Niết bàn của La Hán và Bích Chi không được như Phật chính vì phần VÔ MINH TRỤ ĐỊA này. Nó chính là phần VÔ MINH NGHIỆP TƯỚNG trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

Tâm không đến với cảnh gọi là BẤT TƯƠNG ƯNG. Muốn hiểu đầy đủ câu “Tâm bất tương ưng từ vô thủy đến nay” thì phải nghiên cứu phần Bất Giác trong cuốn luận Đại Thừa Khởi Tín (38). Đây chỉ nói vừa đủ để có thể hiểu.

VÔ THỦY là không có khởi đầu. Nói không khởi đầu nhưng là để chỉ cho lúc khởi đầu cảnh giới của một chúng hữu tình. Không có khởi đầu vì sao nói khởi đầu? Vì cái khởi đầu ấy không thực sự có chỗ khởi đầu. Chỉ do sự bất giác của nhất tâm thanh tịnh mà thành có thế giới, thân và tâm của một chúng hữu tình. Do cái bất giác ấy mà nói VÔ MINH TRỤ ĐỊA chứ không phải thứ vô minh do tâm và cảnh hòa hợp với nhau mà có. Không có tâm cảnh thì không có sự tương ưng nên nói TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG. (39) Cái bất tương ưng ấy đã có từ vô thủy, cũng là nền tảng sanh khởi của tất cả phiền não từ vô thủy đến nay nên nói “Tâm bất tương ưng từ vô thủy đến nay”.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Lực của 4 trụ địa có thể làm sở y cho biến khởi phiền não, song so với vô minh trụ địa thì tính đếm thí dụ chẳng thể bì được. Cũng vậy, vô minh trụ địa đối với hữu ái trụ địa, lực của nó rất lớn. Thí như sắc, lực, oai đức và quyến thuộc của ma vương thì hơn hẳn chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại. Cũng vậy, vô minh trụ địa hơn cả 4 trụ địa, làm chỗ nương cho hằng hà sa số phiền não, cũng làm cho 4 trụ địa phiền não tồn tại lâu dài. Vô minh này, trí của Thanh văn và Độc giác chẳng thể đoạn, chỉ có trí của Như Lai mới có thể đoạn.

Giải:

SỞ Y là chỗ nương. Tâm chúng sanh (40) bị 3 thứ chi phối: Vô minh trụ địa, 4 trụ địa và khởi phiền não. Tâm chúng ta vốn thanh tịnh trùm khắp song do bất giác mà sinh cái thấy hư vọng và hiện cảnh giới hư vọng như nay. Phần bất giác đó liên quan đến VÔ MINH TRỤ ĐỊA. Nó là nền tảng để sanh khởi 4 TRỤ ĐỊA. Từ 4 TRỤ ĐỊA lại có KHỞI PHIỀN NÃO.

Nếu dẹp được 4 trụ địa thì khởi phiền não không còn. Nếu dẹp được vô minh trụ địa thì 4 trụ địa mới thật sự hết. Vô minh còn thì 4 trụ địa chưa hẳn hết. Đủ duyên, (41) khởi phiền não sẽ sanh khởi. Đây là lý do vì sao chư vị La Hán khi đối duyên, nếu trúng phải loại tập khí của mình thì tâm vẫn sanh khởi. (42) Như ngài Ca Diếp nghe nhạc ở cõi trời vẫn đứng lên nhảy nhót. Ấy là do phần vô minh trụ địa chưa hết.

HỮU ÁI TRỤ ĐỊA là chỉ cho phần tư hoặc thuộc cõi Vô sắc, là cõi giới cao nhất trong tam giới. Bởi nó cao nhất, nên phần tư hoặc của nó cũng thâm sâu nhất. Nhưng so với VÔ MINH TRỤ ĐỊA thì không thấm vào đâu. So sánh vậy để thấy lực của vô minh trụ địa to lớn thế nào. Thứ này chỉ có trí kim cang của Phật mới đoạn được.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Đúng vậy! Vô minh trụ địa, lực của nó rất lớn. Thế Tôn! Như THỦ làm duyên, NGHIỆP HỮU LẬU làm nhân mà sanh 3 hữu.

Giải:

DUY TÂM nên mọi thứ từ thân, tâm cho đến thế giới mình đang thọ nhận đây không có gì ngoài tâm. Chỉ do sự biến hiện của các chủng tử trong thức tạng mà thành có cảnh giới (43). Thân phần đoạn của mình đây là do sự kết hợp giữa THỦ và NGHIỆP HỮU LẬU mà biến thành. Nói chính xác là do CHỦNG TỬ của THỦ và CHỦNG TỬ của NGHIỆP HỮU LẬU kết hợp biến thành.

NGHIỆP HỮU LẬU là chỉ cho thói quen của thân, khẩu và ý. Có nghiệp thiện, có nghiệp bất thiện. Nghiệp thiện thì chiêu cảm ra cảnh giới tốt, nghiệp bất thiện chiêu cảm ra cảnh giới xấu. THỦ là chỉ cho sự chấp thủ. (44) Như vậy, những thói quen trong việc làm thường ngày của mình đây sẽ để lại những dấu ấn trong thức tạng. Dấu ấn ấy đủ duyên kết hợp với tâm chấp thủ mà biến hiện ra thế giới, thân và tâm mà một chúng hữu tình đang thọ nhận. Vì thế, muốn không có thân luân chuyển trong sanh tử thì phải buông bỏ sự chấp thủ và đưa 3 nghiệp thân, khẩu, ý đến chỗ tịch tịnh. Đây là chỗ hành của chư vị Nhị thừa. 3 HỮU là tên khác của tam giới.

Nói cảnh giới này chỉ từ tâm biến hiện mình thấy khó tin. Nhưng việc này không khác gì ngủ rồi mộng. Khi đang mộng cũng thấy đi đây đi kia, gặp gỡ người này người người khác, vui, buồn, đau khổ v.v... Những thứ đó từ đâu mà có? Cũng chỉ từ tâm mà ra. Bởi ngủ rồi tỉnh nên biết những thứ ấy là mộng. Nếu không tỉnh thì những gì thấy trong mộng đó chẳng khác gì những thứ mình đang sống đây.

Chánh văn:

Cũng vậy, VÔ MINH TRỤ ĐỊA làm duyên, NGHIỆP VÔ LẬU làm nhân sanh ra A La Hán, Bích Chi Phật cùng chư đại lực Bồ tát tùy ý sanh thân. Ba địa vị tùy ý sanh thân và vô lậu nghiệp này đều lấy vô minh trụ địa làm sở y. Kia tuy có duyên mà cũng hay làm duyên. Cho nên, bạch Thế Tôn! Ba thứ tùy ý sanh thân và nghiệp vô lậu đó đều lấy vô minh trụ địa làm duyên đồng với hữu ái trụ địa.

Giải:

CŨNG VẬY là tương tự như thân phần đoạn nói trên. Thân biến dịch cũng từ nhân duyên mà thành. Song NHÂN bây giờ không còn là nghiệp hữu lậu nữa mà là nghiệp vô lậu. DUYÊN là vô minh trụ địa. Đó là vì La Hán hoặc Bồ tát ở các địa, hoặc là nghiệp hữu lậu đã hết, hoặc là sự chấp thủ pháp hữu lậu không còn. Nhân duyên không đủ thì không sinh quả. Tức nghiệp hữu lậu và thủ không còn làm nhân duyên cho nhau nên phần đoạn sanh tử chấm dứt, chỉ còn phần nhân duyên vi tế kết hợp, hiện khởi thân biến dịch.

Tùy ý sanh thân là chỉ cho 10 địa vị Bồ tát thuộc hàng Thập địa. (45) Nghiệp vô lậu là chỉ cho La Hán và Bích Chi Phật. Gọi là NGHIỆP vô lậu vì La Hán và Bích Chi Phật do đoạn nghiệp hữu lậu mà có vô lậu. Nó thuộc loại chủng tử vô lậu mới huân không phải loại chủng tử có sẵn. (46)

Luận Thành Duy Thức, khi nói về thức thứ 8 có đoạn viết “Chữ nương (Y) nghĩa là duyên. Thức chấp trì này từ vô thủy đến nay làm chỗ nương một cách bình đẳng cho tất cả pháp cho nên gọi là duyên”. (47) Vô minh trụ địa là chỗ nương (sở y) của 3 địa vị ý sanh thân và nghiệp vô lậu, cũng là thứ để 3 địa vị ấy lấy đó làm duyên phát khởi duyên hạnh, nên nói “Nó có duyên mà cũng làm duyên”.

Hữu ái trụ địa cũng lấy vô minh trụ địa làm chỗ y chỉ, nên nói “Tùy ý sanh thân và nghiệp vô lậu đều lấy vô minh trụ địa làm duyên đồng với hữu ái trụ địa”.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Hữu ái trụ địa chẳng đồng với vô minh trụ địa nghiệp. Vô minh trụ địa khác với 4 trụ địa. Khác với 4 trụ địa chỉ Phật mới đoạn được. Vì sao? Vì A La Hán và Bích Chi Phật đoạn được 4 trụ địa mà đối với lực lậu tận chẳng được tự tại, chẳng thể hiện chứng.

Giải:

LỰC LẬU TẬN là một trong 10 lực của Phật, chỉ cho lực có được khi dứt bỏ hết mọi phiền não. A La Hán nói hết phiền não nhưng thật ra chưa hết. Vì A La Hán tuy đoạn được phiền não nhưng chưa liễu tri được phần chủng tử của phiền não, chưa liễu tri được cội nguồn của những chủng tử ấy. Nên nói “Đối với lực lậu tận chưa được tự tại, chẳng thể hiện chứng”.

Chánh văn:

Vì sao? Bạch Thế Tôn, nói lậu tận là lời nói thừa. Cho nên, A La Hán, Bích Chi Phật và chư Bồ tát tối hậu hữu vì bị vô minh trụ địa che mờ nên với mọi pháp chẳng biết, chẳng thấy. Vì chẳng biết chẳng thấy đối với mọi pháp nên thứ cần đoạn thì chẳng đoạn, thứ cần tận thì chẳng tận. Đối với mọi pháp chẳng đoạn chẳng tận nên được hữu dư giải thoát mà chẳng phải là tất cả giải thoát, được hữu dư thanh tịnh mà chẳng phải là tất cả thanh tịnh, được hữu dư công đức mà chẳng phải là tất cả công đức. Bạch Thế Tôn! Vì được hữu dư giải thoát mà chẳng phải là tất cả giải thoát … Cho đến được hữu dư công đức mà chẳng phải là tất cả công đức, nên chỉ biết hữu dư KHỔ, đoạn hữu dư TẬP, chứng hữu dư DIỆT, tu hữu dư ĐẠO.

Giải:

LẬU HOẶC trong 3 cõi tuy đã hết nhưng chưa được lực lậu tận như Phật, nên nói A La Hán được lậu tận là LỜI NÓI THỪA. Vì còn phần vô minh trụ địa nên sự giải thoát, thanh tịnh cũng như công đức của 3 địa vị ấy chưa được hoàn toàn. Chưa được hoàn toàn thì biết phần đoạn khổ, biết tập, tu đạo, chứng diệt của các vị cũng không hoàn toàn.

Chánh văn:

Thắng Man lại bạch Phật rằng “Thế Tôn! Nếu chỉ biết hữu dư KHỔ, đoạn hữu dư TẬP, chứng hữu dư DIỆT, tu hữu dư ĐẠO, gọi là diệt độ được ít phần, chứng được ít phần Niết bàn, hướng về Niết bàn giới. Nếu biết tất cả khổ, đoạn tất cả tập, chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo thì người đó ở nơi thế gian vô thường bại hoại này chứng được Niết bàn thường tịch thanh lương. Bạch Thế Tôn! Ở nơi thế gian không chỗ che chở, không chỗ y tựa, người đó sẽ làm chỗ che chở, làm chỗ y tựa.

Giải:

Đây là nói riêng về các vị A La Hán. Thấy khổ, tập, diệt, đạo nhưng chưa thấy được cội nguồn của khổ, tập, diệt, đạo nên chư vị nhập Niết bàn mà bỏ công hạnh. Nếu thấy được cội nguồn của khổ, tập, diệt, đạo thì các vị biết sanh tử không khác Niết bàn. Tất cả đều là huyễn mộng chỉ từ tâm biến hiện. Thấy được tính huyễn mộng ấy của vạn pháp tức chư vị đang ở trong Niết bàn. Sanh tử tức Niết bàn thì chư vị không bỏ công hạnh của mình ở thế gian này. Công hạnh là chỉ cho việc “Làm chỗ che chở, làm chỗ y tựa” nơi thế gian không chỗ che chở, không chỗ y tựa.

Vì sao? Là để giải thích vì sao nói ngay thế gian đây mà chứng được Niết bàn thường tịch thanh lương, không đợi phải nhập Niết bàn mới có sự thường tịch thanh lương.

Chánh văn:

Vì với các pháp mà thấy có cao thấp thì chẳng chứng được Niết bàn. Kẻ mà trí tuệ bình đẳng, giải thoát bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng mới chứng được Niết bàn. Cho nên, Niết bàn gọi là ĐỒNG MỘT VỊ.

Giải:

Vì pháp vốn bình đẳng. Thấy hạnh phúc hay đau khổ, sanh tử hay Niết bàn là do TRÍ PHÂN BIỆT của mình mà ra. Phá được trí phân biệt thì sẽ thấy được tánh bình đẳng của vạn pháp, sẽ nhận được TƯỚNG huyễn mộng của chúng, mà TÁNH của tất cả pháp chính là tâm chân thật của chính mình.

Nhận được tính bình đẳng của vạn pháp thì mới thật là chứng Niết bàn. Điều này cũng dễ hiểu. Còn có chỗ để tâm e ngại thì còn có chỗ để mình phiền não. Nếu ở Địa ngục cũng như ở Cực lạc, thấy nước cũng như thấy rượu, thấy đàn ông cũng như đàn bà, ngủ đường cũng như ngủ trong giường êm nệm ấm, đi bộ cũng như đi máy bay thì khổ não còn chỗ nào để xuất hiện? Song muốn đạt được điều đó thì phải nhận ra được cội nguồn nhất tâm. A La Hán chỉ thấy được khổ, tập, diệt, đạo như những pháp thực hữu, mà chưa nhận ra được cội nguồn của những thực hữu đó, nên Niết bàn của chư vị chưa phải là Niết bàn chân thật rốt ráo.

Chánh văn:

Sao nói “Một vị là vị giải thoát”? Bạch Thế Tôn! Nếu vô minh trụ địa chẳng đoạn, chẳng hết thì chẳng được Niết bàn đồng một vị đó.

Giải:

Muốn được Niết bàn chân thật thì phải phá đi trí phân biệt. Muốn phá trí phân biệt thì phải biết chắc rằng trí phân biệt mình đang có đây không có thực thể, chỉ do tự tâm thanh tịnh bất giác mà sinh phân biệt. Muốn thông được những điều đó thì phải nhận cho được cội nguồn nhất tâm. Nhận được cội nguồn này, nhà Thiền gọi là kiến tánh, là chứng nhập được mặt THỂ TÁNH của vạn pháp. Kinh đây gọi là TRÍ TÁNH KHÔNG. Trí tánh không này chính là nhân vô lậu sẵn đủ trong mỗi chúng sanh. Chứng nhập được cái nhân đó là phá vỡ được một phần vô minh trụ địa, nhập vào địa vị Bồ tát của hàng Thập địa. Tiếp tục nương cái nhân đó phá dần trí phân biệt để viên mãn Phật quả. (48) Đó là lý do nói “Vô minh trụ địa chẳng đoạn chẳng hết thì chẳng được Niết bàn đồng một vị”. ĐOẠN là chỉ cho chỗ hành của các vị Bồ tát từ quả vị Sơ Địa trở lên. HẾT là chỉ cho quả Phật viên mãn.

Chánh văn:

Vì sao? Vì vô minh trụ địa chẳng đoạn chẳng hết nên có hằng hà sa số tất cả pháp lỗi lầm đáng đoạn mà chẳng đoạn, đáng hết mà chẳng hết. Vì có hằng hà sa số tất cả pháp lầm lỗi chẳng đoạn chẳng hết nên có hằng hà sa số các pháp công đức chẳng biết chẳng chứng. Cho nên, vô minh trụ địa làm chỗ sanh cho tất cả các pháp đáng đoạn và các tùy phiền não.

Giải:

Đây là nêu ra sự tai hại khi không phá trừ phần vô minh trụ địa. TÙY PHIỀN NÃO là chỉ cho phần chủng tử (tập khí) phiền não.

HẰNG SA là cát sông Hằng. HẰNG SA SA SỐ là chỉ cho số lượng quá nhiều, không tính đếm được như cát sông Hằng, tương đương với từ vô lượng.

Chánh văn:

Từ đó mà sanh chướng tâm phiền não, chướng chỉ phiền não, chướng quán phiền não, chướng tịnh lự phiền não … Cho đến chướng tam ma bát để phiền não, gia hạnh, trí, quả chứng, lực, vô úy … Có hằng hà sa số tất cả phiền não, chỉ Bồ đề của Như Lai và trí kim cang của Phật mới có thể đoạn.

Giải:

TỪ ĐÓ là từ cái vô minh trụ địa đó mà sinh ra mọi thứ khác. Vì sao những thứ như chỉ, quán v.v… là thứ giúp mình phá bỏ vô minh, quay về bản tâm thanh tịnh mà đây nói từ đó sanh …? Vì chính từ vô minh trụ địa mới nảy sinh sở tri, phiền não. Có sở tri và phiền não mới phải xuất hiện các pháp đối trị như chỉ, quán v.v… mới có cái quả là quả chứng, lực... Nếu không có vô minh thì không có phiền não, không phiền não thì không lập chỉ, quán v.v... nên nói TỪ ĐÓ MÀ SANH.

Do cái này mới sanh cái kia, còn bản tâm thanh tịnh vốn không có mấy thứ đó. Nên dù là thuốc trị bệnh chăng nữa, một khi mình còn phải dụng đến chúng thì những thứ đó vẫn còn là những vụn vàng làm xốn con mắt thanh tịnh. Nên gọi chúng là CHƯỚNG.

Những thứ như QUẢ CHỨNG, LỰC, VÔ ÚY không phải là pháp trị bệnh mà chúng là cái quả tất nhiên phải có khi tâm đã hết sở tri và phiền não. Song khi chưa thành Phật thì những thứ này chưa đầy đủ viên mãn như ở Phật. Cái chưa viên mãn đó tương ưng với tâm chưa sạch vô minh. Chưa hết vô minh hoàn toàn thì sự chấp thủ vi tế vẫn còn. Nếu thấy những thứ đó là cái quả đương nhiên rồi sinh tâm chấp thủ. Chấp thì mọi thứ sẽ thành ma. Nên đây cũng phải liệt kê ra để người tu biết mà cẩn trọng. Phải xả đến tận cùng mọi thứ: Không chỉ bệnh mà cả thuốc trị bệnh nữa mới thật là người hết bệnh. Đây là lý do vì sao ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ nói “Giữ giới cùng nhẫn nhục. Chuốc tội chẳng chuốc phước”.

BỒ ĐỀ không khác TRÍ KIM CANG. Song nói đến trí là muốn đến cái dụng của nó. Kim cang là thứ vững chắc cắt được mọi thứ, nên mượn hình ảnh đó để nói về trí lực đoạn phiền não vi tế của Phật, gọi là trí kim cang. ĐOẠN ĐƯỢC nghĩa là đưa tất cả những thứ đó về chỗ vô trụ.

Sở đắc được thứ gì thì tâm chấp thủ thứ đó rất mạnh. Sở đoản còn dễ bỏ, sở trường không phải dễ. Song tin được những điều đây, rồi thực hành theo niềm tin đó để buông xả dần mọi thứ, không phải là trí tuệ Phật thì không làm được. Vì thế đây nói “Chỉ Bồ đề của Như Lai và trí kim cang của Phật mới có thể đoạn”. Trí kim cang nói đây là nói đến trí kim cang của địa vị Bồ tát kế Phật, phá hoàn toàn phần vô minh trụ địa. Vô minh trụ địa hết thì những cành lá của nó là 4 trụ địa và khởi phiền não mới thật sự hết.

Chánh văn:

Các khởi phiền não, tất cả đều nương nơi vô minh trụ địa. Vô minh trụ địa làm nhân duyên. Bạch Thế Tôn! Khởi phiền não này sát na sát na cùng với tâm tương ưng, còn vô minh trụ địa là tâm bất tương ưng từ vô thủy đến nay.

