Tịnh Độ Luận

Pháp môn Tịnh độ là chiếc bè Từ mầu nhiệm, Giải thoát chúng sanh khỏi cảnh khổ đau phiền não trong thời Mạt pháp.

Thuở xưa, Đức Thế Tôn đã dạy: “Vô lượng Bồ tát ở mười phương thế giới muốn nghe thuyết về Pháp môn Tịnh độ mà không được toại nguyện. Giả sử khắp tam thiên đại thiên thế giới bị nạn hỏa thiêu, nếu ai cầu được nghe giảng về Pháp môn Tịnh độ mà phải băng qua miền lửa cháy ấy thì cũng cố nên vượt qua để được nghe Diệu Pháp này.” Lời Phật đã dạy như vậy, đủ tỏ giá trị siêu việt của Pháp môn Tịnh độ, hay Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc đến mức độ nào vậy.

Tịnh độ tông chẳng những thuộc về Nhiếp môn, mà còn thuộc cả về Chiết môn nữa, tức là kiêm cả cầu được vãng sinh Cực lạc quốc và Kiến tánh Minh tâm.


Tịnh Độ Luận

(Vấn Đề Cơ Bản Của Triết học Phật Giáo)

Minh Đức - Thanh Lương

Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. PL. 2545 – DL. 2001 bttdtkvn

Mục Lục

Phần I

Chương 1: Chân Giá Trị Của Pháp Môn Tịnh Độ.

Chương 2: Vài Dòng Sử Liệu Về Pháp Môn Tịnh Độ.

Phần II

Chương 3: Những Nghi Vấn Chung Quanh Vấn Đề Niệm Phật A Di Đà Cầu Vãng Sinh Tây Phương Cực Lạc.

Phần III

Chương 4: Nhận Định Về Nghi Vấn: Có Hay Không Có Phật A Di Đà Và Cõi Tây Phương Cực Lạc.

Chương 5: Nhận Định Về Vấn Đề Đới Nghiệp Vãng Sinh.

Chương 6: Nhận Định Về Một Số Quan Niệm Sai Lầm Thông Thường Của Người Thời Đại.

Mục 1. Thuyết Nhị Nguyên

Mục 2. Thuyết Hư Vô Chủ Nghĩa

Mục 3. Tri Và Hành

Chương 7: Nhận Định Về Nghi Vấn: Lời Phật Và Lời Tổ Dạy Có Mâu Thuẫn Nhau Không?

Mục 4. Chân Đế Và Tục Đế

Mục 5. Lý Chân Không Diệu Hữu Và Trung Đạo

Chương 8: Nhận Định Về Sự Lý Niệm Phật

Chương 9: Mục Tiêu Tối Thượng Của Hai Bộ Kinh A Di Đà Và Địa Tạng

Chương 10: Mối Liên Hệ Giữa Tịnh,Thiền Và Duy Thức.

Mục 6. Nghi Vấn Về Mâu Thuẫn Giữa Tịnh Và Thiền.

Chương 11: Nhận Định Về Tha Lực Và Tự Lực.

Chương 12: Phương Pháp Tu Để Được Vãng Sinh Tịnh Độ Hay Trở Về Với Chân Tâm Của Mình.

Mục 7. Phương Pháp Tu Của Phái Tịnh Độ Thuần Tuý.

Mục 8. Phương Pháp Tu Của Phái Thiền, Tịnh Song Tu.

Mục 9. Kết Quả Công Phu Niệm Phật A Di Đà.

Chương 13: Đào Sâu Vào Lý Bất Nhị

Mục 10. Nhận Định Về Vấn Đề Sống, Chết

Mục 11. Nhận Định Về Vui Buồn, Sướng Khổ, Thiện Và Ác.

Mục 12. Nhận Định Xà Và Gần.

Mục 13. Nhận Định Về Dễ Tu Và Khó Tu - Nghịch Cảnh Và Thuận Cảnh.

Chương 14: Nhận Định Về Không Gian Và Thời Gian

Mục 14. Lý Tương Đối Của Các Pháp Trong Vũ Trụ

Mục 15. Vũ Trụ Và Con Người.

Mục 16. Đạo Và Đời.

Chương 15: Nhận Định Về Các Cõi Tịnh Độ.

Phần IV: Kết Luận

PHẦN MỘT

Chương 1: Chân Giá Trị Của Pháp môn Tịnh Độ.

Kính thưa quý vị.

Đề tài mà tôi có duyên được trình bày cùng quý vị hôm nay thuộc một lãnh vực rất phổ thông, song cũng rất quan trọng, bởi vì nó liên hệ đến rất nhiều người theo đạo Phật: đó là Pháp môn Tịnh độ, một Pháp môn mà hầu hết các Phật tử đều quen biết.

Pháp môn Tịnh độ là chiếc bè Từ mầu nhiệm, Giải thoát chúng sanh khỏi cảnh khổ đau phiền não trong thời Mạt pháp.

Thuở xưa, Đức Thế Tôn đã dạy: “Vô lượng Bồ tát ở mười phương thế giới muốn nghe thuyết về Pháp môn Tịnh độ mà không được toại nguyện. Giả sử khắp tam thiên đại thiên thế giới bị nạn hỏa thiêu, nếu ai cầu được nghe giảng về Pháp môn Tịnh độ mà phải băng qua miền lửa cháy ấy thì cũng cố nên vượt qua để được nghe Diệu Pháp này.” Lời Phật đã dạy như vậy, đủ tỏ giá trị siêu việt của Pháp môn Tịnh độ, hay Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc đến mức độ nào vậy.

Thời nay, chính là lúc Pháp môn Tịnh độ đang cần hơn bao giờ hết cho nhân loại, phần đông Đức tin không vững, lại thêm căn cơ thiển bạc cho nên, muốn đạt tới chính quả thì phi con đường Tu Tịnh nghiệp, e khó tìm lối đi khác để Giải thoát tâm linh dễ hơn và có hiệu quả hơn. Trên đường tu, người quyết tâm tu hành thường gặp nhiều chướng ngại; trong nội tâm, phiền não đua nhau quấy phá, làm cho lục dục thất tình đốt cháy tâm can; ở ngoại trần, cảnh vật lại khích động tà tâm, khiến cho tham, sân, si nổi dậy, làm mê mờ Chân tánh, thần trí hóa hôn ám, tâm thức trở thành thác loạn. Nội ma, ngoại ma, trong ngoài cấu kết, dệt nên màn lưới vô minh dầy đặc bao phủ Chân tâm, khiến con người không còn thấy đâu là Chân lý nữa. Để đối phó với các chướng ngại vật đó, người tu cần giữ Tâm bình tĩnh, mà phương pháp an tâm dễ dàng và hiệu nghiệm, trong bất kỳ trường hợp nào, trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, là Trì danh hiệu Phật A Di Đà.

Trong 12 tông phái của Đạo Phật, trừ hai tông thuộc Tiểu thừa (là Thành Thật tông và Câu Xá tông) còn 10 tông phái thuộc Đại thừa, thì 9 tông thuộc về Chiết môn dạy cách tiêu trừ nghiệp chướng, phá hủy vô minh, để trở về với Chân tâm, bản tánh của mình (như Luật tông, Mật tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Thiên Thai tông, Không tông Bát nhã, Tam Luận tông, Niết Bàn tông, Hoa Nghiêm tông), còn lại một tông thuộc về Nhiếp môn, tức là Pháp môn tiếp dẫn người niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh độ. Tuy nhiên, Tịnh độ tông chẳng những thuộc về Nhiếp môn, mà còn thuộc cả về Chiết môn nữa, tức là kiêm cả cầu được vãng sinh Cực lạc quốc và Kiến tánh Minh tâm.

Pháp môn Niệm Phật A Di Đà đã hợp thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp đủ cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật là viên mãn, không có tông phái nào khả dĩ vượt qua nổi. Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của Chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời, ngang lại gồm thâu tám giáo, và điểm son của Pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà tiến thẳng đến ngôi bất thoái, không như các Pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở tu, sở chứng, làm cho Tâm thoái chuyển, lại phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do đó Pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.

Chương 2: Vài Dòng Sử Liệu Về Pháp môn Tịnh Độ.

Bàn về Pháp môn Tịnh độ mà không nói vài lời về sử liệu liên quan tới Pháp môn này e thiếu sót.

Pháp môn Tịnh độ được xây dựng trên ba bộ kinh:

1. Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển, còn gọi là Đại Kinh hay Đại Bản, hoặc Kinh Vô Lượng Thọ, do Khương Tăng Khải đời Tào Nguỵ dịch, nói về tiền thân Phật A Di Đà, khi Ngài còn là Quốc vương Vô Tránh Niệm, sau trở thành Pháp Tạng Tỳ kheo, đã phát ra 48 lời đại nguyện để cứu chúng sinh thoát vòng Sinh tử.

2. Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, một quyển, gọi tắt là Quán Kinh, do Cương Lương Da Xá đời Lưu Tống dịch, nói về các pháp quán tưởng Phật A Di Đà với cảnh Cực lạc Tây phương.

3. Phật Thuyết A Di Đà Kinh, một quyển, gọi tắt là Tiểu Kinh, Tiểu Bản, hay Kinh A Di Đà, do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) đời Diệu Hưng (401 TL) dịch, tả quang cảnh trang nghiêm hạnh phúc tuyệt vời ở miền Cực lạc Tây phương, và một bộ Luận quan trọng do Thế Thân trứ tác nhan đề “Vãng Sinh Tịnh Độ Luận”, được Bồ Đề Lưu Chi (Bodhirici) dịch, tóm thâu ý nghĩa các bộ trên.

Riêng bộ Kinh A Di Đà, văn phong ngắn gọn, lời Kinh chải chuốt như một bài thơ trường thiên, được phổ biến rộng rãi hơn các bộ Kinh khác của đạo Phật, được chọn cùng với Kinh Địa Tạng là Kinh cầu siêu, nên hầu hết các Phật tử trong những ban Hộ niệm ở các chùa thuộc lòng.

Một đặc điểm của tông Tịnh độ là tuy trong tông này có nhiều vị danh Sư nổi tiếng, nhưng lại không có hệ thống truyền thừa như các tông khác. Các Tăng, Ni, Phật tử đời sau, tuy vậy cũng đã chọn trong các tín đồ tu Tịnh nghiệp, trải qua các thời đại, được công nhận là có đạo hạnh và kiến thức siêu quần, lại có công đức lớn hộ trì Chánh pháp sinh thời, cùng những triệu chứng linh ứng lúc viên tịch, suy tôn được 13 vị làm Tổ sư trong Liên tông theo thứ tự như sau:

1. Lô Sơn Tuệ Viễn (334 - 416 TL) đời Đông Tấn làm Sơ Tổ.

2. Quang Minh Thiện Đạo (613 - 681 TL) đời Tùy, đệ nhị Tổ.

3. Bát Châu Thừa Viễn đời Đường, đệ tam Tổ.

4. Ngũ Hội Pháp Chiếu đời Đường, đệ tứ Tổ.

5. Đại Nham Thiếu Khang đời Đường, đệ ngũ Tổ.

6. Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống (... - 975), đệ lục Tổ.

7. Chiêu Khánh Tỉnh Thường đời Tống, đệ thất Tổ.

8. Vân Thê Châu Hoằng (1535 - 1616), hiệu Liên Trì, đời Minh, đệ bát Tổ.

9. Ngẫu Ích Trí Húc (1599 - 1655) đời Thanh, đệ cửu Tổ.

10. Phổ Nhãn Hành Sách tự Triệt Lưu đời Thanh, đệ thập Tổ.

11. Tiên Lâm Thật Hiền (1686 - 1734) hiệu Tỉnh Am đời Thanh, thập nhất Tổ.

12. Tư Phúc Tế Tỉnh đời Thanh, thập nhị Tổ.

13. Linh Nham Ấn Quang húy Thanh Lương, hiệu Thường Tâm, đầu đời Dân Quốc, thập tam Tổ.

Ngài Tuệ Viễn (334 - 416) họ Cổ, quê ở Nhạn Môn (Sơn Tây), toạ chủ chùa Đông Lâm tại Lô Sơn (Giang Tây) có công đầu trong việc truyền bá Pháp môn Tịnh độ, vì Ngài đã lập ra Bạch Liên Xã, một hội quy tụ Phật tử xuất gia lẫn tại gia, sáu thời chuyên tâm niệm Phật A Di Đà. Tương truyền tiếng niệm Phật, tụng Kinh, cách Lô Sơn hàng dặm đường còn nghe thấy rõ. Hội này mỗi ngày một bành trướng, tràn lan khắp nơi vượt qua biên giới nước Trung Hoa sang Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản... gây thành phong trào thu hút đông đảo quần chúng theo đạo Phật, từ thành thị tới thôn quê, từ người thất học tới bậc tri thức, từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, ai ai cũng có thể theo Pháp môn niệm Phật được cả. Hội viên Bạch Liên Xã còn có sáng kiến lập ra mỹ tục chào hỏi nhau bằng cách xưng danh hiệu Phật A Di Đà. Thói quen đó có một sức mạnh thần bí, nhiệm mầu, làm cho đạo Phật nói chung, và Pháp môn Tịnh độ nói riêng bành trướng mau lẹ. Mấy tiếng hồng danh biến thành những hạt giống Bồ đề huân sinh, huân trưởng vào tiềm thức của người dân ở các nước theo đạo Phật.

Ngài Tuệ Viễn lại còn thu phục được nhân tâm thiên hạ bằng việc, ngang nhiên trong thời phong kiến, tỏ thái độ trí dũng bất khuất của nhà Phật viết bài: “Sa môn bất bái Vương giả luận”, gửi tới triều đình phản đối việc buộc Ngài phải nghênh đón và bái yết nhà vua, khi xa giá đi ngang qua địa hạt Lô Sơn, nơi có ngôi chùa mà Ngài trụ trì.

Bài văn đó lời lẽ sâu sắc, đanh thép, khiến nhà vua phải vì nể và mặc nhiên chấp thuận quan điểm của Ngài, đủ tỏ uy tín của Đại sư lúc đó lớn lao tới bậc nào.

Ngài Đạo Xước (562 - 645 TL) Sư phụ của Ngài Thiện Đạo, đã giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ tới 200 lần, và mỗi ngày niệm danh hiệu Phật A Di Đà tới 70.000 lần, còn để lại cho đời sau bộ An Lạc Tập, trong đó phô bày những tư tưởng của Long Thọ, so sánh việc khó tu của Thiền và dễ tu của Tịnh, cùng những tư tưởng về Tự lực và Tha lực của Đàm Loan để khuyến khích mọi người nên tu Tịnh nghiệp. Ngài còn có sáng kiến chế ra chuỗi tràng hạt để tiện việc đếm những câu niệm Phật cho khỏi quên, giúp ích nhiều cho người sơ cơ mang tâm vọng động.

- Các vị Tổ trong Liên tông, đa số đều biết trước giờ chết, lúc lâm chung thường ngồi kiết già, niệm Phật mà hóa, đủ chứng tỏ các Ngài đã chứng quả Vô sanh.

- Noi gương Tổ Tuệ Viễn, nhiều vị đã lập ra những hội Niệm Phật khắp nơi. Tổ Pháp Chiếu còn phổ nhạc để quảng bá việc niệm Phật.

Ngài Chiêu Khánh Tỉnh Thường đã tự chích máu để viết phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm, do đó, hội Niệm Phật của Ngài còn có tên là Tịnh Hạnh Xã, quy tụ rất đông Phật tử.

Ngài Quang Minh Thiện Đạo sao chép mười vạn cuốn Kinh A Di Đà để quảng bá Pháp môn Tịnh độ trong đại chúng. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, vì lập được nhiều công đức, nên Ngô Việt Vương cùng người đương thời ca tụng và suy tôn Ngài là hóa thân Phật A Di Đà, do đó mà hàng Phật tử mới lấy ngày sinh của Ngài là ngày 17 tháng 11 âm lịch là ngày vía Phật A Di Đà (cũng có thuyết cho rằng ngày đó là ngày kỷ niệm Tổ Tuệ Viễn viên tịch, không biết thuyết nào là đúng). Toàn thể chư Tổ trong Liên tông, vị nào cũng để lại cho hậu thế những bộ Luận về Pháp môn Tịnh độ có giá trị, như bộ Di Đà Sớ Sao, bộ Tịnh Độ Tứ Thập Bát Nguyện vấn đáp và Vãng Sinh Tập của Ngài Vân Thê Châu Hoằng, bộ Tịnh nghiệp Đường Quy Ước, và bài văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm của Ngài Thật Hiền, bộ Ngữ Lục của Ngài Tế Tỉnh, với lời văn thiết tha kêu gọi người đời nên tu Tịnh nghiệp. Đặc biệt hơn cả, Ấn Quang Đại sư gần đây đã tận lực hoằng dương Pháp môn Tịnh độ bằng cách phát hành hàng trăm ngàn bộ Kinh Phật và hàng trăm triệu bức hình Phật A Di Đà cùng Tam Thánh, do đó mà Phật tử khắp nơi xu hướng về Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh, ngày càng đông.

Lịch sử Pháp môn Tịnh độ gắn liền với lịch sử nước Trung Hoa. Những thời vàng son hay đen tối của Pháp môn Tịnh độ cũng là những thời kỳ xán lạn hay lầm than đau khổ của người dân Trung Quốc, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử.

- Nguồn gốc: Khởi nguyên từ Ấn Độ, Pháp môn Tịnh độ được một số Phạm Tăng truyền vào Trung Quốc, qua ngã đường bộ, dưới đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán, cuối thế kỷ thứ 2 TL.

- Dịch Kinh: Thời kỳ dịch Kinh diễn ra dưới các triều đại Hậu Hán, Tam Quốc và Tây Tấn (thế kỷ thứ 3 TL).

- Thời kỳ phát triển: Dưới thời Đông Tấn (317 - 419) với sự xuất hiện của Ngài Tuệ Viễn (334 - 416 TL), Pháp môn Tịnh độ tiến dần vào lòng dân tộc Trung Hoa.

- Pháp nạn: Đạo Phật ở Trung Quốc phải qua bốn thời kỳ pháp nạn, một phần do lòng đố kỵ của một số Nho gia và Đạo sĩ trong nước, trước sức bành trướng mau lẹ của Phật giáo, một phần do chính sách hà khắc tham tàn của một số vua, quan, thấy quốc khố ngày càng hao hụt bởi nạn can qua, mới xảy ra việc tịch thu tài sản của một số tự viện, quốc hữu hóa ruộng đất của nhà chùa, và lấy tượng Phật và chuông đồng để đúc tiền. Bốn thời kỳ pháp nạn này được gọi là Tam Võ, Nhất Chu (Võ Đế đời Bắc Nguỵ, 416 TL; Võ Đế đời Bắc Chu 577 TL; dưới Nam Bắc Triều 420 - 588 TL, Võ Tôn đời Đường 842 TL, và Thế Tôn đời Hậu Chu 955 TL. Xét về thiệt hại thì hai thời kỳ Pháp nạn đầu và cuối không thấm vào đâu, tuy nhiên số tổn thất sau hai thời kỳ này cũng lên tới hàng vạn Tăng, Ni phải hoàn tục. Pháp nạn thứ hai dưới Võ Đế đời Bắc Chu 577 TL được coi như đánh dấu bước đầu vào thời Mạt pháp của đạo Phật vì đó là lần pháp nạn quan trọng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, số tổn thất lên tới ba triệu Tăng, Ni phải hoàn tục và hàng vạn ngôi chùa bị phá hủy hoặc tịch thu.

- Thời hoàng kim của Pháp môn Tịnh độ được diễn ra:

1. Dưới nhà Tùy (589 - 618) và nhà Đường (618 - 907). Trong thời gian này, toàn thể các tông phái Phật giáo đua nhau phát triển song song với Nho giáo, gây một cảnh tượng trăm hoa đua nở. Nhiều vị danh Tăng xuất hiện, trong đó có Trí Khải hay Trí Giả Đại sư trong Thiên Thai tông (528 - 597 TL) đã hết lòng hoằng dương Pháp môn Tịnh độ. Riêng trong Liên tông cũng có nhiều vị xuất sắc, lập ra những dòng Tịnh độ khác nhau. Ngoài dòng của Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn là Tuệ Viễn Lưu chủ trương Quán tưởng niệm Phật, còn có Thiện Đạo Lưu do Thiện Đạo (613 - 618 TL), chùa Quang Minh, học trò của Đạo Xước (562 - 645 TL) lập ra, chú trọng về Khẩu xưng niệm Phật, và Từ Mẫn Lưu do Từ Mẫn Tuệ Nhật (680 - 748 TL) đi cầu pháp tại Ấn Độ bằng đường thủy, trực tiếp kế thừa Tịnh độ giáo tại Thiên Trúc trở về nước lập ra, và chú trọng về Đức tin hay Thiện căn niệm Phật. Gần ba thế kỷ phát triển rực rỡ dưới hai triều Tùy, Đường, Phật giáo được toàn thịnh. Tiếc rằng cuối nhà Đường xảy ra nạn Võ Tôn phá Phật trong năm Hội Xương thứ 2 (842 TL), do sự ganh tỵ của một số Đạo sĩ đương thời. Kỳ pháp nạn này là lần thứ ba, kéo dài năm năm, kết quả có 44.600 ngôi chùa bị phá hủy, và 26.500 Tăng, Ni phải hoàn tục, đứng hàng thứ nhì về tổn thất trong bốn kỳ pháp nạn ở Trung Quốc. Tới năm Hội Xương thứ 6, Võ Tôn mất, Tuyên Tôn nối ngôi lại ra sức phục hưng đạo Phật, mong chuộc tội cho tiền nhân.

Kỳ pháp nạn lần thứ tư diễn ra dưới đời Hậu Chu (955 TL) kết thúc thời Ngũ Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu) 907 - 960 TL của lịch sử Trung Quốc, đưa Phật giáo nước này dần dần đi vào thời đuối sức không đủ lực để phát huy rực rỡ như trước nữa. Nhưng có một hiện tượng rõ rệt đã xảy ra dưới Tống triều là ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ đối với Nho học Trung Quốc, vì nhờ những tư tưởng cao siêu của Phật giáo mà Nho học phục hưng được nền Khổng học và đã chứng kiến được sự nảy nở ngoạn mục của đóa hoa Văn học Trung Quốc, mệnh danh là Lý Học. Chính nhờ có sự mở đường dung hòa của Nho giáo nhập thế với Đạo giáo (Lão, Trang) xuất thế, mà có một hệ thống Triết học Tự nhiên - Siêu nhiên, do đó mà nền Nho học đời Tống, Minh mới thâu hóa được của Phật học những điểm thiếu sót ở Khổng học sơ thủy để trở thành một hệ thống Triết lý nhân sinh đầy đủ cả Hình nhi thượng lẫn Hình nhi hạ học.

2. Dưới đời nhà Tống (960 - 1279 TL) Pháp môn Tịnh độ tuy còn duy trì được cảnh tà huy của thời vàng son xưa, nhưng không còn được coi là một Pháp môn thuần túy riêng biệt như xưa dưới đời Tùy, Đường nữa, mà đã biến chất, pha trộn để trở thành một Pháp môn chung của các Tông khác như Thiền, Luật, Mật, Hoa Nghiêm và Thiên Thai. Đặc biệt Tịnh độ giáo thuộc hệ phái Thiên Thai lại rất phồn thịnh. Nhiều vị cao Tăng đã xuất hiện trong thời kỳ này như: Diên Thọ Vĩnh Minh (tịch năm 965 TL) chủ trương Niệm Thiền nhất trí; Châu Khánh Tỉnh Thường ở Hàng Châu cùng với Tuân Thúc (Bảo Vân); Trí Lễ (Diên Khánh) và Linh Chiếu (Siêu Quả) tỉnh Triết Giang đã lập được nhiều hội Niệm Phật A Di Đà như ở Lô Sơn. Đồng thời cũng có nhiều vị Cư sĩ như Vương Trung ở Hàng Châu, Phùng Ấp ở Tứ Xuyên và Trương Luân ở Từ Châu cũng đua nhau lập hội Niệm Phật theo gương Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn, gây được phong trào sôi nổi, lôi cuốn quần chúng tu Tịnh nghiệp.

Cuối nhà Tống, nền kinh tế quốc gia lâm nguy vì nạn chiến tranh liên tiếp phải đương đầu với các dân tộc Kim, Liêu ở phương Bắc (Mãn Châu), triều đình nhà Tống phải hạ sách lược bán độ điệp cho chư Tăng để lấy tiền sung công quỹ. Ai có độ điệp trong tay được miễn lao công tạp dịch. Vì độ điệp không ghi danh tánh người được cấp mà lại để trống tên tuổi, nên đã biến thành một loại công khố phiếu vô danh, được bán đi bán lại nhiều lần với giá càng ngày càng tăng, do sự phá giá của đồng tiền, bởi thế gây thành tệ nạn tham nhũng, khuyến khích kẻ có tiền đua nhau xuất gia, mua độ điệp để kiếm lời và trốn nghĩa vụ lao động cưỡng bách, khiến cho chính, tà khó phân biệt và đưa Phật giáo Trung Quốc vào đường đồi trụy.

3. Tới nhà Nguyên (1279 - 1367) và nhà Minh (1368 - 1661) còn thấy thấp thoáng bóng một vài vị Cao Tăng hết lòng hoằng dương Pháp môn Tịnh độ như Vân Thê Châu Hoằng (1535 - 1615), Hám Sơn Đức Thanh (1546 - 1623), Ngẫu Ích Trí Húc (1599 - 1655) đều chủ trương Thiền Tịnh song tu và Tam giáo Đồng quy.

4. Dưới nhà Thanh (1662 - 1911), Phật giáo Trung Quốc bước vào thời kỳ suy tàn vì vắng bóng Tăng tài, lại thêm nạn Hồng Tú Toàn nhiễu loạn, nên Pháp môn Tịnh độ ngày càng suy vi. Giặc Thái Bình Thiên Quốc do họ Hồng dấy lên, đi tới đâu gieo rắc điêu tàn chết chóc tới đó, đốt phá chùa tháp, giết hại Tăng, Ni, khiến Phật giáo Trung Quốc lại một phen lâm cảnh pháp nạn gần như tai biến Tam Võ Nhất Chu thuở xưa.

5. Tới giai đoạn Cận đại (1911 trở đi) cuộc Cách mạng Tân Hợi của Trung Hoa Dân Quốc hồi đầu đã xảy ra nhiều vụ tịch thu tài sản của Giáo hội Phật giáo Trung Quốc và biến một số chùa làm công sở, do chủ trương quá khích của bọn Trần Độc Tú và Ngô Ngu dấy lên phong trào Tân Thanh Niên đòi đập phá và hủy hoại tất cả cái cũ, nhằm thực hiện một cuộc cách mạng đổi mới toàn diện, để tiến tới một nền Tân văn hóa. Trong hàng ngũ Phật giáo đoàn Trung Quốc lúc bấy giờ lại thấy xuất hiện một số cao Tăng xả thân vì Đạo, cố cứu vãn nguy cơ phá Phật và phục hưng đạo pháp như các Ngài Ấn Quang, Viên Anh, Đỗ Nhuận, Đạo Giai, cùng nhóm Cư sĩ Vương Nhất Đính, Dương Nhân Sơn, Đinh Phúc Bảo, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi đã tận lực hộ trì Chánh pháp, nhất là Thái Hư Đại sư (1889 - 1946) đã đứng lên hô hào Tăng, Ni, Phật tử trong nước đoàn kết thống nhất để thành lập “Trung Quốc Phật giáo Liên hiệp hội.” Ngài lại có sáng kiến nương theo lý thuyết Tam Dân của Cách mạng Tân Hợi, xướng ra thuyết Tam Phật (Phật Tăng, Phật Hóa, Phật Quốc) nhằm: 1) Đào tạo Tăng tài, làm rường cột cho đạo Phật; 2) Lấy giáo lý nhà Phật làm cơ sở thiết lập một nền văn hóa, đạo đức quốc gia theo con đường Thập thiện và Bồ tát hạnh để giáo hóa quần chúng; 3) Và thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian với mục đích đắp xây hạnh phúc cho toàn dân.

Trong sự nghiệp vận động hộ pháp và chấn hưng đạo Phật để đối phó với thời cuộc ngày càng khẩn trương trước nguy cơ pháp nạn có thể bùng nổ, Thái Hư Đại sư đã tận lực hoạt động để hoàn thành việc đoàn kết Phật giáo đồ trong nước, chỉnh lý Tăng già, canh tân giáo dục Tăng, Ni, Phật tử, bảo vệ Phật giáo đoàn Trung Quốc thoát cảnh suy tàn, và tiến bước kịp trào lưu của Cách mạng Tân Dân Sinh diễn ra sôi nổi. Cùng với việc thiết lập các Phật học viện như: Võ Xương Phật học viện, Kim Lăng học đường Nam Kinh, Tạng Văn học viện Bắc Kinh. Các Ngài còn lập được nhiều Thư quán như Phật Học thư cục, Thế giơi thư cục, Thế giới Phật học uyển, Thiền quán v.v..., xuất bản Đại Tạng Kinh, khiến cho Phật giáo Trung Quốc lại được khởi sắc, gây ảnh hưởng tốt đối với phong trào Chấn hưng Phật giáo ở các nước lân bang như Triều Tiên, Việt Nam...

6. Tại Việt Nam.

Đứng tại vị trí tiền đồn ở Viễn Đông, nước Giao Châu Việt Nam là nơi giao lưu gặp gỡ của các nền văn minh trong vùng Đông Nam Á, bởi vậy, về mọi phương diện, nước Việt Nam ở địa vị thuận lợi hơn ở Trung Quốc trong việc tiếp xúc với nền văn hóa Ấn Độ. Mặt thủy, Việt Nam gần Ấn Độ hơn Trung Quốc. Đường biển dễ đi hơn đường bộ, phải trèo qua dãy núi Hy Mã Lạp Sơn cao và hiểm trở, lại phải băng qua bãi sa mạc Gobi cát bỏng mênh mông. Mặt bộ, Việt Nam tiếp giáp với các nước láng giềng của Ấn Độ như Sri Lanca (Tích Lan), Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào là những quốc gia có truyền thống lâu đời về Phật giáo. Ngoài ra, dân tộc Việt Nam lại hiếu khách, đất nước Việt Nam lại thanh bình, tương đối ít giặc giã và dễ sống hơn ở Trung Quốc nên kiều dân các nước Cận đông và Viễn đông tới lui buôn bán và truyền giáo, nếu không muốn lập nghiệp lâu dài thì cũng ghé qua nước này, trước khi đặt chân vào Trung Quốc. Bởi vậy, có thể nói: Phật giáo Ấn Độ đã sớm du nhập vào Việt Nam từ cả hai ngã đường thủy và bộ, trước cả khi dân ta bị người Trung Hoa đô hộ và truyền bá nền văn hóa của họ sang nước ta. Một tài liệu cho biết: hồi Sĩ Nhiếp đời Tiền Hán làm Thái Thú đất Giao Châu (187 TL) có một người Trung Hoa tên là Mâu Bác (cùng với mẹ đến tỵ nạn chiến tranh ở Giao Châu, có viết một cuốn sách nhan đề Lý Hoặc Luận, trong đó ông so sánh ba mối Đạo lớn đang thịnh hành tại Trung Quốc lúc bấy giờ, và ông ca tụng đạo Phật, khi đó đã có tại Giao Châu, cho là cao siêu hơn cả đạo Lão và đạo Nho.

Trong sách “Phật Tổ Lịch Đại Không Tải” có nói: “Vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 4, niên hiệu thứ 2 của Tấn Hiếu Đế (294 TL) đã có nhiều giáo sĩ Thiên Trúc như Ma Ha Kỳ Vực (Mahajivaka), Thiên Hữu (Kalyanaruci) và Khang Tăng Hội (K’ang Sang Houei) đã cùng những thương gia người Ấn dùng thuyền buồm, trên đường du hóa Đông độ, trước khi họ tới Trung Hoa, họ đã lưu trú một thời gian tại Giao Châu để truyền bá đạo Phật. Như vậy đủ thấy rằng Pháp môn Niệm Phật, cùng với các Pháp môn khác của đạo Phật đã có gốc rễ ăn sâu, bám chặt vào tâm hồn của người bình dân Việt từ rất xa xưa. Nhưng ở đây Pháp môn Tịnh độ không còn là một Pháp môn thuần túy, mà nó đã sớm trở thành một Pháp môn chung cho các tông phái khác. Tại hầu hết các ngôi chùa ở Bắc Việt đều có tượng Phật A Di Đà trong ba ngôi Tam Thế Phật, và đều có thờ Tam Thánh (Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí). Việc thờ phụng Phật A Di Đà cùng Bồ tát Quan Thế Âm hay Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn đã trở thành một tín ngưỡng khát khao, một món ăn tinh thần cần thiết của dân tộc Việt Nam, cầu mong được tai qua nạn khỏi, vì phải trải qua nhiều nỗi gian truân để đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt, và một nước láng giềng hùng mạnh, tham tàn, đã áp đặt hàng ngàn năm ách đô hộ lên đầu, lên cổ dân tộc này.

Tinh hoa của hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cô đúc trong các tư tưởng cao siêu của ba mối đạo lớn là Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo gặp nhau trên dải đất Việt Nam, đã sớm được dòng giống Lạc Hồng dung hòa và biến chế thành một chất bổ dưỡng, khả dĩ phát huy được tinh thần dân tộc. “Tam giáo đồng quy nhi thù đồ”, khiến cho dân tộc Việt Nam có một tâm hồn hiếu hòa nhưng bất khuất. Bởi vì đại đa số dân tộc Việt là tín đồ Phật giáo, mà đại đa số tín đồ Phật giáo lại theo Pháp môn Tịnh độ, nên Pháp môn này cùng với dân tộc Việt như hình với bóng. Đại chúng ít học muốn xa lánh cuộc đời khổ đau và tìm sự Giải thoát trong đạo Phật, không phải bằng con đường trí tuệ của Thiền tông và các tông phái khác thiên về Giáo, ưa suy luận trừu tượng và bác học cùng Tự lực, mà lại bằng hiệu lực của Tâm thành cùng Đức tin và Tha lực để mong được về Tịnh thổ của Phật A Di Đà, cho nên chỉ cần nhìn vào Pháp môn Tịnh độ tại Việt Nam cũng đủ nhận thấy một cách trung thực bộ mặt của quốc gia này. Thời kỳ nào mà Phật giáo đồ trong nước đoàn kết, thống nhất vào một mối, không còn chia rẽ Nam tông, Bắc tông, Cổ Sơn môn hay Nguyên thủy, và tín ngưỡng của người dân được thực sự tự do, thì đó cũng là thời kỳ mà toàn dân được an cư lạc nghiệp và thực sự hưởng hạnh phúc ấm no.

Giở lại những trang sử nước nhà, chúng ta nhận thấy ngay những chiến công oanh liệt dưới thời kỳ XI và XVI, thời đại Lý, Trần, cũng là những thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt Nam, trong đó có nhiều vị Vua là tín đồ thuần thành của đạo Phật và có một vài vị đã xuất thân từ chốn Thiền môn.