Giải:

Phần này đã giải thích trên. Khởi phiền não là loại phiền não do tiếp duyên đối cảnh trong hiện tại mà có. Còn vô minh trụ địa là nền tảng để khởi phiền não xuất hiện. Nó có từ vô thủy đến nay.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Hằng hà sa số pháp mà Bồ đề Như Lai và trí kim cang của Phật nên đoạn, tất cả đều y trì nơi vô minh trụ địa mà kiến lập. Thí như tất cả hạt giống và rừng cây đều y nơi đại địa mà được sanh trưởng. Nếu đại địa hoại thì những thứ kia cũng hoại theo. Cũng vậy, hằng hà sa số tất cả pháp mà Bồ đề và trí kim cang của Phật nên đoạn, tất cả đều y nơi vô minh trụ địa mà sanh trưởng. Nếu vô minh trụ địa ấy đoạn thì hằng hà sa số tất cả pháp mà Bồ đề và trí kim cang của Phật nên đoạn cũng đoạn theo.

Giải:

Đây là nêu bày, muốn quả diệt thì phải diệt nhân. Nhân diệt thì quả mới thật sự diệt.

Chánh văn:

Hằng hà sa số các pháp nên đoạn cùng tất cả phiền não và khởi phiền não đều đã đoạn, nên có thể chứng được hằng hà sa số các Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. Với tất cả pháp, chứng được thần thông vô ngại, được các tri kiến lìa tất cả lỗi, được các công đức, làm đại pháp vương. Đối với pháp tự tại thì chứng được cảnh giới của pháp tự tại. Chính là tiếng rống của sư tử: Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, chẳng còn thọ hậu hữu. Cho nên, bạch Thế Tôn! Vì là tiếng rống sư tử nên chỉ y nơi liễu nghĩa một bề ký thuyết.

Vô minh trụ địa diệt thì 4 trụ địa và phiền não đều diệt, pháp thân hiển lộ hoàn toàn, nêu bày tướng và dụng không thể nghĩ bàn. Tri kiến của Phật là tri kiến như thật, thấy đúng bản chất của vạn pháp, vì thế nói “Được tri kiến lìa tất cả lỗi”. PHÁP TỰ TẠI là chỉ cho pháp thân. Phải chứng nhập được hoàn toàn cội nguồn chân thật đó thì mới có thể rống lên tiếng rống của sư tử là sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau.

Gọi là TIẾNG RỐNG SƯ TỬ vì Phật từ trong trú xứ tam muội vương của chư Phật ra, miệng được vô ngại giải thoát, nương nơi 10 lực quảng đại, độ chúng sanh không sai thời, bày oai đức với các nghị luận sư của ngoại đạo tà giáo, giác tỉnh chúng hữu tình mê muội, mở đường cho kẻ tà kiến … Những thứ ấy giống như những đức tính mà một sư tử chúa đối với bầy thú quanh mình, nên mượn hình ảnh sử tử để ví dụ. (49)

Chánh văn:

Thế Tôn! Chẳng thọ hậu hữu có 2 thứ. Thế nào là 2?

Hỏi là để giải thích về 2 thứ “Chẳng thọ hậu hữu”.

1. Chư Như Lai dùng lực điều ngự hàng phục 4 ma ra khỏi các thế gian, được sự chiêm ngưỡng của mọi hữu tình, chứng pháp thân thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Với cảnh sở tri, được pháp tự tại tối thắng vô thượng hoàn toàn không có sở tác, không thấy có cảnh giới sở chứng, đầy đủ 10 lực, vào được cảnh giới tối thắng không có sợ hãi. Với tất cả pháp quán sát không ngăn ngại, chính là tiếng rống của sư tử, chẳng còn thọ hậu hữu.

Giải:

Cái KHÔNG THỌ HẬU HỮU thứ nhất là của chư Phật. Chư Phật dùng lực điều ngự của mình để hàng phục 4 ma. ĐIỀU NGỰ là điều phục và chế ngự. 4 ma là chỉ cho những thứ cướp đi thân mạng cũng như tuệ mạng của người tu. Đó là phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma và thiên ma. Hàng phục được 4 loại ma này thì ra khỏi các thế gian. THẾ là chỉ cho sự dời đổi (như thời gian). GIAN là chỉ cho phương hướng (như không gian). Những gì có tính cách như thế đều gọi là thế gian. Theo nghĩa ấy thì thế gian không phải chỉ dùng cho cõi mình đang ở đây mà còn chỉ cho cõi Sắc, Vô sắc, thậm chí Niết bàn của hàng Nhị thừa cũng chưa thoát khỏi 2 chữ thế gian này, nên nói là CÁC.

Cảnh giới sở chứng của Phật không giống như của hàng Nhị thừa. Cái khác nhau ấy nằm ở chỗ: Niết bàn của A La Hán và Bích Chi Phật vẫn còn là đối tượng của một cái năng chứng. Nói rõ hơn, dù là trạng thái thanh lương bặt mọi suy lường chăng nữa, trạng thái ấy vẫn là đối tượng của một cái năng biết. Vẫn là cảnh giới thuộc thức ấm. Thức ấm chưa không thì chưa phải là cảnh giới của chư Như Lai. Phần này đặt nặng cho người có công phu.

Những gì là đối tượng của cái biết đều gọi là CẢNH SỞ TRI. Từ những hình tượng thô mình thấy đây cho đến cảnh giới chứng nhập rỗng không của tự tâm, đều gọi là cảnh sở tri. Nếu đúng là cảnh giới chứng nhập của Phật thì cảnh giới ấy không phải là đối tượng của cái biết. Bởi biết hay bị biết đều hòa tan vào biển pháp thân. “Không sở tác, không thấy có cảnh giới sở chứng” là diễn tả cảnh giới đồng chư Phật nói đó.

THẬP LỰC là 10 lực của Phật. Đó là 10 loại trí lực biết như thật các pháp từ nghiệp báo và sự thọ báo của chúng sanh cho đến những sai khác vi tế của mọi cảnh giới thiền định. (50)

CẢNH GIỚI TỐI THẮNG là chỉ cho pháp thân Phật. KHÔNG CÓ SỢ HÃI là để nói về sự khác biệt giữa Phật và A La Hán. Một khi pháp thân được hiển lộ hoàn toàn thì có được 4 cái không sợ này. Bởi lúc đó đã sạch tất cả lậu hoặc, thành tựu được tất cả mọi loại trí thông suốt cả thế gian và xuất thế gian.

Chánh văn:

2. A La Hán và Bích Chi Phật đã qua được vô lượng sanh tử sợ hãi, hưởng được cái lạc của sự giải thoát, rồi khởi nghĩ ‘Ta nay đã lìa được sanh tử sợ hãi, chẳng còn chịu sự khổ não’. Bạch Thế Tôn! A La Hán và Bích Chi Phật quán sát như vậy và cho là không còn thọ hậu hữu. Song chẳng chứng được đệ nhất tô tức xứ.

Giải:

Loại KHÔNG THỌ HẬU HỮU thứ hai là chỉ cho chỗ chứng của các vị Nhị thừa. Các vị không còn bị sanh tử phần đoạn chi phối nên nói qua được vô lượng sanh tử. Từ vô thủy đến nay trải qua không biết bao lần sanh tử nên nói VÔ LƯỢNG SANH TỬ. Sanh và tử là hai đầu mút của một cuộc đời. Ai cũng sợ sự khổ não và đau đớn của đói nghèo, bịnh hoạn, tai nạn và những bất trắc trong cuộc đời này mà cái đáng sợ nhất là chết, nên nói SANH TỬ SỢ HÃI. Không còn bị trói buộc trong những thứ đó gọi là GIẢI THOÁT. Giải thoát được sanh tử thì hết các sợ hãi, nên nói HƯỞNG ĐƯỢC CÁI LẠC của sự giải thoát. Tuy nhiên, thoát được những thứ đó cũng chưa phải là chỗ dừng dứt cuối cùng, nên nói “Chẳng được đệ nhất tô tức xứ”. ĐỆ NHẤT TÔ TỨC XỨ là chỉ cho Niết bàn Phật.

QUÁN SÁT như vậy, chỉ cho thứ chư vị vừa khởi nghĩ “Ta nay đã lìa được sanh tử sợ hãi, chẳng còn chịu sự khổ não”.

Chánh văn:

Với cảnh giới chưa chứng, các vị ấy chưa gặp được pháp nên tự hiểu rõ ‘Ta nay mới chứng được cảnh giới hữu dư y, nhất định phải chứng cho được A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề’.

Giải:

Đây là nói về sự hiểu biết của các vị thắng căn A La Hán. Biết mình được chỗ nào, chưa được chỗ nào.

Vì sao? Là để giải thích.

Chánh văn:

Vì Thanh văn và Độc giác đều nhập Đại thừa, mà Đại thừa chính là Phật thừa. Cho nên Tam thừa chính là Nhất thừa. Chứng Nhất thừa thì được A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề. A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề chính là Niết bàn. Nói Niết bàn tức là pháp thân Như Lai thanh tịnh. Chứng pháp thân chính là chứng Nhất thừa, không khác Như Lai, không khác pháp thân. Nói Như Lai chính là pháp thân. Chứng cứu cánh pháp thân là chứng cứu cánh Nhất thừa. Chứng cứu cánh Nhất thừa thì lìa tương tục.

Giải:

Đây là nói về Nhất thừa. Nhất thừa thì “Tức tâm tức Phật”. Ngay tâm này là Phật, không có Phật ngoài tâm. Nói Tam thừa thật ra là để qui về Nhất thừa, nên nói TAM THỪA CHÍNH LÀ NHẤT THỪA. Nói Niết bàn, nói Như Lai, nói Phật, nói pháp thân v.v… đều chỉ cho cội nguồn nhất tâm chân thật của chính mình, nên nêu ra một loạt CHÍNH và TỨC trên. Nói KHÔNG KHÁC là vì tên khác mà nghĩa đồng.

TƯƠNG TỤC là chỉ cho sự lưu chuyển biến dịch tương tục của dòng tâm thức, được biểu hiện thành 2 thứ sanh tử. Chứng được pháp thân thì sự tương tục của tâm hết, 2 thứ sanh tử cũng hết.

Chánh văn:

Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai tồn tại không có hạn lượng, đẳng đồng hậu tế. Như Lai dùng vô hạn đại bi, vô hạn thệ nguyện để làm lợi ích thế gian. Nói vậy gọi là khéo nói. Hoặc nói Như Lai là thường trụ, là pháp vô tận, là chỗ y chỉ rốt ráo của tất cả thế gian, cũng gọi là khéo nói. Cho nên, hay đối với thế gian không chỗ che chở, không chỗ nương tựa đẳng đồng hậu tế, mà làm chỗ qui y vô tận, qui y thường trụ, qui y rốt ráo, gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Giải:

Sự lưu chuyển tương tục của dòng tâm thức chính là thứ tạo ra những phần đoạn bị ràng buộc trong không gian và thời gian. Hết tương tục thì pháp thân không có bờ mé hiển bày, bao trùm tất cả, nên nói “Thời gian tồn tại của Như Lai không có hạn lượng, đẳng đồng hậu tế”. Hậu tế là bờ mé sau cùng. Bờ mé sau cùng đó không có sau cùng, nên nói KHÔNG CÓ HẠN LƯỢNG. Vì Như Lai tồn tại không hạn lượng nên đại bi của Như Lai cũng không có hạn lượng, thệ nguyện cứu độ chúng sanh của Như Lai cũng không có hạn lượng.

Bởi Như Lai là tánh của tất cả pháp nên nói “Là chỗ y chỉ rốt ráo của tất cả thế gian”.

Chánh văn:

Pháp là đạo Nhất thừa. Tăng là chúng Tam thừa. 2 thứ qui y này chẳng phải là qui y rốt ráo, gọi là qui y ít phần.

Giải:

Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch là “Pháp tức là nói đạo Nhất thừa”. Vậy PHÁP nói đây không phải chỉ cho pháp tánh chân như mà chỉ cho đạo Nhất thừa đã được phương tiện thành ngôn từ để giảng dạy cho chúng sanh. Qui y Pháp và qui y Tăng như vậy là còn nương vào những thứ sanh diệt, còn hướng ngoại chứ chưa hướng nội, nên không phải là chỗ chân thật rốt ráo. Vì thế, gắng cho chúng cái tên là QUI Y ÍT PHẦN. Tức mới qui y chút chút, chưa phải là sự qui y toàn diện, tối cùng.

Vì sao? Là để giải thích vì sao gọi 2 thứ qui y đó là qui y ít phần.

Chánh văn:

Nói đạo Nhất thừa là chứng pháp thân tối cùng. Sau đó hoàn toàn không nói đạo Nhất thừa. Chúng Tam thừa vì sự sợ hãi mà qui y Như Lai cầu mong xuất ly, tu học. Vì có chỗ tạo tác, vì hướng về A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề, nên 2 thứ qui y đó chẳng phải là qui y tối cùng mà là qui y hữu hạn.

Giải:

Nói đạo Nhất thừa là muốn chúng sanh trực nhập lại phần pháp thân rốt ráo của chính mình, là qui y Phật, chứ phần giảng thuyết đó không phải là Nhất thừa. Nhất thừa không phải là chỗ mà ngôn từ suy nghĩ có thể đến. Chứng được pháp thân tối cùng thì hiểu cái nói kia chỉ là phương tiện, nên nói “Sau đó hoàn toàn không nói đạo Nhất thừa”.

Qui y Pháp hay qui y Tăng chỉ là phương tiện để đạt được Phật tâm. Phật tâm mới là đạo Nhất thừa. Đang trên đường hướng về nên nó không phải là chỗ qui y tối cùng. Đây là biện để rõ phương tiện không phải là cứu cánh.

Chánh văn:

Nếu chúng hữu tình nào được Như Lai điều phục mà qui y Như Lai thì được pháp thấm nhuần. Vì tâm tin thích mà qui y Pháp và qui y Tỷ kheo Tăng. 2 thứ qui y này là do pháp thấm nhuần tín nhập mà qui y. Như Lai thì không phải là pháp thấm nhuần và tín nhập mà qui y.

Giải:

Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La ghi “Nếu chúng sanh nào được Như Lai điều phục, qui y Như Lai được pháp thấm nhuần, sanh tâm tin thích qui y Pháp và qui y Tăng thì 2 pháp qui y này không phải là 2 pháp qui y đó mà là qui y Như Lai. Qui y đệ nhất nghĩa là qui y Như Lai”.

So sánh 2 bản dịch thì thấy nghĩa của 2 bản dịch trái ngược nhau: Đều là qui y Pháp và Tăng nhưng có thứ qui y không phải là qui y Như Lai mà có thứ lại qui y Như Lai. Có cái khác nhau ấy là do cách nhận định pháp của mình mà ra, không phải do pháp có sự khác biệt. Hiểu được chỗ này sẽ thấy ý nghĩa của hai bản dịch không khác nhau.

Như Lai là pháp tánh sẵn đủ trong mỗi chúng sanh, là tự tánh chân như của mỗi người. Chính nhờ tự tánh này mà chúng sanh mới có lúc chán sanh tử khổ cầu cái vui Niết bàn, nên nói “Chúng hữu tình nào được Như Lai điều phục”. Do cái hồi đầu đó mà tâm sinh tin thích đối với Pháp bảo và Tăng bảo, rồi hướng về nương tựa 2 thứ đó nên nói “Qui y Pháp và qui y Tăng”.

Nếu nương tựa Pháp và Tăng mà hiểu Pháp và Tăng đó chỉ là phương tiện để mình thể nhập Như Lai của chính mình, ngoài tâm không có pháp, thì 3 thứ qui y đều là qui y chân thật. Đây là ý nghĩa bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La. Nếu thấy ngoài tâm thật có Phật, Pháp, Tăng để nương tựa thì cả 3 thứ qui y ấy chưa có thứ nào gọi là đúng nghĩa của qui y Như Lai. Đó là ý nghĩa của bản dịch đây. Nên phần sau nói:

Chánh văn:

Nói Như Lai, là chân thật qui y. 2 thứ qui y kia với nghĩa chân thật, gọi là qui y rốt ráo Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai chẳng khác 2 thứ qui y đó. Cho nên, Như Lai tức là 3 thứ qui y.

Giải:

Như Lai không phải là pháp sanh diệt giả hợp mà là tự tánh chân thật của chính mình, là thể tánh thường trụ của vạn pháp, nên qui y Như Lai là qui y chân thật, là chỗ nương tựa tối cùng. Một khi nhận ra được thể tánh chân thật đó thì tất cả pháp đều là Phật pháp, nên nói “2 thứ qui y đó, bằng nghĩa chân thật, gọi là qui y tối cùng Như Lai”. Đi đông đi tây gì rồi cũng qui về cội nguồn nhất tâm. Đó là sự qui y tối cùng.

VÌ SAO? là để giải thích.

Vì Như Lai là thể tánh của 2 thứ qui y đó, nên nói “Như Lai không khác 2 thứ qui y đó”. Nói KHÔNG KHÁC nghĩa là 2 thứ qui y đó không thể xuất hiện nếu không có tánh Như Lai. 2 thứ đó không lìa Như Lai mà có. Nhưng chúng không phải là Như Lai. Như nói bàn gỗ không khác gỗ, vì gỗ là bản chất của bàn nhưng gỗ không phải là bàn. Nếu bàn là gỗ thì gỗ không thể mang ra làm ghế hay làm giường. Đó là ý nghĩa của từ KHÔNG KHÁC. Không khác nhưng không nói là MỘT. Vì quả tình chúng không phải là một. Đây là nêu bày thực tánh hay thực tướng của 3 thứ qui y: Không khác cũng không một. Tức TƯỚNG tức THỂ, là một dạng của BÁT BẤT trong Trung Luận.

Chánh văn:

Vì sao? Vì nói đạo Nhất thừa là nói Như Lai tối thắng đầy đủ 4 vô úy. Chính là sử tử hống. Chư Như Lai theo tánh dục của người đời mà lập bày phương tiện. Nói đến Nhị thừa tức là nói Đại thừa. Vì Đệ nhất nghĩa không có 2 thừa. Nhị thừa đồng nhập Nhất thừa. Nhất thừa là thắng nghĩa thừa.

Giải:

ĐẦY ĐỦ 4 VÔ ÚY là chỉ cho quả vị Phật. Khi viên mãn quả Phật thì được đầy đủ 4 thứ vô úy này. Nói Tam thừa là tùy theo căn dục của chúng sanh mà lập. Như người chỉ thích cúng dường gieo duyên để hưởng phước báu thế gian mà mình giảng nói về việc cạo đầu vào chùa thì dù việc vào chùa ấy có mang lại công đức bao nhiêu, họ cũng cuốn gói tránh xa mình. Đó là do cái trí của họ chưa thấy được cái lợi của việc xuất gia mà chỉ thấy được sự hỉ lạc của việc cúng dường và hưởng thụ phước báu của sự cúng dường đó. Vì căn và dục của họ chỉ tới ngang đó thì chỉ lập bày ngang đó. Lập cao nữa chúng chạy mất.

Cũng có người hưởng lạc thế gian rồi mới nghiệm ra rằng: Cái lạc của thế gian tiềm ẩn nhiều cái khổ, trong cái họa có cái phước, trong cái phước có cái họa, chẳng biết đâu mà lường. Với sự chứng nghiệm đó, họ lơ là với những thứ hiện tại và muốn tìm một chỗ nương tựa mới. Lúc đó lập bày việc tu hành mới có hiệu quả. Ứng vào tâm dục của chúng sanh như vậy thì việc lập pháp mới thành công …

Phật lập Tam thừa chính vì vậy, là để mở bày trí tuệ cho chúng sanh từ từ. Trí tuệ phát triển rồi mới dễ thâm nhập pháp tối thượng. Cho nên, lập gì đó lập, nói gì đó nói, cũng cốt nói đến mục tiêu cuối cùng là Đại thừa và Nhất thừa. Một khi anh đã bước được vào Tiểu thừa, thì dù cứng đầu bao nhiêu cũng có ngày anh bước sang Trung thừa, rồi bước vào Đại thừa, tối cùng là Nhất thừa. Vì sao? Vì cái LÝ nó như vậy. Vì Nhất thừa là nền tảng của mọi thừa, là tánh thể của tất cả thừa. Một bậc Tôn túc đã nói “Kiến trong miệng chén có bò đi đâu”. Nếu anh đúng là bậc lão gia của Nhị thừa thì anh phải có trí tuệ để nhận ra được tính logic của Tam thừa, phải thấy được cái LÝ siêu xuất bao trùm của Đại thừa. Không nhận ra được thì cái trí của anh chưa phải là trí tuệ của bậc lão gia. Đây là lý do vì sao trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ cần vẽ hình tượng Phật là sẽ thành Phật, các bậc lão gia thuộc phái Tiểu thừa xưa như Mã Minh, Vô Trước v.v… đều qui hướng Đại thừa và trở thành chư Tổ của Đại thừa.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Thanh văn và Độc giác lúc đầu chứng thánh đế, chẳng phải là dùng nhất trí mà đoạn các trụ địa, cũng chẳng phải là dùng nhất trí mà chứng 4 biến tri cùng các công đức v.v... cũng chẳng phải nhờ pháp mà khéo liễu tri nghĩa của 4 pháp này.

Giải:

NHẤT TRÍ là chỉ cho TRÍ TÁNH KHÔNG nói sau. Nó là dụng của tự tánh chân như (tức dụng của tánh không). Phải có trí này thì mới đoạn được từng phần vô minh trụ địa. Nó là chủng vô lậu sẵn đủ trong mỗi chúng sanh. Hàng Nhị thừa chưa có trí này nên nói “Chẳng phải là dùng nhất trí mà đoạn các trụ địa …”

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Đối với trí xuất thế thì không có 4 trí dần đến hay dần duyên.

Giải:

TRÍ XUẤT THẾ là chỉ cho NHẤT TRÍ vừa nói trên hay TRÍ TÁNH KHÔNG sắp nói sau. Loại trí này không phải do tu hành mà được, cũng không phải không do tu hành mà được. Vì sao? Vì trí ấy vốn sẵn đủ trong mỗi chúng sanh. Chỉ vì bị vô minh che lấp mà trí ấy không hiển lộ được. Tu hành chính là vẹt đi đám vô minh mờ mịt để trí ấy hiển bày, không phải tu hành là tác nhân tạo ra trí ấy. Trí do tu hành mà có, đây gọi là TRÍ DẦN ĐẾN hay DẦN DUYÊN.

Nhà Thiền phân trí thành 2 loại là trí vô sư và trí hữu sư. TRÍ TÁNH KHÔNG nói đây chính là trí vô sư. TRÍ DẦN ĐẾN hay DẦN DUYÊN không hẳn là trí hữu sư, nhưng nó không phải là loại trí vô sư mà nhà Thiền nói. Vì TRÍ TÁNH KHÔNG không dần đến hay dần duyên nên gọi là NHẤT TRÍ.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Trí xuất thế gian là pháp không có dần đến, như kim cang dụ định. Bạch Thế Tôn! Thanh văn và Độc giác dùng các loại trí thánh đế mà đoạn các trụ địa, không có trí xuất thế đệ nhất nghĩa. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Biến Tri (chẳng phải là cảnh giới của Thanh văn và Độc giác) dùng trí tánh không chẳng thể nghĩ bàn phá tất cả mọi phiền não.

Giải:

Xác định để rõ về 2 loại trí của hàng Nhị thừa và Bồ tát chứng tánh không. Đây là lý do vì sao kinh luận gọi hàng Bồ tát Thập địa là chân thật tu hành. Nhà Thiền nói “Đốn ngộ đồng chư Phật”. Một niệm đồng chư Phật đó là chỉ cho TÁNH KHÔNG. Nương cái dụng của nó là trí tánh không phá dần TRÍ PHÂN BIỆT. Đến địa vị Bát Địa, thấy được chỗ sanh của vọng tưởng, việc tu hành không còn sự tạo tác đối trị, chỉ nhậm vận theo dòng pháp chấp mà phá vào phần căn bản vô minh, chính là vô minh trụ địa. Trong 3 a tăng kỳ kiếp tu hành, giai đoạn này mất một a tăng kỳ kiếp.

KIM CANG DỤ ĐỊNH là chỉ cho tâm của hàng Bồ tát kế vị Phật. Dùng trí này phá đi phần tập khí cuối cùng mà nhập Phật quả. Trí đó chính là nhất trí của Như Lai như phần sau nói.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Trí phá được phiền não rốt ráo gọi là trí xuất thế đệ nhất nghĩa. Trí thánh đế đầu chẳng phải là trí tối cùng, vẫn còn thú hướng A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Thánh nghĩa chân thật chẳng phải là Nhị thừa. Vì sao? Vì Thanh văn và Độc giác chỉ có thể thành tựu thiểu phần công đức, có tên là THÁNH.

Giải:

TRÍ THÁNH ĐẾ ĐẦU là chỉ cho trí của chư vị La Hán và Bích Chi Phật. Chưa phá được hết tất cả phiền não nên không phải là trí tối cùng như trí của Như Lai. Song vẫn gọi là thánh, vì chư vị không còn là phàm ngu nữa.

Chánh văn:

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Nói thánh đế, chẳng phải là thánh đế và công đức của Thanh văn và Độc giác. Thánh đế này chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới liễu tri. Rồi sau, vì vô minh tạng của chúng sanh ở thế gian mà khai thị diễn thuyết nên gọi là thánh đế. Bạch Thế Tôn! Đế này thậm thâm vi diệu khó thấy khó biết, chẳng thể phân biệt, chẳng phải là cảnh giới có thể suy lường, là chỗ mà hết thảy thế gian chẳng thể tin. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác mới biết rõ. Vì sao? Vì nói về Như Lai Tạng thậm thâm.

Giải:

Tứ đế của Thanh văn gọi là 4 thánh đế. Đệ nhất nghĩa đế mà Phật có được cũng gọi là thánh đế. Nhưng thánh đế của Phật không phải là thánh đế của Thanh văn. Thánh đế của Phật không phải là chỗ ngôn từ đến được, là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ vì kho vô minh của chúng sanh mà phương tiện khai thị giảng nói nên gọi là thánh, chứ nó không phải là loại thánh đế của Thanh văn. Sau là nói về Như Lai Tạng, chính là cảnh giới thậm thâm khó nghĩ bàn của Như Lai, là Đệ nhất nghĩa đế nói đây.


5/ Phu nhân trình bày về Như Lai Tạng, là cảnh giới thậm thâm của chư Phật. Hiển bày 2 loại thánh đế là Hữu tác thánh đế và Vô tác thánh đế, 2 loại trí là TỊNH TRÍ của Thanh văn và TRÍ TÁNH KHÔNG của chư Phật. Nêu bày thực tướng của sanh tử.

Chánh văn:

NHƯ LAI TẠNG là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là chỗ hành của Thanh văn và Độc giác. Đối với Như Lai Tạng mà nói về nghĩa của thánh đế.

Giải:

Như Lai Tạng chính là pháp thân của chư Phật nên nói “Như Lai Tạng là cảnh giới của chư Phật”. Chữ TẠNG này có 2 nghĩa. Một là nghĩa tích chứa. Hai là nghĩa ẩn tàng. Nghĩa TẠNG mà kinh này muốn nói là nghĩa ẨN TÀNG. Như Lai luôn sẵn đủ trong mỗi chúng sanh, nhưng vì bị vô minh che phủ nên nó chưa hiển lộ được mà gọi là Như Lai Tạng. Thánh đế được nói trong kinh này y chỉ nơi Như Lai Tạng mà nói nên tuy cũng là thánh đế nhưng không phải là loại thánh đế Phật đã nói cho hàng Nhị thừa.

Chánh văn:

Như Lai Tạng này thậm thâm vi diệu. Thánh đế được nói cũng thậm thâm vi diệu, khó thấy, khó biết, chẳng thể phân biệt, chẳng phải cảnh giới có thể suy lường, là chỗ mà hết thảy thế gian chẳng thể tin. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới hay biết.

Giải:

Vì là cảnh giới của chư Phật nên khi chưa phải là Phật thì chưa thể thấu suốt được nó. Có thấu suốt thì chỉ nhờ niềm tin hoặc thấy được ít phần.

Chánh văn:

Nếu đối với Như Lai Tạng đang bị ràng bọc trong vô lượng phiền não mà chẳng nghi hoặc, thì với Như Lai Tạng đã xuất khỏi mọi phiền não - là pháp thân Như Lai - cũng không có nghi hoặc.

Giải:

Song, dù chưa thấu suốt được Như Lai Tạng mà vẫn có niềm tin đối với Như Lai Tạng thì sẽ có niềm tin đối với pháp thân. Như Lai Tạng khác pháp thân chỗ nào? Như Lai Tạng là pháp thân còn đang bị phiền não che đậy. Vô minh phiền não hết thì thể, tướng và dụng của Như Lai hiển bày, gọi là pháp thân.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Như Lai Tạng và pháp thân Phật - là cảnh giới bí mật chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật - mà được tâm tối cùng, thì đối với nghĩa của 2 THÁNH ĐẾ được nói đây có thể tin, có thể hiểu, có thể sanh thắng giải. Thế nào là nghĩa của 2 thánh đế. Đó là Hữu tác thánh đế và Vô tác thánh đế.

Giải:

NHƯ LAI TẠNG một khi không còn TẠNG (ẩn tàng) nữa, gọi là pháp thân. Vì có chỗ khác đó nên tuy cùng một thứ mà có 2 tên là Như Lai Tạng và pháp thân. Với cảnh giới bí mật chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mà ĐƯỢC TÂM TỐI CÙNG là chỉ cho chỗ chứng của hàng Thập địa mà địa đầu là Sơ Địa. Chứng được tánh thể này thì đối với 2 thánh đế nói đây có thể tin nhận và hiểu rõ. THẮNG GIẢI là chỉ cho sự hiểu biết thâm sâu. Tùy địa vị sâu cạn trong hàng Thập địa mà hoặc là tin, hoặc là hiểu, hoặc có sự hiểu biết thâm sâu về Như Lai Tạng. TIN là chưa thấy mà biết là có. HIỂU là hiểu được những gì Như Lai nói về Như Lai Tạng. SANH THẮNG GIẢI vì đã trực nghiệm được Như Lai Tạng ít nhiều.

Sau là nói về nghĩa của 2 thánh đế.

Chánh văn:

TÁC THÁNH ĐẾ là nghĩa của 4 thánh đế chưa viên mãn. Vì sao? Vì THA HỘ TRÌ nên chẳng thể biết được tất cả khổ, đoạn tất cả tập, chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo. Cho nên chẳng biết hữu vi, vô vi cho đến Niết bàn.

Giải:

TÁC THÁNH ĐẾ là loại thánh đế có liên quan đến sự tạo tác, là chỉ cho 4 thánh đế của Thanh văn. Sự tác ý này chỉ có tác dụng với những phiền não thô chứ không có tác dụng đối với những phiền não vi tế.

THA HỘ TRÌ là sự hộ trì bên ngoài. THA HỘ TRÌ vì còn thấy ngoài tâm có pháp, chưa thấu được Lý Duy Tâm. Còn thấy có Phật 32 tướng, 80 vẽ đẹp để nương tựa, có Niết bàn khác sanh tử để bước vào. Thấy như vậy là chưa thấy được cội nguồn của KHỔ và TẬP. Vì chưa thấy được cội nguồn nhất tâm nên phần DIỆT chứng được chưa phải là chỗ rốt ráo. Đó là do phần tu ĐẠO chưa rốt ráo.

“Chẳng biết hữu vi, vô vi cho đến Niết bàn” là chẳng biết cội nguồn thật của những thứ đó. Chẳng biết tất cả đều lấy tâm chân thật làm tánh.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! VÔ TÁC THÁNH ĐẾ là nói về nghĩa thánh đế viên mãn. Vì sao? Vì có thể TỰ HỘ TRÌ nên biết tất cả khổ, đoạn tất cả tập, chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo.

Giải:

VÔ TÁC THÁNH ĐẾ là loại thánh đế không do tạo tác. Vì sao? Vì không có sự tác ý đoạn trừ các TẬP như của Nhị thừa. Phần này sẽ được phu nhân Thắng Man giải thích rõ ở các phần sau.

TỰ HỘ TRÌ vì biết không có gì ngoài tâm dù đó là Phật. Là biết “Tâm sanh thì tất cả pháp sanh. tâm diệt thì tất cả pháp diệt”. (51) Vì thế, chỉ quay về nương lấy tự tâm của chính mình, gọi là tự hộ trì.

BIẾT TẤT CẢ KHỔ là biết được ngoài cái khổ phần đoạn sanh tử còn có cái khổ biến dịch. ĐOẠN TẤT CẢ TẬP là đoạn phần tập ngọn mà đoạn cả phần tập gốc. Tuy nói là đoạn nhưng thật không phải đoạn. Phần kinh sau sẽ đề cập đến. Ngọn là nghiệp tập của chúng sanh, tức 4 trụ địa và khởi phiền não. Gốc là phần tập khí từ thời vô thủy, tức vô minh trụ địa. CHỨNG TẤT CẢ DIỆT là chứng được pháp thân thường trụ. TU TẤT CẢ ĐẠO là chỉ cho pháp Đại thừa.

THÁNH ĐẾ VIÊN MÃN là chỉ cho loại thánh đế đưa đến quả vị Phật, không phải loại thánh đế đưa đến quả vị La Hán của hàng Nhị thừa.

Chánh văn:

Như vậy, có đến 8 thánh đế nhưng Như Lai chỉ nói 4 thánh đế. Với nghĩa Vô tác thánh đế này chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới làm được việc rốt ráo, chẳng phải là chỗ mà lực của A La Hán và Bích Chi Phật có thể đến. Vì sao? Vì chẳng phải các pháp như thắng, liệt, thượng, trung, hạ mà có thể chứng được Niết bàn.

Giải:

Đây là lời tổng kết. Có đến 8 thánh đế chứ không phải là 4 như Phật đã nói với chư vị Nhị thừa. Đó là do biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo có thô và tế. Thô là 4 Tác thánh đế. Tế là 4 Vô tác thánh đế. Bởi Vô tác thánh đế chỉ có Như Lai mới hoàn thành được trọn vẹn nên Như Lai không nói với chư vị Nhị thừa.

Pháp vốn không có thắng, liệt, trung, hạ … Thắng, liệt, trung, hạ là do trí phân biệt của mình mà ra. Vì sao phân biệt? Vì thấy vạn pháp là thật. Vì thấy thật có khổ, tập, diệt đạo nên mới đoạn tập mà chứng diệt. Một khi biết được khổ, tập, diệt, đạo chỉ là cái bóng rỗng thì không có gì để phải đoạn trừ nữa. Đoạn trừ đó gọi là TÁC, không đoạn trừ gọi là VÔ TÁC.

Như việc hàng phục vọng tưởng của mình. Khi mới thực tập, dù không muốn, cái BIẾT của mình vẫn có tác dụng đè đi các vọng niệm chứ không phải chỉ có biết rồi thôi. Vì sao? Vì sự tương tục của dòng vọng niệm quá mạnh. Dù biết chúng là vọng, nhưng hở một cái là nó đầy dẫy, cái chủ của mình không còn. Một khi nó vẫn sai sử cuốn hút mình như vậy thì nó chưa phải là vọng đối với mình. Không trừ bỏ đè nén là không được. Vì thế sự dụng công lúc này là cần thiết. Đây là giai đoạn TÁC.

Một khi sự tương tục của dòng vọng niệm không còn, mình không còn bị lực tương tục ấy cuốn hút, vọng có hay không không can hệ gì đến mình thì không cần trừ bỏ nữa. Vì sao? Vì lúc đó vọng đã hiện đúng bản chất của nó. Do đã liễu tri được bản chất của dòng vọng tưởng mà không cần dụng công trừ khử. (52) Đó gọi là VÔ TÁC. Tạm lấy tạm ví dụ này để hiểu sơ về nghĩa tác và vô tác.

Nhị thừa còn thấy có sanh tử khác Niết bàn, tức chưa thoát được trí phân biệt, chưa liễu tri được tính bình đẳng và như huyễn của vạn pháp, nên nói “Chẳng phải các pháp thắng, liệt, thượng, trung, hạ mà có thể chứng được Niết bàn”. Hàng Bồ tát Bát Địa trở lên, do đã chứng nhập được tánh bình đẳng chân như, mới nhận ra được hoàn toàn tánh như huyễn của vạn pháp. Sở hành của chư vị mới thật là Vô tác thánh đế. Song phải đến địa vị Phật mới hoàn tất tận cùng nên nói “Vô tác thánh đế này chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới LÀM ĐƯỢC VIỆC RỐT RÁO”.

Chánh văn:

Vì sao với Vô tác thánh đế Như Lai đạt được chỗ tối cùng?

Giải:

Hỏi để giải thích vì sao chỉ có Vô tác thánh đế mới có thể đạt được cội nguồn tận cùng. Qua đó hiển bày Vô tác thánh đế là gì.

Chánh văn:

Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết hết các KHỔ, đoạn các phiền não và khởi phiền não, nhiếp được TẬP khổ, chứng được DIỆT khổ của tất cả ý sanh thân, tu tất cả ĐẠO diệt khổ.

Giải:

Đây là nêu bày vì sao Tác thánh đế không đạt được Niết bàn pháp thân mà chỉ có Vô tác thánh đế mới đạt được. La Hán đoạn phiền não để có Niết bàn, cái đoạn ấy gọi là TÁC. Chư Như Lai cũng qua giai đoạn đoạn phiền não như vậy, nhưng không dừng ở đó mà tiếp tục phá sâu vào phần vi tế bên trong để thấy được cội nguồn của khổ và tập. Tuy nói là phá nhưng cái phá ấy không mang tính đoạn trừ mà mang tính liễu tri nên nói NHIẾP TẬP KHỔ.

“Chứng được diệt khổ của tất cả ý sanh thân” là chỉ cho việc thể nhập được hoàn toàn pháp thân, là cội nguồn chân thật của tất cả pháp, trong đó có phần ý sanh thân. Sau là nói về phần DIỆT mà chư Như Lai đã chứng.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải pháp hoại đi mà gọi là diệt khổ. Vì sao? Nói DIỆT khổ là vô thủy, vô tác, vô khởi, vô tận, thường trụ, bất động, bản tánh thanh tịnh, ra khỏi vỏ phiền não. Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu hằng hà sa số pháp đầy đủ trí giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, gọi là pháp thân.

Giải:

Phần DIỆT của Vô tác thánh đế khác với phần DIỆT của Tác thánh đế ở chỗ: La Hán diệt phiền não để có Niết bàn. Còn DIỆT của Vô tác thánh đế là nói về pháp thân thường trụ. Không phải diệt cái gì mới có Niết bàn mà là nhận ra được cội nguồn của những thứ đó nên có Niết bàn. Đó là trở về với pháp thân của mình, gọi là được Niết bàn. Vô thủy, vô tác … là bản chất của pháp thân thường trụ. Vì VÔ TÁC nên không thể dùng Tác thánh đế mà thể nhập nó được.

Cho nên, hành giả tu hành lúc đầu dùng pháp đối trị mang tính tạo tác rất nhiều, nhưng càng về sau càng phải đi dần đến chỗ vô tác, mới thể nhập được pháp thân thanh tịnh của mình. Đây là lý do vì sao Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy ngài Trần Nhân Tông “Trì giới và nhẫn nhục, chuốc tội chẳng chuốc phước, Muốn biết không tội phước, đừng trì giới nhẫn nhục. Như khi người leo cây. Trong an tự cầu nguy. Như người không leo cây, trăng gió có làm gì”. Rồi dặn nhỏ một câu “Chớ bảo cho ngươi không ra gì biết”.

NGƯỜI KHÔNG RA GÌ là người mà còn cần đến pháp đối trị nhiều. Như người có tánh sân thì cần phải tập nhẫn nhục. Nói là tánh vì cái sân ấy đã được huân tập thành thói quen. Là thói quen rồi thì mình sẽ mê mờ theo nó mà tạo nghiệp vô vàn, quả khổ không biết bao nhiêu mà kể, càng đi xa cội nguồn pháp tánh chân như. Vì thế, cần phải dùng đến pháp đối trị là nhẫn nhục để dừng đi thói quen sân giận.

Bản tâm vốn thanh tịnh không có sân. Một khi sân không còn là thói quen, tức không còn bị nó sai sử tạo nghiệp, ta sẽ nhận dần ra thực tánh của sân, nhận được tánh của sân thì không cần dùng pháp đối trị nữa. Nếu vẫn dùng pháp đối trị thì không khác gì người đang an ổn dưới mặt đất bỗng leo lên cây tìm sự nguy hiểm. Lúc đó cái nhẫn ấy không khác gì cái sân. Như có bệnh thì uống thuốc, hết bệnh thì thuốc phải bỏ. Hết bệnh mà vẫn uống thuốc thì sẽ sanh bệnh mới.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Như vậy pháp thân chẳng lìa phiền não, gọi là Như Lai Tạng. Bạch Thế Tôn! Như Lai Tạng đó chính là trí tánh không Như Lai, là chỗ mà tất cả Thanh văn và Độc giác chưa từng thấy cũng chưa từng chứng, chỉ có Phật mới có thể liễu tri và tác chứng.

Giải:

Pháp thân còn bị phiền não ràng buộc gọi là Như Lai Tạng. Đây là tình trạng của chúng ta. Nghĩa là không ai không có phần Như Lai Tạng này. Dù đang khóc hù hù hay cười hi hí thì kho tàng vô giá ấy vẫn sờ sờ ra đó. Chỉ vì bận cười và khóc nên không có đầu óc đâu để sử dụng đến nó.