Vua Lý Công Uẩn thuở nhỏ là con nuôi của Đại sư Lý Khánh Vân chùa Cổ Pháp (Bắc Ninh) và là Sa di ở chùa này. Vua Trần Thái Tông đã từ bỏ ngai vàng, đang đêm một mình một ngựa, băng rừng vượt núi, lội suối, trèo đèo để cầu đạo Giải thoát. Hai vua Lý Thánh Tông và Trần Nhân Tông có công sáng lập hai dòng Thiền thuần túy quốc gia (dòng Thiền Thảo Đường và dòng Thiền Trúc Lâm) để nêu cao tinh thần dân tộc tự cường. Tín ngưỡng thực nghiệm tâm linh cụ thể của Phật giáo Việt Nam trong dòng Thiền Thảo Đường được tượng trưng bằng ngôi chùa Một Cột, dựng trong thành Thăng Long, thờ Đức Quán Thế Âm Bồ tát và đặt tên là chùa Diên Hựu, có nghĩa là phúc báu lâu dài của quốc gia, dân tộc, và đặc biệt là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, khác hẳn tín ngưỡng các dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Bồ Đề Đạt Ma, Vô Ngôn Thông và Huệ Năng ở phương Bắc, dòng thì thuần Ấn, dòng thì nửa Ấn nửa Hoa, còn dòng Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, đượm màu sắc dân tộc, đã lấy tinh thần khai phóng, phá chấp của Tam giáo, mà kết hợp một cách hài hòa nhuần nhuyễn Thiền với Tịnh, Trí và Bi, đạo với đời, hợp nhất cái Hữu hạn của đạo Nhân Thiên, với cái Vô hạn của đạo Xuất thế, gắn liền tương đối với tuyệt đối, hiện thực với siêu nhiên, làm cho dân tộc Việt Nam vừa có Tâm Từ lại vừa anh dũng, biết quên mình vì nghĩa cả khi giặc đến thì khoác nhung phục, xông pha khói lửa ngoài trận địa, lúc nước yên lại mặc tấm áo vải nâu đi cày ruộng, hoặc tìm về với đạo Phật là nguồn suối an lạc, thanh lương, đem đạo vào đời để phụng sự nhân quần xã hội một cách đắc lực thiết tha.

Sắc thái dị biệt của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử là không theo lối tu của các dòng Thiền Trung Quốc, y cứ vào Kinh điển như Kinh Lăng Già của phái Bồ Đề Đạt Ma, và Kinh Kim Cang của phái Huệ Năng, mà lại dùng Kinh Vô Tự của Chân tâm, và phép tu Lục căn sám hối, ngày đêm sáu thời lấy Sám Pháp để thanh lọc tâm tư. Những tấm gương mộ đạo cứu đời của các Vua đời Lý, Trần đã hun đúc nên một dân tộc hiên ngang, quật cường, nhiễm đầy tư tưởng Sắc, Không, Vô ngã, Vô thường, Vô vi, Vô sự của đạo Giải thoát, coi nhẹ tấm thân, vì nước quên mình, bởi thế mà từ trước tới nay đã tạo được những chiến công hiển hách, bao phen phá tan các trận giặc Tống, Nguyên hung hãn và hiếu chiến ở phương Bắc, đè bẹp các dân tộc Chiêm Thành, Chân Lạp ở phương Nam và phất cao ngọn cờ độc lập để đối phó với các đạo hùng binh ồ ạt từ khắp các cường quốc năm châu, bốn hướng bao phen đến tàn phá cõi bờ.

Thời Lê Ngoạ Triều ngược đãi Tăng sĩ và thời gia đình trị nhà Ngô kỳ thị Tôn giáo được coi là những thời ách nạn của quốc dân, thì đó cũng là những thời pháp nạn của Phật giáo nước nhà. Bằng vào những chứng cứ lịch sử ấy có thể thấy rằng: Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc.


PHẦN HAI

Chương 3: Những Nghi Vấn Chung Quanh Vấn Đề Niệm Phật A Di Đà Cầu Vãng Sinh Tây Phương Cực lạc.

Kính thưa quý vị,

Gần đây, một đạo hữu tu Tịnh nghiệp, năm nay đã 85 tuổi, có nêu lên một điểm nghi vấn đáng lưu ý. Đạo hữu ấy nói: “Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca dạy rằng: ở Tây phương có một thế giới tên là Cực lạc, do Phật A Di Đà làm giáo chủ. Cõi ấy là một nơi lý tưởng, phong cảnh tuyệt vời, đất đai bằng phẳng, không có gai góc, gò đống, mịn như nhung tơ, đường sá bằng ngọc thạch, thất bảo, nhà cửa đều là lầu gác nguy nga, cây cối tốt tươi, tấu lên nhạc khúc bổng trầm mỗi khi gió thổi, nước trong vắt có đủ tám công đức nhiệm mầu, lại có những loài chim báu như Bạch hạc, Khổng tước, Anh vũ... màu lông sặc sỡ, hót lên lời kinh tiếng kệ du dương... Ai có diễm phúc được sống tại đây, thì toàn thân thơm ngát, sắc vàng chói lọi, từ lòng hoa sen mà hóa sinh thân thể nhẹ nhàng, được kết bạn cùng những vị Thượng thiện nhân, tuổi thọ bằng Phật A Di Đà, lại được hưởng nhiều điều lạc thú, không phải bận tâm lo nghĩ điều gì, dù là vấn đề ăn, mặc, và nhà ở, vì hễ mơ ước điều gì liền được toại nguyện, không phải vất vả lầm than như ở chốn trần ai này, suốt ngày đêm chỉ chăm lo niệm Phật để tiến tu Đạo quả Bồ đề Vô thượng. Thật là một cảnh giới an vui sung sướng tuyệt đỉnh. Đức Phật có ý ở đây trưng bày trước mắt mọi người một bức tranh tuyệt mỹ, tả đời sống cực kỳ hạnh phúc ở nơi xa xôi kia để ai nấy so sánh với cảnh Ta bà cực khổ này, rồi cầu mong được về nơi đó.

Nhưng Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông Trung Hoa lại nghĩ khác. Ngài chẳng đả động gì đến vấn đề Có hay Không có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc mà chỉ dạy rằng: “Phật ở tại Tâm con người, trong Tâm ta đã sẵn có Đức Phật, Tâm là Phật, Phật là Tâm. Tâm cũng là cõi Tịnh độ.” Lục Tổ còn nhấn mạnh: Những đức tánh của cõi Tây phương Cực lạc là những đức tánh của Tâm, chẳng cần cầu vãng sinh Tịnh độ, chỉ cần thấy được bản tánh thanh tịnh, sáng suốt của Tâm là đủ, vì hễ ai thấy được Chân tánh của mình, tức khắc thành Phật. Với phương pháp xoay ngược luồng nhãn quan về phía nội Tâm, nhìn thẳng vào cỗi rễ lòng mình, không hướng ngoại tìm cầu, ta sẽ thấy Phật tại Tâm ta, và nhận thấy ngay Tâm mình là cõi Phật, và chính mình là Phật, chẳng cần tìm Phật ở đâu xa. Ý Lục Tổ muốn nói: Tìm Phật phải Kiến tánh, bởi vì bản tánh của mình là Phật tánh. Nếu không nhìn thẳng vào tự tánh, mà cứ ngó tận đâu đâu để kiếm Phật và cõi Cực lạc thì thật uổng công. Những việc làm như tưởng nhớ tới Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nhịn đói, cầu phúc, đều chẳng đủ làm cho ta thấy được Phật, nếu không ngó thẳng vào tự Tâm. Khi ta nghĩ đến Phật thì nhân lành ấy tạo được quả tốt. Khi đọc tụng Kinh điển thì Trí tuệ của ta rộng mở. Giữ Giới nghiêm túc thì được sinh lên cõi Trời. Làm điều thiện thì được an vui, hạnh phúc. Nhưng muốn tìm Phật mà vọng ngoại, không nhìn thẳng vào Tâm mình thì chẳng bao giờ thấy được Phật. Những hình tượng Phật ở ngoài bằng giấy, bằng gỗ, đá, thạch cao, xi măng v.v... chỉ để tượng trưng cho Đức Phật thật ở trong Tâm ta mà thôi. Vì vậy mà người tu lại không “Kiến tánh” thì không thấy được Phật và thoát khỏi những ràng buộc của tam giới. Phật là Giác ngộ, là Giải thoát tâm linh. Bản tánh là Phật, là Đạo. Đạo lý Phật không ở chỗ tụng kinh, gõ mõ, nghiên cứu Tam tạng Kinh điển, Chân lý cao siêu không phải là đối tượng của luận bàn, và ngay cả Kinh điển Phật cũng chỉ được coi là phương tiện, như ngón tay để chỉ mặt trăng, không nên nhầm ngón tay là mặt trăng. Không thể đem Chân lý tối thượng của Đạo đến tầm tay với được của người học Đạo. Cứ chịu khó ngó thẳng vào bản tánh mà tìm tòi, dù dốt nát không biết chữ, vẫn có thể đạt tới Chân tâm, Phật tánh của mình. Như vậy thì lời Phật lời Tổ dạy có trái nhau không?

Hai quan điểm đó tưởng chừng như mâu thuẫn, đã gây biết bao thắc mắc trong lòng nhiều Phật tử không hiểu ý Phật muốn dạy bảo qua lời Kinh, do đó mà trong Pháp môn Tịnh độ đã phân ra hai hạng người, một hạng tu theo Sư tướng, tin chắc có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, còn một hạng người tu theo Lý tánh, chỉ chăm lo thanh tịnh Tâm mình mà thôi. Một bên đứng về phía Có, một bên đứng về phía Không, do đó mà ta thấy chung quanh vấn đề Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ có nhiều mối nghi vấn, và nhiều điều cần được làm cho sáng tỏ như:

1. Phật A Di Đà là một vị Phật lịch sử có thật hay tượng trưng, và Cõi Cực lạc Tây phương là một thế giới hư hay có thật? Phải chăng Kinh A Di Đà chỉ là một bài học ngụ ngôn, lấy Quyền chỉ Thực, lấy Hiện tượng để chỉ Bản thể?

2. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ngụ ý gì khi Ngài thuyết Kinh A Di Đà?

3. Lời Phật và lời Tổ dạy có mâu thuẫn nhau không?

4. Mục đích của Kinh A Di Đà và Kinh Địa Tạng là thế nào và ý nghĩa việc hộ niệm ra sao?

5. Cái hại của việc không hiểu nghĩa Kinh và không thực hành đúng lời Phật dạy ra sao?

6. Vấn đề “đới nghiệp vãng sanh?”

7. Vấn đề Tha lực và Tự lực?

8. Quan niệm sai lầm thông thường của người thời đại?

9. Sự liên hệ giữa Thiền, Tịnh và Duy thức?

10. Phương pháp tu để đạt tới Chân tâm hay cảnh Cực lạc?

11. Vấn đề không gian và thời gian?

12. Vấn đề Sống, Chết, Khổ đau, Sinh tử, Luân hồi.

13. Vấn đề xa gần, thuận cảnh và nghịch cảnh, dễ tu và khó tu.

14. So sánh các quan niệm về Tịnh độ và tìm hiểu xem quan niệm nào lý tưởng và phản ảnh trung thực nhân sinh quan của Đại thừa Phật giáo.

Bây giờ chúng ta hãy lần lượt lắng nghe tiếng nói của hai phái chủ trương Có hay Không có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc trình bày ra sao, kế đó chúng ta sẽ lần lượt luận bàn đến những vấn đề khác đã nêu ở trên.

A. Phái Niệm Phật Theo Sư tướng

Phái chủ trương có Đức Phật A Di Đà và cõi Cực lạc Tây phương lập luận rằng: điểm thiết yếu để được vãng sinh về cõi hoàn toàn hạnh phúc của Phật A Di Đà là phải hội đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện và Hành. Phải có niềm Tin vững mạnh rằng lời dạy của đấng Từ phụ Thích Ca Mâu Ni là đúng, vì xưa nay Ngài chỉ nói toàn sự thật, không hề bao giờ bịa đặt, sai ngoa (“Như Lai thị chân ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” - Kinh Kim Cương). Lại phải tin lời Phật A Di Đà nguyện độ chúng sinh nào, Nhất tâm niệm danh hiệu Ngài, tin rằng Tha lực của Ngài thừa khả năng tiếp độ chúng sinh, dù nặng nghiệp, vượt qua muôn ngàn ức Phật độ để tới miền Cực lạc. Sau nữa lại phải tin rằng: cõi trần này là nơi uế độ, cực khổ vô cùng, và thế giới Tịnh độ Tây phương là nơi an vui tuyệt đối, phải nên từ bỏ chốn khổ đau này và nguyện về cõi an lành kia để được hưởng hạnh phúc đời đời, sống cuộc đời thuận tiện cho việc tu hành để đạt tới Phật quả. Nếu so sánh Phật lực với nhân lực thì rõ ràng sức người có hạn, bì sao nổi với sức vô biên của chư Phật? Bởi vậy người nào muốn được cứu độ và sinh về Cực lạc quốc, chỉ cần đặt trọn niềm Tin vào Tha lực một cách vô điều kiện, như mèo con tin ở mèo mẹ, chỉ việc nhắm mắt để mèo mẹ ngoạm vào cổ tha hồ muốn lôi kéo đi đâu cũng được không cần phải làm một động tác nhỏ nào cả (Miêu thuyết), chẳng giống như vượn con phải cố bám chặt vào vượn mẹ, trong khi vượn mẹ, hai tay còn phải bận chuyền cành, không giúp gì được nhiều cho nó (Viên thuyết). Tín ngưỡng về Tha lực ấy không cho phép người Phật tử đắn đo suy tính lợi hại gì cả. Đức tin tuyệt đối như vậy, theo họ, là một Đức tin chính đáng, sáng suốt, được lý trí soi đường, không phải là mê tín, dị đoan. Đã Tin sâu lại phải Nguyện thiết, thiết tha cầu nguyện đêm ngày để được Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tịnh độ Tây phương khi mãn phần ở thế gian này. Lời nguyện ấy phải phát xuất từ đáy lòng mong cầu thiết tha của mình, coi đó là những điều mong cầu tối thượng, duy nhất, không còn điều mong cầu nào quý hơn, có như thế mới được Phật cảm ứng. Nếu chỉ đọc lời nguyện lấy lệ, theo thói quen, như một chiếc máy phát thanh vô hồn, phát nguyện và niệm Phật thiếu thành khẩn, thiết tha, thì tín ngưỡng ấy chưa đủ thâm sâu, ít hy vọng đạt được sự cảm ứng như bóng theo hình. Phái này cho rằng: bởi lẽ các giác quan của loài người rất thô thiển, không cho phép nhân loại khám phá được mọi điều bí mật tràn ngập trong Vũ trụ, thì sao lại có thể quả quyết rằng không hề có cõi Cực lạc Tây phương, một khi Phật Thích Ca, đấng Toàn Giác, Chính Biến Tri đã dùng Phật nhãn quan sát tỏ tường và rủ lòng Từ bi, chỉ bảo cho chúng ta biết?

Để cho lời biện thuyết của họ có đầy đủ uy tín, phái này đã dựa vào khoa Thiên văn học ngày nay mà nói rằng:

Tác hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, Không như thủy nguyệt,

Vật trước hữu không không?

(Đạo Hạnh Thiền sư)

(Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không.

Kìa trông bóng nguyệt lòng sông,

Ai hay có, có, không, không là gì?)

Nếu bảo rằng thế giới Ta bà này có thật thì không thể phủ nhận được cõi Cực lạc Tây phương, cho là không có bởi lẽ mọi sự vật trên trần gian đều chỉ có trong mối tương quan với nhau mà thôi: Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không...

Theo Lý thì các thế giới đều có Nghiệp lực và Tâm tạo ra cả. Đã có cõi tam đồ khổ của loài Ngạ quỷ, Súc sanh ác nghiệp, có cõi Ta bà nửa ác nửa thiện của loài người, lại có cõi Thiên của chư Tiên, nghiệp lành nhiều thì tất phải có cõi Cực lạc do nguyện lực của chư Phật Bồ tát cùng hàng Thượng thiện nhân tạo ra. Nhân nào thì quả ấy, hay Chính báo làm sao thì Y báo làm vậy. Phật A Di Đà Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức là cái lý tuyệt đối của Bi, Trí, Dũng hay Chân, Thiện, Mỹ thì cõi Cực lạc do Ngài tạo ra cũng phải là một tác phẩm tuyệt tác tuyệt mỹ. Ở đó có chân hạnh phúc tuyệt đỉnh khác xa cõi Ta bà ô trược, thiếu thốn và khổ đau này.

Theo tài liệu xác thực và khoa Thiên văn học ngày nay thì Thiên hà, trong đó có trái đất của chúng ta có hình dáng một cái đĩa khổng lồ, đường kính rộng khoảng 100.000 năm ánh sáng, tức 90 vạn tỷ cây số. Nhà Bác học Carl Sagan, Giáo sư Đại học Harvard về môn Thiên văn học đã lên tiếng trong một buổi thuyết trình tại Hội Hỏa Tiễn nước Mỹ, cách đây trên 30 năm rằng: Ông tin chắc có những giống người thông minh dị kỳ, sống rải rác trên nhiều hành tinh xa xôi, và có nhiều nhân vật trong những tổ chức do thám của các hành tinh đó đã tới viếng thăm chúng ta. Ông cho biết thêm: hiện nay phải có ít nhất trên một triệu hành tinh trong các Ngân hà đã xuất hiện dấu tích những nền văn minh rực rỡ, vượt xa hẳn nền văn minh của loài người ngày nay.

Gần đây nhà Thiên văn học Xô Viết (cũ) Boris Phéc - xen - cơ, Tiến sĩ Vật lý kiêm Toán học cũng lên tiếng xác minh: có rất nhiều Khoa học gia trên thế giới khảo cứu về những nền văn minh ngoài trái đất đã thấy có những tín hiệu vô tuyến cực mạnh, vượt xa khả năng của nhân loại hiện nay, phát xuất từ những nơi rất xa, báo hiệu sự có mặt của họ trong Vũ trụ. Chính ông cũng nhận được những tín hiệu ấy và đã kịp thời thông báo cho hãng Thông tấn Novoxti hay.

Nhà Bác học Melvin Berger còn cho ta biết: những khám phá mới nhất của khoa Thiên văn học cho hay: với những máy viễn vọng kính tối tân, loài người đã trông thấy trong Thiên hà của chúng ta có chừng 150 tỷ ngôi sao, trong đó có tới một tỷ hành tinh có dấu hiệu có nguồn sống của sinh vật. Ngoài ra còn có hàng triệu triệu Thiên hà tương tự như Thiên hà mà chúng ta đang có mặt, mà Thiên hà gần chúng ta nhất, mệnh danh là Trôn Ốc, có những hành tinh nhỏ li ti, mắt trần khó thấy, cách xa chúng ta khoảng 2 triệu năm ánh sáng. Nếu lấy tốc độ ánh sáng là 300.000 cây số) giây đồng hồ làm đơn vị để đo không gian, thì ánh sáng mặt trời phải dùng 8 phút gần 22 giây đồng hồ mới vượt qua được quãng không gian 149 triệu 400 ngàn cây số, là khoảng cách từ mặt trời đến trái đất. Đối với những khoảng cách quá xa, Khoa học đã phải dùng tới đơn vị Quang niên để đo không gian, mà mỗi Quang niên là khoảng cách chừng 900 tỷ cây số, tức là quãng đường dài mà ánh sáng phải vượt qua với tốc độ 300.000 cây số) giây đồng hồ trong một năm. Như vậy thì một ngôi sao trong chòm Androméda ở Thiên hà Trôn Ốc, gần chúng ta nhất, cũng phải cách xa chúng ta chừng 2 triệu lần 900 tỷ cây số! Nhiều khi có những vì sao mà ngày nay chúng ta còn trông thấy ánh sáng, rất có thể chúng đã bị tiêu tan thành khói mây, tro bụi từ lâu rồi, bởi vì ánh sáng mà chúng ta mới thấy ngày nay, chỉ là ánh sáng của hành tinh đó đã phát ra từ triệu năm về trước, đến nay mới tới được trái đất này mà thôi.

Toàn thể vụ trụ đều được cấu tạo bằng nguyên tử, mà cấu trúc của một nguyên tử lại giống hệt cấu trúc của đại Vũ trụ cho nên sự hiện diện của một nguyên tử liên hệ mật thiết tới sự tồn tại của muôn loài trong hoàn vũ theo lý trùng trùng duyên khởi” và tính chất Vật lý của điện tử như khối lượng, Năng lượng v.v… ảnh hưởng tới sự bành trướng và đời sống, cùng sự hoại diệt của toàn thế giới. Nếu những ngôi sao trong Thái dương hệ bỗng dưng thay đổi vị trí hay tan biến đi, thì tức khắc sự chuyển động và vận tốc của các hành tinh trong Thiên hà của chúng ta, cùng đời sống của muôn loài, tức là không gian và thời gian đều biến đổi. Nhà Thiên văn học Melvin Berger ước tánh rằng: Vũ trụ có tới hàng tỷ Tinh vân, hàng triệu Thiên hà cùng Thiên thể đủ loại. Nếu có người nào diễm phúc ngồi trên một phi thuyền không gian, bay với tốc độ ánh sáng, thì có thể dạo chơi vòng quanh Vũ trụ, rồi lại trở về điểm xuất phát sau một thời gian chừng 200 tỷ tỷ năm!

Khoa Thiên văn học còn cho thấy: các Thiên thể đều có đời sống riêng, trải qua các thời kỳ sinh, trụ, biến đổi, hoặc co rút lại thành những khối Điện tử (masse neutronique) đen sì, mỗi phân khối nặng tới hàng chục triệu tấn, hoặc trở thành những Quasar hay Pusar, quay tít theo một vũ điệu điên cuồng say mê với tốc độ một giây đồng hồ có thể xoay quanh mình nó, hoặc nổ tung thành những đại hồng cầu (Géant rouge) hay biến thành những hố sâu đen ngòm (Black hole) có sức hút kinh khủng, làm cho bất cứ vật gì chẳng may lạc vào quỹ đạo của nó, đều lập tức bị hấp lực của chúng nuốt chửng và tiêu luôn, kể cả ánh sáng. Đó thực ra mới chỉ là những khám phá sơ khởi, bởi vì chắc chắn, với đà tiến mau lẹ của Khoa học, và những dụng cụ tinh xảo hơn nhiều, Khoa học không gian, trong tương lai còn tiến xa hơn nữa và sẽ khám phá thêm nhiều điều kỳ lạ mà trí óc con người khó tưởng tượng nổi. Nhờ những bước tiến triển của ngành Điện tử và những kiến thức tân tiến về tia hồng ngoại, gamma, laser v.v… áp dụng trong ngành Khoa học Không gian mà loài người ngày nay đã thấy rõ mối liên hệ gắn bó giữa các ngành Thiên văn học với công kỹ nghệ nông nghiệp, thực phẩm, y tế, văn hóa, giáo dục…

Với những phương tiện và đường lối nghiên cứu khác nhau, cùng những kết quả thu lượm được trong mọi lãnh vực mà trước đây tưởng chừng như rời rạc, rối ren, nay đã thấy rõ lý “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một”, và mọi sự vật trong cõi không gian vô tận đều quyện vào nhau một cách kỳ diệu trong mối liên quan “tương tức tương nhập,, sự lý viên dung và trùng trùng duyên khởi. Thế mới biết Vũ trụ quanh ta huyền bí dường nào, và sự hiểu biết của loài người còn rất nông cạn, sao dám phủ nhận điều mà Phật Thích Ca, đấng Giác ngộ hoàn toàn đã trông thấy rõ!

Đức Phật đã nhận thấy rằng: Ngài đã làm một việc rất khó là giới thiệu cảnh Cực lạc thế giới xa lạ cho loài người phần đông mắc chứng đa nghi, nhưng vì nặng Tâm Từ, thương chúng sinh phải trôi lăn mãi trong bể khổ, nên dù biết là việc rất khó (“nan tín chi pháp, thị vi thậm nan”) nhưng Ngài vẫn cứ phải làm.

Ngài hiểu rằng: trong đời ngũ trược ác thế, vào thời Mạt pháp, các Kinh điển dần dần biến hết, không mấy người đọc tụng, loài người thiếu Đức tin, hoài nghi lời Phật dạy nên Phật mới phải nhấn mạnh rằng: đây là một pháp khó tin, để mọi người “hoan hỷ tín thọ phụng hành.” Bởi nặng lòng thương chúng sinh phải Luân hồi Sinh tử, nên Phật mới phải nói những điều thực khó nói. Trong trường hợp này, Phật ngại rằng nói như vậy chưa đủ gây niềm tin đối với những tâm hồn đa nghi cố tật, nên Ngài phải đoan chắc rằng: Ngài đã nói toàn lời chân thật, lại còn đưa ra những lời tán thán của chư Phật mười phương ấn chứng cho lời Ngài nói quả thật là đúng để làm tin. Trong các Kinh điển, luôn luôn Phật nói những lời chân thật, không hề hý luận bao giờ. Kinh Dược Sư có câu: “Trăng sao còn có thể rơi, núi cao còn có thể lở, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời Phật nói trăm ngàn ức kiếp cũng không sai.” Kinh Đại Tập có ghi: “Mãnh phong khả thuyết tác hệ phược. Tu Di khả thuyết khẩu xuy động. Bất khả thuyết Phật hữu nhị ngữ - Thực ngữ, Như ngữ cập Tịnh ngữ (Có thể bảo: buộc được luồng gió mạnh, thổi lung lay được quả núi Tu Di, nhưng không thể bảo Phật nói trước sau khác nhau, bởi vì Phật bao giờ cũng nói toàn sự thật, chân chính và trong sạch).

Đức Phật Thích Ca đã cho chúng ta biết: “Nếu dùng Tâm thanh tịnh mà Tin sâu, Nguyện thiết, thì lời nguyện ấy quyết chẳng phải là lời nói suông, bởi vì trong nguyện ấy hàm chứa cả Tín lẫn Hành rồi, cho nên Phật mới ân cần ba lần khuyên nhủ chúng sinh nên phát nguyện thanh tịnh cầu vãng sinh Tịnh độ để: gây sự chán ghét cõi Ta bà tới cực độ và cầu mong tha thiết được về Cực lạc thế giới, sống hạnh phúc bền lâu.

Để ca tụng Pháp môn Tịnh độ, Triệt Ngộ Đại sư có bài kệ sau:

Nhất cú Di Đà

Chứng tam bất thoái

Chỉ thử Nhất sinh

Tiên bổ Phật vị.

(Một câu Di Đà

Chứng ba bất thoái.

Chỉ trong một kiếp

Lên ngôi vị Phật).

Tam bất thoái là 3 ngôi: Vị, Hạnh và Niệm bất thoái. Theo Thiên Thai giáo thì khi tới Đệ Nhất Trụ mới đến ngôi Vị bất thoái. Khi chứng Thập Hồi Hướng mới lên ngôi Hạnh bất thoái, và khi chứng ngôi Sơ Địa Bồ tát mới đạt được Niệm bất thoái. Theo quan niệm thông thường của Phật giáo Đại thừa thì khi trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc mới lên ngôi Vị bất thoái, phá được Trần sa hoặc mới lên ngôi Hạnh bất thoái, và trừ được Vô minh hoặc mới lên ngôi Niệm bất thoái. Nghĩa là phải tu A tăng kỳ kiếp mới chứng được Tam bất thoái, nhưng đối với Pháp môn Tịnh độ, chỉ cần được vãng sinh Cực lạc quốc là vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa, và chắc chắn đạt tới quả vị Phật.

Trong 49 năm chuyển Pháp luân, Đức Thế Tôn chỉ thuyết Kinh Hoa Nghiêm có một lần, và khi nói Kinh này, Ngài lại có ý muốn nêu rõ lý “Nhất sinh bổ xứ”, và “Nhất sinh viên mãn”, mà cái nhân để tạo quả Nhất sinh viên mãn, lại chính là “Mười điều đại nguyện vương” trong phẩm “Phổ Hiền Hạnh nguyện”, dạy người tu nên hướng Tâm về cõi Tịnh độ Tây phương, cầu được sinh về đó.

Nói cách khác thì Phật đã chỉ rõ phương tiện gieo nhân lành bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà để được hái quả tốt lành là được sinh về cõi Cực lạc Tây phương, đời đời hưởng an vui hạnh phúc.

Bồ tát Phổ Hiền đã đem Pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ tích cực khuyên Tăng chúng trong hội Hoa Nghiêm nên Nhất tâm niệm Phật A Di Đà, như vậy thì Pháp môn Tịnh độ đã được Phật dạy cho hàng Bồ tát ngay sau khi Ngài đắc quả Vô thượng Bồ đề, mà cũng chính là Pháp môn chung cho mọi hạng người xuất gia cũng như tại gia, ở mọi căn cơ, ai ai cũng tu được cả.

Trong Phẩm thứ 40 Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Các vị Đại Bồ tát, sau khi học đủ các Pháp môn, cuối cùng lại trở về Pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ.”

Trong Kinh Đại Tập, Phật dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo, chỉ y niệm Phật Pháp môn đắc liễu Sinh tử.”

Lại có câu: “Sinh tử hải trung, niệm Phật đệ nhất”, và câu: “Chỉ hữu kính lộ tu hành, đãn niệm A Di Đà Phật” (Trong đường tu chỉ có một lối đi tắt là niệm danh hiệu Phật A Di Đà).

Ngoài các Kinh điển viện dẫn ở trên, lại còn có không biết bao nhiêu Kinh Đại thừa liễu nghĩa khác như Lăng Nghiêm, Bát nhã, Đại Niết Bàn… đều nói tới Pháp môn Tịnh độ và tán thán công đức thù thắng của việc Trì danh hiệu Phật A Di Đà, đủ tỏ Phật A Di Đà chẳng phải là một vị Phật thần thoại, mà Kinh A Di Đà cũng chẳng phải là một Pháp quyền, lấy hiển để chỉ ẩn.

Lại nữa, các vị Đại Bồ tát như Di Lặc, Văn Thù Sư Lợi, Bất Hưu Tức, Thường Tinh Tiến, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp… ở những ngôi vị tu chứng cao, và những Thiên vương ở những cõi Trời đều quyết tâm xin được về cõi Tây phương Cực lạc để được gặp Phật A Di Đà, cùng tu với các bậc Hiền, Thánh, đủ tỏ Phật A Di Đà được sùng bái tới bậc nào và địa vị của Pháp môn Tịnh độ trong việc tu chứng đến quả Phật cao thâm huyền diệu tới đâu. Những bậc Thánh xưa và nay đều cầu nguyện được cùng mọi người sinh về thế giới Cực lạc, bởi vì phàm muốn độ đời thì trước hết phải tu theo Pháp môn Tịnh độ, mình có được Giải thoát rồi mới mong Giải thoát cho thiên hạ, cho nên Ấn Quang Đại sư mới lên tiếng cảnh cáo người đời rằng: “Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh cao thâm huyền diệu mà vẫn có nhiều kẻ còn dám khinh chê, cho là chỉ có những hạng người già nua, tuổi tác yếu đuối, dốt nát mới theo Pháp môn Tịnh độ thì quả là họ đã dám coi thường, khinh chê cả các vị Đại Bồ tát như Di Lặc, Văn Thù, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ rồi vậy.” Chư Tổ đã khuyên chúng ta nên theo Pháp môn Tịnh độ vì dễ tu, dễ chứng, như đi thuyền buồm xuôi dòng, gặp gió thuận, lướt nhẹ trên mặt nước, tiến mau như mũi tên, còn tu theo các Pháp môn khác sẽ gặp nhiều điều khó khăn, bất lợi. Các Ngài dạy rằng: “Nhiêu nễ tu đáo Phi phi tưởng xứ, bất như Tây phương quy khứ lai.” Dù tu theo đường lối khác mà đạt tới cảnh Trời Phi phi tưởng (tức Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng) là cảnh Trời cao đẹp nhất trong các cảnh Trời của Tam giới, nhưng đến khi hết phúc lại phải đọa Luân hồi, ra vào lục đạo, chẳng bằng tu theo Pháp môn Tịnh độ để được về miền Cực lạc, rồi tuần tự tiến tu tới quả vị Phật, không sợ gặp chướng ngại trên đường tu.

Ngài Thiên Như Thiền sư, sau khi ngộ đạo, đã ân cần dặn bảo hàng đệ tử: “Trong thời Mạt pháp các Kinh điển mất dần, duy còn lưu lại bốn chữ “A Di Đà Phật”, nếu ai không tin và không chịu tu theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh, sẽ bị đọa lạc vào chốn Tam đồ.”

Ngài Trí Húc Đại sư, lừng danh trong chốn Thiền môn thuở xưa, đã lên tiếng trước hàng đệ tử: “Khi mới xuất gia, tôi tập ngồi Thiền, tự phụ đã tu theo Đốn pháp dễ ngộ và tỏ ý chê bai Pháp môn Tịnh độ, cho là Tiệm pháp, lâu chứng. Khi ấy còn ít tuổi, tôi dám cả gan nói những điều thiếu suy xét rằng: “Pháp môn Tịnh độ chỉ dành cho hạng người hạ căn ít học mà thôi.” Chẳng dè, nhân bị một cơn ốm nặng, tưởng khó qua khỏi, tôi mới chịu phát tâm niệm Phật A Di Đà. Sau đó, khỏi bệnh, tôi được đọc các sách Diệu Tông, Viên Trung, Vân Thê Sớ Sao và An Lạc Tập, tôi mới hiểu lý cao thâm của Pháp Trì danh hiệu Phật, và kể từ đó tôi mới Nhất tâm niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tây phương Cực lạc ngày đêm không ngừng với một sức tinh tiến phi thường ít người sánh kịp.”

Ấn Quang Đại sư khuyên người đời rằng: “Phần đông chúng ta ngày nay đều phúc mỏng, nghiệp dầy nên mới sinh vào thời vắng bóng Phật tại thế. Ngoài môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ mà tu các Pháp môn khác có thể tăng trưởng được phúc trí, nhưng vẫn khó tránh khỏi được Luân hồi Sinh tử. Chỉ duy có Pháp môn Tịnh độ, tuy thời nay ít người chứng được Nhất Niệm Tam muội như xưa, nhưng vẫn có thể nương vào nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà “đới nghiệp vãng sanh”, và khi đã tới được cõi Cực lạc Tây phương thì không còn sợ bị đọa lạc nữa, vì đã nhờ được hoàn cảnh thuận lợi thường được gặp Phật, nghe Pháp nhiệm mầu để tiến tu đến quả vị Vô sanh.”

Những nghi vấn chung quanh vấn đề vãng sinh Tây phương Tịnh độ bằng phương pháp Trì danh hiệu Phật A Di Đà có rất nhiều nhưng ở đây tôi chỉ xin đơn cử một vài thắc mắc căn bản do đa số Phật tử tu theo Lý trì nêu ra, được người tu theo Sự trì giải đáp như sau:

a) Thắc mắc thứ nhất:

Bản thể của các pháp là “Không.” Các pháp xưa nay vốn Bình đẳng, bất cấu, bất tịnh, Bất sanh, Bất diệt, bất cao, bất hạ… Với tâm Bình đẳng, dù ở nơi uế độ, tâm vẫn thanh tịnh. Với tâm phân biệt, dù sinh về cõi Tịnh độ, tâm vẫn còn phiền não nhiễm ô. Vả chăng, có sinh ắt có diệt, dù sinh về cõi Tây phương Cực lạc, cũng vẫn chẳng thoát khỏi tử vong. Vậy thì hà tất phải rời bỏ cõi Ta bà, cho là nơi uế độ rồi cầu về cõi Tây phương Cực lạc, cho đó là nơi thanh tịnh an vui, như thế liệu có trái với lý Bất nhị, Bình đẳng chăng?

Ngài Trí Giả Đại sư, trong bộ Thập Nghi Luận đã giải tỏa mối nghi này như sau: Nếu bảo rằng cầu được sinh về cõi Tịnh độ và mong rời bỏ cõi Ta bà là “chấp kia, bỏ đây”, như vậy là không hợp lý Bình đẳng, Bất nhị, thì trụ ở cõi Ta bà này mà chẳng cầu được về cõi Tịnh độ, cũng rơi vào “chấp đây, bỏ kia”, cả hai đều còn mang nặng tâm phân biệt, nào có khác gì nhau? Không trụ, không chấp, không mong cầu gì cả mới là tâm Bình đẳng, Vô phân biệt, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến. Các pháp đều Vô tự tánh. Khi nói các pháp Vô sanh hay Bất sanh phải nên hiểu là các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả hợp, tuy có mà không thực chứ chẳng phải là không có. Bởi vì các pháp đều giả, không thật sinh diệt, nên mới nói là Bất sanh, Bất diệt, chứ chẳng phải là các pháp thường tồn mãi mãi, chẳng hề biến dịch, bởi lẽ mọi sự vật đều Vô ngã, Vô thường thay đổi từng sát na. Khi đề cập đến tính cách Bất sanh, Bất diệt của các pháp là muốn ám chỉ đến Bản thể Chân như thường hằng. Nhưng Lý lại không ngại Sự, mà Tánh luôn luôn đi cùng với Tướng, nên cái lý Vô sanh hay Bất sanh không ngoài các pháp Sinh, Diệt mà có. Vì thế mà chẳng phải sinh về Tịnh độ mới gọi là Vô sanh, hoặc không được về cõi Tây phương Cực lạc mới gọi là Tử, Diệt. Dùng tâm thanh tịnh ở cõi Ta bà mà hành Bồ tát đạo, hay dùng tâm thanh tịnh ở cõi Tây phương Cực lạc để tiến tu đến quả vị Phật, nào có khác gì nhau? Người trí giả siêng năng niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ mà không chấp tướng sinh diệt của các pháp, cũng chẳng trụ vào tướng năng, sở niệm, cùng các tướng ngã và pháp vì đã hiểu rõ các tướng đó đều giả huyễn. Tuy vẫn biết việc niệm Phật cùng cảnh Cực lạc Tây phương đều chỉ là những pháp phương tiện chẳng thật có, nhưng vẫn phải niệm Phật cho siêng, và vẫn phải cầu về Tịnh độ, như thế mới thật hiểu rõ lý “Chân Vô sanh và Chân Bất diệt.” Kẻ mê không rõ lý ấy, thoạt nghe nói Vô sanh đã vội cho ngay là chẳng sinh về đâu cả. Họ có biết đâu rằng: Sinh ở đây chính là Vô sanh, mà Diệt tức là Bất diệt, bởi vì Vô sanh chẳng ngại gì sinh, mà Bất diệt cũng chẳng ngại gì diệt. Hễ tâm đã thanh tịnh thì không còn lưu ý đến việc cầu về Cực lạc nữa, ở đâu cũng thế thôi. Nhưng muốn đạt tới cảnh thanh tịnh của tâm hay tới nơi cứu cánh Niết bàn thì phải “dĩ huyễn độ chân”, lấy tướng giả diệt ở cõi Ta bà và tưởng giả sinh về miền Cực lạc Tây phương làm phương tiện để đạt tới cảnh Chân thường Chân lạc ở thế giới Tịnh độ. Muốn thấy cõi Vô sanh phải tìm ở chỗ có huyễn tướng sinh diệt. Muốn đạt tới Phi thường phải tìm ở chỗ thường của cuộc đời. do đó người đã hiểu rõ lý “Chân không Diệu hữu” hay lý Bất nhị thì không còn ngại cầu về Tây phương Cực lạc thế giới và rời bỏ cõi Ta bà, coi đó chỉ là phương tiện để tiến tu tới chỗ Giải thoát cứu cánh mà thôi.

b) Thắc mắc thứ hai:

Có người cho rằng: Nếu cõi Cực lạc chỉ là mộng huyễn thì việc cầu sinh về đó chỉ là việc làm uổng công vô ích chăng?

Về điểm này Triệt Ngộ Đại sư giải đáp rằng: Từ Thất Địa Bồ tát trở về trước thì người tu còn ở trong mộng. Đối với vô minh thì bậc Đẳng giác Bồ tát vẫn còn chưa thoát khỏi, duy có Phật đấng Chánh đẳng Chánh giác mới rũ sạch được vô minh mà thôi. Trong lúc còn ở trong đại mộng thì vui buồn sướng khổ vẫn còn thọ cảm, sao lại có thể bảo là đã tỉnh thức? Vậy thì cớ sao ta chẳng tránh những cảnh mộng đau buồn ở cõi Ta bà để vui hưởng những cảnh mộng đẹp ở miền Tịnh độ? Huống chi mộng ở cõi Ta bà là mộng đi sâu vào cõi mộng, còn mộng ở cõi Cực lạc, từ chỗ mộng huyễn tối đen lần tới bờ giác sáng sủa, được thức tỉnh hoàn toàn. Tuy cùng ở trong hai nơi mê, ngộ khác hẳn nhau. Vậy thì niệm Phật cầu vãng sinh là việc làm đầy ý nghĩa chân chính hợp lý Bất nhị và xứng với tánh Bình đẳng của các pháp.

c) Thắc mắc thứ ba:

Có người cho rằng: Nếu thế giới Cực lạc cách cõi Ta bà hàng vạn ức Phật độ thì cõi ấy hẳn là một hành tinh xa lạ, có thể không cùng một Thiên hà với trái đất này. Nếu thế giới đó có thật và nếu được về cõi ấy thì dù có được di chuyển bằng phương tiện tối tân nhanh nhất của loài người hiện nay cũng phải hàng thế kỷ mới tới nơi được, có đâu lại bảo rằng có thể vãng sinh trong nháy mắt?

Đáp: Dù muôn vạn ức Phật độ cũng chỉ do một niệm của tâm linh mà thôi, bởi vì tâm bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới. Tâm ấy lại ẩn tàng trong khắp vạn hữu: “lớn không ngoài mà nhỏ cũng không trong”, và nếu lại còn được nhờ vào khả năng vô biên của Phật tiếp dẫn thì khó gì mà chẳng được vãng sinh ngay tức khắc? Vả chăng sự vãng sinh phần tánh danh hay Thức trong ngũ uẩn chứ đâu phải là phần Sắc tướng? Sự vãng sinh về cõi Cực lạc có thể nhanh hơn tốc độ ánh sáng là thứ mà Khoa học ngày nay coi là nhanh nhất. Đương khi ta niệm Phật cầu vãng sinh về nơi cách xa ta hàng muôn ức Phật độ thì Phật tánh của ta đã và đang ở cõi Cực lạc thế giới rồi, chẳng cần đợi tới khi ta nhắm mắt tắt thở mới được về tới đó.

d) Thắc mắc thứ tư:

Bất cứ pháp nào, dù hữu hình hay vô hình, đều không ngoài luật biến dịch, không có vật nào thường còn mãi mãi, dù do nguyện lực của chư Phật, do nhân duyên, hoặc do nguyện lực của chúng sinh tạo ra. Thế giới Tây phương Cực lạc chỉ là một thế giới tâm tưởng của Phật A Di Đà tạo lập ra như bao cõi khác thì đương nhiên nó cũng phải chịu chung quy luật biến dịch, lẽ đâu lại bảo là nhân dân ở cõi Cực lạc Tây phương đều thọ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, và cõi ấy là một nơi Bất diệt, như vậy chẳng hóa ra luật biến dịch Vô thường lại chẳng được áp dụng đối với cõi này sao?

Phái tu theo Sư tướng cho rằng: Nếu nhất thiết duy tâm tạo thì Đức Phật A Di Đà là một nhân vật lịch sử, và cõi Cực lạc thế giới phải là một thế giới có thật như cõi Ta bà này. Bởi vậy cớ sao lại lấy tâm phân biệt mà cho rằng thế giới này của giác quan họ thật hơn thế giới kia của tâm linh? Tại sao cả hai thế giới vật chất lẫn tinh thần đều do tâm tạo ra mà lại chỉ riêng phủ nhận thế giới tâm linh cho là ảo tưởng? Ta phải hiểu rằng: tất cả các quốc độ vạn hữu trong Vũ trụ đều do nghiệp lực của chúng sinh tạo ra. Mỗi thế giới từ thô trược đến khinh thanh đều là quốc độ của từng loại chúng sinh đồng nghiệp cảm, từ Địa ngục đến cõi Trời Vô sắc, những nơi ấy không do quyền năng của một vị thần linh nào sáng tạo cả, mà đều do nghiệp cảm duyên khởi hòa hợp của các đồng nghiệp sinh ra, nhưng đối với cõi Phật thanh tịnh thì sự thành lập không những do nghiệp cảm duyên khởi của các đồng nghiệp sinh ra mà còn do nghiệp lực của chư Phật, Giáo chủ ở các cõi ấy tạo ra nữa. Đối với một vị Phật như Phật A Di Đà thì không thể bảo là Ngài thiếu khả năng không đủ sức tạo nổi được một thế giới lý tưởng theo nguyện vọng của Ngài. Mà đã do nguyện lực của một vị Phật tạo ra, thì cõi đó sao còn bị chi phối giống như các cõi do nghiệp cảm duyên khởi thuần túy của chúng sinh tạo ra nữa?

Ở đây, xin lưu ý quý vị là kinh muốn nói đến “trường tồn”, chứ không nói “Bất diệt.” Sự biến dịch vẫn diễn ra nhưng với tính cách chậm chạp, không dễ thấy như ở các cõi hữu hình thô trược khác. Cõi trần gian này là một thế giới trọng trược mà còn biến dịch trong vòng một Đại Kiếp, khoảng 1.280 triệu năm thì cõi khinh thanh như thế giới Cực lạc Tây phương, dù có biến dịch cũng phải muôn vạn ức kiếp lâu hơn. Dù sao Kinh Bi Hoa cũng cho chúng ta biết rằng: “Sau khi Phật A Di Đà Niết bàn thì Đức Quán Thế Âm Bồ tát sẽ thành Phật thay thế, lấy danh hiệu là “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai”, và thế giới Cực lạc Tây phương sẽ đổi tên là “Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu.” Như vậy đủ biết rằng Cực lạc thế giới Tây phương phải đâu chẳng biến dịch và có gì trái luật Vô thường, hằng chuyển đâu?

Các Tổ sư trong đạo Phật, xưa và nay, không vị nào nhận định rằng Kinh A Di Đà là quyền pháp cả. Chúng ta hiện nay ở thời Mạt pháp, há lại hiểu rõ hơn các Ngài sao? Những bậc cao Tăng, thạc đức, như Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân bên Ấn Độ, và Tuệ Viễn, Đạo Xước, Thiện Đạo, Từ Mẫn, Trí Khải, Thuyền Khuông, Diên Thọ, Châu Hoằng, Trí Húc, Giác Minh, Ấn Quang… bên Trung Hoa đều hết lòng quy hướng về Phật A Di Đà, cầu vãng sinh về thế giới Cực lạc, và vững tin có Phật A Di Đà thường hiện diện tại đó để tiếp độ chúng sinh, chúng ta ngày nay, về kiến thức chưa chắc gì đã bằng được các vị đó, há dám chê các vị này là sai lầm chăng? Phương chi, trong Kinh Bồ Tát Xứ Thai lại nói rằng: “Từ cõi Diêm Phù Đề (tức trái đất mà loài người chúng ta đang ở), cách xa chừng 12 Na do tha quốc độ (tức ngàn vạn thế giới), có một cõi tên là Giải Mạn giới, không thua kém cõi Cực lạc Tây phương về phương diện trang nghiêm và hạnh phúc là bao. Sở dĩ có tên như vậy, bởi vì có những người tu Tịnh nghiệp mà tánh nết còn giải đãi, kiêu mạn, nên mới phải sinh về hành tinh này, để tiếp tục tu, trừ căn bệnh biếng lười và ngã mạn, mà chưa được tới ngay cõi Cực lạc. Nếu thế giới Cực lạc Tây phương không thật có, thì cớ sao Kinh Bồ Tát Xứ Thai lại định rõ vị trí cõi Mạn giới ở vào quãng giữa, nửa đường đi về miền Cực lạc? Bởi vậy không thể phủ nhận cõi Tây phương Cực lạc được, và cũng không thể coi Phật A Di Đà là một vị Phật hữu danh vô thực.

- Trong “Vãng Sinh Tịnh Độ Luận”, Thế Thân Bồ tát đã khuyên chúng ta: Vào thời Mạt pháp, chúng sinh thường bị nghiệp chướng nặng nề, hàng hạ căn sơ cơ cứ việc trụ vào sắc tướng, âm thanh, vào hình tướng Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc Tây phương, cùng vào sáu chữ hồng danh, mà thành tâm thiết tha cầu nguyện được vãng sinh bởi vì đối với bậc sơ cơ phải có chỗ để trụ thì Hạnh nguyện mới vững vàng, tâm không thoái chuyển, do đó kết quả vãng sinh mới dễ thành tựu. Nếu chẳng phải là bậc lợi trí, thượng căn mà lại thích với cao, muốn lìa Tướng nhập Tánh ngay từ đầu thì tâm vọng động không có chỗ trụ bám ắt khó phát sinh được nguyện lực thiết tha. Nguyện đã chẳng tha thiết thì Hành cũng dễ giải đãi, còn mong vãng sinh sao được? Như vậy là muốn mau lại hóa chậm, mong cao lại hóa thấp. Những kẻ chỉ ưa nói hão huyền, làm những chuyện xa vời, viễn vông, chỉ muốn tìm Phật tại tâm, chẳng dè Phật ở ngoại cảnh hay ở nội tâm, đều do tâm mình tạo ra cả, nào có khác gì? Hình tượng Phật ở ngoài, và cảnh Cực lạc Tây phương xa xôi, hay hình tượng Phật trong tâm và cảnh Ta bà ngay trước mắt, đều không ngoài bản tâm mà có. Nếu cảnh Ta bà và cảnh Cực lạc đều do tâm tạo và không ngoài tự tâm mà có, thì ở cõi Ta bà để phải chịu khổ não ưu phiền, sao bằng ở nơi Cực lạc để hưởng hạnh phúc thanh lương?

Cõi Ta bà hay thế giới Cực lạc đều do tâm tạo thì sao lại chẳng chọn cảnh vui sướng an nhàn, dễ tu, cùng chung sống đồng nghiệp với các bậc Thượng thiện nhân để học hỏi Chánh pháp Đại thừa cho chóng viên thành đạo quả, để độ đời cho có hiệu năng? Ta phải tin là có Phật A Di Đà và có cõi Cực lạc Tây phương, vì tin như vậy là có Tâm thể giác chiếu, tin có khả năng hoán cải, tin có Tha lực gia trì và tin có Tự lực tinh tiến để trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình. Sở dĩ có người không thấy điều đó, chỉ vì Hạnh nguyện và Đức tin của người đó chưa thật vững chắc. Nếu ta có hùng tâm, lập nguyện vững vàng, kiên trì niệm Phật, thiết tha cầu vãng sinh thì tất phải công nhận sự hiện hữu của cõi Cực lạc Tây phương cùng Giáo chủ A Di Đà Phật. Chỉ có lòng tin dũng mãnh mới có nỗ lực niệm Phật không ngừng để đạt tới quả Niết bàn Vô thượng.

Phái tin theo Sự trì thường chê phái tu theo Lý trì về điểm thiếu Đức tin và khuyên họ rằng: Trong thời Mạt pháp, nhân tâm điên đảo, sự tu hành để đạt tới quả Vô sanh khó khăn vô cùng. Với Tự lực yếu hèn, kém cỏi loài người khó lòng phá nổi bức màn vọng thức vô minh và diệt trừ được hết nhiễm ô, phiền não trong lòng, do đó cần phải nương vào Tha lực của chư Phật Bồ tát mới mong thoát khỏi vòng tử sinh. Phái này cho rằng: cần phải nuôi dưỡng Đức tin cho vững mạnh, vì đó là nền tảng của đạo lý. Thiếu Đức tin e khó thoát khỏi bát nạn tam đồ và phải quay cuồng trong lục đạo.

- Những người tu theo Sự trì còn nhận xét rằng: Kẻ nặng đầu óc duy lý thường hay thắc mắc, và tự hào là mình không vướng phải lưới mê tín, dị đoan. Họ cho rằng: Cần phải đa nghi, vì có nghi mới có ngộ, nhưng ngộ đã chẳng thấy đâu lại chỉ làm tổn thương đến Đức tin mà thôi. Người chọn con đường tri thức, ưa sưu tầm nghiên cứu Kinh điển cũng vậy, họ chỉ mong trau dồi khối óc, mà làm giảm Đức tin, có hại cho việc mong cầu được về Tây phương Cực lạc và trở ngại bước đường tu Tịnh nghiệp của mình. Bởi vì Tam tạng Kinh điển như rừng rậm bao la, một đời người chuyên cần nghiên cứu hồ dễ mấy ai đã thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu của thiên kinh vạn quyển. Vả chăng đã dễ gì trừ được vọng tưởng nhờ lối tu này, bởi lẽ càng đi sâu vào đường sưu tầm, nghiên cứu, lại càng gặp lắm điều thắc mắc, hồ nghi, làm hôn ám thần hồn. Bể học mênh mông vô bờ bến, càng học lại càng nghi, càng nghi lại càng làm tổn thương đến Đức tin, chi bằng cứ Tin sâu, Nguyện thiết, thực hành tinh tiến siêng năng, rồi nương vào Tha lực của chư Phật gia hộ, đừng nên để mất thời giờ quý báu vô ích, đáng lẽ phải dành hết cho việc niệm Phật cầu vãng sinh.

- Liên Trì Đại sư (Vân Thê Châu Hoằng) có nói: “Mỗi câu Di Đà gồm đủ cả đại thiện căn, đại phúc đức, đại phương tiện, và đại Trí tuệ, Từ bi, Giải thoát.” Như vậy, năng niệm Phật sẽ mau diệt được Nghiệp chướng, phá được Vô minh, đạt được phúc trí, cho nên khi lâm chung, người năng niệm Phật với tâm bất loạn, sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn về cõi Cực lạc Tây phương là lẽ đương nhiên.

- Chư Phật, Bồ tát rải Tâm Từ để độ tận chúng sinh. Những làn sóng Bi Thương do tâm của các Ngài tỏa rộng, tựa những làn sóng âm thanh chuyển đi từ một đài phát thanh cực mạnh ở cao xa. Những ai có máy thu thanh tốt, nếu vặn đúng tần số của đài phát thanh phóng đi đều nhận được tin tức. Cũng vậy, chúng sinh nào luyện được Đức tin vững mạnh đều có khả năng giao cảm với làn sóng Bi Thương của chư Phật, Bồ tát. Muốn được Phật A Di Đà và các Bồ tát Quan Âm, Thế Chí tiếp dẫn về quốc độ của các Ngài thì điều thiết yếu là phải Tin sâu, Nguyện thiết và Nhất tâm niệm Phật A Di Đà. Khi đã niệm tới “nhất tâm bất loạn” thì ngay trong lúc đang niệm Phật và ở tại nơi đây, cảnh Cực lạc Tây phương đã hiện bày ngay trước mắt hành giả.

Tóm lại, phái tu theo Sự trì dốc một lòng Tin sâu, Nguyện thiết coi Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc Tây phương là những điểm tựa vững vàng để thoát lý Sinh tử. Họ đặt trọn niềm tin vô điều kiện vào Tha lực và hiệu lực của Tâm thành. Phái này khuyên người đời nên coi việc tu Tịnh nghiệp là việc làm tối quan trọng và cấp thiết, phải tu ngay kẻo muộn, vì thời gian trôi mau lắm, không đợi chờ ai. Nó cuồn cuộn chảy như thác lũ, lôi cuốn chúng ta theo. Giây phút mà chúng ta đang nói chuyện, chưa chi nó đã trôi vào dĩ vãng. Luật Vô thường mau chóng lắm, nếu cứ bán tín bán nghi, nửa tiến nửa thoái, dùng dằng chẳng quyết tu ngay, thì khi tử thần tới gõ cửa, sao thoát khỏi cảnh Luân hồi? Vậy ta phải niệm hồng danh Phật A Di Đà ngày đêm để huân sinh, huân tập các pháp cực lành mạnh này vào tạng thức mong trong hiện tại và vị lai được sống với hình ảnh Phật A Di Đà trong tự Tâm. Họ mượn bài Kệ sau đây của người xưa để nhắc nhở những ai còn đắm say trong lục dục thất tình và còn chần chờ chưa vội đăng trình trên đường tu Tịnh nghiệp:

Phù sinh nhược mộng

Ảo chất phi kiên

Bất bằng quy Phật chi Từ

Hạt toại siêu thăng chi lộ.

(Đời người như giấc mộng

Xác thân có bền chi?

Không nương bóng Phật Từ bi

Há thỏa siêu thăng nguyện vọng?)

Nhất nhật Vô thường đáo

Phương tri mộng lý nhân

Vạn ban tương bất khứ,

Duy hữu nghiệp tùy thân

Đản niệm Di Đà Phật

Định sinh Cực lạc quốc.

(Một ngày Vô thường tới

Mới hay mộng đã sinh,

Muôn vật đều ở lại,

Duy có nghiệp theo mình,

Năng niệm Phật Di Đà,

Nhất định về Lạc quốc).

Và để nhắc nhở một lần chót những ai còn chần chờ suy tính để thời gian trôi qua vô ích, người tu theo Sự trì nói rằng: Xưa kia Liễu Minh Trưởng lão Hòa thượng muốn cảnh cáo hàng đệ tử của Ngài phải niệm Phật cho chuyên, trước mắt họ đã chỉ vào thân mình mà nói: “Đây là một vật chết, nhưng trong cái chết ấy lại có cái sống. Đừng vì cái chết ấy mà lo toan, phải nên vì cái sống ấy mà chuẩn bị ngay cho kịp bằng cách chuyên cần niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ. Cũng như người muốn đi du lịch phương xa, phải lo tích trữ lương tiền cho đủ. Những câu niệm Phật là những đồng tiền gom góp vào quỹ để chi dùng cho chuyến đi xa ấy.”

- Chúng ta ai cũng cất tiếng khóc chào đời, giữa tiếng cười hân hoan của những người đón mừng ta khi mới sinh. Nhưng ít ai đã có được nụ cười thanh thản lúc phải từ giã cõi đời này, giữa tiếng khóc tiếc thương của người thiên hạ. Bởi vì, muốn thực hiện được cảnh đó, phải luyện cho thân tâm thường an lạc, để có được tình trạng: “thân vô bệnh khổ, tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo”, mà nhẹ gót lên đường về cõi Phật.

B. Phái Niệm Phật Theo Lý Tánh

Những người niệm Phật thiên về Lý mà còn sơ cơ thường hay phủ nhận sự hiện hữu của cõi Tây phương Cực lạc, coi Phật A Di Đà không phải là một vị Phật lịch sử, và coi Kinh A Di Đà chỉ là một bài học ngụ ngôn. Theo họ thì trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có dụng ý muốn tạo ra một khung cảnh Cực lạc thế giới ở Tây phương, và nói là có Đức Phật A Di Đà ở đó. Ý Phật muốn dạy: “Chúng sinh nào muốn hết khổ được vui, sống hạnh phúc đời đời, thì phải trở về với Chân tâm, Phật tánh thanh tịnh hay thiện căn của mình, bởi vì tâm con người là cõi Phật, và tâm mình tức là Phật. Chẳng khác nào ông lão nông phu trong bài ngụ ngôn của La Fontaine nhan đề “Le laboureur ét ses enfants”, muốn khuyên các con phải chăm lo làm việc mới được ấm no, đã nói thác ra rằng: trong những ruộng đất hương hỏa của tổ tiên để lại có chôn giấu một kho tàng quý giá, nếu chịu khó cuốc bẫm cày sâu những ruộng đất ấy, rồi gieo mạ trồng cây, bón phân tưới nước, bắt sâu, nhổ cỏ… Tuy không tìm thấy kho vàng cất giấu ở đâu nhưng năm nào cũng thu hoạch được mùa màng, thóc lúa, hoa quả đầy kho, đủ ấm no sung túc.

- Để bênh vực cho lập trường của mình, những người tu theo Lý đã đưa ra những lý luận sau đây:

1/ Lý thứ nhất:

- Theo định nghĩa: Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Công Đức. Ngài tượng trưng cho Bản thể của Vũ trụ và nguồn sống của toàn thể. Ngài còn là nguồn ánh sáng vô biên không bị vật gì ngăn cản, che khuất cả. Tóm lại, Ngài là biểu tượng của không gian vô tận và thời gian vô cùng.

 - Vô Lượng Quang là luồng Linh Quang vô biên giới, hay Phổ Quang Minh biến chiếu khắp nơi: đó là Pháp giới toàn thân của Đại Nhật Như Lai hay Tỳ Lô Giá Na Phật. Đó cũng là tự tánh thanh tịnh viên mãn của tâm Bồ đề, cái Diệu giác tâm Chân như của Phật và của chúng sinh đã Giác ngộ, có khả năng hiểu biết tận cùng mọi sự vật trong Vũ trụ.

 - Vô Lượng Thọ là nguồn sống hằng cửu, vô thủy vô chung của vạn hữu, tượng trưng cho Chân như, Phật tánh, cái Lương năng, Lương tri hay Tự tánh thanh tịnh của tâm chúng sinh, nơi sinh xuất mọi sự, mọi vật trong trời đất.

 - Vô Lượng Công Đức là công đức viên mãn của Phật A Di Đà do công phu tu hành từ vô lượng kiếp bất khả thuyết tạo thành. Ngài thường thị hiện phóng hào quang xuống cõi trần lao để tiếp độ chúng sinh về miền Cực lạc hầu thực thi Bi nguyện của Ngài.

Đó là lối giải thích của phái theo Lý tánh. Đức Từ bi chính là đức tánh của tâm con người Giác ngộ biết lân mẫn tới nỗi khổ khổ đau của tha nhân. Với Từ bi vô lượng và Trí tuệ Ba la mật thì tâm của người Giác ngộ cũng tạo được vô lượng công đức. Với nghĩa Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ Vô Lượng Công Đức thì Phật A Di Đà tượng trưng cho cái Diệu Tâm Bồ Đề, cái Vô Sư trí, tự tri tự giác, hay cái Phật tánh của con người khi đã đạt tới Giác ngộ viên mãn, hay tới đích Bi Trí Dũng hoặc Chân Thiện Mỹ hoàn toàn, tuyệt đối. Quả báu vô giá này thì chúng sinh với Phật vốn đồng. Phật có Bồ đề, Niết bàn thì chúng sinh cũng có Tâm diệu giác, linh minh và có cõi Tịnh độ ở nơi mình. Chỉ vì quen sống trong cảnh vô minh, bất giác mà chúng sinh quên mất cái vốn vô cùng quý báu ấy. Chúng sinh quên nó thì có nó cũng như không, chẳng khác nào anh cùng tử trong Kinh Pháp Hoa đi khất thực khắp nơi, chẳng hay rằng mình vốn sẵn có hạt Như ý bảo châu giắt trong người. Nhận biết được mình có Chân tâm, Phật tánh và tìm cách trở về nguồn sống linh diệu của bản tâm giờ phút nào thì thành Phật giờ phút đó. Bởi vì chúng sinh với Phật đều có Tâm Bình đẳng như nhau nên mới khiến cho người Trì danh hiệu Phật A Di Đà được hưởng phần “chiếu” của tâm mình, cùng với diệu quang của Phật A Di Đà dung hòa thành một thể chất với phần “tịch” của Phật A Di Đà, do đó mà những ai được sinh về cõi Cực lạc Tây phương đều có Trí tuệ quang minh và thọ mạng lâu dài ngang với Phật A Di Đà không khác.

- Trong quá khứ, Phật A Di Đà còn có tên là Pháp Tạng Tỳ kheo, vị Tăng có bồ chứa pháp. Bởi vì muôn sự muôn vật trong thế gian này đều có hạt giống trong tâm, và do tâm tạo ra, nên tâm con người cùng mang danh là Pháp Tạng (kho tàng chưa muôn pháp). Vậy thì Pháp Tạng Tỳ kheo (hay Phật A Di Đà) và tâm con người (Pháp Tạng) chỉ là một, không hai.

Với những nghĩa trên thì Phật A Di Đà chỉ là một vị Phật tượng trưng cho tâm của người Giác ngộ, bởi vì tâm của người ngộ đạo cũng có những đức tánh mà Phật A Di Đà mang danh:

1. Sáng suốt vô cùng (Vô Lượng Quang)

2. Bất sanh, Bất diệt (Vô Lượng Thọ)

3. Linh diệu và công đức nhiệm mầu, có khả năng chứa đựng và sáng tạo các Pháp (Vô Lượng Công đức).

Cũng bởi vì Chân tâm thanh tịnh, nên Chân tâm được coi như cõi Tịnh độ hay Quốc độ của Phật.

Như vậy thực đã rõ ràng: Phật tức Tâm, Tâm tức Phật. Tâm tức Tịnh độ, Tịnh độ tức Tâm, và niệm Phật A Di Đà tức là niệm Tâm, cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực lạc tức là mong rũ sạch trần cấu của vọng thức và trở về với Chân tâm thanh tịnh, bản tánh sáng suốt của mình, hay trở về cõi Cực lạc và với Đức Phật của mình, chẳng cần nhọc công tổn sức vượt rừng xanh núi đỏ, lội suối băng ngàn để mong gặp được Phật.

- Trong lịch sử Phật giáo nước nhà có câu chuyện đi tìm Phật ở ngoài tâm. Vua Trần Thái Tông bỏ ngôi báu lên núi Yên Tử xuất gia. Khi gặp Quốc sư Viên Chứng hỏi vì duyên cớ gì mà Ngài lại phải vượt ải tới đây. Vua đáp: “Trẫm chỉ muốn cầu làm Phật, chứ không muốn cầu điều gì khác cả.” Quốc sư trả lời: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở tại tâm ta. Nếu lắng lòng nhìn sâu vào tâm mình thì sẽ thấy Phật. Đã làm vua thì không thể theo ý riêng của mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình.”

Vâng lãnh lời dạy của Quốc sư, vua Trần Thái Tông đã trở về vương vị, vừa nhiếp chính vừa học đạo, niệm Phật cầu Giải thoát. Ngài hiểu rõ lý Phật tại Tâm, và thực hành nhuần nhuyễn lý Bất nhị, đạo với đời là một.

2/ Lý thứ hai

- Theo lý Bất nhị thì Tâm tức Phật, Phật tức Tâm, Tâm tức Tịnh độ, Tịnh độ tức Tâm. Trong Kinh Duy Ma Cật, để thức tỉnh những ai chưa am tường lý Bất nhị, còn mang nặng tâm phân biệt Nhị nguyên, Phật đã bảo ông Xá Lợi Phất: “Cõi Ta bà của ta đây xưa nay vốn tốt đẹp, thanh tịnh, chỉ những chúng sinh nào còn mang nặng tâm thị phi, phân biệt, mới cho cõi này là xấu xa, nhơ uế. Nếu tâm con người mà trong sạch, sẽ thấy ngay cõi này thanh tịnh, trang nghiêm tuyệt vời.”

- Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Đương bình tâm địa, tức thế giới địa nhất thiết giai bình” (Nếu tâm con người mà giữ được luôn luôn bằng phẳng thì khắp mặt đất trên thế gian này đâu đâu cũng bằng phẳng cả).

- Trong Phẩm Như Lai Thọ Lượng Kinh Pháp Hoa có câu: “Người nào dùng tâm thanh tịnh mà muốn thấy Như Lai, thì bất cứ lúc nào và ở đâu cũng thấy được Như Lai, bởi thế mà quốc độ hiện thời chúng sinh đang sống ở đây vẫn thường là cảnh đẹp, trong đó mọi người đều hạnh phúc an vui. Chỉ vì vô minh làm mờ Chân tâm nên chúng sinh mới thấy trái đất này là nơi khổ cực và nhơ uế.”

- Thế giới Cực lạc do tâm thanh tịnh của Phật A Di Đà thành lập, mà theo lý Bất nhị thì Tâm, Phật và Chúng sinh đều cùng chung một Bản thể Chân như. Khi thấy được Phật tại tâm ta, cũng là lúc ta đang thành Phật. Phật đã ở tại tâm thì tâm ta là quốc độ Phật. Niệm Phật A Di Đà hay hướng về cõi Tây phương Cực lạc là quán Phật và quán cõi Tịnh độ, nhưng tâm ta đã là Phật và là cõi Tịnh độ thì ta phải tìm Phật và kiếm cõi Tịnh độ ở trong ta, nếu hướng ngoại mà vọng cầu Phật hay cõi Tịnh độ ngoài ta là hành động sai lầm của kẻ mê muội.

- Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Khi tâm đã đạt được Niết bàn thì chẳng còn thấy có Niết bàn nào khác nữa, vì tâm ấy chính là Niết bàn rồi. Nếu ngoài tâm còn thấy Niết bàn khác là mắc phải lỗi tà kiến, và đó chẳng phải là Niết bàn của ta.”

- “Phật ở trong tâm như hương thơm trong cây trầm. Phiền não hết thì Phật hiển lộ, cũng như khi vỏ cây trầm mục thì hương trầm tỏa ra. Ngoài cây trầm không có hương trầm, cũng như ngoài tâm không có Phật. Nếu ngoài cây trầm mà thấy có hương trầm, thì hương đó, chẳng phải của cây này, cũng như ngoài tâm mà có Phật thì đó quyết chẳng phải là Phật của mình, mà là Phật của người khác vậy.”

- Khi nào không còn thấy tướng Năng, Sở đối đãi, không còn thấy cõi Ta bà khác cõi Cực lạc, không còn thấy người niệm Phật khác Phật được niệm, không còn thấy Tâm và Cảnh là hai đối tượng riêng khác, và không còn thấy có Sở đắc nữa, thì hành giả mới an trụ trong Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ, bởi vì khi ấy thì hành giả mới liễu ngộ được lý Bất nhị, và thoát ly được tâm phân biệt Nhị nguyên.

- Phái theo về Lý trì cho rằng: Cõi Ta bà cực khổ và cõi Tịnh độ Cực lạc chẳng phải là hai thế giới khác nhau, vì cả hai đều ở trong tâm ta. Tuy phân làm hai nơi, một uế tạp khổ đau, một thanh tịnh, sung sướng, nhưng đó chỉ là nhận định sai lầm của người còn đang mộng và mang nặng Tâm phân biệt: Đối với ai đã hiểu rõ lý Bất nhị rồi, thì chỉ có một thế giới của tâm mà thôi. Thế giới trong tâm ta có nhiều cảnh. Có lúc trong sáng yên vui, khi nào ta có những tư tưởng cao đẹp, thanh tịnh. Có lúc nó đen tối, sôi sục như biển đang dâng, khi nào các ác tưởng thi nhau đến cào xé, cấu nát trái tim ta. Như vậy, chẳng cần nhọc công đi xa hàng ngàn dặm đường để tìm nơi Cực lạc và lẩn tránh cõi Ta bà, mà chỉ cần thay đổi tư tưởng của ta là đủ. Sự thay đổi tư tưởng có thể thực hiện được chỉ trong một sát na, nhanh hơn cả tốc độ của ánh sáng. Với tâm thanh tịnh, tuy sống giữa cõi trần ai, mà ta vẫn an vui, tự tại. Với tâm nhiễm ô, dù ở cõi Tịnh độ mà ta vẫn cảm thấy buồn phiền, trói buộc. Người ở phương Đông hay người tại gia mà tâm thanh tịnh, vẫn được an lạc, Giải thoát, còn người ở phương Tây hay người xuất gia mà tâm tham lam, ích kỷ, chứa đầy phiền não, sân si, thì lúc nào cũng thấy khổ sở, trói buộc. Ở chợ, ở nhà mà tâm thanh cao, cũng như người ở phương Đông mà tâm hướng thượng. Ở chùa, ở nơi vắng vẻ, cô tịch, mà chẳng chịu dưỡng tánh, tu tâm, cứ để ngọn lửa tham, sân, si bùng cháy, thiêu đốt tâm can thì có khác nào người ở phương Tây mà vẫn mang dạ hiểm độc, hung ác? Vậy thì cần giữ cho tâm lúc nào cũng trong sạch, tịch tĩnh là đủ. Ta ở nhà, ở chợ mà vẫn giữ được tánh ôn hòa, Nhẫn nhục, đó là ta đã thực hiện được cái Tâm vô tướng vô tác, vô nhiễm, vô cấu tạo cho mình những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Nếu ta không phân biệt Nhân - Ngã, ghét yêu, trên dưới một lòng kính yêu, nhún nhường, thì mọi điều lầm lỗi của ta đều tiêu trừ mà xoay ngược luồng nhãn quan về phía nội tâm, ta sẽ thấy Chân tánh của mình và hái được quả Bồ đề Vô thượng.