“Như Lai Tạng đó chính là trí tánh không” là nhấn mạnh về mặt THỂ TÁNH của vạn pháp. Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là TỰ TÁNH chân như, là tánh thể của vạn pháp. Nhờ tánh thể này, ta mới chán sanh tử khổ, cầu vui Niết bàn. Địa vị Sơ Địa trực chứng được tánh không này. Chứng tánh không này rồi, lậu hoặc vẫn chưa hết, nên chưa gọi là pháp thân mà gọi là Như Lai Tạng, là Như Lai còn bị phiền não ràng bọc. Trải qua các vị Thập địa cho đến địa vị Bồ tát tối hậu, tập lậu theo đó trừ dần, TƯỚNG và DỤNG của cái THỂ ấy từ từ hiển lộ. Đến địa vị Phật thì viên mãn. Lúc này Như Lai Tạng với thể, tướng và dụng hiển bày đầy đủ gọi là pháp thân.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Trí tánh không Như Lai Tạng này lại có 2 thứ. Thế nào là 2? Một là KHÔNG NHƯ LAI TẠNG, là lìa tất cả phiền não và trí chẳng giải thoát. Bạch Thế Tôn! Hai là BẤT KHÔNG NHƯ LAI TẠNG thì đầy đủ hằng hà sa số pháp chẳng thể nghĩ bàn và trí giải thoát của Phật.

Giải:

NHƯ LAI TẠNG này có 2 thứ.

1. KHÔNG NHƯ LAI TẠNG là chỉ cho TÁNH THỂ chân như. Nó chính là cái KHÔNG của tâm chân như trong luận Đại Thừa Khởi Tín. Đây gọi là trí tánh không.

Vì nói về mặt THỂ TÁNH của Như Lai, nên ở đó ngay tướng KHÔNG cũng không thể thấy, nên nói “Lìa tất cả phiền não và trí chẳng giải thoát”. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La ghi “Không Như Lai Tạng thì vừa ly, vừa thoát, vừa khác tất cả phiền não”.

2. BẤT KHÔNG NHƯ LAI TẠNG là chỉ cho pháp thân với thể, tướng và dụng đã đầy đủ, là phần BẤT KHÔNG trong luận Đại Thừa Khởi Tín. Vì đã đủ luôn cả TƯỚNG và DỤNG, nên nói “Đầy đủ hằng hà sa số pháp chẳng thể nghĩ bàn và trí giải thoát của Phật”. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch “Bất không Như Lai Tạng thì chẳng ly, chẳng thoát, chẳng khác hằng hà sa số Phật pháp”. Thể, dụng và tướng tuy ba mà chẳng phải ba nên nói chẳng ly, chẳng thoát, chẳng khác. Đây là cảnh giới sự sự vô ngại của thế giới Hoa Nghiêm.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! 2 thứ không trí này các vị đại Thanh văn do tin mà vào. Bạch Thế Tôn! Như vậy, tất cả Thanh văn và Độc giác, trí tánh không là từ 4 đảo cảnh phan duyên mà chuyển. Cho nên, tất cả Thanh văn và Độc giác chưa từng thấy, chưa từng chứng. Chỉ có Phật mới là hiện chứng tất cả DIỆT khổ, hoại các phiền não, tu ĐẠO diệt khổ.

Giải:

Phu nhân khẳng định 2 loại KHÔNG Như Lai Tạng và BẤT KHÔNG Như Lai Tạng này không phải là chỗ chứng của hàng Thanh văn, Duyên giác. Đối với chỗ đó, chư vị chỉ có tin mà vào chứ chưa phải là chỗ thực chứng của chư vị. Cội nguồn chân thật nhất tâm thì thường, lạc, ngã, tịnh. Song chư vị chỉ thấy được TƯỚNG vô thường, bất tịnh, vô ngã của vạn pháp mà chưa thấu được TÁNH thường, lạc, ngã tịnh của vạn pháp, nhưng lại lấy 4 cái tướng mình thấy ấy làm tánh thật của vạn pháp, nên nói là 4 đảo cảnh. ĐẢO có nghĩa là ngược lại. Nếu tu tập tiếp, Thanh văn Độc giác sẽ đạt được trí tánh không như Phật. Trí đó là từ cái trí thấy 4 đảo cảnh tu tập tiến về, (53) nên nói “Tất cả Thanh văn và Độc giác, trí tánh không là từ 4 đảo cảnh phan duyên mà chuyển”.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Trong 4 đế này, 3 đế là vô thường, 1 đế là thường. Vì sao? Vì 3 đế thuộc tướng hữu vi. Tướng hữu vi thì vô thường. Nói vô thường đó là pháp phá hoại. Pháp phá hoại thì chẳng phải thật, chẳng phải thường, chẳng phải là chỗ qui y. Cho nên 3 đế theo đệ nhất nghĩa thì chẳng phải thật, chẳng phải thường, chẳng phải là chỗ qui y.

Giải:

Diệt đế là chỉ cho pháp thân Như Lai nên nói là thường. Nói thường là đối với cái vô thường của thế gian mà nói, chứ bản thân nó thì không thường cũng không vô thường.

Thứ gì sanh rồi diệt thì thứ ấy vô thường nên nói 3 thứ khổ, tập, đạo là vô thường. Vô thường thì có ngày nó hoại. Nương vào cái hoại thì khi nó hoại mình sẽ khổ. Vì thế không thể qui y với những thứ vô thường giả dối.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Chỉ một một thứ DIỆT KHỔ THÁNH ĐẾ là lìa tướng hữu vi. Lìa tướng hữu vi thì tánh thường trụ. Tánh thường trụ thì chẳng phải là pháp phá hoại. Chẳng thể phá hoại thì thật, thì thường, là chỗ qui y. Cho nên, diệt khổ thánh đế vì là thắng nghĩa nên là thật, là thường, là chỗ qui y.

Giải:

Chỉ có DIỆT thánh đế là chỗ nên qui y vì pháp thân ấy là cội nguồn chân thật của tất cả pháp.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Diệt khổ đế này chẳng thể nghĩ bàn, vượt quá cảnh giới tâm thức của chúng sanh, cũng chẳng phải là chỗ mà trí Thanh văn và Độc giác có thể đến. Thí như người mù thì chẳng thấy sắc, trẻ sơ sinh thì chẳng thấy mặt trời. Diệt khổ đế cũng lại như thế. Chẳng phải là chỗ mà tâm thức phàm phu có thể duyên đến. Chẳng phải là cảnh giới của trí Thanh văn và Độc giác.

Giải:

Đây là nói về pháp thân Như Lai, là phần DIỆT của Vô tác thánh đế. Muốn chứng được cảnh giới này chúng ta phải ly hết mọi suy nghĩ mang tính nhị biên hiện nay – tức phải bỏ đi trí phân biệt. Cảnh giới này không phải là đối tượng của cái thấy cũng như cái biết hiện nay của mình, nên nói “Vượt quá cảnh giới tâm thức của chúng sanh”. Cảnh giới tâm thức của chúng sanh bao gồm những gì sẽ được nói ngay sau đây.

Chánh văn:

TÂM THỨC của phàm phu là 2 biên kiến.

Giải:

Tâm do bất giác mà thành thức nên gọi là TÂM THỨC. Tâm thức của phàm phu thì luôn luôn bị trí phân biệt chi phối. Phân biệt thì phải có xấu hay đẹp, thường hay đoạn, tốt hay không tốt v.v… Những thứ đó gọi là 2 BIÊN. Còn 2 BIÊN KIẾN là cái thấy 2 bên. Tu chính là bỏ đi cái thấy 2 bên ấy. Tu gì đó tu, giữ giới ra sao đó thì giữ, chỉ khi phá vào phần phân biệt này thì tương lai mới thành Phật được.

Chánh văn:

TRÍ của tất cả Thanh văn và Độc giác gọi là TỊNH TRÍ.

Giải:

Trí của Thanh văn và Độc giác gọi là tịnh trí. Vì sao gọi là tịnh trí? Tâm phàm phu thì hoạt động không ngưng nghỉ, bày cái này, nghĩ cái kia, luôn luôn hướng ngoại náo động nên thân náo động theo. Tâm của La Hán và Độc giác không còn những thứ đó nên nói TỊNH TRÍ. Vậy nói TỊNH là do đối với ĐỘNG mà nói.

Chánh văn:

Nói BIÊN KIẾN là đối với 5 thủ uẩn mà chấp trước cho là ngã, rồi sanh phân biệt. (54) Biên kiến có 2. Thế nào là 2? Đó là thường kiến và đoạn kiến. Bạch Thế Tôn, như cái thấy sanh tử là vô thường, Niết bàn là thường. Nếu có cái thấy chẳng phải đoạn chẳng phải thường, gọi là chánh kiến.

Giải:

Đây là giải thích vì sao gọi là biên kiến. 5 THỦ UẨN là chỉ cho cái thân với đầy đủ cảm thọ suy nghĩ của mình đây. Với thân tâm này mà cho là chính tôi, gọi là CHẤP TRƯỚC CHO LÀ NGÃ. Vì thân tâm này là chính tôi thì ngoài những thứ đó ra, còn lại đều không phải tôi. Cái thấy tôi và không phải tôi đó gọi là PHÂN BIỆT. Đó là cái phân biệt đầu tiên sản sinh ra các loại phân biệt còn lại.

Một loại phân biệt khác là phân biệt thường và đoạn. Đây lấy ví dụ Niết bàn là thường và sanh tử là vô thường. Vì cho Niết bàn là thường nên bỏ sanh tử tìm Niết bàn. Cho sanh tử vô thường nên đoạn sanh tử nhập Niết bàn. Chẳng biết rằng, Niết bàn không khác sanh tử, chẳng thường cũng chẳng vô thường. Thấy như vậy là thấy chính xác về bản chất của vạn pháp nên nói CHÁNH KIẾN.

Vì sao? Là để giải thích vì sao cái thấy thường và vô thường không phải là chánh kiến.

Chánh văn:

Vì những kẻ phân biệt thấy thân cùng các căn cảm thọ đó, suy nghĩ đó, thấy sự hoại diệt của các pháp hiện tại, mà chẳng biết gì về sự tương tục của hữu. Vì không có con mắt tuệ nên mù mờ khởi cái thấy đoạn kiến.

Giải:

Đây nói về phần ĐOẠN KIẾN trước. KẺ PHÂN BIỆT là chỉ cho chúng sanh mình. Nhìn tới đâu là phát huy cái nhìn xấu, đẹp, ta, người, thân, sơ tới đó. Những kẻ phân biệt thì thấy gì? Trong thì chỉ biết đến sự suy nghĩ và cảm thọ của mình, ngoài thì thấy Phuket huy hoàng đã biến mất khỏi thế gian, thấy người này sanh ra và người kia chết đi. Mọi thứ rất hãi hùng. Chết rồi, không còn thấy lại nữa nên cho rằng chết là hết, mà không hiểu rằng chết đây sanh kia, luân chuyển liên tục trong 6 đường: Cha thành cháu nội, mẹ thành chú chó giữ nhà v.v… SỰ TƯƠNG TỤC CỦA HỮU là chỉ cho mấy thứ đầu thai tương tục không có ngày chấm dứt đó. HỮU, chỉ cho một đời. Thấy không đúng sự thật nên nói là MÙ MỜ. Cái mù mờ này do thiếu trí tuệ mà ra, nên nói “Vì không có con mắt tuệ nên mù mờ khởi cái thấy đoạn kiến”.

Chánh văn:

Còn với tâm tương tục hoại diệt trên từng sát na, lại ngu tối chẳng rõ cảnh giới ý thức, nên khởi cái thấy thường kiến.

Giải:

Đây là nói về cái thấy THƯỜNG KIẾN. Thường kiến là thấy vạn pháp còn hoài. Nói cái “còn hoài” đó thì với thế gian mình thấy khó gặp. Vì không ai là không chết, nên có cái thấy vô thường dễ hơn là có cái thấy thường. Song một khi mình cho thân tâm này là thật, là mình đã dính vào thường kiến. Vì sao? Vì không phải thân tâm này chỉ có hai đầu mút là sanh và tử mà nó sanh diệt sanh diệt trên từng sát na. Cái sanh diệt trên từng sát na đó biểu hiện cho cái không thường. Không thường thì không thật. Cái sanh diệt đó là phần sanh diệt của ý thức. (55)

Một loại chấp THƯỜNG nữa là chấp có linh hồn bất tử. Có người thấy thân đúng là pháp sanh diệt nhưng lại cho vọng tâm (nghiệp thức) thì thường trụ và gọi nó là linh hồn bất tử (một dạng thân trung ấm). Gọi là bất tử vì dù thân xác này mất đi thì linh hồn vẫn vĩnh cữu. Thật ra, không có linh hồn vĩnh cữu nào ở đây. Khi chứng nhập được Niết bàn của các vị La Hán hay Bích Chi Phật, mới thấy cái gọi là linh hồn đó không có, chỉ còn lại một trạng thái an lạc trống không, chính là trạng thái vô ngã của Nhị thừa. Song muốn đạt được trạng thái an lạc này của chư vị Nhị thừa thì mình phải tu hành hàng phục vọng tâm như chư vị, không phải chết là có ngay cõi Cực lạc đó được. Đây là chỗ khác nhau giữa trạng thái Niết bàn của chư vị Nhị thừa với linh hồn. Cái gọi là linh hồn chỉ là phần nghiệp thức của chúng sanh, theo nghiệp mà luân chuyển, chết đây sanh kia, còn nghiệp còn sanh, còn sanh là còn tử, không có chuyện bất tử. Hết nghiệp hết sanh, hết sanh thì hết tử, cũng không thể nói là không bất tử. Đó là thực tướng của vạn pháp ở thế giới này.

Trạng thái Niết bàn của A La Hán và Độc Giác đó tuy không còn bị sự sanh diệt của ý thức chi phối, nhưng vẫn bị sự tương tục của phần chuyển thức vi tế chi phối, không thật tĩnh lặng như các vị đã cảm nhận. Nên, nếu cho Niết bàn của chư vị là thường, vẫn không được xem là chánh kiến.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Mọi thứ đó, lỗi là từ phân biệt và cái thấy hạ liệt. Do các ngu phu vọng sanh dị tưởng điên đảo chấp trước mà cho là đoạn, là thường.

Giải:

Đây là kết luận của phu nhân Thắng Man. Mọi thứ đều do cái thấy phân biệt mà ra. Nghiệm lại trong đời sống hiện nay sẽ thấy rõ điều này. Chỉ vì sự phân biệt ta người mà có tranh dành, cướp bóc, tham nhũng, tan thương v.v… Cái thấy phân biệt ấy chỉ đưa đến những kết quả xấu nên nói là HẠ LIỆT. Người mà không đủ trí tuệ nhìn đúng thực chất của sự vật gọi là NGU PHU. Nhìn không đúng thực chất của sự vật nên nói VỌNG SANH DỊ TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO. Từ cái thấy sai lầm đó mới có sự nắm giữ hay tống đi nên nói CHẤP TRƯỚC. Như thấy mọi người chết rồi đều không còn gặp lại, liền cho chết là hết, không có đời sau. Nghĩ vậy rồi, ai nói khác đi mình cũng không nghe không tin thì đó là biểu hiện cho sự chấp trước về đoạn kiến.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Chúng sanh điên đảo, đối với 5 thủ uẩn, vô thường mà tưởng thường, khổ mà tưởng lạc, vô ngã mà tưởng ngã, bất tịnh lại tưởng tịnh. Tịnh trí của Thanh văn và Độc giác, đối với cảnh giới Như Lai và Phật pháp thân chưa từng được thấy.

Giải:

ĐIÊN là không bình thường. ĐẢO là ngược. Thân này sanh diệt trên từng sát na mà cho là thường đó là cái thấy ngược nên nói điên đảo. Tương tự với các thứ còn lại cũng vậy.

Nhị thừa do đã trú được trong tịnh trí nên đã nhận ra được cái sanh diệt của thân cùng cái vô ngã của tâm. Song cả hai vẫn còn trên đường đi vì chưa ai thấy được cội nguồn của những thứ đó: Chính là Phật pháp thân, còn gọi là cảnh giới Như Lai.

Chánh văn:

Nếu có chúng sanh tin Như Lai nên đối với cảnh giới Như Lai, khởi cái tưởng thường, lạc, ngã, tịnh. Đó chẳng phải là cái thấy điên đảo, tức là chánh kiến.

Giải:

Thấy thân tâm sanh diệt đây là thường thì rơi vào điên đảo nhưng tin Phật pháp thân của mình là thường thì gọi là chánh kiến. Đây là đứng trên phương diện ngôn từ mà lập bày, nên thấy có sự đối đãi. Nói THƯỜNG là đối với cái chấp VÔ THƯỜNG của hàng Nhị thừa mà nói, để thấy trí của Nhị thừa chưa phải là trí tối cùng.

Chánh văn:

Vì sao? Vì pháp thân Như Lai là thường Ba la mật, lạc Ba la mật, ngã Ba la mật, tịnh Ba la mật. Nếu hữu tình nào có cái thấy như vậy gọi là thấy chân chánh (chánh kiến). Người có chánh kiến gọi là chân Phật tử, từ miệng Phật sanh, từ chánh pháp sanh, từ pháp hóa sanh, đã có phần trong Phật pháp.

Giải:

Ba la mật là đến bờ kia. Do đến được bờ kia mà đạt được 4 thứ thường, lạc, ngã, tịnh đó nên nói “Pháp thân Như Lai là thường Ba la mật, lạc Ba la mật …”

Đây nói đến niềm tin của mình đối với pháp thân Phật, cũng chính là pháp thân Phật của chính mình. Người mà tin ngoài tâm không có Phật, rồi phát tâm hàng phục vọng tâm là người đã có quá trình tu hành nhiều đời, như phu nhân Thắng Man đây.

Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi những người có niềm tin như vậy là Chánh định tụ. Chánh định tụ là chỉ cho hạng người không còn đi nam về bắc tìm cầu gì nữa. Lui sụt thế nào cũng chỉ duy nhất một đường mà đi, gọi là bất thối. Đường đó là gì? Hàng phục vọng tâm bằng cách phá dần trí phân biệt để thành Phật.

Bất thối có 2 loại. Một loại là nghe rồi tin mà phát tâm tu hành. Một loại là do chứng nhập nhất niệm Phật tâm mà tu hành. Nhân là tin Phật tâm của chính mình, thì quả mới chứng nhập được nhất niệm Phật tâm. Nhân là Nhất niệm Phật tâm thì quả mới là Niết bàn Phật.

Người được như vậy gọi là chân Phật tử. Tu để trở lại gốc Phật của mình chứ không để thành gì khác nên nói là CHÂN. Còn đang giai đoạn hướng về nên không gọi là Phật mà gọi là PHẬT TỬ.

CHÁNH PHÁP có 2 nghĩa thô và tế. Thô là chỉ cho giáo pháp Phật đã nói, tế là chỉ cho pháp tánh chân như. Nhờ nghe giáo pháp Phật nói mới phát tâm tu hành mà thể nhập pháp thân của chính mình, nên nói TỪ MIỆNG PHẬT SANH. Chứng nhập pháp thân rồi, hiện hóa và báo thân làm lợi ích chúng sanh, để đạt quả vị Phật tối cùng, nên nói TỪ PHÁP HÓA SANH. Gộp hai thứ đó lại thì có TỪ CHÁNH PHÁP SANH.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Nói TỊNH TRÍ chính là trí Ba la mật của tất cả Thanh văn và Độc giác. Tịnh trí đó so với diệt khổ đế còn chẳng phải là cảnh giới, huống là loại diệt khổ đế mà sở hành là 4 trí nhập lưu.

Giải:

TỊNH TRÍ là trí Ba la mật của tất cả Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Vì tịnh trí đó là chỗ “Đến bờ kia” của Thanh văn và Độc giác, nên nói “Trí Ba la mật của tất cả Thanh văn và Độc giác”. Cũng là Ba la mật mà không phải của Phật. Vì thế, cảnh giới Niết bàn của Thanh văn và Độc giác chưa phải là cảnh giới Niết bàn của Như Lai, nên nói “Tịnh trí đó, so với diệt khổ đế còn chẳng phải là cảnh giới”. DIỆT KHỔ ĐẾ nói trong câu này là diệt khổ đế của Phật.

4 trí nhập lưu là 4 trí nhập vào dòng pháp. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La ghi “Tuy gọi là tịnh trí, nhưng đối với diệt đế kia còn chẳng phải là cảnh giới huống là trí 4 y”. Như vậy 4 trí nhập lưu nói đây bắt nguồn từ 4 y: Y pháp không y người, y nghĩa không y ngữ, y trí không y thức, y kinh liễu nghĩa không y kinh bất liễu nghĩa. Đây là 4 phương tiện Phật dùng dạy cho người tu Đại thừa, (56) chưa phải là chỗ rốt ráo. Gọi là NHẬP LƯU vì nó khiến người tu có hướng đi đúng đắn để nhập vào dòng pháp.