Bàn về lý “Tâm tức Phật, Phật tức tâm”, một Thiền sư có để lại bài Kệ như sau:

Thân, khẩu, ý thanh tịnh,

Thị danh Phật xuất thế,

Thân, khẩu, ý bất tịnh

Thị danh Phật diệt độ.

Tức Tâm thị Phật, vô dư pháp

Mê giả do ư tâm ngoại cầu

Nhất niệm khuếch nhiên quy bản tế

Hoàn như tẩy cước thượng thuyền đầu.

(Thân, khẩu, ý thanh tịnh,

Đó là Phật ra đời.

Thân, khẩu, ý bất tịnh

Đó là Phật diệt độ.

Tâm tức là Phật, không gì khác,

Kẻ mê giong ruổi, ngoại cầu tầm.

Một niệm giác tâm về cõi Phật.

Ví như chân rửa ở đầu thuyền).

Hình ảnh một con thuyền rẽ nước, tạo thành hai luồng sóng bọt ngầu. Khi sóng yên, nước lặng trở về một khối. Cũng ví như tâm động nhiễm ô, đã được Định rửa sạch và trở về trạng thái thanh tịnh của Chân tâm, nói lên cái diệu ý Phật tức Tâm, Tâm tức Phật, không khác.

- Phật với Tâm tuy hai mà một, tuy một mà hai. Bởi vì lìa Tâm không Phật, lìa Phật không Tâm, cũng như lìa nước không sóng, lìa sóng không nước. Lìa tâm không Phật nghĩa là lìa bỏ Bản thể Chân không của Tâm mà chấp vào các hình tướng do tâm tạo ra, thì tâm không thanh tịnh, bởi vì tâm vọng động đuổi theo hoàn cảnh, do đó không thấy được Phật, chỉ khi nào biết Bản thể của Tâm vốn Không thì lúc đó mới thấy được Phật. Lìa Phật không Tâm nghĩa là Phật từ tâm sinh ra, có tâm mới có Phật, không Phật thì không tâm. Chỉ khi nào tâm vắng lặng, thanh tịnh, không vọng động thì Phật mới xuất hiện, tuy Phật vốn tiềm ẩn trong tâm.

3. Lý thứ ba:

- Niệm Phật là phương pháp mầu nhiệm để thành Phật. Nhân tâm hiếu tĩnh, nhưng trong cái tĩnh ấy lại hàm chứa những mầm hiếu động, nhiễm ô. Phần cao thượng thiêng liêng trong con người chỉ muốn được yên tĩnh, tự do, cố vươn lên đỉnh cao thanh tịnh để siêu thoát, nhưng các ý tưởng sai lầm, ô trược lại muốn lôi kéo con người xuống vũng lầy khổ đau, tội lỗi. Vậy ta phải tìm cách để điều khiển thân tâm ta, không để cho xác thân lệ thuộc vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc đưa ta vào vòng tội lỗi, cũng không để cho tâm bị sa ngã vào lưới đam mê. Nếu ta biết cách điều khiển được tâm ta phải tùng phục, bất động thì Chân tâm thanh tịnh, hay những đức tánh thuần lương của ta lúc bẩm sinh, hoặc Đức Phật A Di Đà ở trong ta sẽ xuất hiện. Vậy muốn được về cõi Tịnh độ hay muốn trở về với Chân tâm thì điều kiện tất yếu là phải Định tâm, và cách Định tâm tốt nhất là niệm Phật. Bởi vì danh hiệu Phật là những chủng tử Từ, Bi, Hỷ, Xả khi được gieo vào mảnh tâm điền, sẽ có tác dụng thay đổi tiến trình sinh nở của những chủng tử xấu, ác, tích lũy nơi đó từ vô số kiếp. Hạt giống Phật dồn chứa trong Đệ bát thức được huân tập huân trưởng như đống than hồng chứa trong lò than, đến một thời điểm nào đó, than nóng đến cực độ, ngọn lửa sẽ bùng cháy sáng ngời trong tâm của hành giả và đạo quả Giải thoát sẽ thành tựu nơi y.

- Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Tổ Huệ Năng dạy: “Nếu ta biết được chúng sinh tánh trong lòng ta thì cũng ngộ được Phật tánh ở trong ta”: Muốn thành Phật, phải biết chúng sinh tánh. Đó là những ác tưởng, nết hư tật xấu đầy rẫy trong ta. Nếu bất cứ lúc nào biết rõ chúng sắp sinh ra mà chặn được chúng kịp thời, đó là sự thành công bước đầu của ta trên đường trở về nẻo giác. Muốn diệt trừ chúng sinh tánh ta phải nhờ đến Trí tuệ sáng suốt buộc tâm mình vào Chánh niệm bằng câu niệm Phật, không để cho tâm, ý tự do buông lung trong tà niệm.

- Càng sống lâu ta càng tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh buồn, vui, trái tai gai mắt, làm mờ ám mảnh gương lòng trong sáng ban đầu. Tu là tìm cách trở về ngọn nguồn thanh tịnh của tâm ta. Ta phải xét rõ lòng mình để biết đâu là cặn, là nhơ. Biết được tà kiến sai lầm, hiểu được những gì là thấp hèn, vị kỷ, ta phải cố tránh. Sống trong cuộc đời tương đối, nhưng lúc nào cũng phải hướng thượng để tìm cách được Giải thoát, đó là lý tưởng mà ta nên noi theo. Ta phải luôn luôn nhớ rằng Tánh ta vốn thiện, Tâm ta vốn trong sáng, có như thế ta mới tìm về đường ngay, lẽ phải, tìm về giác ngạn hay về xứ Phật. Mắt nhìn hình sắc mà không nhiễm đẹp xấu, tai nghe âm thanh mà chẳng nhiễm trước thanh thì đó là mắt và tai Phật. Thấy được tánh của Sắc, Thanh là Giác ngộ, Giải thoát. Nếu chỉ thấy tướng của Thanh, Sắc là bị trói buộc, si mê. Ta phải cố đạt tới cái “Tâm vô kỳ tâm, vật vô kỳ vật” để chẳng thấy gì cả mới tới được trạng thái trong sạch của nội tâm. Ta phải đem cái tâm trong sạch ấy để tiếp vật, “ngoại quán kỳ hình” để không còn thấy cái đẹp, xấu bề ngoài và phân biệt cái hay, dở của thiên hạ. Lúc đó ta mới trở về được với ta, thay vì trông nhìn ngoại cảnh mà lại nhận rõ “bộ mặt xưa nay” của mình. Cái tâm khi đã thấy “vật vô kỳ vật, hình vô kỳ hình” mới là cái tâm Giác ngộ hoàn toàn, chẳng còn vui buồn, yêu ghét, quên hẳn cái Ta.

Đối trước tâm mà không thấy tướng tâm, trước cảnh mà không thấy tướng của cảnh mới là thấy đạo. Khi mê còn thấy có Phật, có Pháp, lúc đã ngộ, chẳng thấy có Phật, có Pháp nữa. Khi mê còn thấy có thế gian cần phải thoát ly, lúc ngộ chẳng còn thấy nơi nào phải thoát ly ra cả. Khi mê còn bị không gian và thời gian ràng buộc, lúc ngộ thì không gian, thời gian không còn khống chế được mình nữa. Ngộ là cứu cánh Niết bàn, ngoài ra chỉ toàn là phương tiện, kể cả Phật Pháp. Muốn đạt được cái tâm thanh tịnh ấy thì phương tiện tốt nhất là niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn.

Có ba đường lối niệm Phật tương đương với ba Tánh trong Duy thức học hay ba Căn của người tu:

a) Nếu dùng niệm Phật làm phương tiện để mưu cầu phúc báo, mong được về cõi Nhân, cõi Thiên, thì đó thuộc về Biến kế sở chấp tánh hay Phi lượng của hàng hạ căn chưa hiểu lý thâm diệu của Pháp môn niệm Phật.

b) Nếu quan niệm việc niệm Phật là phương tiện để nhiếp ý, an Tâm, diệt trừ vọng thức điên đảo và nuôi dưỡng Chánh niệm, để trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình, đó thuộc về Y tha khởi tánh hay Tỷ lượng của hàng trung căn, vẫn chưa phải là quan niệm chân chính của Pháp môn Trì danh hiệu Phật vì người tu còn mang nặng tâm Nhị nguyên, năng niệm và sở niệm phân biệt.

c) Nếu thấu hiểu rằng: Niệm Phật cốt để thành Phật, chứ không nhằm đạt mục tiêu được sinh về cõi Tây phương Cực lạc, hưởng hạnh phúc đời đời, hoặc diệt trừ vọng niệm, ác tưởng để thanh tịnh hóa tâm mình mà thôi, thì đó mới chính là mục tiêu tối thượng của việc Trì danh hiệu Phật, và cũng là thể hiện được Viên Thành Thật tánh.

Bởi vì Pháp môn niệm Phật hội đủ cả Phúc lẫn Trí, thấy rõ Chân tướng Vô tướng của mọi pháp thế gian và xuất thế gian hiển bày được Chân tâm Phật tánh của Hiện lượng. Người theo đường tu này thuộc hàng Thượng căn, Thượng trí, khi mới khởi động niệm Phật, tức ý niệm về thời gian và không gian đều tiêu tan và khi luồng nhãn quan đã soi tỏ nội tâm thì tuy có tướng mà lìa tướng, tuy có Niệm mà Vô niệm, Sắc tức Không, Không tức Sắc, và ngay lúc đó hành giả sống trong Chân như, Niết bàn hay trong chân thể bản giác ly niệm, ở vào thể tánh Giác ngộ của Phật. Thân của hành giả lúc đó là Phật thân, tánh của hành giả lúc đó là Phật tánh, hành giả niệm Phật với tánh Viên Thành Thật hay với tâm Vô phân biệt, và tấm gương lòng Đại Viên Cảnh Trí của người ấy hiển bày sáng suốt. Trong đó Y báo và Chính báo ảnh hiện trong cảnh “Chân không Diệu hữu.”

- Sự thành Phật bằng phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà là do quả báo đạt được bởi sức kiên trì tu tập vượt bậc của ta chứ không ai thay thế được, cũng chẳng ai ban thưởng cho ta.

- Theo cách tu thì dùng âm thanh mà quán niệm là phương pháp hay nhất. Đó là phương tiện mà Bồ tát Quán Thế Âm đã áp dụng, được Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cân nhắc, chọn lựa trong số 25 lối tu khác, khi Ngài trình bày trước đại hội Lăng Nghiêm, cho đó là phương pháp xảo diệu, thích hợp nhất đối với hàng sơ cơ. Dùng cách “Quán Niệm Âm Văn” là dựa vào Nhĩ căn viên thông, kết hợp nhĩ căn với thanh trần, cùng ý thức, tưởng tới hình tượng Phật và cảnh giới Cực lạc trang nghiêm. Cùng một lúc ba căn thân, khẩu, ý trong sạch thì phát sinh diệu dụng thần thông để thực hiện được cái lý “Tức thân thành Phật”, hay “Tự Tánh Di Đà” của mình. Trình tự của cách “Quán Niệm Âm Văn” để chuyển vọng thức thành Chân tâm như sau:

1. Bước đầu, hành giả giữ cho tâm trụ vào âm thanh của tư tưởng mình. Tâm định mãi cho đến khi không còn thấy cái tiếng nghe nữa. Ở giai đoạn này cái tánh năng nghe không khởi vọng niệm phân biệt nên cái Thanh trần (Sở nghe) tự vắng lặng. Tuy đã diệt trừ được cái Sở nghe, nhưng cái “Năng nghe” còn tồn tại. Tâm phân biệt không còn, nhưng còn nghe.

2. Giai đoạn 2 - Tuy đã hết nghe, nhưng vẫn biết là hết.

3. Giai đoạn 3 - Tuy “hết biết hết” nhưng vẫn còn cái không.

4. Giai đoạn 4 - Hết “Không” thì Chân như hiển bày, tức trong Chân không có Diệu hữu. Khi đó thì hành giả vượt tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.

Tóm lại, có tiếng nói của tư tưởng thì mới động tâm. Khi tâm không chạy theo tiếng nói của tư tưởng nữa, thì tâm được tịnh. Ở trạng thái này thì không còn nghe thấy tiếng nói của nội tâm nữa, như vậy thì tâm không vọng động nữa, vì không thấy tiếng nói của tư tưởng (hay của nội tâm) nữa, không còn phân biệt là động hay tịnh nữa, do đó hai tướng động, tĩnh chẳng sinh ra. Có động mới có vọng. Có vọng mới phải định, nếu không còn vọng động thì Định cũng không cần thiết nữa.

Lại tu tập thêm để đạt tới tâm trạng trong đó hành giả không còn phân biệt “chẳng phải là động, chẳng phải là tịnh nữa.” Được như vậy là thành tựu cái “tánh năng nghe”, và cái tướng “sở nghe” đều diệt. Nhưng hành giả cũng không trụ mãi ở đây, vì vẫn còn tâm phân biệt, lại phải tiến thêm bước nữa để diệt luôn cái tánh “năng nghe”, và cái tướng “sở nghe.” Nghe là để Giác, nhưng ở chỗ giác lại còn phân ra nào là tánh năng giác và tướng sở giác nên tâm còn phân biệt. Phải vượt lên trên chỗ phân biệt này, mới tới chỗ gọi là “không giác.” Nhưng vì “không giác” còn là ý niệm đối lập với “có giác” vì vậy mà lại phải vượt lên trên chỗ “không” nữa để đạt tới “Trung đạo”, không phải Có cũng chẳng phải Không, đó mới thật là không còn tâm phân biệt, vọng động, năng sở và bỉ thử nữa. Đó mới thật là Chân như hay Chân tâm, tâm trạng “sự sự vô ngại” ở chỗ mà mọi sự vật không còn ngăn ngại được tánh quán nghe của người đắc đạo, do đó mới thành tựu được những việc khó làm, để cứu khổ chúng sinh, mà người thường không làm nổi xuyên qua Pháp Quán Nghe. Hành giả khi đó chứng được bản tâm vô ngại diệu giác của mình, mà trong kinh gọi là “Sinh diệt, diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” được sống trong hạnh phúc tự tại thanh tịnh của bản tâm.

- Phần đông chúng ta thường quan niệm rằng: việc thành Phật quá khó khăn, chúng sinh nhiễm đầy tội lỗi, nghiệp chướng sâu dầy, thành Phật sao được? Sự thật, không hẳn thế, bởi vì Phật với chúng sinh đều cùng thành tựu công phu tu tập nhờ Quán và Niệm. Người niệm Phật, mắt lúc nào cũng không rời hình tượng Phật, thân lễ lạy Phật, và tâm tưởng tới Phật, ngày đêm chăm lo đạt tới mục tiêu thành Phật, thì ngay ở nơi đây và trong lúc này hành giả đang và đã thành Phật rồi, chẳng phải đợi đến kiếp lai sinh.

- Nguồn gốc của các pháp là tâm, vốn Bình đẳng, Vô phân biệt và Vô sai biệt. Vì vô minh nên chúng sinh mới có những tư tưởng phân biệt Nhị nguyên, coi tâm, vật, chủ, khách, Ta bà, Tịnh độ … khác biệt nhau, không biết rằng tất cả đều chỉ là bóng dáng của tự tâm. Tình trạng mê mờ đó xảy ra khi chúng ta chưa thấu triệt được lý Bất nhị và không chịu sống theo Chân lý ấy. Tướng của khổ đau nguồn gốc ở “Không”, nơi bản tâm thanh tịnh. Muốn diệt trừ khổ đau không thể tìm nguồn gốc khổ đau ở ngoại cảnh mà phải hướng về nguồn tâm để thanh lọc các mầm bất tịnh trong lòng ta như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến … và gieo vào tâm điền những hạt giống Bồ đề, an lạc như danh hiệu Phật và Bồ tát, cùng những hình ảnh đẹp đẽ trang nghiêm, có như thế ta mới làm cho tâm ta trở về trạng thái Niết bàn thanh cao.

- Cùng một lúc không thể có hai loại tư tưởng phát sinh trong tâm ta, cho nên niệm Phật và quán tượng Phật A Di Đà trong khi đi, đứng, ngồi, nằm là phương pháp an tâm tốt nhất, vì tâm được trụ vào hình tướng trang nghiêm của Phật. Lấy sáu chữ hồng danh làm chủ để xua đuổi mọi tạp tưởng đến quấy phá thì loại bỏ được những vọng niệm để Tâm luôn luôn được an lạc. Bởi vì còn gì tốt đẹp, thanh cao bằng hình tướng Phật? Hễ gieo nhân nào thì được hái quả ấy, nên người chuyên niệm Phật dần dần đi sâu vào Bản thể thanh tịnh của tự tâm và nhận thấy các đức tánh Từ bi, Bình đẳng của Phật tánh mình.

- Khi nào ta lâm vào hoàn cảnh khổ đau, tuyệt vọng, ta lê gót phong trần, chán nản tới một ngôi chùa tịch mịch, rồi ngồi lặng lẽ, đối diện những pho tượng Từ bi và những đỉnh trầm khói hương nghi ngút, ta để tâm tư vào những câu niệm Phật, cầu nguyện, nghe tiếng mõ trầm trầm nhỏ giọt thấm dần vào đáy lòng héo khô, lúc đó ta mới cảm thấy mùi vị cam lộ của đạo mầu và tinh thần căng thẳng của ta lúc đó chùn xuống, vơi bớt ưu phiền. Những lúc đó, chính các tư tưởng đen tối tới bủa vây làm cho ta sầu muộn, và cũng chính là lúc mà các tư tưởng chính đại, quang minh đến giải vây, làm cho ta Giải thoát khỏi mọi xiềng xích, chứ chẳng có ma quỷ nào đến ám hại, cũng chẳng có Thánh Thần nào đến cứu vớt ta cả. Thân lễ lạy, miệng niệm Phật, tâm luôn luôn tưởng tới Phật, ba thứ đó kết hợp lại tạo thành một sức mạnh khả dĩ phá tan mọi ác tưởng và đem lại cho ta niềm an lạc, Giải thoát. Thân, khẩu, ý trong sạch gây được nhân lành có khả năng giải trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc, làm cho ta thoát vòng tử sinh. Bởi vì tâm ta là nguồn sinh ra chư Phật Bồ tát, và cũng là tác giả của ác quỷ, ma vương. Những tư tưởng tốt lành, được ý chí tự do hướng dẫn đưa ta tới Niết bàn, Tịnh độ. Những tư tưởng ác độc đen tối, do ý chí mù quáng điều khiển, lại tạo sức mạnh lôi kéo con người xuống hố sâu tội lỗi, buộc phải ra vào sáu ngã Luân hồi. Tất cả, suy ra đều do tâm tạo cả. Kết quả tốt xấu đều tuân theo luật Nhân quả tự nhiên.

- Niệm Tự Tánh Di Đà, sinh Duy Tâm Tịnh Độ

Ta phải nhớ đến tánh Phật của ta và phải hướng về cõi Tịnh độ trong lòng ta. Chúng ta đều có đầy đủ trong lòng cái linh quang của Phật A Di Đà. Chỉ vì mải mê đuổi bắt những bóng hình ảo ảnh, phù du, mà ta cứ quẩn quanh mãi không sao thoát khỏi vòng Luân hồi Sinh tử. Bởi nhiễm phải các ác tưởng nên ta mới bị Nghiệp báo, Luân hồi trói buộc và che mất luồng ánh sáng vô tận, và ngăn che nguồn sinh lực vô biên của ta. Tuy sẵn có trong ta viên bảo châu Như ý là Phật tánh, Chân tâm, nhưng ta lại không thấy cái lý Duy Tâm Tịnh Độ, như vậy ta chẳng khác nào anh chàng cùng tử trong Kinh Pháp Hoa, có ngọc báu giắt trong mình mà vẫn tha phương cầu thực. Tự tánh A Di Đà tức là Chân tâm, Phật tánh của ta. Tâm và Tánh là hai danh từ đồng nghĩa cùng chỉ cái tánh Bất diệt, hay Bản thể của vạn vật. Tâm và Tánh đã chẳng khác nhau, thì khi nhận ra tánh mình là tánh Phật, ta cũng phải hiểu rằng mình có khả năng thành Phật, mình là Phật đang thành và Di Đà là Phật đã thành. Nếu ta chịu khó rèn luyện tâm tánh và ấp ủ những đại nguyện của Phật A Di Đà, cố gắng thực thi những nguyện thanh tịnh của ta, thì một ngày kia ta sẽ thành Phật A Di Đà không sai. Với phương pháp hồi quan phản bản, người tu trực giác tâm linh, đạt tới mục tiêu tự tri tự ngộ, và chứng được Chân tâm, Phật tánh của mình, thấy rõ then máy huyền vi của Sự sự vô ngại pháp giới, nhận được lẽ Tâm - Phật nhất như hay Cảnh - Tâm Bất nhị. Dùng chữ Tịnh độ chỉ cho Bản thể thanh tịnh và dùng danh hiệu Phật để chỉ đức Từ bi và sáng suốt của tâm là đứng trên lập trường Bản thể tuyệt đối làm cho ta nhớ rằng Tánh của ta là Tánh Phật, đất Tâm của ta trong sạch như cõi Phật, và ta phải chịu khó trau dồi làm sáng tỏ cái đức sáng của tâm ta. Những gì ghi trong Kinh A Di Đà đều do thực tướng Bồ đề của tâm Phật và tâm chúng sinh đồng tạo ra. Trên nguyên tắc thì chỉ có một cái tâm duy nhất cái Thiên Địa chi Tâm; tâm Phật và tâm chúng sinh là một, chỉ khác nhau ở chỗ mê và ngộ mà thôi. Khi mê thì tâm còn bám giữ những tư tưởng đen tối, phân biệt Nhân - Ngã, bỉ thử. Ngộ rồi thì thanh lọc được bùn nhơ trong lòng mình và tâm trở nên trong sáng, đó là tâm Phật. Tâm Phật với tâm chúng sinh ví như nước trong chai lọ với nước ngoài biển khơi. Đem tâm chúng sinh hòa với tâm Phật, chẳng khác nào đổ nước trong chai lọ vào biển. Lúc trước là hai thứ nước riêng biệt, nay trở thành một thứ, nên mới bảo là thành Phật quả. Nhưng muốn đạt đượt kết quả như vậy thì hai thứ nước phải trong sạch như nhau. Nước tâm của chúng sinh trước kia vẩn đục, nay muốn hòa với nước tâm của Phật thì phải gạn lọc, lóng trong, làm cho hết cặn nhơ, tức phải để cho nó yên tĩnh, hay phải Định tâm bằng phương pháp Tham thiền, quán tưởng hoặc niệm Phật, tránh cho tâm khỏi bị luồng gió thổi xuôi, thổi ngược là: Lợi, dự, xưng, lạc, ai, hủy, cơ, khổ, làm cho tâm lung lay xao xuyến.

- Phật với chúng sinh như nước với sóng, Thể với Dụng, dung thông nhau. Nếu lấy Mê và Ngộ mà chia rẽ hai đường Thánh, Phàm thì không hiểu được câu: “Sinh, Phật đồng nguyên”, hay “Vạn vật đồng nhất thể.”

- Theo Kinh Lăng Già thì Tâm, Phật và chúng sinh cùng làm ảnh, chất lẫn cho nhau. Thức A lại da của người tạo ra các pháp, giống như một tấm gương vĩ đại chiếu soi vạn vật. Vạn pháp trong tam giới ví như những hình bóng hiện ra trên mặt gương Đại Viên Cảnh Trí khổng lồ ấy. Chất gương của Thức A lại da chỗ nào cũng có vì tấm gương ấy vô giới hạn, bởi thế mà Phật ở trong tâm của chúng sinh, và chúng sinh cũng ở trong tâm của Phật. Tuy ở trong tâm của nhau song lại không hề dính nhau, cũng như hình bóng trên mặt gương không dính vào chất gương bên trong.

- Phật là hiện thân của lý Giác ngộ tuyệt đối, cho nên hễ năng niệm Phật với tâm bất loạn, không còn tướng Năng, Sở niệm, ngoài cái tâm tròn đầy Chánh niệm, thì lúc đó cái tâm Giác ngộ vô lượng vô biên của hành giả, cùng cái Thể Chân như của Pháp giới, khi đã hợp nhất với nhau và hiển bày cái Pháp giới tánh tuyệt đối Bất nhị thì tâm Bồ đề của hành giả tự nhiên khai. Bởi vì lúc niệm thì tâm của hành giả đã lìa mọi sai biệt và phân biệt, ly khai mọi vọng tưởng xa cách, và cùng với sự Giác ngộ về Bản thể Chân như hợp thành một khối. Tâm Phật và tâm chúng sinh không khác nhau trên mặt Bản thể, nhưng mặt Sư tướng thì tạm thời có sai biệt về trói buộc và Giải thoát, mê và ngộ khác nhau. Tuy sẵn có Phật tánh hay thể tánh Di Đà trong lòng, nhưng vì vô minh làm mờ ám nên đối với thể tánh Di Đà hình như có vẻ bất đồng, nhưng sự thật thì chẳng có gì khác nhau cả. Có khác chăng thì bởi chúng sinh sống trong vòng tương đối phân biệt, cái gì cũng so sánh tốt, xấu hơn kém nên mới thấy chênh lệch khác nhau. Nói “Đồng” vì Bản thể chỉ có một, nói “Khác” vì chúng sinh còn phải dày công tu tập để đoạn “hoặc” chứng “chân.” Nếu biết ta đồng một thể tánh với Phật A Di Đà thì phàm cái gì Phật có, ta cũng có, và muốn được bằng Phật A Di Đà thì ta phải siêng năng tu tập để hiển bày cái thể tánh Di Đà mà ta sẵn có.

“Chúng sinh độ Phật, Phật độ chúng sinh.”

“Chúng sinh độ Phật” tức là phiền não phát sinh Bồ đề.

“Phật độ chúng sinh” tức là Bồ đề diệt trừ phiền não.

Khi mê thì Phật độ chúng sinh, lúc ngộ thì chúng sinh độ Phật, vì Phật không tự nhiên thành mà phải do chúng sinh mới thành được Phật. Phật lấy vô minh làm Cha, lấy tham ái làm Mẹ. Vô minh và tham ái đều là chúng sinh tánh, phải có chúng sinh tánh mới có Phật tánh. Phật không thể có nếu không có chúng sinh. Tâm nhiễm đầy ba độc tham, sân, si thì còn ở cõi trần ô trược. Tâm thoát khỏi ba độc thì ở Tịnh độ đạo tràng. Tâm ích kỷ, gian tham, bất chính thì ở Địa ngục, Ta bà. Tâm chứa đầy thú tánh ác độc là Súc sanh đang rình mồi, chực nuốt sống ăn tươi kẻ khác hay đang chịu cực hình. Tâm dự tính làm điều thiện là Thánh, Hiền, Bồ tát, Phật đang ở trong cảnh an lạc, thanh cao.

Phát sinh ra Tuệ giác thì hóa sinh ở Thiên giới. Lòng đầy tham vọng thì đọa vào Địa giới, phàm tục. Tuy chỉ có một tâm mà khi thì tạo Thiên đường, lúc lại tạo Địa ngục. Người thường hay nghĩ rằng: Luân hồi, Sinh tử là đổi thay thể xác, hết làm loài nọ lại làm loài kia, ít ai hay rằng: Luân hồi, Sinh tử còn là sự đổi thay tâm tư, nguyện vọng, lối sống, cách nhìn, và như vậy thì chúng ta đã Luân hồi, Sinh tử từng phút, từng giây, đâu có cần phải đợi tới kiếp sau!

Cùng một xác thân mà mỗi lần thay đổi tư tưởng lại là một lần Sinh tử, Luân hồi. Xác thân chỉ là cái vỏ bề ngoài mà tư tưởng tạm mượn làm chỗ gá nương để phát huy năng lực. Tư tưởng đổi thay từng sát na và mỗi sát na là một kiếp. Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh là những quả do các ác tưởng tạo ra. Mỗi luồng tư tưởng là một đời sống, một cảnh giới, một bộ mặt, một nhân cách, một quả báo, một năng lực, một tác dụng… khác nhau. Đối với người coi các tư tưởng luân phiên thay đổi, tạo ra những cảnh tử sinh trong hiện kiếp, thì Giải thoát tức là gieo những mầm lành, và diệt các mầm ác trong tâm tư, và bị xiềng xích trói buộc tức là buông thả lòng mình để những thú tánh tha hồ lộng hành chi phối. Lúc ta đang suy tính để làm một việc gì là thời điểm đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng thiện ác trong lòng để gây ra quả tốt lành hay cay đắng. Nếu bình nhật ta có thói quen chiến thắng được những trận giặc lòng và điều phục được những ác tưởng, thì khi lâm chung ta sẵn có thói quen thắng được chúng dễ dàng và có được một Cận tử nghiệp tốt, tạo điều kiện cho kiếp sau được nhiều hạnh phúc. Vì chưa thấu triệt được lý Vô ngã, Vô thường, Tứ đế và Duyên sinh, nên ta bị phiền não trói buộc. Tính chất của phiền não là vô minh làm cho con người chỉ nghĩ tới mình, vun đắp cho cái Ta, dựng lên những hàng rào giữa Ta và Người, cùng ngoại cảnh và tâm, do đó nên mới phân biệt, ích kỷ, tranh chấp và khổ đau. Tính chất đáng ghét của Vô minh và Ngã chấp là ngăn cản ta và người không cho thông tỏ lẫn nhau, để không nhập được vào Bản thể đồng nhất của Vũ trụ. Cách phá chấp hiệu nghiệm nhất là vun trồng những tư tưởng trong sáng, vị tha, cao thượng, xa lìa các ác tưởng, vị kỷ bằng phương pháp quán tưởng Phật và niệm Phật, hướng tâm về nơi thanh tịnh, Niết bàn, tức là tìm về nguồn sống an lành trong sáng của tự tâm.

C. Nhất Thiết Duy Tâm Tạo.

Tâm ví như mảnh gỗ hay phiến đá, ta có thể khắc vào đó một cảnh tượng tùy theo ý muốn. Nếu ta tạo hình một con beo hay con cọp nhe nanh, giơ vuốt, mắt trợn tròn xoe thì khi nhìn thấy con thú quá dữ tợn, ta đâm hỏang sợ con vật do chính ta tạo ra. Có khác nào kẻ mê muội hỏang sợ Địa ngục do anh ta tưởng tượng. Tâm trí ta tạo ra âm thanh, hình sắc, mùi vị, hương thơm… do đó ta mới đắm say, thèm khát, bám giữ hoặc ghét bỏ. Thế là đã gieo nhân để tạo quả cho mình hưởng thụ. Nếu ta biết rằng Bản thể của tâm rỗng lặng thì ta chẳng còn lưu ý đến Vũ trụ nữa, chẳng còn tham sống sợ chết, sợ cảnh nghịch khó tu, ưa cảnh thuận dễ chứng, vì ta đã phá được ngã chấp và pháp chấp, nhận thấy rõ những hình ảnh do tâm tạo ra chỉ là ảo giác. Khi đã nhận chân Bản thể của tâm là “Không” thì biết ngay rằng những hình ảnh như hùm beo, rắn rết, ma quỷ, quái vật, Địa ngục, Thiên đường, những cảnh Tịnh độ, Ta bà, những cảm giác sướng, khổ, buồn, vui cho đến những pháp phương tiện để tu và những quả đã chứng, tất cả chỉ là ảo huyễn, do đó ta hết lo sợ, buồn vui yêu ghét, mong cầu, và hết tất cả những tư tưởng Giải thoát, trói buộc. Ngôn ngữ và danh từ xuất phát từ cải tâm đa đoan ấy cũng hết ý nghĩa và không cần thiết nữa. Trong thế giới hữu hình cũng như vô hình, người ngộ đạo xử lý mọi việc một cách hồn nhiên, tự tại, bởi vì tâm của họ không còn bị lệ thuộc vào hình tướng nữa, họ đã trở về với Chân tâm và sống theo cái lý “vật ngã đồng nguyên.” Con người khi ấy tuy vẫn sống, vẫn hiểu biết đủ điều, nhưng không còn sống với xác thịt và tình cảm nữa, mà sống với tâm siêu thoát, lâng lâng, không còn sống cho riêng mình mà sống vì thiên hạ. Tuy vẫn chung đụng với đời nhưng lại thoát ly mọi hệ luỵ triền phược của danh lợi, sắc tài của thế gian. Khi ấy thì tha hồ hành giả khuếch trương cái Ngã cho thật to lớn, từ cái Ngã cá nhân bành trướng thành cái Ngã gia đình, đoàn thể, xã hội để trở thành cái Ngã to lớn của nhân loại, Vũ trụ đại đồng. Lúc đó thì tâm của hành giả là tâm Phật, mắt của hành giả là Phật nhãn, không còn thấy có ta, có người, vật nọ vật kia nữa, mà chỉ còn thấy cái “Nhất Chân Pháp giới.”

Tâm của hành giả là “Thiên Địa chi Tâm”, không còn ranh giới giữa tâm và cảnh nữa, chỉ còn thấy “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một”, thấy cái Bản thể duy nhất của Vũ trụ bao la, và nhận rõ được Phật tánh ở trong muôn vật, Bình đẳng Vô phân biệt và Vô sai biệt, thấy rõ cái Chân lý Bất nhị và “Sự sự nhất thiết vô ngại.”

- Phương pháp để phá Ngã nhỏ bé của mình mà hòa nhập vào cái Ngã của thiên địa đại đồng là quán niệm Phật A Di Đà và cảnh giới Tịnh độ Tây phương, ở đó mọi người đều chung sống Bình đẳng, hạnh phúc. Bởi vì với phương pháp Quán Niệm Phật thì hành giả đập tan được cái vỏ ngũ uẩn để cho nước tâm của ta bị nhốt trong các lọ chai bịt kín được giao hòa với nước tâm của vạn hữu mông mênh của biển cả. Lúc đó thì không còn phân biệt đâu là nước trong chai lọ, và đâu là nước của trùng dương bát ngát nữa. Niệm Phật với tâm bất loạn là chẳng còn nghĩ gì đến sự việc ở đời nữa. Đã quên thân mình chẳng tưởng tới thì nói chi đến muôn sự muôn vật ở đời? Tuy nói là quên hết nhưng vẫn còn một cái nhớ, vì đó là biết mình đang niệm Phật và đang ở trong chánh niệm.