Có được 4 loại trí này thì ta có được loại DIỆT khổ ứng với 4 loại trí đó. Như loại Y TRÍ BẤT Y THỨC. Do sống theo trí không sống theo thức, nên suy nghĩ và hành động của mình không bị cái tôi và những cái của tôi chi phối. Không bị cái tôi sai sử chi phối thì hiện tại mình đã không khổ mà hành động của mình cũng không gây tội lỗi để lại nhân xấu cho tương lai. Đối với những nghiệp nhân trong quá khứ, mình cũng có cái nhìn bình thản đối với nó. Đó là một loại DIỆT khổ mà luận đây gọi là “Diệt khổ đế mà sở hành là 4 trí nhập lưu”. SỞ HÀNH là chỉ cho chỗ tu hành, pháp tu hành. Còn người tu gọi là NĂNG HÀNH.

Tịnh trí của La Hán và Bích Chi Phật thuộc pháp không sanh diệt, còn 4 loại trí này vẫn là pháp sanh diệt, vì thế 4 trí này so với tịnh trí của chư vị Nhị thừa vẫn còn chưa tới, huống là loại DIỆT đế của chư Phật, nên nói “Tịnh trí đó so với diệt khổ đế còn chẳng phải là cảnh giới, huống là loại diệt khổ đế mà sở hành là 4 trí nhập lưu”.

Vì sao? Hỏi để giải thích.

Chánh văn:

Vì với Tam thừa sơ nghiệp, kẻ chẳng ngu pháp có thể đối với nghĩa đó sẽ chứng, sẽ thông. Thế Tôn vì nghĩa đó nên nói 4 nhập lưu. Bạch Thế Tôn! 4 nhập lưu này là pháp thế gian. Thế Tôn được nhất nhập lưu, đối với các nhập lưu kia là trên, là nhất. Đệ nhất nghĩa chính là nhập lưu, chính là qui y, là diệt khổ đế.

Giải:

Với cả 3 thừa, dù là người mới tu nhưng nếu hiểu được thứ gì là phương tiện, thứ gì là cứu cánh thì với những gì đã được dạy, ta sẽ đạt được chỗ rốt ráo. Vì thế, Phật dạy 4 trí nhập lưu cho người tu Đại thừa. Nhờ pháp sanh diệt đó mà người tu có thể tiến dần về quả nhập lưu của Phật, chính là Đệ nhất nghĩa đế.

Như cái Y đầu tiên là Y PHÁP KHÔNG Y NGƯỜI. Thường mình đến học pháp với ai, mình cũng kiếm cho được người có bề ngoài nghiêm túc, giới luật đầy đủ mà học. Đó là lẽ tất nhiên. Nhưng căn cứ vào thân tướng người khác mà học đạo như thế thì việc học pháp của mình không tiến triển bằng không căn cứ vào thân tướng người mà chỉ quan tâm mình đã học được gì ở người đó. Học pháp với người đó mà tham sân si của mình ngày mỗi hết, trí tuệ mình phát triển thì người đó xấu hay tốt, nghiêm hay không nghiêm, quả tình không can hệ gì đến mình. Người ứng dụng được vậy phải là người ít chấp tướng, chỉ qui hướng về tâm là chính. Có qui hướng về tâm thì mới có ngày thành Phật. Cái qui hướng về tâm đó gọi là nhập lưu. Vì thế Phật dạy “Y pháp bất y nhân”.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn, sanh tử là y nơi Như Lai Tạng. Vì Như Lai Tạng mà nói tiền tế chẳng thể biết được. Bạch Thế Tôn! Có Như Lai Tạng nên có sanh tử. Đó gọi là khéo nói.

Giải:

Vì Như Lai Tạng là cội nguồn chân thật của tất cả pháp, trong tất cả pháp đó có pháp sanh tử, nên nói “Sanh tử y nơi Như Lai Tạng”.

Như Lai Tạng vốn không có sanh tử. (57) Chỉ do bất giác mà sanh cái thấy hư vọng cùng cảnh giới hư vọng nên mới vọng thấy có sanh tử. Tuy nói Như Lai Tạng là cội nguồn của sanh tử nhưng cái cội nguồn ấy không có hình tướng nơi chốn, vì thế nói TIỀN TẾ CHẲNG THỂ BIẾT ĐƯỢC. Một khi mình còn có cảnh giới để biết thì cảnh giới ấy không phải là cội nguồn chân thật của vạn pháp.

Vì có cội nguồn Như Lai Tạng nên mới bất giác mà thành có sanh tử, không có cội nguồn đó thì bất giác không nương đâu mà có để có sanh tử, nên nói “Có Như Lai Tạng nên có sanh tử”. KHÉO NÓI, dịch từ chữ THIỆN THUYẾT ra, là chỉ cho cái nói đúng đắn, nói hay.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! SANH TỬ đó, các thọ căn thì diệt tương tục không có khoảng hở, còn các căn chưa thọ thì khởi, gọi là sanh tử. Bạch Thế Tôn! 2 pháp sanh tử chính là Như Lai Tạng, theo thế tục mà gọi là sanh tử. Bạch Thế Tôn! TỬ là thọ căn diệt. SANH là thọ căn khởi. Như Lai Tạng thì chẳng sanh, chẳng tử, chẳng khởi, chẳng lặn, lìa tướng hữu vi. Bạch Thế Tôn, Như Lai Tạng là thường hằng bất hoại.

Giải:

Đây là nói về thực chất của sanh tử.

Một khi chứng nghiệm được cội nguồn Như Lai Tạng, mới thấy thực tánh của sanh tử là Như Lai Tạng, nên nói “2 pháp sanh tử chính là Như Lai Tạng”. Còn khi chưa thấu nghiệm được Như Lai Tạng thì thấy SANH có tánh của sanh, TỬ có tánh của tử, nên nói “Nói theo thế tục là sanh tử”. Hoặc đã thấu nghiệm rồi nhưng vì nương theo ngôn từ ở thế gian mà nói, cũng nói “Nói theo thế tục …”.

Với người thế gian thì CĂN là chỉ cho 6 căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. THỌ là chỉ cho 2 thứ cảm thọ đối nghịch nhau (như vui, buồn v.v…) và 1 thứ không rơi vào 2 đối nghịch trên (như không vui không buồn v.v…) CĂN đã thành hình thì luôn dính liền với 3 thứ cảm thọ trên, nên nói gộp thành THỌ CĂN. Nói chung, thọ căn là chỉ cho thân mình đây.

CĂN cũng như THỌ là một chuỗi sanh diệt sanh diệt liên tục trên từng sát na chứ không phải chỉ có 2 đầu mút sanh và tử như mình đã thấy. Từ nhỏ đến lớn, già rồi chết là một quá trình sanh diệt liên tục. Nói CĂN CHƯA THOï là đối với loại THỌ CĂN đang hiện diện mà nói, chỉ cho loại THỌ CĂN sẽ xuất hiện khi loại THỌ CĂN trước hoại đi.

Như vậy, SANH TỬ chẳng qua chỉ là sự DIỆT và SANH tương tục của các THỌ CĂN chứ không có gì khác. Thân này mất đi, có thân khác xuất hiện … Cứ vậy mà liên tục theo những gì mình đã tạo trong đời hiện tại pha lẫn với những gì đã tạo trong tiền kiếp.

Thọ căn diệt, thọ căn khởi, xoay vần liên tục như thế, nhưng theo cái sanh diệt ấy vẫn có một thứ không sanh diệt. Đó là Như Lai Tạng. Vì không sanh không diệt nên nó không lặn cũng không khởi, nên nói KHÔNG KHỞI, KHÔNG LAËN. Không sanh diệt thì LÌA TƯỚNG HỮU VI. Vì những điều ấy, phu nhân Thắng Man kết luận “Bạch Thế Tôn, Như Lai Tạng là thường hằng bất hoại”.

Chánh văn:

Cho nên, bạch Thế Tôn! Như Lại Tạng là chỗ y trì kiến lập của trí tạng chẳng lìa giải thoát, cũng là chỗ y trì kiến lập của các pháp hữu vi cùng với trí tạng lìa hẳn cái chẳng giải thoát.

Giải:

CHO NÊN là câu kết luận sau khi đã nói rõ về sanh tử và Như Lai Tạng. Như Lai Tạng là cội nguồn từ đó phát sanh vạn pháp, cả về pháp thế gian mà cả về pháp xuất thế gian. Nói phát SANH nhưng cái sanh ấy không có tánh. Chỉ như ngủ rồi mộng. Vì bất giác nên mê mà thấy có mọi cảnh giới. Hết mê thì mọi thứ là không, chỉ là nhất pháp giới với đầy đủ mọi công đức khó nghĩ lường.

Khi mê thì sanh mọi cảnh giới trong lục đạo nên nói “Cũng là chỗ y trì kiến lập của các pháp hữu vi cùng với trí tạng lìa hẳn cái chẳng giải thoát”. (58) Phần dịch này, Ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch rõ hơn “Như Lai Tạng là chỗ y trì kiến lập của pháp hữu vi đoạn, thoát, khác, ngoài”. Pháp hữu vi tuy lấy Như Lai Tạng làm chỗ y trì kiến lập nhưng vì do mê mà thấy có, hết mê thì mọi thứ là không, nên nói “Pháp hữu vi đoạn, thoát, khác, ngoài”. Thoát, khác, ngoài là nói pháp hữu vi thoát, khác, ngoài Như Lai Tạng. Nhờ thoát, khác, ngoài nên mới ĐOẠN được.

Hết mê thì pháp thân hiển bày với mọi thứ trí tuệ và công đức, nên nói “Như Lại Tạng là chỗ y trì kiến lập của trí tạng chẳng lìa giải thoát”. Ngài cầu Na Bạt Đà La dịch “Như Lai Tạng là chỗ y trì kiến lập của Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng lìa, chẳng đoạn, chẳng khác, chẳng thoát”. Nghĩa là, trí tuệ và công đức của Như Lai không phải là pháp thân Như Lai nhưng CHẲNG LY, CHẲNG KHÁC, CHẲNG THOÁT pháp thân ấy. Cái không một mà không khác, không lìa, không thoát ấy vượt ngoài sự suy nghĩ và cái thấy thường tình của người đời, nên nói KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. Như Lai là thường trụ bất biến nên công đức và trí tuệ của Như Lai thường trụ bất biến, vì thế nói CHẲNG ĐOẠN.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Nếu không có Như Lai Tạng thì không nên có việc chán khổ, thích cầu Niết bàn.

Giải:

Như Lai Tạng vốn thường, lạc, ngã, tịnh. Vì nó THƯỜNG và TỊNH mà nó LẠC. Nếu không thường và tịnh thì không có cái lạc ấy. Song do ĐỘNG mới có chúng sanh. Vì thế chúng sanh không sử dụng được cái thường, lạc, ngã, tịnh này.

Cái gọi là LẠC của thế gian là do đối với cái khổ của thế gian mà có. Vì thế chỉ người nào trải qua cái khổ rồi mới cảm nhận được cái vui, mới thấy được giá trị của cái vui đó. Như người khổ vì nghèo thì khi tìm được tiền mới thấy vui. Còn người nghèo mà bình thản với cái nghèo thì có tiền họ cũng bình thản. Nghĩa là, cái lạc hay khổ ở thế gian mang tính đối đãi. Không có tính đối đãi này thì cái lạc và khổ ấy không xuất hiện. Đây là lý do vì sao những người quá đầy đủ có khi lại tự tử mà chết hoặc thỏa mãn một thứ gì đó rồi lại nảy sinh cảm giác chán nản. Vì cái lạc của họ được xây dựng trên sự liên quan đối đãi. Khi cái đối đãi ấy hết, cái lạc ấy cũng không còn. Không còn mà thiếu trí tuệ nữa nên … thắt cổ! Còn những người xây dựng cái lạc của mình bằng cách bố thí, cúng dường, quan tâm đến người khác thì các lạc ấy tùy thuận với cái lạc của Như Lai Tạng nên nó không bị cái khổ và lạc kia chi phối. Song nó vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi cái lạc đối đãi đó. Cũng như cái lạc của cõi Sắc và Vô sắc đều có giới hạn vì chúng vẫn còn lệ thuộc vào nhân duyên. Duyên hết thì chúng cũng hết.

LẠC của Như Lai Tạng là cái lạc tối thắng, không có cái lạc nào ở thế gian có thể sánh được, lại là cái sẵn đủ trong mỗi chúng sanh nên dù hưởng được dục lạc ở thế gian bao nhiêu, con người vẫn không hoàn toàn cảm thấy hạnh phúc sung sướng. Vì có cái lạc vốn do BẤT ĐỘNG này làm nền tảng nên dù là người đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần, không hẳn đã là một người yên vui. Vẫn tiềm ẩn một sự bất an hoặc nảy sinh cảm giác chán nản. Sự bất an và chán nản đó phá hủy đi thứ hạnh phúc mình đã đạt được để tìm cầu một thứ khác hơn. Ngay cả với người tìm thấy cái lạc trong việc bố thí, cúng dường v.v… một lúc nào đó cũng sẽ thấy việc ấy không mang lại cái lạc cho mình nữa.

Với người đủ duyên, họ sẽ được hộ trì để hướng về con đường tối thượng, còn với người chưa đủ duyên, họ hướng sự chán nản lo âu của mình vào những dục lạc khác của thế gian hoặc tìm đến cái chết. Người đời chỉ làm theo những gì bản năng thôi thúc mà không hiểu được nguyên do của những hành động đó. Chẳng qua, vì ai cũng có cái KHÔNG Như Lai Tạng bất động, nhưng lại bị vô minh chi phối. Đây là phần khó hiểu mà Đức Phật và phu nhân Thắng Man đề cập trong phần sau. Đây chỉ nêu tạm một ví dụ để cảm nhận được chỗ này.

Như người từng sống quen ở quê hương mình, quê hương là chùm khế ngọt, thì dù được mọi thứ đầy đủ trên miền đất hứa, vẫn muốn quay về để hưởng cái mùi khế ngọt quen thuộc kia. Cái hơi hướm quen thuộc đó là cái gì không ai giải thích được. Nhưng nó chính là thứ khiến kẻ lãng du mong mõi một ngày về. Không có hơi hướm đó, người ta sẽ đi mãi không có ngày dừng nghỉ. Vì đã có cái lạc của Như Lai Tạng nên không có cái lạc nào ngoài cái lạc đó khiến mình thấy yên ổn. Cái lạc nào ngoài cái lạc ấy rồi cũng đưa đến cái khổ mà thôi. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Động là có khổ, vì quả chẳng lìa nhân”. Khổ thì phải tìm cầu thoát khổ. Đó là lý do vì sao đây nói “Nếu không có Như Lai Tạng thì không nên có việc chán khổ, thích cầu Niết bàn”. Thấy thiên hạ chán khổ thích cầu Niết bàn thì biết thiên hạ có Như Lai Tạng nên nói KHÔNG NÊN.

Vì sao? Hỏi để giải thích vì sao nói không có Như Lai Tạng thì không có sự nhàm chán sanh tử, thích cầu Niết bàn.

Chánh văn:

Với 6 thức và sở tri, như vậy là 7 pháp, sát na chẳng trụ, chẳng nhận các khổ, chẳng chịu chán lìa mà nguyện cầu Niết bàn. Như Lai Tạng không có tiền tế, không sanh cũng không diệt. Vì là pháp nhận các khổ, kia mới chán khổ mà thích cầu Niết bàn.

Giải:

Nếu chỉ có 6 thức và sở tri thì không đủ khả năng khiến người chán cái khổ sanh tử, thích cầu cái vui Niết bàn. Vì sao? Vì nếu chỉ có 6 thức ngoài thì 6 thức này sanh diệt sanh diệt trên từng sát na không thể là chỗ giữ gìn và chịu sự huân tập các chủng tử khiến chúng sanh lưu chuyển khổ não trong 6 đường. Không khổ, không có sẵn cái lực an lạc khiến người muốn tìm về Niết bàn, thì khó mà thức tỉnh được. Ai cũng có Như Lai Tạng mà đa số mình đây còn … một đi không trở lại, nói là không có. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch phần chẳng nhận các khổ là “Chẳng gieo trồng các khổ”. Đây là phá cái nhìn của hàng Nhị thừa, chỉ biết có 6 thức ngoài, không biết có Như Lai Tạng thâm sâu.

6 THỨC ngoài là chỉ cho 6 thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. 6 thứ này đều có phần hạn riêng của nó nhưng không lìa nhau mà có vì cùng một thể mà ra. Cái thể ấy chính là Như Lai Tạng. Như Lai Tạng không có chỗ khởi đầu nên nói KHÔNG CÓ TIỀN TẾ. Vì không có tiền tế nên không sanh, không sanh thì không diệt, nên nói KHÔNG SANH CŨNG KHÔNG DIỆT.

SỞ TRI, chỉ cho phần pháp chấp. Nó thuộc về phần thâm sâu của tâm thức. Như Lai Tạng do bất giác mà thành thức A lại da, là chỗ lưu giữ tất cả chủng tử hữu lậu cũng như vô lậu, là NHÂN của tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Như Lai Tạng thì không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.

Giải:

Như Lai Tạng nói đây là chỉ cho Như Lai Tạng đã xuất triền. Song cả khi vẫn còn bị trói buộc trong phiền não, nó vẫn không có mấy tướng đó. Những tướng đó chỉ là vọng hiện.

Với cái nhìn đơn giản của mình hiện nay thì NGÃ là chỉ cho ta, NHÂN là chỉ cho người, CHÚNG SANH là chỉ cho tất cả mọi sanh khởi ở thế gian. Thứ gì thấy có thực sanh thứ đó gọi là chúng sanh. THỌ GIẢ là nói đến mạng căn.

Thấy có ta, có người … là do mê Như Lai Tạng mà thấy, là cái thấy đã bị điều kiện hóa bởi nghiệp thức. Như Lai Tạng vốn không có mấy thứ đó. Nên nói “Như Lai Tạng không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”.

Vi tế hơn, 4 tướng này diễn tả cảnh giới của tâm. Một khi tâm còn bị 4 tướng ấy chi phối thì Như Lai Tạng vẫn còn bị vô minh làm nhiễm, chưa phải là Như Lai Tạng với đầy đủ công đức chẳng thể nghĩ bàn mà ta muốn trực nhập.

NGÃ TƯỚNG, có 2 phần là thô và tế. NGÃ THÔ là chỉ cho cái ta của người đời, được biểu hiện qua tham, sân... Không có ta thì không có tham, sân... Nên thấy tham, sân … là biết có ta. NGÃ TẾ là chỉ cho cái ta của người tu, được biểu hiện qua việc sở đắc kiến giải và những gì mình đã trực nghiệm được bằng sự thực chứng. Kiến giải hay sự chứng nghiệm đó nếu không có tâm sở đắc thì không lỗi. Vì nó là những kết quả tất yếu phải có trong quá trình tu hành. Nhân duyên đầy đủ thì sinh quả. Song nhân duyên hết thì quả cũng không còn. Một khi mình có tâm sở đắc thủ chấp là mình đã không còn đặt chúng đúng vị trí nhân duyên của chúng nữa. Tâm sở đắc đó là biểu hiện của ngã tướng.

Kinh Viên Giác nói “Thế nào gọi là ngã tướng? Là tâm sở chứng của chúng sanh... Này thiện nam tử! Tâm đó cho đến chứng Như Lai hay liễu tri Niết bàn đều là ngã tướng”. Một khi mình đã có tâm sở chứng thì dù đạt được cảnh giới Như Lai chăng nữa, cũng đều biểu hiện của ngã tướng mà thôi. Vì sao? Vì một khi còn thấy đó là mặt của anh thì mặt anh đang là đối tượng được thấy của tôi chứ tôi chưa phải là chính anh. Tương tự, thể nhập được với Như Lai Tạng thì ngay lúc thể nhập ấy, Như Lai Tạng không phải là đối tượng để ta có thể thấy. Thấy có chứng có đắc vì ta không còn ở trong chứng trong đắc nữa. Cái khoảng không chứng không đắc đó không phải là Như Lai Tạng mà thủ chấp thì chính là tâm chúng sanh. Ngay cả khi đang chứng mà cảnh giới chứng ấy còn trong vòng năng giác sở giác, thì cái chứng ấy vẫn chỉ là sở kiến của tướng Năng Kiến chứ không phải Như Lai Tạng. Năng Kiến là tướng thứ 2 trong 9 tướng bất giác. (59) Bất giác thì không phải là Như Lai Tạng, nên nói “Như Lai Tạng không có ngã, nhân …”.

“Này thiện nam tử! Tâm đó cho đến chứng Như Lai …” là cách nói ẩn dụ để thấy cái lỗi kinh khủng của sự chấp thủ. Còn với tâm chấp thủ đó thì chẳng bao giờ có thể chứng được cái nhân Như Lai, đừng nói là Niết bàn thanh tịnh, là quả Niết bàn Như Lai.

Tóm lại, tâm sân, tâm kiêu mạn, tâm ghen ghét, tâm sở đắc v.v… không có tâm nào là Như Lai Tạng dù Như Lai Tạng không hề lìa mấy tâm đó. (60) Ngay nơi những tướng đó mà không có các tướng đó, chính là Như Lai Tạng. Vì thế xuất hiện tướng NHÂN dưới.

NHÂN TƯỚNG, kinh Viên Giác nói “Thế nào là tướng nhân? Là tâm ngộ chứng của các chúng sanh”. NGỘ CHỨNG là ngộ được tâm sở chứng là ngã.

Lấy một ví dụ để dễ hiểu, người không biết thế nào là ngã tướng thì hành xử thỏai mái theo những gì mình thích và nghĩ. Bố thí tới đâu, thiên hạ biết tiếng tới đó. Nghe một câu trái với ý kinh là lùng bùng rồi cự tuyệt loạn xạ mà không thấy điều đó là lỗi. Nghe khen thì tìm cách gần mà nghe chê thì phản biện hùng hồn. Được chút sở đắc gì trong công phu tu hành thì thích thú, đắc chí v.v… Tuy nhiều hình thức khác nhau như thế nhưng đều biểu hiện cho một thứ gọi là NGÃ TƯỚNG. Nhận ra được những thứ đó đều là ngã tướng thì tướng ngã liền mất. Ngã mất nhưng tâm ấy vẫn chưa phải là Như Lai Tạng. Vì sao? Vì vẫn còn có tâm NĂNG nhận và đối tượng là SỞ nhận. Gọi cái tâm năng nhận ấy là tướng NGỘ.

Như vậy, NGỘ là chỉ cho cái thấy biết thâm sâu hơn CHỨNG. Nó không nằm trong phạm vi của cái ta chấp thủ nữa mà thường mang tính bao quát hơn, vì thế gọi là NHÂN TƯỚNG. Ta thường gọi là NGỘ LÝ. NGỘ là sự thấu suốt về cái LÝ của mọi vật sự. (61) Vì thế, nó vi tế thâm sâu hơn tâm thủ chứng. Kinh Viên Giác nói “Ngộ này vượt hơn tất cả các cái chứng”. NGỘ không phải là CHỨNG mà vượt hơn CHỨNG, nên đặt cho nó tên mới là NHÂN TƯỚNG.

Ngộ này dù là NGỘ LÝ, nhưng một khi cái LÝ ấy vẫn còn là đối tượng của một cái NĂNG KIẾN thì TÂM NGỘ LÝ ấy vẫn chưa phải là Như Lai Tạng. Như ngoại đạo xưa, chứng thấy được mười phương hư không đều từ THỨC sanh. (62) Cái LÝ ấy không sai. Song vì chưa thấu được cội nguồn nhất tâm nên không thấy được THỨC ấy chỉ do Như Lai Tạng bất giác mà có. Không thấy được cái bất giác ấy nên không thấy được vạn pháp chỉ do thức biến. Không thấy được vạn sự đây chỉ như ngủ rồi mộng, tỉnh thì liền không, không có tánh sanh. Do không thấy được vậy, nên lập phần THỨC ấy làm cội nguồn chân thật sanh ra vạn pháp. Đó là lập cái sanh diệt vô thường làm cái thường trụ bất biến. Vạn pháp đáng lẽ chỉ như giấc mộng đêm qua giờ thành hiện thực tất cả. Vì một chút lầm lẫn đó mà phết lên mình 2 chữ ngoại đạo.

Cho nên, thứ LÝ nào được chứng nghiệm còn trong vòng năng sở, thứ LÝ ấy còn có sự hạn chế của nó. Dù ngộ được LÝ TÁNH KHÔNG, (63) là cái THỂ tột cùng dứt bặt năng sở, mà sau đó còn thấy “Mình vừa ngộ được cái LÝ tột cùng. Mình đã chứng thực được tánh không của vạn pháp” thì phải biết, mình chỉ mới trực nghiệm được cái nhân là Phật tánh chứ cái quả là Như Lai Tạng thì chưa. Nghĩa là, cái ngộ ấy chưa phải là cái ngộ cuối cùng, chưa phải chứng xong cái niệm ấy là đã xong tất cả mà có thể vung tay múa chân như Tổ, Phật. Còn đến 2 đại a tăng kỳ kiếp nữa … Còn rất nhiều thứ để tu và để làm. Vì thế, kinh Viên Giác nói “Tâm còn một chút ngộ cho rằng chứng LÝ đầy đủ đều gọi là nhân tướng”.

Đó là nói về tướng nhân và ngã, là 2 tướng có thể giải thích rõ ràng để cảm nhận. Sau là nói về 2 tướng chúng sanh và thọ mạng, là những tướng khá tế.

CHÚNG SANH TƯỚNG vi tế thâm sâu hơn CHỨNG và NGỘ, vì nó là cái tâm LIỄU TRI được cái chứng và ngộ đó. Kinh Viên Giác nói “Thế nào là tướng chúng sanh? Là chỗ mà tâm tự chứng ngộ của chúng sanh không đến được. Này thiện nam tử! Chỉ cần các chúng sanh liễu được CHỨNG liễu được NGỘ đều là ngã nhân - chẳng phải là chỗ mà tướng ngã nhân đến được, còn có sở liễu (64) - gọi là chúng sanh tướng”. Trí nào thấu được bản chất của chứng và ngộ chỉ là ngã tướng và nhân tướng, trí đó gọi là CHÚNG SANH TƯỚNG. Nó liễu tri được 2 tướng chứng và ngộ, nhưng vẫn chưa phải là Như Lai Tạng vì nó vẫn còn có cái sở liễu để liễu tri, nên nói CÒN CÓ SỞ LIỄU. Còn sở thì còn năng. Còn trong vòng năng sở thì chưa phải là Như Lai Tạng.

Tướng THỌ MẠNG, kinh Duy Ma nói “Pháp không có thọ mạng, lìa sanh tử”. Không có thọ mạng vì Như Lai Tạng không có sanh tử. Tức không có phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Nghĩa là, một khi còn thấy sanh thì còn chưa phải là Như Lai Tạng.

Kinh Viên Giác nói “Thế nào là tướng thọ mạng? Là tâm chiếu thanh tịnh của chúng sanh giác được cái sở liễu. Tất cả nghiệp trí chẳng thể tự thấy, ví như mạng căn”. SỞ LIỄU là chỉ cho cái trí liễu tri trên, chính là TƯỚNG CHÚNG SANH vừa nói. Gọi là sở liễu vì cái liễu tri ấy bây giờ đã thành đối tượng được giác của cái năng giác là tâm thanh tịnh. Giác được thì cái được giác liền không, chỉ còn một TÂM THANH TỊNH trùm khắp. Nên tuy nói là giác mà không có sở giác. Chính là phần GIÁC MINH thanh tịnh nói trong kinh Lăng Nghiêm, phần NĂNG KIẾN của luận Đại Thừa Khởi Tín. Do không có sở giác, chỉ còn một tâm thanh tịnh chiếu soi trùm khắp, nên nhiều người đã lầm nó là cội nguồn chân thật Như Lai Tạng. Song một khi cái thanh tịnh chiếu soi ấy vẫn là đối tượng để mình cảm nhận được thì nó chỉ mới là phần SỞ MINH Phật nói trong kinh Lăng Nghiêm, vẫn là phần sở giác vi tế, chưa phải là cội nguồn rốt ráo Như Lai Tạng. Đó là chính là mạng căn. Ngài Thiết Nhãn nói “Lúc đó tâm của bạn rỗng rang như hư không. Bạn cảm thấy cả pháp giới hiện hữu trong ấy, như có cái gì thanh lương khó nghĩ. Hơn phân nữa con đường hành thiền đã hoàn tất. Khi trạng thái này tiếp tục một thời gian mà bạn nghĩ mình đã được giác ngộ, và thấy mình ngang hàng với Thích Ca hay Bồ đề Đạt Ma là bạn lầm. Ngôi vị này là thể hội ấm thứ 5. Đây là điều mà kinh Lăng Nghiêm nói “Hội nhập cái tịch lặng, trở về bờ mé của thức”… Đây là thức thứ 8 của chúng sanh. Thức này chính là nguyên nhân đưa đến luân hồi … Mặc dù thức này gần giống với bản tâm nhưng không phải là bản tâm”. Đó là hành tướng của thức ấm.

Tướng THỌ MẠNG này thâm sâu vi tế, qua được sự sanh diệt của hành ấm rồi mới thấu được tướng này. Nó là nền tảng của 3 tướng trên. Chưa qua được 3 tướng trên thì tướng này không có phần. Vì thế, nó không phải là thứ mà nghiệp trí có thể thấu được. NGHIỆP TRÍ là so với pháp trí mà nói. Vì là cái trí còn liên quan đến nghiệp lực hay sự tạo tác nên gọi là nghiệp trí. Song dù không thấy, tướng này vẫn hiện diện làm nền tảng cho 3 tướng trên. Như mạng căn, tâm của người thường không cảm nhận được, nhưng nó vẫn hiện diện trong mỗi chúng sanh, làm nền tảng cho các thứ khác được tương tục, nên gọi tướng này là tướng thọ mạng. Vì thế, kinh Viên Giác nói “Tất cả nghiệp trí chẳng thể tự thấy, ví như mạng căn”.

Chánh văn:

Như Lai Tạng chẳng phải là cảnh sở hành của những chúng sanh có cái thấy thân kiến, điên đảo kiến và không kiến. (65)

Giải:

CẢNH SỞ HÀNH, là chỉ cho cảnh giới Như Lai Tạng.

KIẾN là chỉ cho quan niệm sống của mình. Do đâu có quan niệm? Do cái thấy của mình đối với thân, tâm, con người và thế giới như vậy, nên mình hình thành trong đầu mình những suy nghĩ như vậy. Suy nghĩ ấy gọi là quan niệm. Vì vậy, nói đến KIẾN là nói đến quan niệm hay định kiến.

THÂN KIẾN là những tà chấp sai lầm về thân, như cho thân này là thật. Thấy thật thì đụng chuyện sẽ nẩy sinh tham, sân, si … là tâm ngã tướng. Ngã tướng thì không phải Như Lai Tạng, nên nói “Không phải là cảnh sở hành của người có cái thấy thân kiến”.

ĐIÊN ĐẢO KIẾN là cái thấy bắt nguồn từ sự điên đảo. Thấy không đúng thực chất của sự vật, gọi là thấy điên đảo. Như tướng thế gian vô thường mà mình cho là thường, là rơi vào điên đảo kiến. Phật tánh không thường không vô thường mà nói Phật tánh vô thường, cũng rơi vào điên đảo. (66) Nói chung, không nhìn đúng bản chất của pháp trong cái duyên nó đang an trụ, gọi là điên đảo kiến.

KHÔNG KIẾN là chỉ cho mấy vị thủ chấp cái không làm chân lý. Phàm phu do thấy mọi thứ ở thế gian hiện diện như thật nên thường rơi vào chấp CÓ hơn là chấp không. Chỉ có các vị sơ học của Đại thừa mới dính vào loại không kiến này. Như nghe Bát Nhã Tâm Kinh nói không sắc, không thọ v.v… rồi tưởng mọi thứ đều không. Hạng thứ 2 là các vị nhập được cái định vô tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ gì đó của cõi Vô sắc. Đó chỉ là một trong những trạng thái của tâm trong quá trình thiền định, thấy thì không lỗi, song thủ chặt nó làm nơi an trụ cuối cùng thì rơi vào loại không kiến nói đây.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Như Lai Tạng là pháp giới tạng, là pháp thân tạng, là xuất thế gian tạng, là tánh thanh tịnh tạng. Tánh tịnh vốn có này của Như Lai Tạng, theo cái hiểu của con, tuy bị khách trần phiền não làm nhiễm vẫn là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai.

Giải:

TẠNG nghĩa của nó là ẨN TÀNG SÂU KÍN cũng có nghĩa là TÍCH CHỨA RỘNG LỚN. Như tình trạng chúng ta hiện nay thì các thứ như Như Lai, pháp giới, pháp thân, xuất thế gian đều mang nghĩa ẩn tàng sâu kín. Một khi vô minh hoặc nghiệp hết, những thứ đó hiển bày bao trùm tất cả thì mang nghĩa tích chứa rộng lớn. Không nói PHÁP GIỚI mà nói PHÁP GIỚI TẠNG là để hiển bày rõ các tính chất trên của pháp giới, còn nghĩa của chúng thì không khác.

KHÁCH TRẦN là chỉ cho phiền não ở cả 2 mặt thô lẫn tế. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật giải về chữ khách trần này rất rõ. KHÁCH là đối với chủ mà nói. TRẦN, chỉ cho bụi bặm, là đối với hư không mà nói. Khi quán tâm, mình sẽ thấy: Dòng suy nghĩ này qua đi, dòng suy nghĩ khác liền đến, cái vui chợt đến, cái buồn xuất hiện … Cái BIẾT những thứ đi đến đó gọi là CHỦ. Những thứ đi rồi đến đó gọi là KHÁCH. Những thứ đi đến đó giống như bụi lấm tấm trong không gian rộng lớn của tâm nên gọi chúng là KHÁCH TRẦN. (67) Đó là một ví dụ về loại khách trần thô để ta nắm vấn đề.

Phật Tổ và chư vị đại Bồ tát thường dùng ví dụ “hư không và khách trần” hoặc dùng “bụi và gương” để chúng ta cảm nhận được đôi phần về tánh tịnh của Như Lai Tạng bị phiền não làm nhiễm ra sao: Bị bụi phủ mờ nên tính sáng và trong của gương không hiển được, nhưng tính sáng và trong ấy vẫn đầy đủ không mất. Nghĩa là, bụi tuy có khả năng làm tánh sáng và trong của gương không phát ra được, nhưng không có nghĩa là làm tiêu hoại được tính sáng và trong ấy. Vì thế phu nhân Thắng Man nói “Tuy bị khách trần phiền não làm nhiễm vẫn là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai”.

Vì sao? Hỏi để giải thích vì sao nhiễm mà vẫn không làm mất đi tính thanh tịnh của tâm.

Chánh văn:

Bạch Thế Tôn! Sát na, sát na thiện tâm và bất thiện tâm, khách trần phiền não chẳng thể nhiễm. Vì sao? Vì phiền não chẳng xúc chạm tâm, tâm chẳng xúc chạm phiền não.

Giải:

Đơn giản vì, phiền não không chạm được đến tâm, tâm cũng không để phiền não xúc chạm. Như bụi và guơng, bám thí bám nhưng bụi không có tác dụng ăn mòn phá hủy luôn mặt gương. Đó là ý nghĩa của từ XÚC CHẠM nói đây.

Nói SÁT NA SÁT NA là muốn diễn tả sự liên tục từ giây này qua giây khác. Nói giây là để dễ hiểu, còn SÁT NA đây chỉ cho thời gian cực nhỏ mà trí mình hiện nay không thể cảm nhận được. Như các nhà vật lý với những thiết bị tinh vi mới thấy được tốc độ của ánh sáng là 300.000km/g, còn mình thì chỉ thấy nó sáng chứ không hề thấy nó đi.

Thiện tâm và bất thiện tâm là chỉ cho tâm thiện và tâm bất thiện của mình. Khi tâm nổi lên những tư tưởng tính toán, tội lỗi, tham, sân, kiêu mạn v.v… gọi là BẤT THIỆN TÂM. Ngược lại với những thứ đó gọi THIỆN TÂM.

Chánh văn:

Chẳng xúc chạm nhưng sao có nhiễm tâm? Bạch Thế Tôn! Vì có phiền não, có tâm nhiễm theo, theo phiền não mà nhiễm, khó hiểu, khó biết. Chỉ có Thế Tôn là mắt, là trí, là pháp căn bản, là cao quí, là bậc đạo sư, là chỗ y chỉ của chánh pháp, mới có cái thấy biết như thật.

Giải:

Không xúc thì sao có cái gọi là nhiễm? Câu hỏi rất chí lý. Áo trắng đem nhuộm đen mà thành đen thì rõ ràng phải có sự xúc chạm, màu trắng mới thành đen, sao nói không xúc chạm? BẠCH THẾ TÔN là mở đầu cho câu trả lời của mình thêm trịnh trọng. Phu nhân trả lời “Vì có phiền não, có tâm nhiễm theo, theo phiền não mà nhiễm”. Trả lời như vậy thì cũng như không trả lời, nên bà tiếp “Khó hiểu, khó biết … chỉ có Thế Tôn”. Nghĩa là, chỗ này tụi con chịu, chỉ có Như Lai mới thấy được. Đợi con thành Như Lai rồi, con sẽ trình chỗ này cho Như Lai nghe. Giờ có nói thì cũng chỉ là vọng ngữ mà thôi. Nói gì bây giờ.

Phần sau là tán thán Phật, đồng thời cũng để hiểu vì sao bà không giải thích được chỗ này. Vì bà chưa phải là chỗ y chỉ của chánh pháp. CHỖ Y CHỈ là chỉ cho Như Lai Tạng, là tánh của tất cả pháp. Nó là nền tảng của tất cả pháp, là chỗ xuất sanh của tất cả trí, tất cả mắt, là pháp vương v.v…

Chánh văn:

Thế Tôn ca ngợi phu nhân Thắng Man “Lành thay! Lành thay! Như bà đã nói, tánh thanh tịnh của tâm theo phiền não mà nhiễm, khó có thể biết thấu. Lại nữa Thắng Man! Có 2 pháp khó có thể biết thấu. Thế nào là 2? Một là tánh thanh tịnh của tâm khó có thể biết thấu. Hai là tâm đó bị phiền não làm nhiễm cũng khó có thể biết thấu. 2 pháp này, bà và chư Bồ tát thành tựu đại pháp mới có thể vâng nhận, còn các Thanh văn khác là do tin mà hiểu.

Giải:

Phật nghe bà “biết mình, biết ta” như vậy, liền khen “Lành thay! Lành thay!”. Đây là dịch từ chữ THIỆN ra. Cũng có thể là “Giỏi lắm! giỏi lắm!”. Trong tất cả mọi lãnh vực từ buôn bán, đánh giặc cho đến tu hành thì “biết người, biết ta” là nền tảng của sự thắng lợi. Khen là lẽ tất nhiên.

Có 2 thứ mà chỉ có Phật mới biết đó là tánh tịnh không mất của Như Lai Tạng. Tuy không mất nhưng vẫn bị nhiễm ô để có 6 đường. Vì thế nói “Khó có thể biết thấu”. VÂNG NHẬN nói đây chắc chắn không phải là thấu được toàn bộ như Phật, nhưng cũng không phải chỉ có lòng tin như hàng Nhị thừa. Trừ 2 khoảng đó ra, còn lại gọi là vâng nhận. Loại Bồ tát vâng nhận được điều này phải là loại THÀNH TỰU ĐẠI PHÁP. Chỉ cho hàng Thập địa, nhất là từ hàng Bồ tát Bát Địa trở đi.

Chánh văn:

Này Thắng Man! Nếu đệ tử của ta là người có niềm tin tăng thượng tùy thuận pháp trí, thì ở nơi pháp ấy mà được chỗ rốt ráo.

Giải:

Như Lai Tạng với đầy đủ tướng và dụng gọi là PHÁP TRÍ. Người có niềm tin tăng thượng tùy thuận pháp trí là chỉ cho người có niềm tin vững chắc đối với Phật tâm của mình rồi thực hành tu tập những pháp thuận với pháp trí. Đó là pháp giúp hành giả đi dần về cảnh giới vô niệm của tâm. Tu tập tùy thuận pháp trí thì sẽ chứng được tánh thể của pháp nên nói ĐƯỢC CHỖ RỐT RÁO.

Chánh văn:

TÙY THUẬN PHÁP TRÍ là quán căn - thức - cảnh, quán sát nghiệp báo, quán giấc ngủ của A La Hán, quán tâm tự tại, ái lạc và thiền lạc, quán thần biến thông của Thanh văn, Độc giác và các Thánh. Do thành tựu 5 thứ quán thiện xảo ấy, các đệ tử Thanh văn trong hiện tại và vị lai, nhơn nơi niềm tin tăng thượng tùy thuận pháp trí, sẽ hiểu được tánh thanh tịnh của tâm bị phiền não làm nhiễm thế nào mà chứng cứu cánh. Này Thắng Man! Chỗ cứu cánh ấy là nhân của Đại thừa. Các ngươi nay phải biết và tin Như Lai, đối với pháp thậm thâm chẳng sanh phỉ báng”.