- Cảnh đời là giả tạo. Để đối phó với cảnh giả tạo ở đời ta phải mang những mặt nạ giả, dùng cái tâm giả rồi trở thành con người hoàn toàn giả, để diễn xuất những vai tuồng trên sân khấu của cuộc đời giả dối. Nếu ta biết rằng những tình cảm vui buồn, ghét yêu, ham muốn, sợ hãi, giận hờn, làm cho ta đắm say sắc tài, danh vọng, giấc ngủ, miếng ngon là những thứ do lục căn, lục trần làm cho ta quên mất cái tâm thật (Chân tâm), bộ mặt thật (Bản lai diện mục) và con người thật của ta (Chân ngã) thì mình phải tìm cách tháo gỡ ngay những thứ giả dối đó để trở về với cái chân thật của ta. Hiểu được Chân tâm, vọng tâm, tâm tịnh, tâm động, Bản thể và hiện tượng, ta sẽ hiểu được đâu là Tịnh độ, Niết bàn, đâu là Ta bà, Địa ngục. Bến Giác là nơi tĩnh lặng của Bản thể Chân tâm, mà tục luỵ phong trần không lọt vào được, còn bến mê là chỗ ảo ảnh phù du, nơi đổi thay của hình, danh, sắc, tướng, là công dụng bề ngoài của những tình cảm và dao động, biển đổi từng sát na. Con người chỉ có thể trở về với Chân tâm, Phật tánh hay Tự Tánh Di Đà của mình, khi nào từ bỏ được những gì là thiển cận, ngắn ngủi, ảo ảnh phù phiếm của tự kỷ, để sống một cuộc đời rộng rãi, như giọt nước tù hãm trong chai lọ bịt kín đã giao hòa với khối nước ngoài biển khơi.

- Hãy tự cứu lấy mình mới mong được Phật và Thánh chúng đến tiếp sức độ cho. Hãy dũng cảm đem tâm lực của mình để niệm Phật A Di Đà ngày đêm mới mong giao cảm được với luồng điện lực của Tâm Từ do Phật A Di Đà phóng đi từ thế giới Cực lạc của Ngài.

- Đôi khi trong những giờ phút phản tỉnh, đối bóng với mình, ta chợt nhận thấy bộ mặt thật của ta thường đeo vào người để đối phó với hoàn cảnh quanh mình, mà hễ nghĩ tới nó ta lại giật mình, hổ thẹn về những suy tư, lời nói và hành động sai quấy mà ta đã trót dùng để giao thiệp với đời. Mỗi chúng ta, ai ai cũng có hai bộ mặt. Một bộ mặt đổi thay cùng hoàn cảnh, theo lục dục, thất tình. Đó là bộ mặt hóa trang lúc cười, lúc khóc, phải đeo vào để diễn xuất các vai trò trên sân khấu cuộc đời. Những chiếc mặt nạ ấy có lúc được giồi phấn tô son, có lúc lại trát bùn, bôi nhọ. Chúng chẳng phải là bộ mặt thật xưa nay của ta. Chúng được ví như những tấm áo khoác ngoài, mỗi lần tái sinh hay thay đổi tư tưởng lại một lần đổi áo. Áo thì có nhiều, cái rộng, cái hẹp, cái rách, cái lành, cái dài, cái ngắn, màu sắc vải lụa khác nhau, qua vô số kiếp tái sinh, kiếp làm người, kiếp làm thú, kiếp làm Thánh, Thần, kiếp làm tôi mọi, kém hèn, sang trọng, thay bậc đổi ngôi, bởi vì mỗi lần tái sinh hay thay đổi tư tưởng, lại một lần tạo nghiệp quả chẳng đều. Con người phát triển theo hai chiều lúc lên, lúc xuống, tùy theo tâm tạo. Còn một bộ mặt nữa của con người duy nhất (Chân ngã) trước sau vẫn thế. Bộ mặt không hề đổi thay qua không gian và thời gian mà Thiền tông gọi là “Bản lai diện mục”, là bản tánh bất biến, hay Chân tâm thanh tịnh của ta. Nó còn mang danh là Phật tánh, Chân tánh, Thật tánh, Chân tướng hay Bản thể Chân như. Đó là các Lý tánh bất biến của trời đất khi Bản thể chưa sinh ra hiện tượng.

- Tóm lại, bằng những lý lẽ thật chính xác, phái niệm Phật theo về Lý đã chứng tỏ lập trường của mình là: Niệm Phật là phương pháp thực hành hữu hiệu để diệt trừ vọng thức phá tan vô minh, mong chứng được Chân tâm hay đạt tới Phật quả.

- Để cảnh giác những ai quá thiên về Sư tướng mà quên mất tự tánh của mình, phái theo về Lý khuyên người đời nên hướng về nội tâm thay vì ngó ra ngoại cảnh để tìm Phật và cảnh Cực lạc. Họ nhắc nhở người tu theo Sư tướng phải nên nhớ tới những câu kinh thường tụng mỗi khi kết thúc khóa lễ hàng ngày:

 - Tự Quy y Phật: Phật là tự tánh Giác ngộ sáng suốt, là đức tánh linh diệu thấy rõ Chân lý một cách viên mãn. Tự Quy y Phật là hướng về tự tánh thanh tịnh hay Chân tâm của mình, hướng về khả năng tự tu, tự giác sáng ngời mà ta sẵn có. Cái khả năng đó có một giá trị thiêng liêng, siêu việt mọi suy luận và nhận thức thông thường và trắc diện của loài người. Đó là một thứ hiểu biết sâu rộng và trực tiếp làm cho ta thể nhập bằng trực giác vào Thực tại, đưa con người tới nơi Giải thoát rốt ráo khỏi mọi phiền não, khổ đau, khác hẳn sự hiểu biết tạm bợ, cục bộ và tương đối của thế nhân, đưa tới những hành động chứa đầy mâu thuẫn, tranh chấp.

 - Tự Quy y Pháp: Pháp là tự tánh chân chính của ta, là đạo lý ngay thẳng, là Chân lý tuyệt đối, là toàn bộ Thực tại nhiệm mầu, hiện thực và biến hiện, tiềm tàng và siêu xuất, là toàn thể sự vật trong Vũ trụ, có mối liên hệ với nhau “tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi”.

Sống trong cái thế liên hoàn ấy, con người nhận thấy ngay bổn phận và trách nhiệm của mình trong cộng đồng, và ảnh hưởng của ta đối với toàn thể xã hội loài người gây nên bởi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tự Quy y Pháp là tự mình hướng về Chân như diệu lý, cái lý Bất nhị nhiệm mầu, hay cái Chân tướng vô tướng của sự vật.

Tự Quy y Pháp là nương vào Thực tại, không xa rời Thực tại bởi vì Thực tại chính là ta, hay chính là Y báo, Chính báo, do kết quả của ba nghiệp thân, khẩu, ý do ta tạo ra. Tự Quy y Pháp còn là dựa vào chỗ sai biệt của các pháp để đi tới tự tánh Vô sai biệt và Vô phân biệt chung, do đó đi sâu vào tâm thể giác chiếu của chính mình. Bởi vì sống trong thế gian là sống trong sai biệt về Tướng và Dụng của các pháp, nhưng nếu hiểu rằng sự sai biệt ấy bắt nguồn từ tâm thể của con người vốn Bình đẳng, Vô sai biệt thì ta dung hợp được với Thực tại như sữa hòa tan trong nước, và như thế ta sống thuận với đạo thiên nhiên. Sinh hoạt trong Thực tại gồm đủ cả Tánh lẫn Tướng, Thể và Dụng. Nếu ta thấy được cái Lý “tương tức tương nhập, và Duyên khởi trùng trùng của mọi pháp, cùng sự hòa điệu nhịp nhàng giữa ta và người, con người và Vũ trụ trong cái lý: “Nhất thiết vô ngại Pháp giới” thì ta sẽ sống trong ý nghĩa chân chính của Tự Quy y Pháp, bởi vì ta đã sống trong động với tâm tĩnh, lấy bất biến ứng vạn biến.

 - Tự Quy y Tăng: Nếu quan niệm Phật là thể tánh Giác ngộ, Pháp là diệu dụng để xa lìa bến mê, thì Tăng là hình tướng biểu hiện cho sự Giải thoát viên mãn. Bậc chân Tăng là khuôn vàng, thước ngọc cho đời noi theo, là đức tánh thanh tịnh trì giới trang nghiêm của đấng trượng phu nắm giữ giềng mối của đạo mầu.

- Phật không rời Pháp, Tăng. Tăng cũng không thể rời Phật, Pháp. Cũng như Thể không thể rời Tướng, Dụng, mà Tướng, Dụng cũng không thể rời Thể được. Tất cả Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) là một Thực tại duy nhất, toàn diện và tuyệt đối.

- Tự Quy y Tăng là tự mình hướng về cái đức tánh dung hòa, diệu lạc, thanh tịnh cao siêu của tâm hồn mình, không theo tà quấy về các sắc tướng bề ngoài, quay về nguồn tâm trong sáng của ta, được tượng trưng bằng các vị chân tu giữ giới trang nghiêm.

- Tự Quy y Tăng là hướng về cái xã hội tánh của toàn thể vạn hữu, là nhận định rõ ràng và sống với cái lý “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một.” Bởi vì cá nhân là một phần tử trong cộng đồng, mà sự sống của toàn thể với sự sống của cá nhân gắn bó với nhau như hình với bóng, nên ta phải sống theo quy luật của xã hội, để dung hòa với Thực tại trong ý nghĩa của hòa hợp tánh, cái yếu tánh của Tăng già mà cũng là yếu tánh của Thực tại, bởi vì có như thế thì mới có Bình đẳng, tự do, hòa bình, hạnh phúc tuyệt đối, và có như thế ta mới sống được an vui hạnh phúc, trong sự đoàn kết, hòa hợp với môi trường chung.

Tóm lại, đó là ba Pháp Tự Quy y Vô tướng:

 - Quy y Giác, lưỡng túc tôn, tức là Quy y cái Diệu Giác của tánh mình gồm đủ cả hai phần Trí và Đức viên mãn, tâm ít ham muốn, Trí tuệ sáng suốt như hai vầng nhật, nguyệt.

 - Quy y Tịnh, chúng trung tôn, tức là Quy y cái Thể thanh tịnh của tánh mình, là pháp cao quý, tôn trọng bậc nhất trong các hạnh tu, không còn trần lao, vọng tưởng.

 - Quy y Chánh, ly dục tôn, tức Quy y các Chánh pháp của tánh mình là pháp tôn quý bậc nhất, không gì bằng để lìa bỏ các điều tà dục, tham ái, chấp trước.

Quy y như thế tức là nương vào bản tánh Chân tâm của chính mình vậy.

Lại phải nhớ tới câu:

Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch,

Cảm ứng, đạo giao nan tư nghị.

Nghĩa là khi ta lễ Phật, thì chủ thể và đối tượng người lễ và Phật được lạy chẳng phải là hai. Trong khi ta niệm Phật là lúc ta tưởng tới và lễ các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời cũng là lúc ta nhớ tới và tôn trọng khả năng Giác ngộ siêu việt và những đức tánh cao quý mà ta sẵn có.

Ta phải nhớ tới lời Phật dạy trong Kinh Trường A Hàm “Đương tự xí nhiên. Xí nhiên ư Pháp, vật tha xí nhiên. Đương tự Quy y. Quy y ư Pháp, vật tha quy y.” (Hãy tự đốt đuốc lên mà soi đường, hãy thắp sáng lên ngọn đuốc diệu pháp của mình, đừng thắp ngọn đuốc nào khác cả. Hãy tự quy y mình, đừng quy y ai khác ngoài ta). Quy y như thế thì ta luôn luôn nhớ tới những điều chân chính, cao thượng, và lìa bỏ những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn, thanh lọc được tự tâm, để Tự Tánh Di Đà huy hoàng hiển lộ, và thấy rõ được Phật là Tâm, Tâm là Phật, Tâm là Tịnh độ, Tịnh độ là Tâm, và ta luôn luôn sống trong lý “Bất nhị.”

Hiểu rõ Tam tự Quy y thì ta thường được thấy Tam bảo nhãn tiền trong đời sống hàng ngày và hiểu rằng: Phật, Pháp, Tăng thường trụ không phải chỉ là Tam bảo có mặt khắp nơi ở ngoại cảnh, mà chính là Tam bảo thường trụ trong lòng ta. Có hiểu đúng như thế, có sống đúng theo ý nghĩa đó thì việc tu hành của ta mới có lợi ích, ngược lại, chỉ như người mò trăng đáy nước, hay kẻ ngồi mài mảnh ngói suốt đêm ngày mong tạo được một chiếc gương soi. Có hiểu đúng như thế mới nhập được vào Thực tại nhiệm mầu và mới được sinh về cõi Tây phương Tịnh độ, hay trở về với Chân tâm, Giác tánh của mình, thấy được Bản lai diện mục


PHẦN BA *******????

Kính thưa quý vị.

Trên đây là những ý kiến tương phản của hai phái cùng tu theo Pháp môn Tịnh độ, một bên thiên về Hiện tượng, một bên thiên về Bản thể, cả hai phái đều đưa ra những lý lẽ để bênh vực cho lập trường của mình và bài bác bên kia, không bên nào chịu thua bên nào cả. Tôi đã tư duy về vấn đề này, mong tìm được những lý lẽ xác đáng để dung hòa các mâu thuẫn bất đồng của hai bên, và trong khi quán tưởng về đề tài này, tôi đã cố nhớ lại những lời Phật và Tổ đã dạy.

Phật Đã Khuyên Chúng Ta:

1. “Phải dùng pháp của ta làm nhiên liệu để đốt cháy tâm can con, làm bùng lên ngọn lửa Bát nhã để soi sáng con đường tiến thủ của con.” (Kinh Di Giáo).

2. “Phải tự rèn luyện mình để trở thành một cái phao vững chắc, hay một hòn đảo an toàn làm nơi trú ẩn, đừng bao giờ tìm bất cứ một nơi ẩn trú nào khác ngoài ta, trong biển khổ trần lao mông mênh của cuộc đời.” (Kinh Pháp Cú)

3. Phải đặt trọn niềm tin ở mình, và đặt mọi cố gắng trên Chánh kiến và Chánh tư duy, vì chỉ có hai thứ đó mới đưa tới cứu cánh viên mãn.” (Kinh Pháp Cú)

4. Đừng bao giờ tin một điều gì mà tập tục, thói quen hay sự dạy dỗ theo lối nhồi sọ đã làm cho ta tin tưởng từ thời còn thơ ấu. Đối với một điều cần phải dùng Trí tuệ minh mẫn để xét lại, và khi đã phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng nếu thấy điều gì quả thật tốt lành, lợi ích cho tất cả thì hãy tin, rồi cố gắng giúp mọi người cùng tin và sống theo Chân lý ấy.” (Anguttara Nikaya).

5. Người nào chẳng may bị mắc vào lưới mê muội, mù quáng, tin càn, hiểu sai và đi lạc lối rồi thì đừng hy vọng dùng tụng kinh, cầu nguyện, lễ bái, cúng dường hoặc tu ép xác như nhịn đói, nằm đất, thức khuya dậy sớm, hành hạ xác thân để mong trở thành thanh tịnh, nếu trong tim óc của người ấy còn đầy chất độc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… làm cho người đó lúc nào cũng cuồng loạn. Chẳng phải vì những ngoan cố, khát vọng, tin nhảm, hiểu lầm, không theo chính đạo mà con người trở thành ô trược.” (Kinh Pháp Cú).

6. “Chính con phải tự cố gắng đi trọn con đường của con. Ta chỉ là người hướng đạo chỉ đường cho con đi mà thôi.” (Kinh Pháp Cú).

7. “Cúng dường vô số Phật không bằng cúng dường cho một người Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

8. “Niệm vô niệm niệm, Hành vô hành hành, Tu vô tu tu, Chứng vô chứng chứng.” (Niệm đến chỗ không niệm mới là chân niệm. Làm đến chỗ không làm mới thật là làm. Tu đến chỗ không tu mới là chân tu. Chứng đến chỗ không chứng mới thật là chứng). (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

9. “Này, Thiện nam tử, phải biết rằng các pháp đều Bình đẳng và bất hoại diệt. Thân, Tâm và Ngã, Pháp, Sinh tử và Niết bàn đều như Không hoa. Ở trong hành giả không có tạo tác và đình chỉ. Ở quả tu không có thủ xả và đắc thất. Rốt ráo không có Năng, Sở, khứ lai, sinh diệt. Có như thế mới nhập được vào Phật đạo. (Kinh Viên Giác).

10. Kinh Trường A Hàm có câu: “Tâm mang thế gian đi, Tâm dẫn thế gian lại, Tâm là căn bản của các pháp. Tâm sai khiến mọi sự mọi vật. Tâm nghĩ thiện thì hành động thiện, Tâm nghĩ ác thì hành động ác, hạnh phúc theo tâm như bóng theo hình.”

11. Kinh Tâm Địa Quán có câu: “Phật pháp của ta lấy tâm làm gốc, và muôn pháp ở thế gian này đều do tâm sinh ra cả.”

12. Kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh đặc biệt bàn nhiều về chữ tâm có những câu:

Tâm như công họa sư,

Họa chủng chủng ngũ ấm.

Nhất thiết thế gian trung,

Vô pháp nhi bất tạo!

13. “Tâm, Phật, cập chúng sinh, thị tam Vô sai biệt.”

14. “Tức Tâm tức Phật.”

15. “Nhất thiết duy tâm tạo.”

16. “Tất cả các pháp của ta chỉ như ngón tay để chỉ mặt trăng, chớ nên lầm ngón tay là mặt trăng.” (Kinh Viên Giác).

17. “Tâm thanh tịnh, thế giới thanh tịnh. Tâm nhiễm ô, thế giới nhiễm ô.”

18. “Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai Trí tuệ đức tướng.”

19. Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q 27) có câu: “Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tánh.”

20. Và Tổ Huệ Năng dạy:

Bồ đề chỉ hướng tâm mịch,

Hà lao hướng ngoại cầu huyền.”

21. “Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề.”

22. “Phải xoay ngược luồng nhãn quan về phía nội tâm mà tìm Chân lý, vì Chân lý không ở ngoại cảnh.”

23. “Lòng còn mải nghĩ tới sự Giác ngộ thì khó vượt được mọi mê mờ. Nguồn gốc của sự tỏ ngộ ở tâm thì nên tìm nguồn gốc đó ở bên trong, chớ đừng phí công kiếm sự tỏ ngộ ở ngoài mà đưa nó vào trong.”

24. “Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật.”

25. “Đừng nghĩ đến Thiện, đừng nghĩ đến Ác, trong lúc ấy mới hiện rõ “Bản lai diện mục của mình.

Hầu hết các Kinh điển của Đại thừa Phật giáo đều chú trọng đến tâm con người. Cái tâm ấy bừng sáng lên trong mỗi bộ kinh Phật, xuyên qua bức màn danh ngôn, sắc tướng.

Từng ấy mẩu ánh sáng gom lại đủ tạo thành một bó đuốc Chân lý sáng ngời dạy tôi phải tựa nương vào tâm mình để giải quyết mọi vấn đề khó khăn ở đời, và tôi có cảm nghĩ rằng Đức tin là điều quan trọng và thiết yếu đối với người học đạo, nhất là đối với người Phật tử còn sơ cơ.

Đức tin là mẹ của mọi công đức và phát sinh ra mọi hạnh lành. Trong Tôn giáo, Đức tin mang tính chất siêu hình và siêu việt biên giới của suy tư. Trừ một số ít người sống trong chủ nghĩa hoài nghi, buông thả không định hướng và phủ nhận giá trị thiêng liêng của tâm linh thì Đức tin là điều kiện cần thiết cho người tầm đạo muốn sống một cuộc đời hướng thượng, hữu ích.

- Trong Tín, Nguyện, Hạnh thì Tín là đức tánh căn bản, hướng dẫn người tu tiến bước trên đường đạo Giải thoát. Nhờ có Đức tin mà ta cố gắng phát huy Trí tuệ và bồi dưỡng đạo đức, tạo thiện nghiệp cùng phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Chúng ta an tâm trước mọi thử thách và vượt qua mọi chướng ngại trên đường hành đạo. Thiếu Đức tin thì thiếu quả quyết, dũng cảm và nhẫn nại, ta sẽ ngần ngại trước sự thử thách, do đó việc tu dưỡng tâm linh của ta sẽ giảm phần hiệu năng. Nhưng Đức tin ấy cần phải lành mạnh và được soi sáng bằng Trí tuệ Bát nhã để trở nên một Đức tin sáng suốt và kiên cố, nếu không nó sẽ trở thành mê tín đưa người vào vòng tà đạo. Ta phải lấy Đức tin để soi sáng, tránh cho Đức tin khỏi trở thành cuồng tín, mới không lạc vào mê mờ, hành động mù quáng sai lầm.

Và kết quả của những đêm suy tư quán tưởng về vấn đề niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ đã đưa tôi đến những nhận định sau đây.

PHẦN BA

Chương 4: Nhận Định Về Nghi Vấn: Có Hay Không Có Đức Phật A Di Đà Và Cõi Tây Phương Cực lạc.

Bởi căn cơ của chúng sinh cao thấp không đều, tánh tình uỷ mị cứng rắn khác nhau, nên Phật mới phải dùng đủ mọi phương tiện, mượn cái hữu hình để chỉ cái vô hình, mở quyền chỉ thực, vị thực thi quyền, lập ra 84.000 Pháp môn, xây dựng vô số thành trì giả để đưa tới một thành trì cho đó là thực, rốt cuộc thành trì mà mọi người tưởng là thực này, lại bị phá hủy nốt vì đó vẫn chỉ là ảo ảnh phù du. Đại thừa Phật giáo trong Bát nhã Tâm Kinh đã dạy cách phá vỡ các ảo ảnh về chủ thể (ngã) và phá luôn cả cái ảo ảnh về đối tượng (pháp), để từ đó con người nhận định về Thực tại một cách trung thực hơn. Cái ảo ảnh to lớn nhất và khó phá nhất là ảo ảnh về Chân lý tuyệt đối, về một đấng thiêng liêng và về một cõi Niết bàn hay Thiên đường vì đó là khát vọng ngàn đời và khắp nơi, cũng là chỗ tựa nương cuối cùng của con người đau khổ vốn ít tin tưởng vào tài sức của mình trước sự huyền vi và sức cuồng bạo của thiên nhiên.

Trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, con người lúc nào cũng cố gắng nối liền cái hữu hạn của đời người với cái vô cùng bất tận của không gian và thời gian. Cũng vì thế mà Phật hay Chúa đã ngự trị trên cuộc đời cơ cực, và Niết bàn, Tịnh độ Thiên đường đã dựng lên trên cõi sình lầy, gai góc, đầy bất hạnh này. Có bờ bên này đối diện với bờ bên kia. Cực lạc với Ta bà, Giải thoát và trói buộc, buồn thương và hạnh phúc, hữu và vô… Đức Thích Ca Mâu Ni, Tổ Huệ Năng… và Khrisnamurti là những vị đã thoát ly khỏi cái ảo ảnh và khát vọng đó, đã siêu lên trên mọi trói buộc, để chẳng còn gì phải khát vọng nữa. Bờ bên này sở dĩ có, vì có cái ảo tưởng về sự hiện hữu của bờ bên kia. Sự thật thì Giải thoát và trói buộc, Tịnh độ và Ta bà, Nhân quả và phi Nhân quả, tất cả những cặp mâu thuẫn trong thế giới tương đối, Nhị nguyên, đều chỉ là những danh từ để chỉ những sự vật giả có, giả không, những khái niệm của ý thức so đo mà tôi. Trên đường siêu thoát, người tu phải từ bỏ dần dần cho đến thực hết những gì mình có ở đời, tương tự như người lữ hành đi trên con đường thiên lý phải vứt bỏ ở dọc đường những gì mang theo để đỡ cồng kềnh, nặng nhọc, vinh hoa, phú quý, từ bỏ hình hài của mình, cho đến cả những cảm xúc, tư tưởng của mình nữa. Và ngay cả những gì mình đã lượm được ở dọc đường tu Giải thoát của nền giáo lý Phật dạy mà ta nâng niu, gìn giữ như hạt kim cương vô giá, cũng phải coi như những phương tiện chỉ cần thiết cho từng giai đoạn tu hành, như những nhịp cầu hoặc chiếc bè để qua sông, khi đã tới bờ bên kia rồi thì nhịp cầu hay chiếc bè phải để lại. Ngay cả ông lái đò đã chở mình qua sông (là Đức Phật) cũng phải từ giã nốt, để còn phải cất bước liên tục lên đường thiên lý làm nhiệm vụ hành đạo, có như thế mới là chân Giác ngộ. Vì Thể của Tâm vốn “không tịch” nên không thể trụ vào tướng mê ngộ được. Cái “Hữu” bị cái “Không” vô hiệu hóa, đến lượt cái “Không” lại bị cái “Bất không” phá hủy để cho lý Trung đạo hay “Chân không Diệu hữu” tỏ bày. Người quen nếp sống suy luận, Nhị nguyên nặng đầu óc phân biệt cho rằng các cõi Tịnh độ, Niết bàn, là nơi hư ảo, không thật có, nhưng người có tâm Vô phân biệt, quen nếp sống trực giác, tâm linh, hiểu rõ năng lực của Đức tin và Tâm thành, lại cho là các cõi Tịnh độ và Ta bà đều thực có, và chỉ là một, không hai.

Là một Đạo sư dày kinh nghiệm, Đức Phật Thích Ca đã dẫn chúng sinh đi từ thế giới khách thể hữu hình đến thế giới Bản thể vô hình, rồi lại phủ nhận cả hai thế giới hữu hình lẫn vô hình, phá cả hai bên đối đãi để hiển lộ cái lẽ phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, hay cái lý Bất nhị trong thế gian, Nhất nguyên Vô phân biệt. Mục đích của Phật là cứu vớt chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong tam giới, đưa tới một nơi lý tưởng Cực lạc, Niết bàn, nhưng cảnh giới cực kỳ sung sướng là Tịnh độ, Niết bàn kia chẳng phải là đâu xa lạ, mà chính lại vẫn là cảnh giới của tâm, ai ai cũng có, vốn vô sở đắc. Thế mới hay mất công bôn ba tìm kiếm khó nhọc khắp nơi, nhưng lại thấy ở nơi thật gần, ngay ở thân mình và rốt cuộc chỗ đến của lối tu tiệm ngộ theo Sự cũng là chỗ đến của lối tu đốn ngộ theo Lý. Sự chẳng khác Lý, chỉ không giống nhau ở căn cơ và hành trì siêng năng hay giải đãi mà thôi. Còn chấp Có, chấp Không, chấp Sự chấp Lý là còn mê muội và mang tâm phân biệt, chia rẽ, do đó còn bị trói buộc, khổ đau. Cũng như chứng bệnh của loài người có nhiều, lại phải có đủ mọi thứ thuốc để điều trị. 84.000 Pháp môn Phật dạy, Pháp môn nào cũng tuyệt diệu cả, vì có công năng trị bệnh cho loài người đến tận gốc, nhưng xét ra chỉ có hai loại là Pháp tướng và Pháp tánh hay Hữu môn và Không môn đưa người tu đến tòa nhà Như Lai. Khi đã tới nơi rồi thì Tướng cũng như Tánh, Sự cũng như Lý, Sắc tức là Không, Tương đối tức Tuyệt đối, Hữu vi cũng như Vô vi, đường lối tuy khác nhau, nhưng cùng tụ tại một điểm là Chân không, Chân như, Chân tâm, Phật tánh. Pháp tướng và Pháp tánh thoạt tưởng là độc lập khác nhau, nhưng thật ra lại bất dị, tương thành. Chúng nương lẫn nhau, tương tức tương nhập, cũng như điện âm và điện dương tưởng là tương khắc, hủy diệt nhau, nào ngờ chúng lại kết thành một dòng điện âm dương đun đẩy tiếp nối nhau để tạo thành một dòng điện âm dương đơn thuần. Pháp tướng nhờ vào hình tướng giả bề ngoài và cái Dụng để phô bày cái Thực tướng bên trong, hay cái thể Chân không của các pháp.

Người học đạo bước đầu còn dựa vào sắc tướng âm thanh, cậy vào Tha lực nhờ đó mới cởi bỏ được phiền não, nhiễm ô ở trong lòng. Pháp tánh nương vào Tự lực của người tu nhiều hơn. Hành giả thu thúc lục căn, quán sát tâm mình, không lưu ý tới ngoại cảnh, cố gắng dứt bỏ chúng sinh tánh, diệt trừ tận gốc tham, sân, si để tâm trở nên thanh tịnh.

Cái đích của cửa Không cũng là cái đích của cửa Hữu, giống nhau ở điểm phải thanh lọc những ác tưởng để tâm trở nên thanh khiết. Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn thần diệu vì nó có sức thu hút mọi giai tầng tín đồ Phật giáo, từ bậc thượng lưu trí thức đến hàng thất học hạ căn, từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc gì cũng có thể niệm Phật được cả. Pháp môn đó thỏa mãn được mọi Phật tử, người nặng tình cảm và tín ngưỡng, nương vào Tha lực thì tu theo Sư tướng, lối tiệm tu, người có ý chí tự cường, tin ở tài sức của mình thì tu theo Lý tánh, lối đốn ngộ. Nhưng dù theo Sự hay Lý, tin hay không tin có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, cũng có thể đạt được kết quả như nhau là diệt trừ phiền não và tâm được an vui, nếu cùng siêng năng hành trì theo con đường tu của mình đã chọn.

Điểm đặc sắc của Pháp môn Tịnh độ là người tu theo Sư tướng, không hiểu về Lý, chỉ chuyên cần niệm Phật A Di Đà với “nhất tâm bất loạn”, cũng đạt được mục tiêu là trở về với Chân tâm thanh tịnh của mình, y như người rành về Lý. Vì khả năng thu hút của Pháp môn Tịnh độ và để thỏa mãn cũng nhằm vào mục tiêu có lợi cho đủ mọi hạng người không thể trả lời dứt khoát là Có hay Không có Đức Phật A Di Đà, và Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc, bởi lẽ nếu nghiêng hẳn về một bên, vừa không hài lòng bên kia, lại mắc vào lỗi Biên kiến, ngả về Có thì chấp Tướng, nghiêng về Không thì chấp Tánh, bị lạc vào ngoan không. Bởi lẽ mọi pháp trên thế gian này đều chẳng thật có, chẳng thật không, chẳng phải hư, chẳng phải thực, nên đối với câu hỏi Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, không thể đứng trên lập trường trí thức thuần túy, nghiêng về Lý, đóng khuôn trong hình thức Nhị nguyên mà trả lời Có hoặc Không dứt khoát, mà chỉ có thể đứng trên lập trường tâm linh, trong khuôn khổ Nhất nguyên mà trả lời: Có và Không; cũng Có và cũng Không, hoặc chẳng phải Có và chẳng phải Không. Bởi lẽ Có chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Có, Có tức là Không, Không tức là Có theo Bát nhã trí.

Đối với người theo Sự, không hiểu về Lý, còn phải dựa vào Tha lực mà nuôi dưỡng tinh thần họ. Nhưng đối với ai tu đã lâu năm mà quen thói ỷ lại, cứ bám vào hình tướng, không chịu dưỡng tánh tu tâm mà không chịu tin ở Tự lực của mình thì cần phải trả lời là Không có.

Ở đây chúng ta nên nhớ tới lời Tổ Huệ Năng khuyên các đệ tử cách trả lời mỗi khi có người hỏi về những sự việc có tính cách đối nghịch. Tổ nói: “Hễ ai nghiêng về Có, phải lấy Không để đáp lại. Hỏi Thánh thì lấy phàm, hỏi phàm thì lấy Thánh để đối đáp, như vậy giữa hai thái cực Có, Không, Thiện, Ác… nảy sinh lý Trung đạo hay Bất nhị bao trùm cả hai bên, có như thế mới khỏi mắc vào lỗi thiên kiến cực đoan.

Chương 5: Nhận Định Về Vấn Đề “Đới Nghiệp Vãng Sanh.”

Điểm nghi vấn Có hay Không có “đới nghiệp vãng sanh” cũng được giải đáp tương tự như nghi vấn: Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc.

Để trấn an những tâm hồn yếu đuối, Đức tin không vững, và ngại mình phúc mỏng nghiệp dầy tạo nhiều quả ác, thì mong gì được dự phần hưởng phúc ở cõi Cực lạc Tây phương để chung sống với các bậc Hiền, Thánh. Về điểm này Cổ Đức có dạy: Phàm là chúng sinh ai cũng phải mang nghiệp vào thân, chẳng nặng thì nhẹ, không ai thoát khỏi Nghiệp báo, do đó đừng nên thắc mắc về Nhân quả, Luân hồi. Cũng ví như mây đen bao phủ bầu trời, đến khi gió thổi thì mây đen liền tan, hoặc gian phòng đang tối, bỗng đèn điện bật sáng thì bóng tối biến liền. Cảnh mây đen và bóng tối chỉ là hư ảo, cũng như vô minh tạm thời che khuất Chân tâm, chẳng phải là cảnh thật, vì đã gọi là thật thì vĩnh viễn cứ như thế mãi không hề đổi thay. Đèn điện và gió thổi có khả năng xua đuổi bóng đen thì ánh linh quang của Trí tuệ cũng có khả năng phá tan vô minh phiền não, cho nên chẳng sợ mang nghiệp vào thân mà chỉ cần lo gieo nhân lành thật nhiều, và chuyên tâm thành kính niệm danh hiệu Phật A Di Đà để tới khi lâm chung quen việc niệm Phật.

Hễ nuôi dưỡng Tín tâm cho vững và thực hành được từ 1 đến 10 niệm thanh tịnh trong lúc hấp hối cũng đủ để Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài. Cũng ví như người phải vác một tảng đá lớn lội qua sông trong cơn phong ba thì khó bề tránh khỏi thủy tai, nhưng nếu người ấy lại được chuyên chở bằng thuyền bè, tượng trưng cho Tha lực của chư Phật thì dù phải mang nặng hàng tấn đá vẫn ung dung ngồi vững trên thuyền lướt sóng bình yên trong cơn giông bão, chẳng tổn hơi sức. Đó là lý của những người tu theo Sự, tin ở Tha lực và thuyết “đới nghiệp vãng sanh.” Đối với người không hiểu về Lý thì tất cả mọi hiện tượng tâm, Vật lý đều thực có, như vậy thì Nghiệp báo sao lại chẳng có. Nhưng đối với người đã hiểu Chân lý lại tin rằng: Xác thân này Hư giả, Vô ngã, vọng tâm lại Điên đảo, Vô thường thì Nghiệp báo sao lại có được? Đó chỉ là vấn đề nhân duyên giả sinh, giả hợp mà thôi, vậy chẳng cần phải lo ngại. Vì thế mà tâm họ lúc nào cũng an nhiên tự tại. Họ chẳng sợ quả báo mà chỉ lo không gieo được nhân lành. Họ hiểu rằng: Nhân quả là luật thiên nhiên, có vay thì phải trả. Họ tìm mọi cách vượt lên trên nhân duyên để được Giải thoát. Cũng như khi con người đã hiểu rõ luật thiên nhiên thì không làm điều gì trái luật thiên nhiên, lại còn biết lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên để chế ra nào là tàu thủy, tàu ngầm, thuyền buồm… để di chuyển dưới nước, vượt biển rộng; nào là khinh khí cầu, phi cơ, hỏa tiễn để đi trên không, vượt trời cao; nào là máy in, máy điện tín, điện thoại, máy chữ… để thông tin xa nhau hàng vạn dặm, nhờ đó mà thu ngắn được khoảng cách, nối liền quá khứ, hiện tại, vị lai. Con người thời nay, nhờ trí thông minh của mình đã đạt được ngũ thông và đã trở thành khổng lồ, có sức bay nhanh hơn chim, lặn sâu hơn cá, vác nặng hơn voi, chạy nhanh hơn thỏ, nghe được suốt lục địa, nhìn thấu các vật vô hình, lại có sức phá rừng, lấp biển, xuyên núi, chặn đứng các thác nước cuồn cuộn đổ xuống từ cao…

Đứng trước nghiệp và khổ đau, con người có hai cách để vượt qua:

1. Một là đối diện với nghiệp và khổ đau để tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nghiệp trong thân, khẩu, ý để tìm cách tiêu diệt những nhân tố ấy. Đó là thái độ áp dụng trong Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

2. Hai là đối diện với nghiệp khổ đau, nhưng không chống lại chúng theo lối ăn miếng trả miếng, mà lại dùng Nhẫn nhục, như một thế võ Nhu đạo, mượn cái đà của chúng để tiêu diệt chúng. Nói cách khác, khi khổ đau và nghiệp tấn công, ta không chống cự lại mà lợi dụng thế võ “Nhu thắng cương, nhược thắng cường”, lấy Nhẫn nhục Ba la mật để đối phó lại. Cũng như khi quân giặc đến tấn công nếu ta đem quân ra chống cự lại, ắt phải tổn thất nhân mạng, đổ máu nặng nề, nhưng nếu ta lại bỏ ngỏ thành áp dụng chiến thuật “vườn không, nhà trống” thì quân giặc không giết hại được gì cả. Dùng Nhẫn nhục để đối phó thì tánh Nhẫn nhục của ta được tôi luyện thêm sắc bén, ta chịu đựng khổ đau mà không kêu ca, sân hận thì ta phá được Ngã chấp, Pháp chấp, đắc quả Vô sanh Pháp nhẫn. Khi đã không sân hận oán thù thì không gây thêm nghiệp ác mới nữa, ta đình chỉ được luật Nhân quả và đạt được Chân tâm, Phật tánh của mình.