Giải:

Đây có 2 chỗ cần chú ý. Một là chỉ bày 5 pháp quán. Hai là nói đến việc chứng cứu cánh. Chứng cứu cánh, đây nói là NHÂN CỦA ĐẠI THỪA. Mới NHÂN chứ chưa phải QUẢ. Tức mới nói đến việc chứng tánh thể, nhà thiền gọi là kiến tánh, chưa nói gì đến việc thành ông Phật với đầy đủ lực dụng và công đức được cúng chuối xanh trên bàn thờ.

QUÁN, nghĩa là NHÌN THẤY hay QUAN SÁT. Song không phải nhìn theo kiểu nhìn chất đầy quan niệm định kiến của mình hiện nay, mà phải nhìn cho đúng bản chất của sự vật. Chưa nhìn được thực chất của nó thì phải y theo kinh dạy mà tập thay đổi cái nhìn từ từ, cho đến khi nhìn đúng thực chất của chúng.

Như 3 thứ căn - trần - thức trên. CĂN là chỉ cho 6 căn mắt, tai v.v… của mình, CẢNH là đối tượng của 6 thứ đó. Chính là sắc, thanh, hương v.v… Người đời chỉ biết ta có cái tai để nghe những âm thanh ta thích, có con mắt để nhìn cái sắc ta muốn … Không ai quan tâm đến THỨC là gì. Song người tu thì phải biết THỨC đó mới là mấu chốt của mọi vấn đề. Do THỨC mới có CĂN và CẢNH. Từ căn và cảnh đó, thức mới có cơ phát huy tác dụng. Nhiệm vụ của người tu là phải quán cho thủng được thực chất của 3 thứ đó. Quán cho đến khi nhận thấy được tánh thật của chúng: Muôn hình vạn trạng bao nhiêu thì thể tánh của chúng vẫn không. Cái không ấy không phải là đối tượng mà ta thấy được. Là không nhưng đầy đủ mọi công đức chẳng thể nghĩ bàn, không hề không ngơ. Đó là lúc mình nhận ra được tánh Phật của chính mình.

NGHIỆP BÁO là chỉ cho những thứ có liên quan đến 3 thứ thân, khẩu, ý của mình. Thân, khẩu, ý thiện thì mình sẽ có cái quả là cảnh giới thiện. Thân, khẩu, ý bất thiện thì cái quả là những việc bất như ý trong cuộc sống, khiến mình phải khổ đau. NGHIỆP là chỉ cho những hành động của mình. BÁO là chỉ cho kết quả mình gặt được từ những hành động đó. Như anh học trò chăm chỉ học hành đúng đắn thì thi đậu, uống rượu quá nhiều thì xơ gan v.v...

Phần nghiệp báo này trên sự mà nói thì rộng mênh mang chi xứ. Vì không phải cứ nhân đó là đã cho ra quả đó, mà còn lệ thuộc rất nhiều vào duyên. Như cùng một giống xoài nhưng trồng ở vùng đất xấu, khí hậu cũng xấu thì quả gặt ra không thể như giống xoài trồng ở đất màu mỡ. Cho nên, cùng một hành động như nhau, nhưng có khi quả báo lại khác nhau. Đây chỉ diễn giải trên phần LÝ để tạm hiểu về nghiệp báo. Còn SỰ thì không đề cập đến được. Vô vàn sai biệt! Song sai biệt thế nào, cũng không lìa tâm mà có. Tánh chúng đều không.

Quán GIẤC NGỦ CỦA LA HÁN. Trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, phẩm Phật Đạo, ngài Duy Ma Cật nói “Người thấy vô vi mà vào chánh vị thời không thể còn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, ví như chỗ gò cao không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn thấp ướt mới có hoa sen”. Người thấy vô vi vào chánh vị, là chỉ cho các vị La Hán trú luôn trong cái lạc của Diệt tận định. So với cả trường đại mộng đây thì cái định ấy cũng như một giấc ngủ ngon không mộng mị, vì các vị chưa phải là người đã tỉnh thức hoàn toàn như Phật. Có thể đây là lý do Phật nói QUÁN GIẤC NGỦ CỦA LA HÁN. Quán cho đến tận cùng giấc ngủ đó để thấy được thực tướng của nó.

Hai thứ còn lại đều là dụng của tâm thiền định. Quán cho đến khi thấy được thực tướng của chúng.

5 thứ quán trên là phương tiện giúp người tu nhận ra tánh thể của vạn pháp. Phương tiện thì tùy thời, tùy căn cơ của chúng sanh mà lập, không nhất thiết là mọi thời phải áp dụng nó mới có được đạo quả Bồ đề. Ngay trong một thời còn có vô vàn pháp môn, huống là khác thời quá xa. Song phương tiện nào thì mục đích của chúng cũng là giúp người tu đưa tâm về chỗ vô trụ mà nhận ra được thực tướng của vạn pháp. Đây chỉ là một trong các cách tu Phật đưa ra để giúp người tu chứng nhập được tâm vô trụ. Hợp thì áp dụng. Không hợp thì thôi.

6/ Phu Nhân nêu bày 3 hạng người có khả năng thành tựu pháp thậm thâm. Phật phó chúc cho ngài A Nan và trời Đế Thích gìn giữ và truyền bá kinh này.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man bạch Phật rằng “Lại có nghĩa khác được nhiều lợi ích nữa. Con muốn nương vào thần lực oai nghiêm của Phật mà nói về nó”. Bà còn muốn nói nữa, chưa hết.

Phật nói “Hay thay! Bà cứ nói tùy ý”.

Phật khi nào cũng hoan hỉ với bà.

Phu nhân nói “Có 3 loại thiện nam tử và thiện nữ nhân, với pháp thậm thâm không còn tự hại mình, sanh nhiều công đức, bước vào con đường Đại thừa.

Giải:

PHÁP THẬM THÂM là chỉ cho phần Phật pháp thâm sâu của Phật. Nói chín xác là chỉ cho pháp tánh chân như hay Như Lai Tạng. Người nào có thể tin tâm mình là Phật và bắt đầu qui hướng tu tập là đang bước vào con đường Đại thừa. Tu tập pháp Đại thừa thì tương lai sẽ có trí tuệ, được mọi công đức, thoát mọi khổ não nên nói KHÔNG CÒN TỰ HẠI MÌNH.

Chánh văn:

Thế nào là 3?

Giải:

Hỏi để biết về 3 hạng người nào có thể bước vào con đường Đại thừa và không còn tự hại mình.

Chánh văn:

1. Thiện nam tử và thiện nữ nhân có thể tự mình thành tựu pháp trí thậm thâm.

Giải:

Đây là hạng thứ nhất. Không kể là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, miễn chịu tu là được, nên nói THIỆN NAM TỬ và THIỆN NỮ NHÂN.

THÀNH TỰU PHÁP TRÍ THẬM THÂM là chỉ cho hạng đối với chỗ thậm thâm đó đã có sự trực nghiệm của tự tâm. Như nói Phật tánh thì phải chứng nghiệm được cái Phật tánh ấy là gì. Như đường ngọt thì phải biết thật sự vị ngọt của đường là thế nào, không phải nghe nói nó ngọt mà tưởng ra cái ngọt ấy. Đây là chỉ cho hạng Chứng Phát Tâm trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

Chánh văn:

2. Hạng có thể thành tựu tùy thuận pháp trí.

Giải:

Đây là chỉ cho hạng Giải Hạnh Phát Tâm trong luận Đại Thừa Khởi Tín. Hạng này chưa chứng nhập được Phật tánh nhưng việc tu hành đã có sự tùy thuận. Nghĩa là, đã bước vào giai đoạn tu LÌA TƯỚNG. Tu LÌA TƯỚNG là sự tu hành bây giờ không còn đặt nặng vào những hình thức bên ngoài hoặc chỉ dừng ở mức độ tàm quí hay loại bỏ niệm ác mà đã bước qua giai đoạn phá trừ sự sanh khởi của tâm để đưa tâm trở về chỗ vô trụ. Tâm mà vô trụ thì đương nhiên phải lìa tướng.

Chánh văn:

3. Hạng đối với pháp thậm thâm chẳng thể hiểu rõ nhưng ngưỡng suy Thế Tôn “Chỉ có Phật mới biết, chẳng phải là cảnh giới của ta”.

Giải:

Hạng thứ 3 là hạng chưa trực chứng cũng chưa áp dụng pháp tu lìa tướng nhưng biết lượng sức mình và có niềm tin đối với pháp thậm thâm. Tin được điều đó không phải là người có tín căn Đại thừa thì không thể tin được, nên hạng này cũng được liệt vào hạng có phần trong Đại thừa. Đây là hạng Tín Thành Tựu Phát Tâm trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

NGƯỠNG SUY THẾ TÔN là cung kính tín nhiệm đối với đức Phật. Lòng tôn kính tín nhiệm đó chính là công đức và động lực để hạng này có thể bước lần vào 2 địa vị trên. Đây là lẽ tất nhiên. Bởi khi mình khổ, mình chỉ có thể nghĩ đến người nào có khả năng giúp mình hết khổ, mà quan trọng là người ấy luôn có tình thương và không bỏ rơi mình. Đức Phật đủ cả BI và TRÍ, là chỗ mà mình đã đặt trọn niềm tin và sự tín nhiệm thì mình sẽ nghĩ đến ngài tức thì khi mình gặp chuyện bất an trong đời sống. Những niệm đó được huân tập lâu dần sẽ thành cái quả chính mùi. Nó chính là cái nhân cho việc tu hành. Đã tu thì sự tu hành cũng có nghiệp lực của nó. Nghiệp lực ấy chính là động cơ để người tu đi trọn con đường mình đã chọn. Đó là lý do vì sao chỉ mới có lòng tin và sự kính trọng đối với Như Lai, là đã nhập được vào một trong 3 vị đây.

Chánh văn:

Trừ 3 loại thiện nam tử và thiện nữ nhân này ra, chúng hữu tình còn lại, đối với pháp thậm thâm đều theo chỗ chấp thủ dính mắc của mình mà vọng nói, đi ngược với chánh pháp, huân tập các chủng tử hủ bại của ngoại đạo. Nếu ở những phương khác thì nên đến mà trừ diệt. Các hủ bại ấy, tất cả trời và người nên hàng phục trừ bỏ”.

Giải:

Ngoài 3 hạng liệt kê trên còn lại đều vô phần với Đại thừa. Như vậy, dù là tu theo Đại thừa, Nguyên thủy hay Tiểu thừa mà trúng phải một trong 3 khoảng vừa liệt kê trên thì dù không gắn mark Đại thừa, mình vẫn phải chịu là người có căn tánh Đại thừa. Còn dù mình đang có cái mark Đại thừa, mà sàng qua sàng lại cũng không thấy mình ở đâu trong 3 khoảng đó thì coi như xong. Phát biểu linh tinh bừa bãi nữa thì lọt vào thứ mà phu nhân Thắng Man gọi là “Huân tập các chủng tử hủ bại của ngoại đạo”.

Phát biểu linh tinh bừa bãi là nói những thứ không có trong kinh luận, chỉ toàn tưởng là tưởng mà nói. Vi tế hơn, là bóp méo kinh luận theo ý mình. Điều này rất dễ biết. Thứ gì do tưởng mà nói thì đầu xuôi đuôi không lọt, không có tính logic hay nhất quán đối với toàn bộ kinh luận của chư Phật. Đó là ý nghĩa của câu “Đều theo sự chấp thủ dính mắc của mình vọng nói”.

Tất cả hủ bại ấy trời và người phải nên hàng phục trừ bỏ. Vì sao? Vì thứ gì đi ngược với chánh pháp đều mang lại đau khổ cho chúng sanh, xã hội rối ren, đất nước không ngóc đầu lên được. Vì thế phải trừ bỏ và hàng phục. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt La ghi “Những hạng ấy phải bằng sức của vua, trời, rồng, quỉ thần mà hàng phục”. Nghĩa là, nếu cần mượn đến pháp luật để ngăn ngừa trừ bỏ thì cũng phải làm. Cho nên, là Phật tử thì những thứ thuộc mê tín dị đoan như bói toán, cúng sao giải hạn v.v… là những thứ không những mình không nên theo mà còn phải giúp một tay để trừ bỏ. Song phương cách trừ bỏ thế nào là còn tùy lực, tùy duyên để việc làm của mình được tốt đẹp nhất.

Phần này cho thấy, Phật pháp không lìa dòng đời. Vì thế, nói đến Phật pháp không có nghĩa chỉ có ăn chay, nằm đất, cam chịu, nhẫn nhục v.v… Đó chỉ là những phương tiện tạm thời giúp người tu lấy lại được sự bình lặng. Từ sự bình lặng ấy mình sử dụng được trí tuệ vốn có của mình. Như NHẪN NHỤC, dù không phải là người tu hành, nó cũng là chiêu sách rất ăn tiền trong cuộc sống thường nhật. Các nhân vật trong lịch sử nhờ nhẫn nhục mà đạt được thắng lợi vẻ vang. Trong cuộc sống bình thường đây, nhẫn khiến mọi thứ tốt đẹp, gia đình hạnh phúc v.v… Tu hành lại càng cần thiết. Nhẫn mới hàng phục được những tham muốn của bản thân. Nhẫn đến khi không còn thấy nhẫn nữa thì trí vô sư xuất hiện. Có trí tuệ thì việc làm của mình không nhầm lẫn. Vì thế, Phật dạy người tu phải NHẪN. Còn hình tướng ấy không phải là cái LÝ tối hậu của nhà Phật. LÝ tối hậu là KHÔNG NHẪN CŨNG KHÔNG KHÔNG NHẪN. Vì được chỗ “Không nhẫn không không nhẫn” nên tùy duyên mà có nhẫn hay không nhẫn.

Nếu không nắm được phần LÝ rốt ráo của nhà Phật, sẽ thấy lời nói “Nếu ở những phương khác thì nên đến mà trừ diệt. Các hủ bại ấy, tất cả trời và người nên hàng phục trừ bỏ” là đi sai với tinh thần nhẫn nhục mà đức Phật đã dạy. Song nắm được lý bất biến tùy duyên, sẽ hiểu không hề có sự nghịch lý ở đây. LÝ mà đầy đủ thì SỰ nào cũng là LÝ.

Quan trọng là người tu phải có được chánh pháp trí. Phải biết được trí tuệ của mình đến đâu để hành xử trong cuộc sống được nhịp nhàng.

Chánh văn:

Phu nhân Thắng Man nói lời ấy xong, bà cùng với quyến thuộc đảnh lễ dưới chân Phật. Phật tán thán “Lành thay, này Thắng Man! Đối với pháp thậm thâm bà phương tiện thủ hộ, hàng phục oán địch, khéo hay thấu suốt. Bà đã thân cận trăm ngàn ức chư Phật Như Lai mới nói được nghĩa này”.

Giải:

Sử dụng đến cái GIÁC đã nhiều nên nói thân cận trăm ngàn ức chư Phật Như Lai.

Chánh văn:

Nói xong, Thế Tôn phóng quang minh chiếu khắp đại chúng, thân cất lên hư không cao bằng 7 cây đa la, rồi dùng thần thông đi trên hư không trở về thành Xá Vệ.

Lúc ấy phu nhân Thắng Man cùng các quyến thuộc mắt chẳng rời chiêm ngưỡng Thế Tôn. Thế Tôn đã khuất bóng mà mọi người vẫn còn hoan hỉ phấn khởi, lần lượt xưng tán công đức của Như Lai, rồi nhất tâm niệm Phật trở về thành Vô Đấu, khuyến khích vua Hữu Xứng kiến lập Đại thừa. Trong thành, trẻ nữ từ 7 tuổi trở lên đều được bà dùng Đại thừa để giáo hóa. Vua Hữu Xứng cũng dùng Đại thừa giáo hóa trẻ nam từ 7 tuổi trở lên. Người dân khắp nước không ai là không học.

Giải:

Đây là tâm trạng của những người sau khi gặp được đức Phật. Tương tự như ngày nay mình đi nghe pháp mà gặp được vị thiện tri thức hữu duyên của mình. Ai từng có tâm trạng đó sẽ hiểu tâm trạng của những người nói đây.

NIỆM PHẬT cũng có thể là niệm danh hiệu Phật như pháp môn niệm danh hiệu Phật đang được sử dụng ngày nay, cũng có thể là nghĩ nhớ đến Phật. Phật đi rồi, nhưng tâm hướng về Phật vẫn chuyên nhất, đâu cũng chỉ có Phật trong lòng, giác tánh sáng tỏ … đều là hình thức của niệm Phật.

Phật pháp được mở rộng trong toàn nước vì những vị lãnh đạo đất nước đều là Phật tử. Con nít từ 7 tuổi trở lên đều được đức vua và phu nhân dạy cho Đại thừa. Dưới 7 tuổi thì nhỏ, khó tiếp thu Phật pháp, vì thế lấy mốc từ 7 tuổi trở lên. Con nít vừa dễ dạy mà lại dễ tiếp thu cái mới hơn là người lớn, đã chất đầy định kiến và quan niệm, nên phu nhân nhắm vào con nít mà dạy. Đây cũng biểu hiện cho phần chánh pháp trí của phu nhân Thắng Man.

Chánh văn:

Khi ấy Thế Tôn vào Thệ Đa Lâm, nói với tôn giả A Nan và nghĩ đến Thiên Đế. Cảm ứng với niệm đó, Thiên Đế Thích cùng với quyến thuộc liền tới trước Phật. Phật nói với Thiên Đế rằng “Kiều Thi Ca! Ông phải thọ trì, khai thị, giảng nói kinh này, làm cho cõi trời Tam Thập Tam được an lạc”. Lại nói với A Nan “Ông cũng phải thọ trì, vì bốn chúng mà phân biệt giảng nói”.

Giải:

Đây là lời dặn dò của Phật với ngài A Nan và vua Đế Thích. BỐN CHÚNG là Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Ngài A Nan chịu trách nhiệm truyền dạy cho 4 chúng đó. Còn trời Đế Thích thì chịu trách nhiệm truyền dạy cho chư thiên.

Điều này cho thấy không phải chỉ có những người đến chùa mặc áo tu mới được giảng nói kinh này. Ngoài 4 chúng ra, chư thiên cũng được giảng nói kinh này. Nghĩa là, kinh vẫn đang được truyền bá rất rộng ở khắp mọi nơi, không phải chỉ trong màu áo tăng ni hay cư sĩ. Phật pháp và tinh thần xả thân vì nhân loại vẫn hiện diện thầm lặng trong những con người không mang màu áo đạo Phật. Đó là những bộ kinh Thắng Man sống động trong đời sống đây. Bởi không ai không có Phật tánh, không ai không có trí tuệ và đức tướng mà Như Lai đã có. Chỉ cần chúng ta không để cái tôi và những cái của tôi hiện diện làm mờ đi chân tánh của mình, thì những gì phu nhân nói đây sẽ tự hiển bày.

Chánh văn:

Thiên Đế Thích bạch với Phật “Bạch Thế Tôn! Tên gọi của kinh này là gì? Làm sao để phụng trì?”.

Giải:

Trên chỉ là một buổi “Trình kiến giải và phát lời thệ nguyện của phu nhân Thắng Man. Đồng thời là lễ thọ ký và dạy bảo của đức Phật đối với phu nhân cùng những người hữu duyên với bà”. Đây, Phật dạy làm thành kinh để truyền bá cho đời sau. Vì thế, Ngài Đế Thích hỏi tên kinh và cách lưu truyền cũng như cách phụng trì kinh.

Chánh văn:

Phật nói với Thiên Đế “Kinh này thành tựu vô biên công đức. Lực của tất cả Thanh văn và Độc giác còn chẳng thể bằng, huống là các chúng hữu tình khác. Kiều Thi Ca phải biết, kinh này thậm thâm vi diệu, tích tụ nhiều công đức. Nay ta vì ông mà lược nói tên của nó. Lắng nghe, lắng nghe, hãy khéo suy nghiệm đó!”.

Giải:

Kiều Thi Ca là tên cúng cơm của trời Đế Thích. Trước khi tóm lược đại ý của kinh, Phật nói về công đức của kinh.

Thiền Sư Thánh Nhất nói “Chân pháp là con đường giải thoát tối thượng, khi lọt vào tai ai một lần, người ấy sẽ được thọ ký vào Bồ tát đạo”. Bồ tát đạo là con đường tích tụ rất nhiều công đức.

Chánh văn:

Thiên Đế Thích và tôn giả A Nan bạch Phật “Hay quá, bạch Thế Tôn! Con kính vâng thọ trì”.

Giải:

Sự mong mỏi được đáp ứng nên 2 vị reo mừng.