Bởi vì khi trực diện với nghiệp và khổ đau thì chúng chỉ tác dụng trên con người giả của ta mà thôi, nghĩa là chúng chỉ làm cho thể xác và tinh thần hay cái thân ngũ uẩn giả hợp này bị ảnh hưởng, chứ tuyệt nhiên chúng không thể tác hại đến phần tinh thần là Chân tâm, Phật tánh của con người thật (Chân ngã) của ta được. Những ai đã hiểu rõ luật Nhân quả đều biết rằng: nghiệp với ta là một. Nghiệp chính là mình, vì ai muốn tạo nghiệp gì tùy ý. Không ai thoát khỏi nghiệp, bởi nghiệp gắn liền với tư tưởng và hành động của con người. Còn suy tư là còn nghiệp, chẳng dữ thì lành. Họ không sợ nghiệp và khổ đau, vì biết rằng có nghiệp mới có Giải thoát, có phiền não mới có Bồ đề. Không bị khổ đau, không vượt qua nghiệp chướng, tất không thể nào siêu thăng. Giải quyết những mâu thuẫn của trí thức như thế nào thì cũng giải quyết vấn đề Nghiệp báo như thế. Trí Sai biệt và Phân biệt được giải quyết bằng trí Vô sai biệt và Vô phân biệt, thì nghiệp cũng được giải quyết bằng Phi nghiệp. Đau khổ và nghiệp là duyên lành tạo niềm an lạc cho tâm hồn, cũng như đóa sen thơm ngát mọc lên từ bãi sình lầy hôi tanh.

Theo nghĩa thông thường thì nghiệp là luật Nhân quả tự nhiên, nhưng dưới cặp mắt của người đạt đạo quen sống với lý Bất nhị thì nghiệp tức là phi nghiệp. Giữa mê và ngộ, nghiệp không tác động như nhau. Trong lúc người mê không ngớt than thân trách phận về nghiệp quả nặng nề, thì người ngộ lại không cảm thấy gánh nặng của nghiệp đè lên vai mình. Tuy cùng đeo nghiệp như nhau, nhưng họ lại không để ý đến nghiệp, bởi thế, tâm họ luôn thanh thản. Họ không xóa bỏ luật thiên nhiên nhưng tùy thuận thiên nhiên mà sống, đồng nhất với thiên nhiên trong cảnh tự tại vô ngại. Nghiệp dù có đến, họ thản nhiên chịu hậu quả của nghiệp như để trả một món nợ đã đáo hạn cho xong. Người đạt đạo trong hoàn cảnh đau buồn, dĩ nhiên là biết nhưng dường như không biết, bởi vì người này đã ẩn mình trong tánh “Không”, nên mới Giải thoát khỏi đau buồn. Người ấy cũng cảm xúc như ai, nhưng họ hiểu rằng, không ai tránh khỏi luật Nhân quả, phải lấy tánh Nhẫn nhục để che cho thân mình. Đó chẳng phải là trạng thái tinh thần trơ như gỗ đá, cũng chẳng phải là ươn hèn, nhưng chính là tự độ, tự giác để giác tha. Bởi vì theo luật biến hóa của vọng tâm sinh diệt, thì khi người ta đau buồn thường hay sinh ác tưởng. Để thỏa mãn ác tưởng phải tăng thêm nghiệp ác, cho nên người tu hạnh đầu đà, Nhẫn nhục, tạm ẩn trong tự tánh thanh tịnh Niết bàn để ngăn ác tưởng không cho phát sinh. Đó là một việc làm khó, đòi hỏi phải đi ngược dòng sinh của ác tưởng. Nhờ công phu tu tập của pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả mới dẹp được mầm ác manh nha và an tâm vào tình trạng khách quan thanh tịnh. Đó là một cách để diệt khổ được vui, làm mất hiệu lực của luật Nhân quả. Con người cũng có thể vượt qua nghiệp bằng cách chuyển Nghiệp thành Nguyện. Cũng như con người, khi đã biết rõ luật thiên nhiên thì tìm cách lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên, vượt qua nó để phục vụ cho hạnh phúc của mình. Tâm tạo nghiệp thì tâm cũng giải được nghiệp. Có chuyển được nghiệp, cắt đứt mối giây Nhân quả mới khỏi bị nghiệp trói buộc. Cứ phát ra những lời đại nguyện thanh tịnh, chân chính, vị tha, rồi cố gắng thực thi những đại nguyện ấy thì chẳng còn sợ Nghiệp báo, Nhân quả nữa.

“Bất lạc Nhân quả, bất muội Nhân quả” khác nhau chính là ở điểm này. Do đó, những người này không tin thuyết “đới nghiệp vãng sanh”, và đối với câu hỏi: “Có hay không có “đới nghiệp vãng sanh?” Cũng như với câu hỏi: “Chúng sinh Có hay Không có Phật tánh?”, thì có thể trả lời: “Có và Không”, “Cũng Có và cũng Không”, hay “Chẳng phải Có, chẳng phải Không”, hay “Chẳng phải không có, chẳng phải Không không có.” Tiện đây, tôi xin kể lại câu chuyện rất quen thuộc đối với đa số người trong đạo Phật:

Một bữa, một người hỏi Thiền sư Triệu Châu:

 - Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài đáp: Không.

Người này lại hỏi:

 - Kinh Pháp Hoa có nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”, cớ sao con chó lại không có Phật tánh?

Ngài đáp:

 - Bởi vì Vô minh che lấp Chân tâm, nên nói: Không. Con chó không thấy Phật tánh của nó, cho nên tuy nó có Phật tánh mà cũng coi như nó không có vậy.

Bữa khác, có người lại hỏi Thiền sư Triệu Châu:

 - Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài đáp: Có

Người ấy gặng hỏi:

 - Nếu có Phật tánh, sao nó lại phải đội lốt chó?

Ngài đáp:

 - Bởi vì đã biết là có Phật tánh mà nó còn hành động theo lối Súc sanh, nên mới phải đội lốt chó. Cũng như người có kiến thức mà lại cư xử thiếu nhân cách, không sống theo nhân đạo thì phải đọa kiếp chó và đội lốt thú chứ sao?

Như vậy, ta thấy rõ: “Tùy theo căn cơ và tánh tình của người đặt câu hỏi mà phải trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề, âu cũng là phương tiện để người nghe giải mê, khai ngộ.”

Chương 6: Nhận Định Về Một Số Quan Niệm Sai Lầm Thông Thường Của Người Thời Đại.

Xin lưu ý quý vị về mấy điểm sai lầm thông thường sau đây của người thời đại:

Mục 1: Thuyết Nhị nguyên.

Với đường lối thuần lý của Triết học và Khoa học Tây phương đặt cơ sở trên luận thuyết “Cogito ergo sum” của Descartes thì đa số người Tây phương hiện nay vẫn còn quen nhận thức cuộc đời theo đường lối Nhị nguyên. Thậm chí họ còn đặt ra nguyên tắc “Bài trung” (Principe du Tiers exclu) để đánh đổ chủ nghĩa “nửa vời.”

Theo họ thì việc dời đổi chẳng thế nọ cũng thế kia, chẳng tốt thì xấu, chẳng đúng thì sai, chẳng đen thì trắng, nếu Có thì tất chẳng phải là Không. Họ cho rằng: mọi hiện tượng trong trời đất đều thật có, bởi vì cái gì cũng rõ ràng, sờ sờ ngay trước mắt. Theo biện chứng: Tôi tư duy, vậy thì tôi hiện hữu, cho nên phải có Ta, có Người, có Sinh, có Diệt, có Vật, có Tâm… quyền lợi mâu thuẫn sinh ra tranh chấp, chứ không thể có tình trạng nửa vời, chẳng trắng, chẳng đen, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng đúng, chẳng sai, chẳng không, chẳng có, mờ mờ ảo ảo. Khi nào trí óc của con người còn đi theo con đường mòn Nhị nguyên xưa nay, thì kết quả không sao tránh khỏi là phải phủ nhận hoặc chấp nhận dứt khoát, và như thế là rơi vào thế đối lập, chia rẽ, phân biệt bạn và thù. Phật giáo chủ trương: Chỉ khi nào không khẳng định cũng không phủ định, và sống trong sai biệt - vô sai biệt, và phân biệt - vô phân biệt, thì lúc đó mới đạt tới Thực tại tuyệt đối.

Nhưng gần đây đã thấy xuất hiện trên thế giới một số Triết gia và Khoa học gia tân tiến, lên tiếng cảnh cáo đường lối thuần lý của nền Triết học và Khoa học ở thế kỷ XIX như Heidegger, Nietztsche, Kierkegard, Dostoiewsky. Những vị này đã can đảm nhận thấy những khuyết điểm của quan niệm xưa kia, nhìn đời bằng con mắt thị phi, phân biệt rành rẽ, vì sau nhiều cuộc thử nghiệm trong lãnh vực Điện tử, họ đã đi sâu vào một thế giới lạ lùng ở đó chẳng phải là sự, chẳng phải là tâm, mà chỉ là một hệ thống chằng chịt, trong đó quan niệm thông thường về vật chất tan biến như mây khói. Nếu coi Điện tử là nền tảng của vật chất như các vật thể khác thì nó lại không có khối lượng vật chất khi nó ở thể loãng, bất động, trái lại nó lại năng động. Họ đâm ra lúng túng không biết nên đặt Điện tử vào khu vực vật chất với danh hiệu là Lượng tử hay Chất tử (Corpuscule de matière) hay cho nó vào hàng ngũ Năng lực (tinh thần) với danh hiệu là Ba động của Tĩnh lực (Onde d’énergie) bởi vì nó gồm đủ cả tánh của vật chất lẫn năng lực, vừa là Vật vừa là Tâm. Rốt cuộc, buộc lòng người ta phải tạm đặt cho nó danh từ là Lượng tử Ba động (Onde Corpuscule) để chỉ cho một Thực tại nghịch lý phi vật chất, phi tinh thần ấy.

- Theo thuyết Tất Định hay Định Mệnh của La Place cho rằng: “Không có gì ngoài vật chất cả, và mọi hiện tượng trong Vũ trụ đều do vật chất sinh ra”, biến hóa theo luật Nhân quả, do đó có thể đoán định được tất cả những gì sẽ phải xảy ra. Nhưng tới năm 1927, nhà bác học Đức Heisenberg đã chứng minh cho thế giới thấy rằng nguyên lý Tất Định hay Định Mệnh an bài không thể áp dụng trong thế giới Điện tử được nữa, và không sao biết trước được vị trí và tốc độ của Điện tử ra sao cả. Hơn nữa các Khoa học gia ngày nay không còn dám tự hào là mình đã dùng cặp mắt và khối óc khách quan để quan sát ngoại vật như thường lệ nữa, mà họ đã phải thú nhận rằng những đặc tánh của Lượng tử hay Chất tử đều do trí óc chủ quan của họ tạo nên, chứ thật sự thì các vật này không có những đặc tánh riêng biệt, độc lập đối với trí óc của người quan sát (L’electron ne possède pá de propriétés indépendantes de mon esprit - trích tài liệu Tham luận tại cuộc toạ đàm ở Cordoue, Tây Ban Nha, năm 1979, về đề tài Sciece ét Conscience - Khoa học và Tâm thức).

Nói khác đi, thì họ phải công nhận rằng trong lãnh vực cực vi thì chủ thể quan sát không tách rời khỏi đối tượng được quan sát, và như vậy thì Khoa học ngày nay cũng đi tới nhận thức giống như của Long Thọ Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa ở thế kỷ thứ II dương lịch là: Phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, tức là Pháp môn Bất nhị hay Tâm Vật Nhất Như, mà lời nói của loài người khó diễn tả nỗi. Phật giáo cho rằng: Các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả diệt, và bản chất của chúng vốn Vô tự tánh. Các pháp không tự nhiên có, phải do tương quan với những cái không phải nó mà có, nên sự Có ấy là Giả có. Có khái niệm về Có vì có khái niệm về Không. Có khái niệm về Sinh vì có khái niệm về Diệt. Sự mâu thuẫn giữa Có, Không, Sinh, Diệt đưa đến một tổng đề Phi Có Phi Không, Phi Sinh Phi Diệt hay Bất nhị, nhưng trong cái Bất nhị vẫn ngầm chứa cái Nhị đối lập với nó. Cứ như thế, một pháp luôn luôn hàm chứa một pháp khác, mâu thuẫn với nó. Từ đối nghịch, mâu thuẫn đi tới một tổng đề, vẫn hàm chứa một mầm mâu thuẫn mới, nằm trong giới hạn của khái niệm, danh từ Tổng đề cứu cánh phải là Thực tại tuyệt đối vượt ra ngoài tính chất tương đối, so đo của ngôn ngữ, khái niệm.

Hiểu rõ lý nhân duyên trùng điệp sẽ phá tan được những cặp mâu thuẫn Nhị nguyên và những khái niệm nhị biên để đạt tới Chân lý tuyệt đối, không còn tranh luận hão huyền nữa. Thấu triệt lý nhân duyên tức đi tới thể Không tịch, phá vỡ được Ngã chấp, Pháp chấp và đạt tới chân trời “Chân không Diệu hữu.”

Lý nhân duyên chuyển được sự thúc phược thành sự tự do. Trong các Kinh điển của Đại thừa Phật giáo chủ trương Chân không - Diệu hữu đều hàm chứa lý đó như: Vô Tận Trùng Trùng Duyên Khởi Trong Kinh Hoa Nghiêm, Thực Tướng Quan Trong Kinh Pháp Hoa, Chân Như Quan Trong Khởi Tín Luận và Tịnh Độ Quan Trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ.

Phật giáo chủ trương phá chấp triệt để nào là chấp Có, chấp Không, chấp Thường, chấp Đoạn, chấp Ngã, chấp Pháp, vì với xu hướng Nhất nguyên hay tinh thần Bất nhị, đạo Phật đã đạt Chân lý tuyệt đối viên dung, không còn bị vướng mắc vào lỗi lầm nào cả. Muốn được như vậy, người Phật tử học đạo phải gột sạch óc phân biệt Nhị nguyên, từ bỏ mọi ràng buộc vào Có, Không, Thường, Đoạn, và không chấp vào danh từ, để thấy được Thực tại toàn diện và nhất quán, một Thực tại thoát ly cả Có lẫn Không, vượt khỏi mọi khái niệm, siêu việt trên lãnh vực của hình, danh, sắc, tướng, ở ngoài nhận thức chủ quan, tương đối.

Muốn được như vậy thì người học đạo phải rời bỏ mảnh đất thuần lý của Khoa học và Triết học cổ điển, lỗi thời mà dấn thân vào cảnh giới tâm linh, tức là vượt qua lý trí để trực quán Thực tại nguyên thủy của tâm, siêu lên mọi phân biệt tỷ giảo của Triết học và Khoa học Nhị nguyên, chỉ thấy Thực tại trong Tỷ lượng một cách méo mó, thiên lệch, làm cho Chủ và Khách, Tâm và Cảnh đối đầu nhau đưa tới tình trạng phân ly, vị kỷ, cố chấp mà không thấy được Chân lý “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tánh”, “Ta là Người, Người là Ta, Bình đẳng vô phân biệt và Vô sai biệt.” Người Giác ngộ sống với lý Bất nhị, thấy rõ thực tướng của các pháp đều Không, Vô tướng, Vô tác, thấy rõ tính cách ảo ảnh phù du của ý thức và giác quan là đầu mối của vô minh, đã bóp méo và cắt xén Thực tại, làm cho con người bị mù quáng và khổ đau, và thấy được tính cách trong sáng của sự vật ở đời, khi đã từ bỏ được nhận thức thiên lệch để thấu triệt được Thực tại phổ quát, đại đồng, và khi ấy thì phá được hàng rào ngăn cách Chủ và Khách, Tâm và Cảnh để không còn yêu ghét, khổ đau nữa. Muốn tiến tới điểm đó thì không thể đi theo đường lối của Lý trí suy luận, phân biệt và phải bằng Trực giác tâm linh và Đức tin lành mạnh, tức là bằng Thiền quán và Niệm Phật, Chính mê vọng tạo ra cảm giác, nguồn gốc của khổ đau, đưa tới ác tưởng và hành động sai lầm. Đó là mục đích mà Phật ra đời để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập vào Tri Kiến Phật của mình và thấy được Thực tại toàn chân.

Mục 2: Hư Vô Chủ Nghĩa.

Thà nghiêng về phía chấp Có, khẳng định có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, rồi thành kính tin tưởng vào Tha lực và chuyên cần niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu mong tha thiết được “đới nghiệp vãng sanh” về quốc độ của Ngài, còn hơn là ngả về phía chấp Không, phủ nhận cõi Tịnh độ Tây phương, chẳng chịu chăm lo gieo nhân lành, vun trồng cội đức, không tin có Tha lực để rồi chẳng chịu khó niệm Phật, mất Tín tâm thành người vô đạo.

Lý “Đệ nhất nghĩa không” hay “Nhất Thiết Giai Không”, trên mặt Bản thể của đạo, và thuyết “Tất cả mọi sự vật đều thực hữu trên mặt hiện tượng” là hai bộ mặt của một Thực tại toàn diện gồm đủ cả Tánh lẫn Tướng, Thể và Dụng. Sống trong thế gian dù biết là mê vọng, giả dối, nhưng ta vẫn phải sống hết mình, làm tròn sứ mạng của ta, để cuộc đời mình được thăng hoa tiến bộ về mọi mặt. Ta không thể khư khư ôm giữ mãi lý “Không” trong giấc ngủ mê man siêu hình, hoặc khoanh tay ngồi nhìn thiên hạ, sống ngoài vòng cương tỏa, mà phải tích cực hoạt động làm lợi ích cho đời, có như thế mới hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa pháp Không và pháp Có, giữa Tuyệt đối và Tương đối, giữa Chân ngã và Giả ngã, giữa Phật thừa và Nhân thừa.

Câu nói: “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ” có nghĩa là ngoài bản tánh của ta thì không có Phật A Di Đà, và ngoài tâm mình thì không có cõi Tịnh độ. Đó là trạng thái tuyệt đối của Bản thể Chân tâm khi đã chứng ngộ được lý “Chân không Diệu hữu.” Đây là cảnh giới hư vô tịch tĩnh của bậc chân nhân khi đã phá vỡ được xiềng xích của Ngã chấp và Pháp chấp. Đối với người thường, còn phải dầy công tu luyện khi chưa đạt tới bậc thang đó, còn phải tập đi lần từng bước ngắn và thấp cho khỏi vấp ngã, dựa vào Tướng, Dụng của các pháp phương tiện để thân chứng được “Đệ nhất nghĩa không.” Nếu chẳng tự lượng sức mình, cứ nhắm mắt bắt chước những bậc thượng căn, học đòi hành theo lý “Đệ nhất nghĩa không” ngay từ lúc mới chập chững bước vào cửa đạo là một việc làm tối nguy hiểm. Bởi vì hành động của người đạt đạo đã chứng “Đệ nhất nghĩa không” là hành động của người theo lý “Tri hành hợp nhất”, còn đối với kẻ chưa am hiểu lý “Đệ nhất nghĩa không”, cái gì cũng cho là không cả, ngả theo Hư vô chủ nghĩa, thì chẳng khác nào người khờ dại, phải lội qua sông khi chưa biết bơi đã vội phá hủy cây cầu nối liền hai bờ, hay không chịu dùng thuyền bè để qua sông. Khi ta còn ở trong vòng tương đối, chưa ngộ được lý “Đệ nhất nghĩa không”, thì còn phải dựa vào sắc tướng, nương vào âm thanh để tiến tu từng bước đầu. Mỗi bậc tu có những quả sở đắc riêng, nếu công phu nội chứng của hành giả chưa đạt tới trình độ chín muồi thì không thể bảo rằng: Tâm - Cảnh đều không, năng sở đều tịch, do đó cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà là những đối tượng cần thiết để nương tựa mà tiến tu cho tới Giải thoát cứu cánh. Chỉ khi nào triệt thấu được Chân tướng của các pháp là phi hữu, phi vô, diệc hữu diệc vô, mới khỏi bị mắc kẹt vào gọng kìm Có, Không của thế tục, nghĩa là không còn ở trạng thái “hiệp giác bội trần”, cũng chẳng “hiệp trần bội giác.” Pháp Có chẳng ràng buộc nổi mình nên không còn bị phiền não quấy rối, mà pháp Không cũng chẳng lôi kéo nổi ta, do đó mới ung dung thành tựu được mọi lợi ích cho đời. Người chấp Hữu có thể dùng môn thuốc “Không” để trị cho lành bệnh, còn người chấp Vô, lạc vào Hư vô chủ nghĩa thì nguy hiểm vô cùng, vì đó là một chứng bệnh nan y khó chữa. Trong lục độ Ba la mật thì Trí Bát nhã là phần cốt tuỷ cần phải đạt tới mới mong được Giải thoát. Lý Bát nhã Chân không là một liều tiên dược đối với ai thiên về Sư tướng, nhưng lại là một liều độc dược giết người đối với ai không biết cách sử dụng nó. Tỷ như người hành đạo mà coi thường giới luật, cứ sát sinh, uống rượu, ăn thịt, nói năng bừa bãi, rồi viện lẽ “nhất thiết giai không” để biện minh cho việc làm càn bậy của mình thì phải đọa Địa ngục nhanh như tia chớp. Những ai đã hiểu lý “Chân không” một cách chân chính, biết buông thả vọng duyên thì tu Pháp môn nào cũng đạt tới “Tam luân không tịch”, phá được Ngã và Ngã sở, lìa hết các pháp để tới chỗ “Hành vô hành hạnh”, “Tu vô tu tu”, thì lý Bát nhã quả là Thánh dược lợi ích vô cùng.

- Quan niệm về “Không” biểu thị giá trị siêu việt của Thực tại, thoát ly mọi nhận thức chủ quan thiên lệch. Đó cũng là tư tưởng tích cực nhập thế giúp ta không sợ khổ đau để ung dung tiến bước trên đường hành đạo Bồ tát, với đôi giày Nhẫn nhục và Tinh tiến. Nhưng muốn đạt tới Chân không là Bản thể của các pháp người học đạo phải băng qua chặng đường dài chấp Hữu, cũng như muốn đạt tới địa vị Vô học, phải học đủ các Pháp môn, nghiên cứu đủ Tam tạng Kinh điển để không còn gì phải học nữa, rồi dùng pháp Xả để tùng Tướng nhập Tánh. Nhờ quán tưởng và Thiền định lâu ngày, nhờ tư duy sâu sắc người tu hành thấy rằng, dù ở nội tâm hay ở ngoại cảnh, không có cái gì trường tồn vĩnh cửu, bất biến, cũng không có tự ngã trong mọi dòng hiện tướng, do đó người tu loại bỏ được mọi khuynh hướng ích kỷ, tham luyến, đắm say, sống với toàn thể Vũ trụ bằng trái tim tràn đầy tình thương bao la, không tham sống, không sợ chết, vui vẻ đợi sự Giải thoát đến với mình để tiếp tục một cuộc sống tươi đẹp hơn ở kiếp sau.

Mục 3: Tri Phải Hành

Biết tức là Hành, Hành tức là Biết. Biết cặn kẽ đến ngọn nguồn tức là Giác ngộ. Giác ngộ và Hành động triệt để theo sự hiểu biết viên mãn của mình tức là thành Phật.

Phật học và Khoa học giống nhau ở điểm chung là “Tri Hành hợp nhất.” Sau khi hiểu rõ lý thuyết thì nhà Khoa học đi ngay vào thực nghiệm, cũng như người học Phật đem giáo lý Phật dạy ra thực hành ở đời.

Không bao giờ có Tri lại thiếu Hành vì đạo Phật là một đạo thực tiễn, không ưa lý luận suông, nhất là đối với Pháp môn Tịnh độ. Bản ý của Phật là muốn cho chúng sinh thoát khổ được vui nên Phật mới dùng phương tiện niệm Phật A Di Đà để chúng sinh gieo những hạt giống tốt lành vào tâm hồn của mình, cốt để an tâm dưỡng tánh diệt trừ mầm ác cho tâm trở nên thanh tịnh an vui. Không cần xét xem Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc rồi mới niệm Phật A Di Đà, bởi vì biết như vậy chẳng lợi ích gì, mà còn làm mất thời giờ dùng để niệm Phật và giảm Tín tâm cần phải nuôi dưỡng để mỗi ngày thêm vững mạnh hơn chỉ cần niệm Phật cho chuyên, cho thuần là đủ, rồi kết quả đạt được, tùy ý muốn của hành giả, hoặc được tâm thanh tịnh ở hiện tại, hoặc được về thế giới Cực lạc Tây phương trong vị lai, đều diệt trừ được phiền não, tâm được tự tại cả. Vấn đề Tịnh độ, Niết bàn, Chân tâm, Phật tánh thuộc về Bản thể siêu hình chỉ cảm thấy mà không thể chỉ bày hay lý giải bằng giác quan, ngôn ngữ của người thế gian mà phải thể nghiệm bằng trực giác và chấp nhận bằng Đức tin tuyệt đối. Tuy không thể chỉ bày những thứ đó bằng mắt bằng tay được, bởi vì chúng không có sắc tướng, nhưng đó lại là một thực thể thường hằng, hiện diện khắp không gian và thời gian. Khi nào Chân tâm hiển lộ thì Phật A Di Đà mới xuất hiện tại tâm. Đức A Di Đà mà ta thấy được là Phật của tâm ta, do đó mới bảo là Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ. Khi nói đến duy tâm, tự tánh thì phải hiểu đó là Chân tâm thanh tịnh và Phật tánh sáng suốt Bất sanh Bất diệt của mình, không phải là cái tâm tà vọng bất tịnh, giả hợp, giả hoại của ta. Cầu được thấy Đức Phật kia tức là cầu được thấy Chân tâm, tự tánh của mình. Mong được vãng sinh Cực lạc thế giới tức là mong được thấy những đức tánh thanh cao quý báu của ta. Đó là ý nghĩa câu kinh “Tức Tâm tức Phật” và “Tức thân thành Phật.”

Vấn đề Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc chỉ là nghi vấn của hạng người sơ cơ thiên về Lý bỏ Sự, Tín tâm không vững, hoặc của những học giả mang tâm phân biệt, Nhị nguyên, chỉ muốn thỏa mãn tánh đa nghi mà thôi, chứ đối với bậc tu hành chân chính đã luyện được tâm Bình đẳng, Bất nhị, thì càng đi sâu vào đường đạo lại càng gột rửa được tâm phân biệt Nhị nguyên bấy nhiêu. Những ai đã đi sâu vào đạo lý thì Tín tâm sáng suốt vững mạnh, hết lòng tin lời Phật dạy và họ hiểu rằng Phật không bao giờ nói sai lời, dối gạt ai bao giờ và mọi thắc mắc, hoài nghi đều có hại cho Đức tin. Do đó ta thấy những bậc tu chứng cao, những vị cao Tăng thạc đức chưa từng vị nào thắc mắc hoài nghi về vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu của Phật A Di Đà cả. Chắc hẳn các Ngài không muốn gieo mối hoài nghi có hại, thoái chuyển những người mới vào đạo, Tín tâm chưa vững. Các Ngài dạy rằng: hãy cứ Tin sâu, Nguyện thiết và Niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn, rồi muốn cầu gì cũng sẽ được toại nguyện. Đó là một lời dạy bảo thiết thực đầy ý nghĩa: Tri Hành hợp nhất mới được Giác ngộ, Giải thoát thành Phật.

Chương 7: Nhận Định Về Nghi Vấn: Lời Phật Và Lời Tổ Dạy Có Mâu Thuẫn Nhau Không?

Phật dạy: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết.” Phật lại dạy: “Y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh.” Người học đạo, khi đọc tụng Kinh điển phải hiểu ý Phật muốn dạy gì qua lời kinh. Muốn khỏi hiểu lầm Phật, phải xét xem Phật đã đứng về phía tục đế của quảng đại quần chúng trong thế giới lưỡng nguyên tương đối đầy phân biệt và sai biệt, hay đứng về phía Chân đế trong thế giới Bình đẳng Nhất nguyên Vô sai biệt và Vô phân biệt. Khi Phật thuyết về Viên giáo hay Chân lý tuyệt đối, Không hai thì bao nhiêu cặp mâu thuẫn trên thế gian này đều Bình đẳng như nhau: Phật, Chúng sinh, Niết bàn, Ta bà…, bao nhiêu những pháp phương tiện đều chỉ có giá trị phù du, ảo ảnh. Có khi Phật dùng ngôn thuyết pháp, lấy những vật hữu hình để dẫn dắt chúng sinh thâm nhập vào thế giới vô hình của Chân không. Lại có khi Phật dùng vô ngôn hay tâm truyền tâm để đi vào đạo. Đối với từng hạng người, căn cơ cao thấp khác nhau, tánh tình uỷ mị, sắt đá bất đồng, Phật tùy nghi nói pháp để trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề. Có hiểu được lời nói của Phật mới mong thoát khỏi mắc vào sai lầm đáng tiếc.

Một buổi, một đệ tử hỏi Phật về vấn đề Có hay Không có Niết bàn? Phật đáp: “Không có Niết bàn, cũng chẳng có sinh tử nốt.”

Thấy vậy, người đệ tử sửng sốt hỏi tiếp:

- Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy thì trì giới tu Thiền, giữ gìn phạm hạnh và cầu được Tri Kiến Phật, chẳng có chút lợi ích gì sao?

Lúc đó Phạm Thiên vương lên tiếng đáp thay Phật, và nói:

- Này! Thiện nam tử, kẻ ngu muội muốn lẫn tránh hư không, chạy khắp Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn phương bàng đâu đâu cũng gặp hư không. Còn người đi tìm hư không mà chẳng biết hình tướng của hư không ra sao chạy lùng khắp nơi mà chẳng thấy hư không đâu cả, rốt cuộc chỉ tốn công vô ích.

Kẻ cầu Niết bàn cũng vậy. Người ấy hàng ngày thường sống trong Niết bàn mà chẳng biết Niết bàn ở đâu cả. Họ thường sống ở trong Niết bàn mà không biết Chân thể của Niết bàn ra sao. Bởi thương chúng sinh phải sống trong trần lao Sinh tử nên Phật Thích Ca mới chỉ cảnh giới Cực lạc Tây phương để đối lại với cảnh giới Ta bà, mong gợi lòng ham thích được sống ở nơi hạnh phúc yên vui mà chán ghét cõi khổ đau này. Nhưng muốn được sinh về cõi Cực lạc Tây phương phải đâu dễ dàng mà cần phải có đủ ba điều kiện là Tín, Nguyện, và Hành, nghĩa là phải Tin lời Phật dạy, phải thiết tha cầu nguyện được về nơi này và phải Nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là phải tự mình gắng sức đem những chủng tử lành gieo vào A lại da thức làm cho tâm mình dần dần trong sạch. Ta nên hiểu mật ý của Phật ở đây là muốn thấy hạnh phúc thì phải tìm ở nội tâm không ở ngoại cảnh, nghĩa là phải diệt trừ tận gốc những dục vọng điên cuồng khiến cho cõi lòng mình được trong sạch, chính đó là Niết bàn, Tịnh độ, nơi tạo ra hạnh phúc chân chính đời đời. Đức Phật Thích Ca đã nhằm về phía quần chúng, phần đông căn cơ thấp kém, không hiểu thế nào là Phật tánh, Chân tâm, nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về hưởng hạnh phúc, nhưng cõi Cực lạc đâu phải là ở nơi xa lạ, mà chính lại là cái tâm thanh tịnh của mình, và Đức Phật A Di Đà lại chính là Đức Phật của ta, hay chính là ta khi đã Giác ngộ.

- Đối với Tổ Huệ Năng thì đối tượng của Ngài khi giảng về vấn đề này lại là những đệ tử, phần đông là Thiền sinh đã hiểu ít nhiều thế nào là Chân không, Chân như, Phật tánh, nên Tổ mới khuyên họ là phải “Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật.”

Phương pháp của Tổ Huệ Năng là dạy người đời phải xa lìa đối tượng, từ bỏ quan niệm lưỡng nguyên, đi sâu vào Bản thể, sống với lý Bất nhị, vì theo đó thì phiền não tức Bồ đề, chúng sinh tức Phật, niệm trước còn mê muội là phàm phu, niệm sau Giác ngộ liền thành Phật. Niệm trước còn dính cảnh trần thế còn phiền não, niệm sau lìa trần cảnh thành Bồ đề.

Tổ nói: “Tâm con người đã là Phật rồi, còn hồ nghi gì nữa? Bởi vì kinh Phật có nói: “Tâm sinh chủng chủng pháp sinh. Tâm diệt chủng chủng pháp diệt.” Muốn thành Phật hay muốn có Trí Bát nhã phải đạt tới chỗ “Nhất hạnh và Nhất tướng Tam muội.” Nếu ở trong bốn oai nghi, bất luận ở đâu và lúc nào cũng giữ cho tâm thuần nhất, không trụ vào đâu cả và thực hành Tịnh độ, như thế gọi là Nhất hạnh và Nhất tướng Tam muội. Ngài có làm bài kệ khuyên chúng sinh như sau:

Yêu ghét chẳng quan tâm,

Duỗi dài hai chân nằm.

… Đối cảnh, Tâm nhiễu động,

Bồ đề làm sao lớn?

Chủ trương của Tổ Huệ Năng khuyên người đời hướng vào nội tâm để thành Phật, nào có gì mâu thuẫn với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn? Có khác chăng chỉ là ở chỗ Tổ Huệ Năng đã dùng lời nói thẳng để chỉ vào cái đích mà Đức Phật Thích Ca cũng ngầm mong chúng sinh tiến tới, nhưng Phật lại không muốn nói thẳng ra vì sợ có người không hiểu, hoặc hiểu mà lại ngại khó không dám theo. Vì thế mà Phật đã phải dùng những pháp quyền để chỉ thực, “dĩ huyễn độ chân”, nhằm vào cái tâm đầy ngã dục của người không hiểu thế nào là Phật tánh, Chân tâm nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về cõi Cực lạc cầu Phật A Di Đà để được hưởng hạnh phúc tuyệt vời ở Tây phương, cách xa cõi trần hàng vạn ức Phật độ, ai muốn được sinh về nơi ấy thì phải dốc lòng tin, cầu nguyện được về cõi đó, và cố gắng niệm Phật A Di Đà, sẽ được Ngài phóng quang tiếp dẫn. Thực ra theo lý Bất nhị thì cõi Tây phương Cực lạc chỉ là tâm của người Giác ngộ và Phật A Di Đà chỉ là Phật ở trong tâm của người đó thôi.

Tổ Huệ Năng khi nêu lên thuyết “Kiến tánh thành Phật” chẳng hề có bài bác tín ngưỡng của môn phái Tịnh độ, cũng chẳng hề có ý muốn đề cao Thiền tông tối thượng thừa và hạ thấp môn phái Tịnh độ do Thích Ca đề xướng, chẳng qua chỉ muốn thức tỉnh những ai quá thiên về Sự trụ tâm vào hình tướng Phật và cảnh Cực lạc mà quên hẳn tâm mình chính là Tâm Phật và tánh mình là Phật tánh, vì thế mà không hiểu được ý nghĩa lời Phật dạy, chỉ biết niệm Phật cầu vãng sinh mà chẳng biết vãn hồi Phật tánh, không biết Minh tâm Kiến tánh để thấy Phật tại tâm mình.

- Vậy “Kiến tánh” là gì? Kiến là nhìn thẳng. Tánh là cái tánh thấy biết của mình. Kiến tánh là nhìn thẳng vào lòng mình. Đó là phương pháp “hồi quan phản bản” hay “Nội quán” để quan sát tự tâm, dùng toàn lực tinh thần (lý trí và tình cảm) làm đối tượng cho ý thức của mình. Bởi vì những hiện tượng tâm lý có tính cách chủ quan, ngoài mình ra không ai thấy được nên sự thấy biết ở đây phải là trực tiếp, không bằng căn trần, giác quan hay suy luận, mà bằng Tuệ nhãn của Chân tâm. Muốn thấy Phật tánh của mình cần phải thấy bản tánh hay cái tánh bẩm sinh thanh tịnh trong con người mình bấy lâu bị vô minh tà kiến phiền não và sở tri làm chướng ngại, nay được sáng tỏ tức thời. Sự trực giác đó không đến lần lần và tuần tự trong suy tư phân biệt. Từ chỗ trực ngộ đó, ta có một nhãn quan đổi mới hẳn cuộc đời mình, làm cho ta xử kỷ tiếp vật theo đúng Chân lý. Nhìn thẳng vào lòng mình thì lòng mình là đối tượng và tánh thấy biết của mình là chủ thể. Ta tự đối diện với ta. Ta soi vào gương lòng để nhìn thấy rõ bộ mặt thật xưa nay của mình, hay thấy rõ Lương tâm ta. Lúc đó thì Năng Sở, Chủ Khách, Tâm - Cảnh, người hát và kẻ nghe hát chỉ là một. Khi ta nhìn thẳng vào lòng mình, lắng đọng mọi suy tư, không để cho vọng niệm buồn, thương, yêu, ghét dấy lên, ta chợt nhận thấy tánh mình là tánh Phật, và bộ mặt xưa nay của ta cùng với sắc diện quang minh của Phật không khác. Rất tiếc là xưa nay chúng ta vẫn quen phóng luồng nhãn quan ra phía ngoài để ngó cảnh vật mà không hướng nó về phía nội tâm. Ta mãi đuổi theo những hiện tượng bên ngoài mà quên mất Đức Phật vẫn ngự trị trong lòng mình. Điều quan trọng là phải biết trở về Giác tánh hay Tự Tánh Di Đà của mình. Lấy Trí tuệ để soi sáng sự vật mà không phải mượn nguồn ánh sáng hay bàn tay nào để soi hộ mình cả. Phải cầm đuốc mà soi đường đời hay đường đạo mà đi. Đó là Giác ngộ tại tâm hay trở về với bản tánh thanh tịnh của ta. Đó là Trực giác Đốn ngộ, nhờ Tự lực quán chiếu. Khác hẳn lối tìm sự Giác ngộ ở ngoài tâm hay Tiệm ngộ, nhờ vào Tha lực và sùng tín. Muốn Kiến tánh phải làm bừng sáng cái đức sáng sẵn có của mình, hay cái Tánh năng biết của ta, và nhìn đời trực tiếp theo nghĩa Kiến chứ không gián tiếp theo nghĩa chữ Thị mang đầy tính chất phân biệt, thị phi. Đó là phương pháp tu để được Giải thoát rốt ráo, trong một sát na, trừ sạch các vọng niệm và làm bừng sáng cái tâm Chân như vô sở trụ và vô sở đắc, hay làm hiển lộ Trí Bát nhã của mình.

- Tâm con người tựa như biển cả, nổi sóng không ngừng, khó bề Kiến tánh để thấy được Tự Tánh Phật hay Chân tâm của ta. Muốn Kiến tánh phải Định tâm an thần bằng sức mạnh tập trung của ý chí vào nội giới, không để cho ý thức buông lung phóng ra ngoài và phân tán năng lực tinh thần qua cửa ngõ của các giác quan. Sự chuyển hướng luồng nhãn quan từ ngoài vào trong là cả một công phu tu luyện lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi phải có sự quyết tâm của hành giả để tự thắng mình.

Khi ta suy nghĩ, ta biết lần hồi theo đà của suy luận. Cái biết đó là tiệm biết. Khi ta Thấy (Kiến) ta thấy rõ tất cả trong một sát na bừng sáng, hoặc chẳng thấy gì, chứ không thể thấy lần hồi được. Cái Thấy đó là thấy Đốn. Tổ Huệ Năng dạy phương pháp “Kiến tánh thành Phật”, tức là nhắm vào cái Thấy đó. Đối với Lục Tổ thì: hoặc là thành Phật hẳn, hoặc là không thành Phật, chứ không thể có việc thành Phật lần hồi, mỗi ngày một chút theo lối cải thiện hay Tiệm tu. Với Kiến tánh thì Lý chẳng ngoài tâm, Lý là Sở ngộ mà tâm là Năng ngộ (Kiến phần) và Phật sở ngộ (Tướng phần) là một. Giác ngộ là thấy rõ Chân tướng của sự sống chết ngay trong thực tế, ở ngay lúc hiện tiền và ngay đây chứ không phải đâu xa và trong tương lai. Cõi Tịnh độ ở tâm của người Giác ngộ không còn phân biệt Nhân - Ngã, Tâm - Cảnh nữa, tức là ở trạng thái sinh hoạt bình thường ngay tại đây và ngay lúc này, ý thức được rõ ràng công việc của mình đang làm, tức là ở trạng thái Chánh niệm vậy.

- Để giúp các đệ tử đả thông tư tưởng về Phật tánh hay Tri Kiến Phật của mình, các Tổ sư Thiền thường dùng câu thoại đầu: “Bính Đinh đồng tử lai cầu hỏa” (Bính, Đinh là hai cung Hỏa trong Tử vi). Ý muốn nói: Thần lửa lại còn đi xin lửa, để chế diễu những ai còn si mê, lòng đầy tự ty, tự khinh mình không có khả năng thành Phật.

Cũng như người cầu đạo cứ cầu xin người khác chỉ đạo cho mình, chẳng ngờ mình đã sẵn có đạo nơi mình rồi, mình đã có Phật tại tâm, còn đi kiếm Phật ở nơi khác.

- Trong Thiên Chúa giáo cũng có câu mang ý nghĩa tương tự: “Đạo ở bên ngươi. Đạo ở trong miệng và trong lòng ngươi, để ngươi có thể đem nó ra mà thực hiện…” (…Car la Parole est tout près de toi pourque tu la mettes en pratique… (Bible de Jérusalem).

- Và theo quan niệm của Nho gia Trình Y Xuyên thì người quân tử hành đạo phải thực hành cho được mục tiêu sau đây: Không phải là truyền đạo trời cho người, mà là truyền đạo của lòng mình cho người. Cũng không phải là truyền đạo của lòng mình cho người mà là truyền đạo của lòng người cho người.” Có nghĩa là phải khai mở Đạo tâm hay chỉ bày Tri Kiến Phật hoặc Phật tánh sẵn có nơi mỗi cá nhân để cho ai nấy đều thấy rõ mình là Phật sẽ thành, mình là Phật đang thành.

- Mỗi chúng ta đều có hạt Như ý bảo châu tức là Phật tánh hay Tri Kiến Phật, một kho tàng vô giá mà ta không biết khai thác. Muốn tìm Phật hay cõi Tịnh độ phải biết tìm trong đáy lòng mình, bởi vì:

“Liên Tâm đã sẵn trong đầu

Niết bàn chớ có tìm đâu ngoài lòng.”

(B.S. Nguyễn Văn Thọ)

Để diễn tả cái ý Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật, trong vườn hoa Thiền có bài thơ truyền tụng như sau:

“Tùng hạ vấn đồng tử

Ngôn Sư thệ dược khứ

Chỉ tại thử sơn trung

Vân thâm bất kiến xứ.

(Dịch: Dưới gốc tùng hỏi đồng tử. Đồng tử thưa: Thầy tôi nói là đi hái thuốc. Chỉ quanh quẩn núi này mà thôi, nhưng bởi mây phủ nên không thấy). Đại ý nói: Chúng sinh đi tìm Phật. Phật chẳng ở đâu xa, chỉ ở ngay tâm mình, nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp Chân tâm nên không thấy mà thôi. Phải tìm sự Giải thoát ở ngay cái hiện hữu, không ngoài sự vật ở thế gian, và đạo là Tự nhiên hay tâm bình thường vậy. Người hành đạo phải vượt lên trên cái bình thường tương đối để tới cái phi thường tuyệt đối, nhưng khi đã đạt tới đó rồi, lại phải từ nơi tuyệt đối phi thường trở về với cái bình thường tương đối nghĩa là phải tìm cõi phi thường trong những cái bình thường tìm cái Vô hạn trong những cái Hữu hạn, tìm cõi Tịnh độ ở ngay chốn Ta bà, hay ở ngay trong tâm ta. Đó là cái mà Thiền tông cho là từ trong đạo lý bình thường mà Minh tâm Kiến tánh vậy.

Tổ Huệ Năng dạy:

Phật Pháp tại thế gian,

Bất ly thế gian, giác

Ly thế mịch Bồ đề,

Khắp như cầu thố giác.

Nếu lánh thế gian mà tìm sự Giác ngộ thì khác nào đi tìm sừng thỏ, lông rùa khắp nơi? Với nhãn quan đó thì “thấy” ở đây tức “thấy cái không thể thấy được.” Thấy cái “không thấy” tức là thấy cái Chân tướng Vô tướng, hay Chân như hoặc Chân không của vạn pháp.

Cái thấy về thể tánh Chân tâm vốn Vô sanh, cho nên không có sự phát sinh ra cái thấy ấy. “Kiến tánh thành Phật” tức là thấy cái Chân lý “Không” của mọi sự vật trong trời đất một cách viên mãn tuyệt đối.

- Người đời thường không làm theo những điều mình nói, chỉ ham học hỏi mà biếng nhác việc tu hành, có biết đâu đã có Tịnh độ duy tâm thì phải có Tây phương Cực lạc thế giới, và khi có Di Đà tự tánh, tất phải thân chứng được Di Đà Tây phương. Trong khi niệm Phật ta đình chỉ được mọi tạp niệm và thể nhập vào chỗ thâm viễn của tâm thể thì ngay lúc đó ta là Phật A Di Đà và tâm ta là cõi Cực lạc theo lý “Tức thân thành Phật.”

- Pháp môn Tịnh độ viên mãn ở chỗ tỏ ngộ được “Phật khác tức là Phật mình.” Nếu chỉ biết có “Phật mình” thì còn ngã kiến, ngã chấp. Nếu chỉ thấy có “Phật khác”, là còn tha kiến, vọng ngoại. Chấp tha kiến hay chấp ngã kiến, chấp ngoại cảnh hay chấp nội tâm, đều là nhị biên điên đảo. Phải nên hiểu rằng: Phật Di Đà ở Tây phương và Phật Di Đà trong tâm ta không khác, như thế mới là tỏ ngộ câu: “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, và mới thấy rõ lý: Phải có Sự trì danh, cầu Phật khác hiện ra, mới ngộ được Lý trì danh, thấy được “Phật mình” hiển lộ. Chính trong lúc ta thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra đón mình là lúc ta thấy Phật mình hiện rõ trong tự tâm.

Tất cả các Pháp môn Phật dạy dù thuộc về Tánh hay Tướng đều chỉ là phương tiện, giá trị ngang nhau, nghiêng về phía nào cũng đều có hại. Lối tu không thấp, không cao, mau, chậm. Sự sai biệt do công phu của người hành trì, tinh tiến chuyên cần hay biếng nhác giải đãi mà thôi. Có những người thiên về Lý mà xao lãng công phu niệm Phật, bởi họ đã lầm lẫn Chân đế với Tục đế, không phân biệt được Dụng với Thể, Tương đối với Tuyệt đối, còn đang lẽo đẽo trên đường tu và đã muốn tới ngay nơi cứu cánh Giải thoát rồi. Họ có biết đâu rằng: học đạo cần phải dầy công thực tu thực chứng, qua nhiều giai đoạn trong Tục đế mới chứng được Chân đế, chứ đâu phải là công việc dễ dàng.

Trong Kinh Kim Cương, Phật dạy ông Tu Bồ Đề:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai.”

… “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, và “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”… “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Rồi Phật lại dạy tiếp ông Tu Bồ Đề trong tiết “Vô đoạn vô diệt” của Kinh Kim Cương: “Ông đừng tưởng rằng Như Lai không dùng sắc tướng để cầu đạo quả Vô thượng Bồ đề bởi vì nếu khởi ra ý nghĩ đó tức là coi các pháp đều đoạn diệt cả”, và trong bài Chú Bát nhã Tâm Kinh cũng có câu: “Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố” nhưng liền ngay đấy Phật lại dạy: “Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa. Đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.” Qua những câu kinh trên, ta thấy ngay rằng: người tu cần phải trải qua nhiều giai đoạn chứng ngộ liên tiếp trong Tục đế, dựa vào hình, danh, sắc, tướng của các pháp phương tiện trong hiện tượng giới để lần hồi, tòng tướng nhập tánh, đem Dụng vào Thể, từ tương đối tiến đến tuyệt đối, tới nơi không còn gì để chứng ngộ nữa, như thế mới thật là chứng ngộ.

Mục 4: Chân đế Và Tục Đế.

Lời Phật dạy trong các Kinh điển thường mang hai ý nghĩa: nghĩa bóng và nghĩa đen, nghĩa sâu và nghĩa cạn, còn gọi là Chân đế (Thắng nghĩa đế) và Tục đế. Tương đương với hai thứ hiểu biết, Giác ngộ hoặc hai nền Chân lý Tuyệt đối và Tương đối của thế gian.

Người Phật tử tuy sống trong tương đối song phải biết hướng về Tuyệt đối để tâm được thanh cao, thoát khỏi tầm thường vị kỷ và tìm hạnh phúc chân thật ở nơi tâm hồn an lạc, vị tha, siêu thoát.

a) Tục đế.

Có thứ Giác ngộ gián tiếp của trí thức là tập, hay cái thấy biết của hạng người “học nhi tri chi”, do tiệm tu, dùng tinh tiến, nhẫn nại, gom góp tư lương qua nhiều kiếp tu tập, tuy đó chưa phải là Giác ngộ hoàn toàn nhưng cũng không phải là vô giá trị.

Thứ hiểu biết này đưa tới Chân lý tương đối hay Tục đế của hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống, và phân làm ba loại:

1. Khẳng định về sự thực hữu của mọi sự vật trong hiện tượng giới.

2. Khẳng định về cả Hữu lẫn Vô.

3. Không khẳng định cũng không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

b) Chân đế.

- Có thứ hiểu biết trực tiếp do Đốn ngộ mà được. Đó là thứ Giác ngộ hay hiểu biết của hàng vô sư tự ngộ, hay của bậc “Sinh nhi tri chi.” Nếu cái biết trên (tục đế) còn khiếm khuyết thì cái biết dưới (Chân đế) hoàn toàn viên mãn của Bát nhã trí có giá trị siêu việt đưa tới Chân lý tuyệt đối. Cái biết mà không tự nó sinh ra tất phải nhờ con đường Tha lực của tín ngưỡng hay hành động cầu phúc để đi tới dần dần từng bước, và khi Tuệ giác đã bừng thức tỉnh thì tín ngưỡng lùi bước, nhường chỗ cho Tuệ giác viên chiếu. Tín ngưỡng và cầu phúc được ví như cái chốt điện dùng để bật cho sáng. Khi đã có ánh sáng điện rồi thì chốt điện không cần đến nữa, cũng như đã Giác ngộ thành Phật thì mọi pháp phương tiện đều trở thành vô ích. Việc học Phật, lúc đầu còn phải dùng đến tín ngưỡng để đưa tới chỗ hiểu biết tầm thường chưa chính xác, lấy cái giả Trí. Tâm còn mang nặng phân biệt ta và người, tâm và cảnh, yêu và ghét, ác và thiện, có và không… trong thế giới lưỡng nguyên tương đối. Muốn đạt tới Chân trí hay Giác ngộ hoàn toàn thì Tín chưa đủ mà còn cần phải có thực nghiệm tâm linh bằng công phu Thiền quán nữa, và ở trong đó thì chủ thể đồng nhất với đối tượng. Tâm và vật, hữu và vô chỉ là một. Bản thể đồng nhất ấy vừa tiềm tàng trong hiện thực, lại vừa siêu lên trên hiện thực. Giác ngộ bằng đường lối trực giác tâm linh đưa tới nền Chân lý tuyệt đối hay Chân đế, ở đó có ba bậc:

1. Khẳng định về Vô Hữu.

2. Phủ định cả Hữu lẫn Vô.

3. Không không khẳng định và không không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

Ở bậc thấp thì Hữu thuộc về Chân lý Tương đối và Vô thuộc về Chân lý Tuyệt đối.

Ở bậc trung cả Hữu lần Vô đều là Chân lý Tương đối. Phi Hữu, phi Vô, diệc Hữu diệc Vô thuộc về Chân lý Tuyệt đối.

Ở bậc cao hơn thì Nhị nguyên hay Nhất nguyên cực đoan đều là Chân lý Tương đối, mà không phải là Nhị nguyên, cũng không phải là Nhất nguyên mới là Chân lý Tuyệt đối. Nhận Sinh tử và Niết bàn đều thật có là rơi vào cực đoan Tương đối hay Tục đế. Phủ nhận cả hai quan niệm Chân đế và Tục đế. Niết bàn và Sinh tử là ở trong Chân lý Tuyệt đối của Trung đạo. Nhưng cả hai đều Có và Không. Tục đế và Chân đế là cực đoan, cần phải xa lìa, nếu ta còn chấp vào đó, mà ngay cả quãng giữa (Trung đạo) cũng cần phải xả ly nốt, bởi vì lý Trung đạo còn ở trong thế giới của ý niệm và danh từ. Ý niệm về Trung đạo sở dĩ Có vì ý niệm về Có và Không, hai cực đoan phải tránh, như vậy thì Trung đạo, chưa phải Tuyệt đối cao. Đã là ý niệm thì chưa phải là Tuyệt đối vì Chân lý Tuyệt đối tối cao ở ngoài vòng của ý niệm, Chân lý tối cao hay Trung đạo mà không có ý niệm được thì cũng không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, văn tự được.

c) Tương đối và Tuyệt đối.

Nếu bảo rằng thế giới hiện tượng không có thì quả là không đúng, bởi vì những giác quan của ta không cho phép ta chấp nhận một nhận thức như vậy. Theo lý Tuyệt đối thì vạn hữu đều không thật có, hay đều giả cả, nhưng theo lý Tương đối và mối tương quan giữa vật này và vật kia thì vạn hữu đều có, bởi lẽ hiện tượng giới sờ sờ ngay trước mắt ta, song nó lại chẳng trường tồn, bất biến mà chỉ là giả tướng sinh diệt từng sát na đổi thay thất thường, không có tánh cá biệt bền vững. Thế giới hiện tượng biến động ảo ảnh phù du là do thế giới tánh Bản thể Chân không tạo ra. Chừng nào mà ta chưa nhập được vào Bản thể chung của mọi sự mọi vật thì những giả tướng ấy vẫn còn là cảnh thật tương đối trong đó có ta, có người, vật nọ vật kia hiện ra trước giác quan của mình. Thực tại (hay Chân lý) có hai thứ: ở thể tĩnh và ở thể động. Thực tại ở thể tĩnh bị đóng khung trong không gian và thời gian, không phổ cập được cho mọi loài, không thể áp dụng cho mọi trường hợp được. Thực tại ở thể động, trái lại có tính cách khách quan, đồng nhất, có thể áp dụng cho mọi loại, mọi nơi. Nếu nền đạo đức, luân lý ở Tây phương thuộc về Thực tại ở thể tĩnh, thì đạo Phật Đông phương lại thuộc về Thực tại ở thể động. Nói cách khác thì ở Tây phương, nền đạo đức luân lý còn ở trong tương đối, nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương nó lại hướng về viễn đích tuyệt đối, tối thượng. Tuy quan niệm về Thiện, Ác đối với cả Đông lẫn Tây đều như nhau trong tương đối, nhưng ở Phật giáo thì cái Thiện không đứng nguyên một chỗ mà nó lại tiến lên mãi mãi. Cái thiện không tĩnh ở chỗ phát khởi mà lại ở đích nhắm tới, mà đích này lại không ở yên một chỗ, nó càng ngày càng xa tùy theo mức độ không có trong thế giới tương đối mà chỉ có trong thế giới tuyệt đối của chư Phật. Cái Thiện của loài người thuộc về bất cứ ngôn ngữ, địa phương nào, cũng chỉ là cái Thiện trong phạm vi tương đối mà thôi. Nó được mệnh danh là “tình trạng khả quan hơn trước”, trong khi cái Ác được gọi là “tình trạng tồi tệ hơn xưa” vì trong ngôn ngữ của loài người không có danh từ “Toàn thiện, Toàn ác hay Tuyệt đối Thiện, Tuyệt đối Ác”, mà chỉ được gọi là Thiện hơn hay Ác hơn mà thôi. Bởi vậy chúng ta phải tránh cái “Bất thiện hơn trước” và cố gắng thực hiện cho được cái “Thiện hơn xưa.” Không có một thế giới khách quan ở ngoài thế giới chủ quan do tâm ta tạo ra, do đó những hành động và phản ứng đều diễn ra trong cái thế giới chủ quan ấy. Những việc thiện hay ác mà ta tưởng đã thi thố đối với người khác, thực ra chính chúng đã gây nghiệp quả cho ta, cũng như khi ngậm máu phun người thì miệng mình bị dơ bẩn trước. Khi làm xong một việc ác để hòng hại ai và để thỏa mãn lòng ích kỷ hay thù hận của mình, ta đã hành động thực sai lầm, bởi đã quan niệm lệch lạc về Chân ngã và Giả ngã. Ban thưởng cho một việc làm Thiện không ngoài hành động Thiện ấy, bởi vì sự khen thưởng đã nằm trong việc Thiện đó rồi. Người làm việc Thiện được hưởng ngay quả báo tốt lành do mình đã gieo nhân. Rốt cuộc người đó đã trở thành một người thiện. Hình phạt đối với một việc Ác gắn liền với hành động Ác ấy, vì người gây nghiệp bất thiện với kẻ phải lãnh quả xấu chỉ là một, kết quả là người đó đã trở thành một gã bất thiện và mọi hành động của kẻ ấy đều trở thành ác, nếu y không sớm thay đổi ý nghĩ, chịu hối cải và quay về nẻo thiện.

Mọi sự vật trong thế gian này đều được sinh thành do nhân duyên và tâm tạo vạn hữu, bề ngoài tuy khác nhau về hình tướng, nhưng bên trong lại cùng chung một Bản thể là tâm. Căn bản của Thực tại không phải là tâm vật, thể dụng, siêu nhiên và hiện thực đối nhau trong thể lưỡng nguyên mà là “Nhất Chân Pháp giới”, được nhìn theo hai khía cạnh: hiện tượng và Bản thể hay tương đối và tuyệt đối. Thực tại tối hậu không thể làm đối tượng hóa để được hiểu biết bằng lý trí và tình cảm cho nên phải dung nhiếp các hiện tượng bề ngoài hình như có vẻ mâu thuẫn nhau. Lấy tâm quán tâm để tới Giác ngộ là một việc làm thuần túy kinh nghiệm bản thân, không ai làm thay ta được. Những ý niệm của chúng ta đối với các vấn đề Vũ trụ nhân sinh, dựa trên căn bản Nhị nguyên tương đối do biến kế sở chấp mà có, đều là mê vọng ảo huyền. Thực tại tối hậu khác xa Thực tại tương đối hay Tục đế của thế gian, nhờ Thức giác của con người mà đạt được khi Thực tại tối hậu được thấy, nghe, hay biết qua lăng kính của các giác quan của so đo phân biệt. Học đạo cốt để hiểu để thấy và để đừng chấp vào Chân lý tương đối do ngôn ngữ, văn tự biểu lộ, mà phải nương theo Chân lý diễn tả trong các kinh Phật, coi đó là ngọn hải đăng chỉ đường cho con thuyền lênh đênh trên mặt biển bao la đầy bảo tố và dẫn lối với Chân lý Tuyệt đối. Trong khi còn lần mò đi tìm Chân lý Tuyệt đối, ta có quyền được hoài nghi, vì nghi là lợi khí sắc bén đôi khi giúp ta chóng Giác ngộ sự thật. Phật thường khuyên chúng ta đừng nên mù quáng chấp chặt về văn tự và hình tướng bề ngoài mà phải dùng trí óc và công phu quán chiếu Chân lý để giải mê khai ngộ. Phương pháp học Phật khác lối học cổ điển của Tây phương ở điểm không bao giờ cố chấp, vì sự cố chấp thường che lấp Chân lý. Có triệt để phá chấp, mới mong phá tan vô minh diệt trừ vọng tưởng được. Ngã chấp và Pháp chấp, thường bao vây trực giác. Chân lý tuyệt đối phải tìm ở ngoài thế giới hình, danh, sắc, tướng và vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Trong A Di Đà Sớ Sao có nói: “Lý viên ngôn thông, ngôn sinh lý tán.” Khi phải dùng đến lời nói, văn tự để diễn tả, mà cho là như vậy có thể đạt tới Chân lý Tuyệt đối thì chắc chắn Chân lý đó bị móp méo, lệch lạc, không còn là Chân lý tròn đầy nữa, vì đã gọi là Chân lý Tuyệt đối thì Bản thể của nó vốn thường trụ, chỉ có thể trực nhận mà không thể giải bày được. Muốn trực nhận Chân lý phải là bậc Giác ngộ mà tâm trí của vị này đã khai mở để đón nhận Chánh kiến và Chánh tư duy, hầu nhìn thấy rõ Chân tướng của sự vật. Mong thoát ly thế tục bằng suy tư theo kiểu thế gian thì càng làm cho ta sa lầy thêm vào vũng bùn ngã chấp, pháp chấp, vì khi suy nghĩ thì phải phân tích, mổ xẻ theo lối Nhị nguyên, chia cách ta với đối tượng thành hai thế giới riêng biệt, trong khi trực nhận Chân lý bằng tâm linh thì ta liền thấy mình thể nhập vào đối tượng thành một khối duy nhất, bất khả phân. Khi ta dồn tất cả sự chú ý của ta vào thế sự để cân nhắc, so đo ta càng bị trói buộc vào cuộc đời với muôn ngàn hiện tượng sai khác, và như vậy ta càng bị vùi sâu vào mớ giả tướng hỗn độn của thế giới tương đối, khó thoát ly ra khỏi. Người thường hay bị phiền não chướng và sở tri chướng ràng buộc và màn vô minh ngăn che cho nên những điều tai nghe mắt thấy chỉ là vọng kiến điên đảo, như kẻ bị nhặm mắt thấy hoa đốm nhảy múa lăng xăng trên hư không. Chỉ khi nào hết nghiệp chướng, đạt tới Tuệ Bát nhã mới có được cái Thấy Chân thật hay Chánh kiến, cái Thấy Chân thật này chỉ có khi nào vào Thiền định hay Niệm Phật với Nhất tâm nghĩa là phải lắng lòng cho trong sạch, làm im bặt những xôn xao của thất tình lục dục, và đổi hướng luồng nhãn quan xoay ngược vào nội tâm, bắt nó phải đi từ hữu hạn đến vô cùng, từ Ý thức đến Trực giác, từ cá nhân về với đại thể, từ Vạn thù về với Nhất nguyên, từ cái hiện hữu của thế giới hình, danh, sắc, tướng tới cái hư không bao la của Chân thể đại đồng. Đổi hướng như thế cho tới khi nào tâm hồn ta nhập vào cái vô lượng vô biên ở đáy lòng mình và thấy được Tự Tánh Di Đà của mình, đến nỗi khi trở về với cuộc đời cá nhân chia rẽ, đầy tham luyến dục tình thì người ngộ đạo quên hẳn mối tương quan giữa cái Ta riêng biệt với toàn thể Vũ trụ, mà chỉ thấy mình hòa tan vào bao cái Ta khác, bạn cũng như thù. Để giúp chúng sinh đạt tới Chân lý cứu cánh. Đức Phật đã chỉ nhiều đường lối cho chúng sinh noi theo để từ bỏ thế giới Nhị nguyên, huyền đồng cùng Vũ trụ. Và phương pháp tốt nhất vì dễ làm và đạt hiểu quả nhất là Niệm Phật A Di Đà đồng thời quán tưởng Phật và cảnh giới Cực lạc Tây phương trang nghiêm. Khi hành giả niệm Phật với “nhất tâm bất loạn” thì không còn thấy đối tượng nào khác ngoài Đức Phật trong tâm mình, hành giả lúc đó nhập vào đạo, sống tự tại an nhiên, thảnh thơi sung sướng trong Cực lạc của tự tâm.

Mục 5: Lý “Chân Không Diệu Hữu” Và Lý Trung Đạo.

Nếu bảo rằng có một thế giới tồn tại ngoài tâm là chấp Có, nghĩa là thêm một Thực tại vào vật hay làm tăng thêm một cái gì vào thực trạng của vật đó, như vậy là sai; nhưng nếu lại bảo rằng cả đến ý thức của con người cũng không tồn tại thì đó lại là chấp Không, hay giảm bớt một cái gì ở thực trạng của vật đó, làm mất đi một chút gì đó ở Thực tại thì đó cũng là sai nốt.

Theo thuyết Trung đạo, Ngài Khuy Cơ đã trình bày trong Thành Duy thức Luận như sau: “Ly Không Hữu thuyết Duy thức giáo.” Như vậy ông đã phủ nhận sự thường tồn của mọi sự vật, nhưng lại khẳng định sự tồn tại của ý thức bởi vì “Nhất thiết pháp Duy thức biến.” Nếu cái “Không” chẳng phải là cái không trống rỗng, và nếu Kinh Bát nhã chẳng hề thuyết về Hư Vô chủ nghĩa thì tất phải có một cái gì huyền diệu biểu hiện ra thế giới hiện tượng, và cái đó chính là Thức hay Tâm vậy. Cõi Cực lạc không thể tìm thấy ở phương trời Tây mà chỉ thấy được ở sự gạn lọc của tâm thức và chính ở địa bàn này mà ta thực hiện được Tự Tánh Di Đà. Do đó từ Chân không hiển bày Diệu Hữu, và người ta thấy Tự Tánh Di Đà hay Chân tâm của mình hiển lộ. Cảnh giới Tịnh độ là cảnh giới tự giác của cái tâm thanh tịnh khi đã Kiến được Tánh. Không thể thấy được cảnh giới đó bằng tâm phân biệt Nhị nguyên. Sự chứng ngộ đó phải do tâm của hành giả tự chứng lấy bằng nổ lực của ý chí. Ngoài những lời Phật dạy trong các Kinh điển thì tất cả những gì cần cho người tu đều đã sẵn có trong lòng mình, đó là Tín, Nguyện và Hành. Muốn đạt tới cảnh giới đó thì phải trị bệnh biếng lười, ngờ vực, do dự, và phải Nhất tâm tinh tiến nhẫn nại để thực hiện ước nguyện của mình. Tha lực chỉ đến khi nào tâm ta đã gạn lọc hết nhơ nhiễm và trở nên trong sáng sẵn sàng đón nhận hào quang phóng đi tự Tâm Bi vô lượng của Phật A Di Đà tiếp dẫn ta về cõi Phật, cũng như đóa hoa Ưu đàm nở do tinh anh bên trong phát tiết ra ngoài, hay do sự sung mãn của nội tâm tràn lan ra ngoại cảnh.

- Lục Tổ Huệ Năng khi nêu ra thuyết “Tức Tâm tức Phật” và “Tâm là Tịnh độ” không hề phủ nhận cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà mà chỉ nhằm mục tiêu nhiếp Tướng nhập Tánh, đem Dụng về Thể, để làm sáng tỏ lý “Đệ nhất nghĩa không” hay cái lý “Chân không Diệu hữu” hoặc lý “Bất nhị” mà thôi. Và theo đó thì tất cả những gì là hình danh sắc tướng đều phải chối bỏ, hết thảy các pháp Hữu vi Vô vi đều giả huyễn, bởi thế mà Niết bàn, Tịnh độ, cho đến cả Chân tâm, Phật tánh, Phật, Bồ tát đều chỉ là những pháp phương tiện hay những ý niệm do tâm sinh ra, và các tư tưởng về chúng sinh, Ta bà, phiền não, trói buộc, an lạc, Giải thoát, Niết bàn… đều chỉ có trong mối tương quan tương duyên đối đãi nhau trong thế gian này mà thôi. Cũng bởi lý “Đệ nhất nghĩa không” mà đối với người đã vun trồng Đức tin thực vững chắc. Tin Phật cũng như tin mình thật sâu xa thì sẽ sống trong lý Bất nhị và sẽ thấy Tha lực và Tự lực chỉ là một. Cũng ví như vị giáo sư đầy kinh nghiệm về sư phạm, tùy theo căn cơ và tánh tình của học viên mà dạy dần dần từ dễ đến khó. Phật đã dẫn chúng sinh từ thế giới hiện tượng hữu hình đến thế giới Bản thể vô hình của Chân tâm. Còn Lục Tổ Huệ Năng lại dùng lối đi tắt để mau tới đích, chỉ thẳng vào cái Tự Tánh Phật của mình và khuyên hàng đệ tử đã ít nhiều luyện về Pháp tánh nên Kiến tánh để thành Phật. Như vậy thì Phật Thích Ca và Tổ Huệ Năng, bằng những phương tiện và đường lối khác nhau đã nhắm chung vào một mục tiêu là Thanh tịnh Tâm để Giải thoát con người khỏi đau khổ, phiền não, chẳng gì mâu thuẫn nhau cả.