Chánh văn:

Phật nói “Kinh này tán thán công đức chân thật của Như Lai, nên như thế mà thọ trì! Nói về 10 hoằng thệ chẳng thể nghĩ bàn, nên như thế mà thọ trì! Vì một đại nguyện nhiếp tất cả nguyện, nên như thế mà thọ trì! Nói về việc nhiếp thọ chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên như thế mà thọ trì! Nói nhập Nhất thừa, nên như thế mà thọ trì! Nói về vô biên đế, nên như thế mà thọ trì! Nói về Như Lai Tạng, nên như thế mà thọ trì! Nói về Phật pháp thân, nên như thế mà thọ trì! Nói về nghĩa tánh không là cái chân thật ẩn tàng, nên như thế mà thọ trì! Nói về nghĩa của Nhất đế, nên như thế mà thọ trì! Nói về nhất qui y thường trụ, bất động, tịch tịnh, nên như thế mà thọ trì! Nói về cái điên đảo và chân thật, nên như thế mà thọ trì! Nói về tự tánh thanh tịnh của tâm bị phiền não che đậy, nên như thế mà thọ trì! Nói về đứa con đích thực của Như Lai, nên như thế mà thọ trì! Nói về phu nhân Thắng Man sư tử hống, nên như thế mà thọ trì!

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói ra kinh này là để đoạn trừ tất cả nghi, quyết định liễu nghĩa, nhập Nhất thừa đạo. Này Kiều Thi Ca! Nay sở dĩ nói kinh Phu Nhân Thắng Man Sư Tử Hống, là muốn giao phó cho ông đến khi pháp được tồn tại. Trong mười phương thế giới, hãy khai thị và giảng nói”.

Giải:

Đức Phật nói kinh này ra là muốn kinh được tồn tại ở đời. Kinh nói đây không phải là những lời nói, ngôn từ cũng như chính bản kinh đây. Nó chính là tinh thần mà phu nhân đã nói qua 3 đại nguyện và 10 lời hoằng thệ của bà. Phật muốn tinh thần ấy được phát huy và tồn tại trong mỗi người chúng ta. Mỗi người phải là một bộ kinh Thắng Man, tiếp nối lan truyền từ đời này sang đời khác “Ta giao phó cho ông đến khi Pháp được tồn tại”. Pháp chỉ thực sự được tồn tại khi mỗi con người chúng ta chính là một phu nhân Thắng Man. Còn kinh luận dù in ấn đẹp đẽ bao nhiêu, được truyền bá lưu giữ kỹ càng từ đời này sang đời khác bao nhiêu, mà chưa hề rời khỏi học tủ để làm lợi ích cho người, thì chẳng có nghĩa gì đối với Phật pháp. Theo thời gian rồi cũng hoại tàn, chẳng còn dấu ấn. Đó không phải là điều Phật muốn giao phó cho những người con của Phật.

Thiền sư Sessan nói “Có 3 loại nghe pháp. Thứ nhất là nghe theo kiểu bắn súng, tức nhận được từ tai này qua tai kia và không còn lưu giữ được gì. Thứ hai là nghe theo kiểu cái rỗ. Khi đặt một vật vào, phần tinh túy lọt mất còn phần cặn bã đọng lại. Thứ ba là nghe như sự tiêu hóa: Tống khứ cặn bã và chỉ hấp thu cái tinh túy. Trong khi nghe pháp chúng ta phải cẩn trọng để nghe theo cách thứ ba. Nếu không, sự an lạc chỉ là nghe qua trên đầu môi chót lưỡi. Lỗ tai ở thiên đường nhưng chỉ riêng lỗ tai thôi”. (68)

Đây là Phật nhấn mạnh lại những phần tinh túy mà Phật tử phải hấp thu nó như hấp thu chất bổ vào ruột mà thiền sư Sessan đã nói. Bản Hán văn của ngài Cầu Na Bạt Đà La ghi rõ các tiêu đề này vào từng phần của bản kinh. Như phần “Tán thán công đức của Như Lai” được lấy làm tiêu đề cho phần đầu, là đoạn từ khi phu nhân nhận được thư của cha mẹ, gặp Phật rồi ca ngợi Phật và được Phật thọ ký. “10 hoằng thệ nguyện” là tiêu đề của phân đoạn phu nhân phát 10 lời thệ nguyện v.v...

Riêng phần “Không tánh nghĩa ẩn phú chân thật”, đây không dịch “Nghĩa tánh không che mất cái chân thật” hoặc “Thuyết chân thật bị che lấp bởi nghĩa không” mà dịch “Nghĩa tánh không là cái chân thật ẩn tàng”. Vì sao? Vì trí tánh không là nhân của cái quả chân thật ẩn tàng kia. Nó là chủng tử vô lậu sẵn có trong mỗi chúng sanh. Khai mở được nó chính là bước đầu giúp khai mở Như Lai Tạng. Không trực chứng được cái nhân đó, không thể có cái quả là Như Lai Tạng. Là nhân của Như Lai Tạng thì không thể che mờ Như Lai Tạng. TỊNH TRÍ của Thanh văn che mờ cái chân thật thì có lý, vì phần tịnh trí đó vẫn còn thuộc thức ấm. Song TRÍ TÁNH KHÔNG thì không phải là tịnh trí của Thanh văn và Duyên giác, như phu nhân Thắng Man từng khẳng định “Như Lai Tạng đó chính là trí tánh không Như Lai, là chỗ mà tất cả Thanh văn và Độc giác chưa từng thấy cũng chưa từng chứng”. Đó là lý do bản dịch đây không dịch ẨN PHÚ như là một động từ, mà dịch nó theo nghĩa tỉnh từ bổ nghĩa cho cái chân thật.

Chánh văn:

Thiên Đế Thích nói “Hay thay, Bạch Thế Tôn! Con kính vâng thọ trì”.

Giải:

Đã thỏa mãn những nghi vấn nên lại vui mừng reo lên lần nữa.

Chánh văn:

Nghe Phật nói xong, Thiên Đế Thích, tôn giả A Nan cùng với chúng hội trời, người, A tu la, Càn thát bà v.v… đều sinh tâm đại hoan hỉ, tin nhận phụng hành.

Giải:

Chấm dứt bản kinh ai nấy cũng vui vẻ hoan hỉ. Song không chỉ có vui vẻ thôi mà còn tin nhận phụng hành nữa. Như mình đi nghe pháp, nghe Hòa thượng giảng xong, mình thấy trong tâm nhẹ nhàng hoan hỉ, nhưng chừng đó chưa đủ. Nghe hay mà không làm thì cái hay đó sẽ theo gió bay mất. Vì thế, cần phải ghi nhớ thực hành nữa. Đó mới đúng là nghe pháp hay đọc kinh, mới là Phật tử đích thực. Hãy nghe pháp theo loại nghe pháp thứ ba vừa nói trên, không nên nghe pháp theo kiểu bắn súng hay hóa thân làm cái rỗ mà nghe pháp.

______

CHÚ THÍCH:

(1) Lý do: Nhân duyên

(2) Bản khác là “Tin Phật chưa lâu”. Nghĩa là, tuy đời này đến với Phật pháp chưa bao lâu, nhưng đã có niềm tin đối với Phật. Văn của hai bản tuy thấy khác nhưng cùng một ý nghĩa.

(3) Thứ gì được lặp lui lặp tới thành thói quen rồi, khi đủ điều kiện nó sẽ hiện ra. Đây giải thích vì sao có các thần đồng về âm nhạc, toán học v.v… cũng giải thích vì sao có người nghe đến Phật và kinh thì ưa mà có người thì không, có người tin hiểu pháp Đại thừa, có người tin hiểu pháp Nguyên thủy … Đều do sự huân tập trước đây.

(4) Bản khác “Nhất định sẽ mau hiểu pháp, tâm được vô ngại”.

(5) Gặp được pháp và vị thiện tri thức mà mình đã từng có nhân duyên từ những đời trước.

(6) Nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín – phần HUÂN TẬP KHỞI TỊNH PHÁP CHẲNG DỨT - sẽ thấy 2 loại sở kiến báo và hóa thân này.

(7) Tuy đều là ngộ nhưng có thô và tế. Thô là chỉ cho niềm tin hoặc báo thân Phật. Tế là chỉ cho pháp thân Phật, tức tự tánh chân như của chính mình. Duy Thức Học gọi cảnh giới tự tánh chân như ấy là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH.

(8) “Vô tỷ, bất tư nghì”: Không có gì bì đọ, cũng chẳng thể nghĩ bàn.

(9) Đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín – dịch và giải Chân Hiền Tâm

(10) Chỉ cho tâm phân biệt hiện nay của mình, luôn luôn có chủ thể và đối tượng để nhận thức. Đó chính là ý thức.

(11) Bản Hán của ngài Bạt Đà La là “Nhiếp trì tất cả pháp”.

(12) Bản Hán của ngài Bạt Đà La ghi là KÍNH LỄ.

(13) Lời của HT Trụ trì thiền viện Thường Chiếu

(14) Được biểu hiện ở địa vị vương phi hiện tại và qua 10 lời thệ nguyện cùng 3 đại nguyện sau của bà.

(15) Nghiệm chính bản thân mình thì sẽ thấy điều này.

(16) Theo Vãng Sanh Yếu Tập, nó là điều vui thứ 4 ở cõi Cực lạc, gọi là “Ngũ diệu cảnh giới lạc” - Tự điển Phật Học Huệ Quang.

(17) Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

(18) Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

(19) Thói quen về suy nghĩ thì gọi là định kiến, về hành động gọi là tập nghiệp.

(20) Với người đời, những gì thuận với tánh dục của mình là mình hạnh phúc. Song thuận theo cái dục ấy có khi đưa đến kết quả tốt, nhưng có khi dẫn đến kết quả rất xấu. Vì thế, khiến người được hạnh phúc sung sướng không hẳn đã là làm lợi ích cho người.

(21) LY nghĩa là không có các thứ đó hay không dính với các thứ đó (Do nhận ra được thực tướng của chúng). Nhờ vậy, chư vị Bồ tát mới có phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh.

(22) Vì chỉ mới trực nghiệm được phần THỂ.

(23) Vì đã đầy đủ cả thể, tướng và dụng.

(24) Được nói đầy đủ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

(25) Như pháp bố thí, muốn gọi là BỐ THÍ BA LA MẬT thì phải hội đủ 5 điều kiện:

1/ Cho mà không được nhiễm trước: Không vì thương mà cho, không dính mắc vào việc cho ấy v.v…

2/ Cho mà không luyến tiếc: Cho rồi thì thôi, không suy nghĩ đúng sai gì nữa.

3/ Cho mà không gây tội lỗi: Cho không theo kiểu quăng ra hay nặng nhẹ cho xứng với thứ mình cho, cũng không sanh tâm kiêu ngạo.

4/ Cho mà không phân biệt: Không phải người mình thương mình mới cho, ghét thì miễn. Không phải người thân của tôi tôi mới cho. Cho là cho, như Phật tặng vợ tặng con của ngài.

5/ Cho mà hồi hướng chân chính: Tất cả công đức có được từ việc bố thí đều hồi hướng cho con đường Phật đạo, không phải để tìm quả báo sung sướng ở cõi trời và người.

(26) So với cái thấy của phàm phu thì cái thấy của Nhị thừa được xếp vào loại chánh trí. Song so với trí tuệ của các vị Bồ tát đăng địa và chư Như Lai thì trí Nhị thừa vẫn bị cho là thiên lệch. Đây là mặt DUYÊN KHỞI của vạn pháp. Một khi đã nói đến tốt, xấu, chánh, tà thì phải nói đến DUYÊN. Còn tánh của pháp thì không có tính tốt, xấu, chánh, tà. Chỉ tùy duyên mà hiển tướng.

(27) Còn gọi là duyên sanh. Pháp ở thế gian không có gì TỰ xuất hiện mà phải NHỜ duyên mới xuất hiện được nên gọi là duyên khởi. Như con gà không thể tự xuất hiện. Phải có các DUYÊN như gà mái, gà trống, lương thực, thời tiết v.v… mới có gà con. Vì pháp xuất hiện là nhờ duyên nên gọi là DUYÊN KHỞI, là do duyên mà khởi, do duyên mà thành.

Trong các phần DUYÊN để tạo ra pháp mới đó, có một DUYÊN QUYẾT ĐỊNH và những DUYÊN PHỤ TRỢ. Như gà thì phải từ giống gà ra chứ không thể từ nước hay từ thóc. Duyên quyết định đó, gọi là NHÂN. Các duyên phụ còn lại gọi là DUYÊN. Chính hay phụ đều phải đầy đủ, pháp mới xuất hiện. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN DUYÊN.

Đã đủ nhân và duyên thì pháp chắc chắn thành hình. Pháp thành hình ấy gọi là QUẢ. Trường hợp này, tất cả duyên phụ và nhân chính đều gọi chung là NHÂN. Gọi chung là NHÂN vì do đối với QUẢ mà nói. Vì tất cả đều là thứ góp phần sinh ra QUẢ. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN QUẢ. 3 thứ Nhân Quả, Nhân Duyên và Duyên Khởi này tuy có 3 tên khác nhau nhưng vẫn có phần dung thông không khác.

(28) Đó là với những người đã đủ duyên. Những người mà duyên chưa đủ thì chưa chắc đã tin mà làm theo …

(29) Thô là chỉ cho Nhân Duyên, Nhân Quả. Tế là chỉ cho chỗ “4 tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập”. 4 tướng đây là chỉ cho 4 tướng sanh - trụ - dị – diệt của tâm. Của tâm mà cũng là của vạn pháp. Hội được chỗ Nhân Quả đồng thời này là hội được chỗ sanh ra thức tâm. Mới hay, vạn pháp chỉ là tướng của tâm, còn “Tâm chân thật chính là tánh của tất cả các pháp”. Muốn nắm được phần này thì nghiên cứu 9 tướng bất giác trong luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm.

(30) Như thấy nước trên sa mạc, không hiểu đó là ảo ảnh lại tranh tàn giết chóc để lấy bằng được nước đó.

(31) Thế gian là có, là không, là không có không không, là vừa có vừa không.

(32) Với loại tập khí sâu dày, không đau khổ thấu xương thấu tủy không dễ gì bỏ được.

(33) Không khác nhưng không phải một. Nhờ cái KHÔNG KHÁC này nên dù lực oai thần của Phật sẵn đó mà chỉ có bà mới nương vào đó giảng nói được, còn người khác thì không nương được.

(34) Phương tiện là những thứ giúp trí vô sư hiển bày, không phải là thứ tạo ra trí vô sư ấy. Trí ấy sẵn đủ trong mọi chúng sanh, chỉ vì bị vô minh che lấp mà không sử dụng được nó.

(35) Không có bờ mé.

(36) Đây, nói về những người có chất lượng Đại thừa, không phải là người chỉ có danh xưng Đại thừa.

(37) Đây là nêu tạm phần thô để ta hình dung. Phần phiền não tương tục này còn phần tế. Dưới sẽ giải thích rõ.

(38) Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm.

(39) Theo luận Đại Thừa Khởi Tín thì tâm bất tương ưng này phân thành 3. Do vô minh nghiệp tướng mà có cái thấy hư vọng và hiện cảnh giới hư vọng. Do vô minh mà có CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, tương đương với phần VÔ MINH TRỤ ĐỊA nói đây. Cái thấy hư vọng ấy gọi là NĂNG KIẾN BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Phần hiện cảnh giới hư vọng gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Qua được 3 cái nhiễm ấy thì thành Phật. Cái định của A La Hán và Bích Chi Phật đều là cảnh giới của phần Năng Kiến, tùy thô tế mà có A La Hán hay Bích Chi Phật. Chỉ có Phật mới phá được phần Căn Bản.

(40) Ngoài Phật, tất cả đều gọi là chúng sanh.

(41) Gặp những duyên phù hợp với tập khí của mình, như người nghiện rượu gặp lại rượu, người có chủng tử âm nhạc trong tàng thức gặp lại âm nhạc.

(42) Phần này, Bồ tát Long Thọ giải thích rõ trong luận Đại Trí Độ.

(43) Tâm do bất giác mà thành thức. Bởi thức này không có bờ mé, thâu gom tất cả, lại là thứ ẩn tàng khó thấy, nên gọi là thức tạng.

(44) THỦ còn gọi là PHIỀN NÃO. Nên Thành Duy Thức Luận nói nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não làm duyên, sinh ra thân phần đoạn của chúng sanh. Thành Duy Thức Học phân cái THỦ này thành 4 loại.

(45) Theo kinh Lăng Già Tâm Ấn, phải đến địa vị thứ 3 trở đi mới có ý sanh thân.

(46) Luận Thành Duy Thức.

(47) Luận Thành Duy Thức trang 128 – Bản dịch của HT Thiện Siêu.

(48) Phần tu hành này đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

(49) Muốn biết chi tiết xin xem luận Đại Trí Độ tập II, trang 165. Bản dịch của HT Thiện Siêu.

(50) Muốn biết chi tiết về phần này, xin xem luận Đại Trí Độ tập II trang 120. Bản dịch của HT Thiện Siêu.

(51) Luận Đại Thừa Khởi Tín.

(52) Như một khi nhận ra vàng giả thì dù sử dụng nó thế nào, mình cũng không còn bị nó làm lầm để đến nỗi tan thân mất mạng.

(53) Nói theo nhà thiền là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh.

(54) Âm Hán: Sanh dị phân biệt.

(55) Muốn rõ hơn về phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín hoặc Duy Thức Học.

(56) Kinh Đại Niết bàn, phần Tứ Y.

(57) Vốn, nghĩa là bản chất của nó không có sanh tử.

(58) Ngài Hiền Thủ nói “Nay Tịnh độ của Nhất thừa tuy chỉ có ở Phật mà chẳng xả thân nghiệp chúng sanh cùng các pháp. Tuy chẳng xả mà chẳng đồng phần hạn. Tuy chẳng đồng mà tức là đó. Giống như trong mộng mà thấy các vật thế gian, chỉ là giác tâm lượng. Tuy là giác tâm lượng mà không như mộng kế. Tuy chẳng như mộng kế mà chẳng bỏ các pháp được thấy trong mộng”.

(59) Muốn rõ phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín.

(60) Không lìa đây muốn diễn tả tình trạng như nước và sóng. Do duyên gió mà nước biến thành sóng, tướng nước không phải là tướng sóng nhưng bản chất của sóng vẫn là nước. Không phải KHÔNG LÌA là tham sân si không bao giờ hết. Hết duyên gió thì sóng không còn. Hết duyên vô minh thì tham sân si không còn. Chỉ là một Như Lai Tạng thanh tịnh.

(61) “Thấu suốt về cái LÝ của mọi sự mọi vật” là muốn nói đến tính chi phối bao quát của nó mà gọi là LÝ, không hẳn là nói đến chỗ rốt ráo.

(62) Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của thiền sư Hàm Thị. Bản dịch của TT Phước Hảo. Phần thức ấm thuộc Ngũ ấm ma.

(63) Đây là nói đến sự trực nghiệm của tâm, không phải là niềm tin hay ngộ theo kiểu trong đầu bực ra các kiến giải.

(64) Dịch thuận theo văn là “Mà tướng ngã nhân chẳng thể đến được, còn có sở liễu”.

(65) 如來藏者。身見有情。顛倒有情。空見有情。非所行境

(66) Kinh Niết bàn nói Phật tánh thường, là do đối trị cái chấp vô thường của hàng Thanh văn. Vì có chấp mới lập kinh ra để phá cái chấp ấy.

(67) Với người thường thì khó cảm nhận chỗ này. Nhưng ai từng hàng phục vọng tâm sẽ thấy rất rõ. Như người từng miên mật với pháp Biết Vọng của Hòa thượng Thanh Từ chẳng hạn. Sẽ thấy rõ cái đi và đến không vướng bận như mây trên hư không, như bụi lấm tấm trong hư không này.

(68) Trích trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

Mục Lục

Lời nói đầu

1/ Nhân Duyên Thắng Man Gặp Phật

2/ 10 Hoằng Thệ

3/ Ba Đại Nguyện

4/ Nghĩa Quảng Đại Của Nhiếp Thọ Chánh Pháp

5/ Thực Tướng Của Nhiếp Thọ Chánh Pháp Và Chánh Pháp

6/ Ý Nghĩa Của 6 Độ Ba La Mật

7/ Xả Bỏ Thân Mạng Và Tài Sản Để Nhiếp Thọ Chánh Pháp

8/ Lời Ca Ngợi Của Đức Phật Đối Với Việc Nhiếp Thọ Chánh Pháp

9/ Nhiếp Thọ Chánh Pháp Chính Là Nhiếp Thọ Đại Thừa

10/ Sự Khác Nhau Giữa Phật Và La Hán

11/ Hai Loại Tử

12/ Ba Thứ Vô Minh

13/ Như Lai Tạng

14/ Tác Thánh Đế Và Vô Tác Thánh Đế

15/ Không Và Bất Không Như Lai Tạng

16/ Tịnh Trí Của Thanh Văn Và Duyên Giác

17/ Bốn Trí Nhập Lưu

18/ Giải Thích 4 Tướng Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả Theo Kinh Viên Giác

19/ Ba Loại Người Có Thể Thành Tựu Đại Pháp

20/ Lời Phó Chúc Của Đức Phật

Chú Thích.