Chương 8: Nhận Định Về Sự Lý Niệm Phật

Tu theo Pháp môn Tịnh độ mà đạt tới trạng thái “nhất tâm bất loạn” có hai đường lối là Sự Nhất tâm và Lý Nhất tâm, dựa trên Sự trì và Lý trì danh hiệu Phật. Sự trì danh là lối niệm Phật theo hình tướng bề ngoài, đại diện cho Hiển giáo và Thế tục đế. Lý trì danh là lối niệm Phật theo lẽ phải và hành động có suy nghĩ kỹ lưỡng, đại diện cho Mật giáo và Chân đế hay Thắng nghĩa đế. - Sự Nhất tâm thì đoạn được phiền não, phá được Tư hoặc. - Lý Nhất tâm thì khi niệm Phật liền thấy được Phật của mình. Tâm không tà niệm và phá được Kiến hoặc. Lý như đôi mắt để coi đường cho khỏi lạc lối, sẩy chân. Sự như đôi chân để bước đi, nhưng nếu không có đôi mắt thì dễ lầm đường lạc lối và dẫm phải chông gai, hay lọt xuống hầm hố. Không có chân để đi thì cứ đứng yên một chỗ mà nhìn, không tiến tới đích được. Sự trì danh là phần hình thức của phái “Duy Danh” hay “Khẩu xưng niệm Phật” (Nominalisme) chỉ đọc danh hiệu Phật mà không cần suy tưởng điều gì lìa bỏ mọi ý thức trong lúc niệm để tâm rỗng lặng như Thiền định. Lý trì danh là phần tinh thần của phái “Duy Niệm” (Conceptualisme) hay phái Quán tưởng niệm Phật đòi hỏi hành giả phải có một ý niệm rõ rệt về Phật A Di Đà. Có triệt thấu nghĩa lý các bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ, có hiểu tường tận đức độ của Phật A Di Đà qua 48 lời nguyện của Ngài, có thấu rõ 10 danh hiệu Phật, có thường xuyên chiêm ngưỡng, quán tưởng cảnh Cực lạc Tây phương, mới thiết tha mong cầu về quốc độ của Ngài.

Trong các dòng Tịnh độ lưu hành tại Trung Quốc, các Tổ Tuệ Viễn và Vĩnh Minh Diên Thọ đều chủ trương Quán Niệm (thuộc phái Duy Niệm), còn Tổ Thiện Đạo cùng Đạo Xước, và sau này ở Nhật Bản (1875) có Ngài Genku Hônen, vị Thủy tổ của Tịnh độ Chân tông đều chủ trương Duy Danh hay Khẩu Xưng Niệm Phật. Các đệ tử của Ngài Hônen là Shiran Shonin và Khuya Shonin (Không Giả Thượng nhân) cùng Ippen Shonin (Nhất Biến Thượng nhân) đều chủ trương đặt hết niềm tin vào Tâm thành. Các vị này cho rằng: Tuy nói là Pháp môn Tịnh độ dễ tu, dễ chứng, nhưng cái dễ này chỉ là tương đối với Pháp môn Thiền định mà thôi, chứ không phải đến mức độ chỉ tu lấy lệ cũng đạt tới kết quả mong muốn. Bởi vậy, người niệm Phật phải có tâm thành và một lòng tin sắt đá vào việc niệm Phật cầu vãng sinh. Thành Tín đủ để thay thế cho Trí Đức. Chỉ cần niệm Phật cho chuyên vì người dù ngu đần, dốt nát và kém đức đến đâu, nếu Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tiến đều được Phật A Di Đà tiếp độ. Tỷ như người xưa cọ gỗ lấy lửa, dùng một đoạn dây cọ mài vào một khúc gỗ khô, cọ đều tay không gián đoạn, một lúc sau lửa sẽ bật ra.

Có người hỏi Ippen Shonin cách niệm Phật phải như thế nào, Ngài nói: “Chỉ cần tâm chí thiết, chí thành, xả ly ý niệm, thọ cảm, ký ức, ngữ, pháp là đủ.” Nói rõ thêm thì Sự Trì danh là lối niệm Phật không cần hiểu rõ về Lý, chỉ đặt trọn niềm tin vào Phật Thích Ca và Phật A Di Đà, mong cầu tha thiết được về cõi Cực lạc Tây phương, vì tin chắc có nơi này khác hẳn Ta bà đầy khổ cực. Đó là lối niệm Phật của phái theo Pháp môn Tịnh độ thuần túy.

Lý trì danh thuộc về Pháp tánh là lối niệm Phật mà hiểu rằng có là phương tiện thần diệu để thanh tịnh tâm mình bằng hình ảnh với cách quán tưởng hình tượng Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, và bằng âm thanh với cách niệm hồng danh Phật A Di Đà, cốt Định tâm vào những tư tưởng lành mạnh để phát sinh Tuệ giác, diệt trừ vọng tâm điên đảo, đạt tới Chân tâm, tức thành Phật.

Tóm lại, Sự trì danh là lối tu của người chưa hiểu được lý niệm Phật là diệu pháp để nhiếp vọng về Chân. Đó là lối tu của người còn mang tâm phân biệt, tin chắc cõi Tây phương Cực lạc ở ngoài cõi Ta bà, thành tâm cầu nguyện Phật A Di Đà tiếp độ để được về nơi an dưỡng, hưởng hạnh phúc đời đời. Còn Lý trì danh là lối niệm Phật của những ai, cũng thực hành như người tu theo Sự trì danh, nhưng lại hiểu rằng cảnh Cực lạc Tây phương và Phật A Di Đà đều ở trong tâm của người niệm, và do công phu thanh tịnh của Chân tâm người hành giả hiển bày. Người theo Lý trì danh tin rằng: Phật A Di Đà do tâm mình tạo ra, tâm mình đã sẵn có mầm Phật, lại lấy sáu chữ hồng danh tạo ra cảnh Tây phương Cực lạc, buộc tâm mình vào đó. Khiến nó không thể quên được cảnh Cực lạc và Đức Phật của Từ Tâm. Như vậy thì người theo Sự trì danh hãy còn chấp vào tướng Năng Sở đối đãi, còn thấy Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc ở ngoài tâm, tâm và Phật chưa dung thông, dung nhiếp với nhau. Về phần người theo Lý trì danh thì đã tuyệt được tướng Năng Sở và hiểu rõ: Niệm Phật là niệm Tâm dung hòa được Tâm lẫn Cảnh, Bản thể và Hiện tượng. Theo Lý trì danh thì Phật A Di Đà đã sẵn có trong tâm mình, bởi lẽ: “Nhất thiết duy Tâm tạo.” Đây là lối niệm Phật của phái Thiền Tịnh song tu. Thực ra thì người tu Tịnh nghiệp mà đạt được kết quả như ý muốn, dù chấp Sự hay chấp Lý cũng mặc nhiên viên dung được Sự Lý trong khi hành trì, bởi vì người chấp Lý chủ trương dùng lối niệm Phật và quán tưởng Phật để ngộ nhập Tự Tánh Di Đà, phải dùng đến Sự (niệm Phật cho chuyên) mới đạt được Lý. Còn người chấp sự Nhất tâm cầu vãng sinh, ngoài ra không còn biết gì khác nữa, nhờ đó mà tâm trở nên Định và sinh Tuệ, rồi ngộ được Lý trì danh. Vậy suy đến cùng thì những ai tu Tịnh nghiệp mà đạt được kết quả, đã vô hình chung kết hợp được Sự Lý một cách hài hòa, tới mức độ Sự tức Lý, Lý tức Sự viên dung vô ngại. Có điều là sự kết hợp ấy, hành giả ý thức được việc làm của mình nhờ trình độ am hiểu Phật pháp, còn có người lại thực hành một cách máy móc mà chẳng hiểu gì cả. Thông thường, theo tâm lý của người Trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh, thì lúc đầu tưởng nhớ tới Phật A Di Đà, sau đó niệm hồng danh của Ngài. Cũng như ở mọi động tác có ý thức, sau đó hình thức lại quy định nội dung, tác động đó hỗ tương qua lại. Trong trường hợp niệm Phật thì diễn trình đó hơi khác một chút. Ta có thể niệm danh hiệu Phật rồi mới tưởng nhớ tới hình ảnh cùng giới đức và những lời nguyện của Ngài. Trong lúc lập đi lập lại nhiều lần danh hiệu Phật một cách máy móc thì một lúc nào đó sẽ trỗi dậy trong ký ức của hành giả những ấn tượng về Đức Phật nằm sâu trong tiềm thức. Dù muốn hay không, hiện tượng này cũng sẽ xảy ra mỗi lúc một rõ nét hơn.

Tánh và Tướng của Phật A Di Đà biến thành một Thực tại đối với tâm thức của người Trì danh chẳng khác nào hai người chơi đu tiên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, thay nhau liên tục, tạo thành một cái đà đưa cả hai người bay bổng cao vút trên không trung. Trong trường hợp Trì danh hiệu Phật thì Sự là động tác của thân và khẩu, còn Lý là động tác của ý, làm thay đổi trạng thái tâm lý của hành giả. Đối với người sơ cơ thì Lý và Sự là hai sự việc hoàn toàn khác nhau, nhưng khi thành tựu được công phu niệm Phật thì tuy hai mà một, hiện tượng Sự Lý viên dung đạt được lúc hành giả hội đủ cơ duyên. Tỷ như công việc ngào bột. Lúc đầu thì bột là bột. Bột dụ cho Sự, nước dụ cho Lý. Tác dụng của bàn tay người ngào bột làm cho nước ngấm vào bột, bột hút lấy nước. Tới một điểm nào đó bột không còn là những hạt khô, rời rạc, mà nước cũng không còn là chất lỏng dễ chảy, nước với bột quyện vào nhau, cũng như Sự và Lý “tương tức tương nhập,, đến khi đó thì bột và nước hợp thành một chất nhuyễn dẻo, dễ nặn thành bánh, và việc nhào bột đã thành công. Trong việc niệm Phật, lúc đầu, hành giả niệm danh hiệu Phật, nhưng tâm chưa tưởng tới Phật A Di Đà với niệm Cực lạc (tức chưa làm công việc Thiền quán, hay chưa thực hiện phương pháp Thiền Tịnh song tu). Nhưng nếu cứ nhắc đi nhắc lại mãi sáu chữ hồng danh một cách máy móc, thì tới lúc Sự trì danh hiệu Phật bắt đầu có hiệu lực, và tác dụng vào Lý trì danh. Trong tâm của hành giả lúc đó các ký ức về Phật A Di Đà bừng thức dậy mỗi lúc một đậm nét hơn trong tâm của hành giả, từ mờ ảo đến quang huy và lúc đó thì tác động máy móc của Sự trì danh bước qua giai đoạn hiểu rõ tường tận Lý trì danh. Lẽ dĩ nhiên tiến trình chuyển biến này không thể thành tựu được một sớm một chiều, mà phải trải qua nhiều biến cải liên tiếp trong nội tâm.

Trong kinh A Di Đà có câu: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật… cho đến thất nhật”, ta phải hiểu chữ “nhật” ở đây theo nghĩa là giai đoạn ngắn hơn hoặc dài hơn một ngày. Sự thành tựu tiến trình hoán cải tâm linh là hiện tượng “nhất tâm bất loạn.” Đó là đạo của Pháp môn Tịnh độ. Ai có đủ điều kiện Tín, Nguyện và Hành thì cho là tiến trình ấy có thật, còn những người thiếu Đức tin thì cho là dị đoan, mê tín. Nhưng theo Tâm lý học thì cho đó là thói quen hay tập tục có khả năng biến đổi tâm lý con người. Đối với công việc tu hành thì ai tu nấy chứng, ai ăn nấy no, nếu phải chỉ bày một sự việc thuộc về tâm lý, tín ngưỡng thì không thể làm được. Tuy nhiên, trên thực tế sự kiện đó xảy ra hiển nhiên bất khả tư nghị.

Tiện đây, tôi xin thuật lại câu chuyện thuộc về niệm Phật A Di Đà mà biến cải được tâm thức do Thiền sư Bạch Ẩn, dòng Lâm Tế kể lại đã chứng minh sự kiện đó: Sư Bạch Ẩn có một người đệ tử, là con một ông già rất mực keo kiệt, chỉ quen chạy theo đồng tiền mà không biết đạo lý là gì cả. Người đệ tử ấy một hôm đến vấn kế Thiền sư để tìm cách hoán cải lòng tham vô đáy của cha mình. Sư Bạch Ẩn đề nghị: “Cứ bảo ông già ấy niệm Phật A Di Đà tối ngày hễ hôm nào niệm đủ 100 chuỗi hạt thì đến chùa ta trả cho một quan tiền, nhưng dặn kỹ là phải Thành Thật, cấm không được gian lận.” Mỗi ngày, cứ tối đến, Sư Bạch Ẩn lại thực hiện đúng lời đã cam kết, trả tiền sòng phẳng cho ông lão. Vì tham được lãnh thưởng, không phải làm việc cực nhọc vất vả mà lại được tiền, ông già siêng năng niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, bất cứ lúc nào cũng niệm Phật để mong được lãnh tiền thưởng nhiều hơn. Qua một thời gian, một buổi tối Sư Bạch Ẩn không thấy bóng ông già chống gậy đến chùa để lãnh thưởng như thường lệ, hỏi ra mới biết vì mải mê niệm Phật, ông lão quên cả việc đến chùa lãnh thưởng. Vài tháng sau, ông lão tìm đến chùa, nét mặt hân hoan, rạng rỡ, hết lòng cảm tạ Thiền sư đã có công hoán cải tâm thức của mình, từ vô đạo, ích kỷ tham lam, nay đã trở nên một tín đồ thuần thành của Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh. Khi từ giã Thiền sư ra về, ông già không quên để lại chùa một túi tiền, không rõ bao nhiêu, để cúng dường Tam bảo.

Xét ra thì Sự và Lý trì, cả hai đường lối cùng nhắm vào một mục tiêu: một đường thì nặng về tín ngưỡng, sùng bái và nương cậy vào Tha lực, còn một đường thì nặng về mở mang Trí tuệ, dùng Tự lực và pháp Thiện định để Minh tâm Kiến tánh, cầu ở Tánh mình để dứt vọng về chân. Cả hai đường lối đều đòi hỏi người tu phải quyết tâm hành đạo. Cả hai đều đưa tới Chánh giác, kết quả mau hay chậm đều do căn cơ và duyên phận của từng người.

Người học đạo khi chưa dung hòa được Tánh và Tướng, Lý và Sự, nghĩa là còn chấp về một phía hoặc Thể hoặc Dụng, mới dùng Tánh để phá Tướng, lấy Lý để bác Sự, lấy Chân không để bác Giả hữu của hiện tượng giới, gây thành những cuộc tranh chấp liên miên, bởi lẽ họ đã không hiểu hay không chịu sống theo lý Bất nhị, nên mới đưa tới tình trạng là Sự chẳng thành Chân sự, mà Lý cũng chẳng thành Chân lý. Thông suốt được lý Không hai thì dung hòa được mọi chấp mê để nhập vào Nhất chân Pháp giới của Vũ trụ. Pháp hữu vi tuy huyễn nhưng nếu không dùng đến thì đạo quả khó thành. Pháp vô vi tuy Chân nhưng nếu cứ khư khư chấp lấy chữ Không thì Hữu tánh mất Diệu Dụng và sẽ sống xa vời thực tế. Mê Sự thì cảm xúc nhiều sinh tâm phiền não trở ngại cho tâm Niết bàn. Mê Lý, suy nghĩ nhiều thì Sở tri chướng gây trở ngại cho tâm Bồ đề. Bỏ sự theo Lý thì đọa vào nẻo tối của hàng Thanh văn. Lìa Lý theo Sự tất mắc vào chấp mê của hàng phàm phu. Sống ở đời là phải sống trong Thực tại gồm đủ cả Bản thể lẫn hiện tượng. Tánh và Tướng, Lý và Sự không bao giờ được quên Chân lý Vô ngã, Vô thường, Bất nhị và Bản thể Chân không của vạn pháp. Tuy phải sống trong tương đối nhưng lại không quên hướng thượng, cố vươn lên đích lý tưởng tuyệt đối.

Xét chung thì cả hai đường lối, chấp Sự và chấp Lý, chấp Có và chấp Không một cách cứng rắn đều không phải là Chân lý và đều là bệnh biên kiến cả, cần phải chữa cho hết bệnh chấp đó. Người thường hay mắc bệnh chấp Có, chỉ nhìn thấy vỏ ngoài của sự vật, cho mọi sự vật đều thật cả rồi đem tâm luyến ái, bám giữ không chịu rời ra, hoặc là ghét bỏ, nguyền rủa, không muốn đến gần. Hàng trí thức, duy lý lại mắc bệnh chấp Không, thường khinh chê người theo Sư tướng, bị lỗi tự mãn, tự kiêu, còn nguy hại hơn bệnh chấp Có, vì họ hay khuyên người đời nên bỏ Sự theo Lý, nhưng chính họ lại không thấy được ưu điểm của lối theo Sư tướng, chỉ chấp chặt về mặt Lý, như vậy rất có hại cho người sơ cơ, cần phải dựa vào Sư tướng và Tha lực để nâng đỡ, bồi bổ Đức tin bước đầu còn chưa vững chắc.

Người tu theo Sự trì danh mà có Đức tin vững chắc, lúc niệm Phật không còn điều gì thắc mắc nữa. Họ chỉ biết niệm Phật không ngừng, bất cứ lúc nào, đi, đứng, nằm, ngồi ngoài ra không để tâm suy nghĩ điều gì khác. Người theo Lý trì danh, khi đã hiểu lẽ việc niệm Phật nằm trong lý Bất nhị dốc lòng tin lời Phật dạy, còn tin ở nghị lực của mình không gì lay chuyển nổi, như vậy cũng không còn chút hoài nghi trong lòng, bởi vì mọi thắc mắc đã bị ngọn lửa Tuệ giác Tam muội thiêu hủy hoàn toàn. Như vậy, cả hai bên đều có Đức tin, có điều là người theo Lý thì tin một cách sáng suốt hơn người tu theo về Sự, do đó mà Đức tin của họ trở thành bất thoái chuyển. Chỉ có những người theo Sự một cách mù quáng, chẳng tin ở tài sức của mình, hay người theo về Lý mà chưa Giác ngộ được lý Bất nhị mới kém Đức tin mà tam mới dao động mà thôi. Theo phép tu thì mỗi người, tùy theo căn cơ và tánh tình của mình, hoặc nặng về tình cảm hay vì ý chí sắt đá tự cường mà tự chọn lấy con đường tu hợp với hoàn cảnh của mình. Lối tu nào cũng cần phải có đủ cả Sự lẫn Lý, phối hợp Tín và Hành, không thể thiên về một bên Lý và Sự, Tri và Hành đều phải cân bằng như hai cánh chim xòe rộng mới bay được cao xa. Đức tin là điều cốt tuỷ trong Pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ, thiếu niềm tin thì không mong thành tựu được điều ước mơ gì cả.

Thuở xưa, ông Vương Trọng Hối hỏi ông Vương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi gián đoạn và được “nhất tâm bất loạn?” Ông Vương Vô Vi đáp: “Việc tu hành Phật pháp nói chung, và theo Pháp môn Tịnh độ nói riêng đặt trọng tâm vào chữ Tín. Tín đứng hàng đầu trong ba môn Tín, Nguyện, Hạnh. Đã Tin sâu rồi thì không còn gì nghi ngờ nữa. Nếu còn bóng dáng một chút hồ nghi, đức Tín tâm không vững, còn bị lung lay.”

Vương Trọng Hối nghe nói hết sức vui mừng bèn cáo biệt mà về. Cách đó ít lâu, ông Vương Vô Vi mộng thấy ông Vương Trọng Hối đến tạ ơn tươi cười rằng: “Nhờ nghe được câu chỉ bảo chí tình của đạo hữu mà nay tôi đã được vãng sinh Tịnh độ Tây phương rồi.” Đủ tỏ chữ Tín thực đáng giá ngàn vàng. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ tát, thì tâm con người có hai phần là Tánh và Tướng hay Chân như môn và Sinh diệt môn. Nhưng Tánh tức Tướng, Lý tức Sự, Bản thể tức Hiện tượng, Cực lạc tức Ta bà, cũng ví như nước biển, không thể bảo phần nào là nước trong lòng biển khởi bất động và phần nào là sóng trên mặt biển nhấp nhô, bởi chấp như thế là vô lý, không thể tách rời nước ra khỏi sóng, và sóng ra khỏi nước được, vì Sóng là Nước, Nước là Sóng, Tâm là Cảnh, Lý là Sự, Tinh thần là Vật chất v.v… Bỏ Lý thì chẳng vững, mà lìa Tướng thì tánh không thành. Lý và Sự cũng như đạo và khoa học, đạo và đời, tuyệt đối và tương đối, chẳng thể rời nhau nửa bước, mà phải nương nhau để cùng tồn tại. Nhờ Sư tướng bên ngoài mới có phần Lý tánh bên trong. Có phần Lý tánh bên trong mới thấu rõ được phần Sư tướng ở ngoài. Hành động theo Sư tướng mà thiếu suy xét thì dễ lạc vào tà đạo. Trái lại, nếu theo Lý bỏ sự thì tâm khô cằn và dễ rơi vào hố Hư vô chủ nghĩa cho nên kinh Phật mới dạy:

Thật tế lý địa bất thụ nhất trần

Phật sự muôn trung, bất xả nhất pháp.

(Trong tâm thanh tịnh (thuộc về Lý) thì không còn một mảy bụi, nhưng về Sư tướng, muốn đạt tới trạng thái thanh tịnh thì người tu chẳng thể bỏ qua một pháp nhỏ mà không hành đến nơi đến chốn), nhưng hành đến đâu lại xả đến đấy, Tâm không trụ vào pháp nào cả. Phật dạy: “Phải thấy tánh Không của pháp Hữu vi mới mong được Giải thoát.” Muốn thấy tánh Không của các pháp thì phải xả bỏ Ngã và Ngã Sở, bởi đó là nguồn gốc của các tướng Sinh, Diệt Có, Không. Phải phá chấp mê về Ngã Vật lý, rồi đến chấp mê về Ngã tâm lý xã hội. Cao hơn bậc nữa, Phật dạy: “Phải thoát khỏi cả các sinh diệt của các pháp không được giữ lại một chút sở đắc nào cả.” Phải xa lìa tư duy, ý niệm để Tâm rỗng lặng, không còn bóng dáng của các pháp tương đối nữa. Lúc ấy thì tâm sẽ sạch làu làu sáng rực rỡ, nhẹ lâng lâng, và Chân tâm, Phật tánh của ta sẽ hiển lộ.

Trên mặt Bản thể Vô sai biệt và Vô phân biệt thì Lý và Sự, Tâm và Vật, Không và Sắc đều quyện vào nhau, tương tức tương nhập như sữa vào nước, không thể tách rời Lý ra khỏi Sự và Sự ra khỏi Lý được.

Trên đường tu thì Lý và Sự phối hợp chặt chẽ với nhau để giúp đỡ nhau cùng tồn tại. Có Lý thì hành động mới có chủ trương cân nhắc. Có Sự mới có phương tiện để thực hiện những điều đã suy luận và chứng minh được những gì đã lý giải. Có Lý mà không có Sự như người có kế hoạch, bản đồ trong tay mà không chịu thực hiện kế hoạch đã dự liệu. Có Sự mà thiếu Lý như kẻ hành động không có chủ đích, kỷ cương, muốn đi mà chẳng biết đường lối, thiếu người dẫn đường lộ trình mờ mịt, chẳng biết cách tiến thoái, dễ rơi vào cạm bẫy, hầm hố. Phải có đủ cả Lý lẫn Sự, như người thông suốt đường lối, lại hăng hái cất bước đăng trình, với cặp mắt sáng suốt và đối chân cứng cáp, lòng tinh tiến, nhẫn nại, mới mong đạt tới đích. Tuy nhiên, trong Pháp môn Tịnh độ dù thiếu về phần Lý, song chịu khó nghe theo lời khuyên bảo của những người đi trước mà cố gắng thực hành thì cũng có ngày thành công. Những bộ kinh luận và lời khuyên của hàng thiện tri thức là những bó đuốc soi đường cho những người tu Tịnh nghiệp thời nay nên theo đó mà thực hành sẽ đạt được kết quả mong muốn. Cho nên có Sự mà thiếu Lý chẳng đáng quan tâm, chỉ e đã hiểu lý rành rẽ mà lại chẳng chịu thực hành, ưa nói suông, lý luận hão mất thời giờ dành cho việc niệm Phật cầu vãng sinh, tới phút lâm chung thần chết hiện đến, hồn phách hôn mê, tất sẽ bị lạc vào vòng Luân hồi khó thoát. Bởi vì Phật pháp chỉ độ kẻ dốt nát nhưng thành tâm có chí nguyện vững vàng mà không thể độ cho những kẻ Thế trí biện thông, Đức tin không vững lại kém hành trì. Những người nói năng lưu loát, hiểu rõ Tam tạng Kinh điển mà chẳng chịu khó niệm Phật có khác gì người đói đứng ngắm bức vẽ một mâm cơm thịnh soạn, hoặc người túng thiếu mà đếm tiền cho thiên hạ tiêu, sao bằng được lão bà ngồi xó bếp, không biết chữ, song niệm Phật suốt đêm ngày lúc nhắm mắt lìa trần mà giữ được tâm không tán loạn, ý không tham luyến, hết lòng cầu Phật gia hộ để được vãng sanh, tất sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn về nơi Cực lạc, nào đã kém ai?

- Hiểu Phật A Di Đà là Chân tâm, Tự tánh của mình theo nghĩa bóng mà niệm Phật theo Lý trì danh, hay tin có Phật A Di Đà bằng thịt bằng xương đang cai quản cõi Tịnh độ Tây phương theo nghĩa đen, rồi Nhất tâm niệm Phật theo Sự trì danh, cả hai đường lối đều lợi ích cả, vậy ta chớ nên có thái độ bên trọng bên khinh.

- Một điểm nghi vấn cần được nêu lên ở đây và cần phải làm cho sáng tỏ là: nếu tu theo Sự trì danh mà cũng đạt được Chân tâm thực tánh thì cần gì phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cho thêm phiền phức? Cần gì phải thắc mắc để có hại đến Đức tin?

Xin thưa: Đành rằng người tu chỉ cần niệm Phật cho chuyên cũng đủ, chẳng cần phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cũng đạt được tới đích là thanh tịnh tâm mình, nhưng trên thực tế, người tu mà không hướng về nội tâm, lại quen chạy theo ngoại cảnh thì khó buộc được tâm viên, ý mã của mình. Tâm đã bị lôi cuốn theo hình tướng bề ngoài thì làm sao định được? Làm sao niệm Phật được với “nhất tâm bất loạn?” Nhược bằng niệm Phật theo Sự trì danh không vọng niệm mà chỉ có Chánh niệm, hay “nhất tâm bất loạn”, “Nhất tâm Tam muội”, thì tâm sẽ định và sẽ tịnh. Kết quả đạt được như người theo Lý trì danh không khác. Điểm quan trọng là liệu có buộc được tâm ý mình hay không? Nếu bằng đường lối Sự trì, chỉ chuyên niệm Phật mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc niệm Phật thì tâm luôn luôn ở trong Chánh niệm, hoặc ở trạng thái “nhất tâm bất loạn” sẽ đạt được kết quả như bên Thiền tông nhìn thẳng vào tâm mình để “Minh tâm Kiến tánh thành Phật.” Để dung hòa hai quan điểm Lý và Sự trì danh hiệu Phật và để nhận định một cách sáng suốt Sự và Lý trì danh, mong đạt tới Tâm - Cảnh nhất như, Lý Sự viên dung hay Tri Hành hợp nhất, một Thiền sư trong Thiền Tịnh đạo tràng có để lại bài thơ dưới đây để nêu rõ lập trường của mình:

Mỗi viên tràng hạt, Phật là Tâm

Phật rõ là tâm, luống phải tầm?

Bể Phật dung hòa tâm lẫn cảnh,

Trời tâm Bình đẳng Phật cùng sinh.

Bỏ tâm theo Phật còn mê muội,

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm Phật nguyên lai đều giả huyễn,

Phật tâm đồng diệt mới viên thành.

Chương 9: Mục Tiêu Tối Thượng Của Hai Bộ Kinh A Di Đà Và Địa Tạng

Phật dạy: “Trong đại dương, giọt nước biển nào cũng có vị mặn thì các Pháp môn của ta, Pháp môn nào cũng có vị Giải thoát, mà Giải thoát tức là diệt trừ được những tư tưởng tạp loạn của tâm vọng động, chứa đầy nọc độc tham, sân, si… làm cho con người khổ đau, phiền não, được trở về trạng thái an vui của Chân tâm, Phật tánh.”

A. Kinh A Di Đà

Kinh A Di Đà giống như đại đa số kinh Phật khác có mục đích:

1. Chỉ cho chúng sinh biết rõ cõi trần là nơi khổ đau.

2. Nguồn gốc của sự khổ đau là tạp nhiễm những thói hư tật xấu, do lục căn, lục trần cấu kết với nhau làm cho tâm vọng động, phát sinh ra những tư tưởng và hành động sai lầm đưa tới quả khổ Sinh tử.

3. Chỉ cho ai nấy được biết phần linh thiêng trong con người là Chân tâm, Bản tánh hay Phật tánh của mình.

4. Muốn thoát ly khổ đau Luân hồi Sinh tử để được hưởng đời đời hạnh phúc phải trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình hay là thành Phật.

Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ dựa trên cơ sở tư tưởng: “Người ta trở thành cái mà người ta thường mơ ước” hay: “Muốn là được” (“On devient ce à quoi on désire” hay “Vouloir c’est pouvoir”).

Phật dạy: “Cái tánh hiện tại của con người do kết quả của những tư tưởng và hành vi của người ấy từ vô thủy” hay “Sinh mệnh của một người là kết quả của những nghiệp về thân, khẩu, ý do người đó đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Những gì trong quá khứ đều không bị hủy diệt, chúng để lại những dấu ấn trong tàng thức của ta. Nghiệp báo theo ta như bóng theo hình, do đó mà một con người hiện tại bởi con người quá khứ tạo nên, cũng như con người tương lai là kết quả của những suy tư và hành động của con người đó trong hiện tại. Chính ta đã tạo ra ta. Bởi vậy người ta phải luôn luôn tưởng niệm đến những gì cao quý và hướng đến đích Chân, Thiện, Mỹ. Con người thường mơ ước tới cái vô cùng tận, và một đời sống hạnh phúc tươi đẹp tuyệt đối. Không ai lại khao khát cái xấu xa, ngắn ngủi, tầm thường và gây khổ đau cho mình. Cái Vô cùng Vô tận được thần Thánh hóa bằng Đức Phật A Di Đà, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô lượng Công đức, cái cao thượng tốt đẹp vô cùng được lý tưởng hóa bằng cõi Cực lạc Tây phương. Nói cách khác thì tư tưởng chỉ đạo của bộ kinh A Di Đà nằm trong hai chủ thuyết:

1. Nhất thiết duy tâm tạo (Kinh Hoa Nghiêm).

2. Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tánh (Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Pháp Hoa) khuyên người đời nên trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình.

Cũng như các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Đại Bát Niết Bàn, Kinh A Di Đà chủ trương tâm con người có thể tạo ra tất cả, và ai ai cũng có thể thành Phật, nhập Niết bàn hay vãng sinh Tịnh độ nếu mình thiết tha mong muốn. Nhưng so với các bộ kinh lớn kể trên thì Kinh A Di Đà có phần thông tục hơn và được lan truyền trong đại chúng rộng rãi hơn.

Căn bản của Kinh A Di Đà là thuần niệm Phật, nhằm kết hợp trực giác tâm linh của hành giả với Chân như Pháp giới, phá cái giả ngã bé nhỏ của con người để hòa tan vào cái tâm của thiên địa đại đồng, kết quả là phá được vô minh, đập tan được Ngã và Ngã sở, và tỏ ngộ được Chân tâm trong sáng của ta. Trở về tự tâm hay Kiến tánh là duyệt xét lòng mình để thấy những gì là cao đẹp quang minh, và những gì là xấu xa, thấp hèn, rồi tuân theo những lời chỉ dạy của Lương tâm, Phật tánh của mình.

- Một Triết gia Tây phương có những tư tưởng đẹp, được diễn tả qua bông hoa văn nghệ sau đây: “Đối với Thượng đế (hay Phật, Trời) ta nên có trái tim của trẻ thơ. Đối với tha nhân, ta nên có trái tim của người Mẹ hiền. Nhưng đối với chính mình, ta phải có trái tim của một vị thẩm phán anh minh, nghiêm khắc. Ta phải làm chủ ý chí của ta và làm nô lệ cho Lương tâm mình.” Nói theo lối Phật giáo thì ta phải tự biết chính mình. Có tự biết mình, ta mới làm chủ được mình, ta mới được tự do tự tại, mới thoát khổ, và mới thành Phật.

- Trở về với nội tâm hay Kiến tánh là nương tựa vào Lương tâm mình, chẳng phải là nương tựa vào một thể xác giả huyễn, một mớ ngũ uẩn, giả ngã biến hoại từng sát na, cũng chẳng phải là nương tựa vào sự phiêu lưu bình bồng của một Ý thức thay đổi không ngừng vì tất cả những thứ đó đều chẳng phải là Chân ngã hay Chân tâm, mà chỉ là Vọng thức Vọng niệm đảo điên, sinh diệt luôn luôn biến đổi mà thôi. Trở về với chính mình là nương tựa vào những đức tánh sáng suốt, Bình đẳng, Từ Bi Hỷ Xả của tự tánh của mình sẵn có đầy đủ, không bị nhân duyên và căn trần chi phối. Mục đích trở về với bản tâm con người thì bất cứ bộ kinh Phật liễu nghĩa nào cũng có vị Giải thoát cả, nhưng mỗi bộ kinh Phật lại có một lối diễn tả riêng, khi thì theo cửa Hữu hay Pháp tướng, khi thì theo cửa Không hay Pháp tánh, lại dùng những từ ngữ khác nhau để cùng chỉ một thứ, tỷ như tâm con người.

- Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới hay Pháp giới tánh, hoặc Sự Lý viên dung.

- Kinh Lăng Nghiêm gọi là A đà na thức, Chân tâm, Diệu minh, Chân như, Chân tánh, Chân tướng, Thực thể, Chân thể …

 - Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng.

 - Kinh Duy Ma Cật gọi là Pháp Bất nhị.

 - Kinh Viên Giác thì gọi là Viên Giác tánh, Thiền định công đức, hay Diệu Giác Nguyên minh…

 - Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Như Lai, Như Lai tánh, Pháp tánh thường trụ.

 - Kinh Bát nhã gọi nó là Không quán.

 - Kinh Lăng Già gọi nó là Như Lai thanh tịnh.

 - Kinh Pháp Hoa gọi nó là Phật tánh, Tự tánh thanh tịnh Niết bàn, Như ý bảo châu, Tri Kiến Phật, hay Viên ngọc vô giá giắt trong người.

 - Kinh Pháp Bảo Đàn gọi nó là Bản lai diện mục, hay ông chủ nhà.

 - Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là Bản giác hay Giác tánh.

 - Luận Duy thức gọi nó là Duy thức tánh v.v…

Trong các Kinh điển của nhà Phật chữ tâm được diễn tả tùy theo Tướng, Dụng hay Thể của nó. Về phương diện hoạt động hay diệu dụng thì tâm được gọi là pháp Nhất thừa, lý Trung đạo, lý Bất nhị, hoặc Chân đế để chỉ cho cái Thực tại siêu việt, mầu nhiệm, viên dung, cái “Chân không Diệu hữu” của Vũ trụ. Về phương diện Thể Tánh thì gọi Tâm là Phật tánh, Giác tánh, Pháp tánh, Bình đẳng tánh, Pháp thân Như Lai, Chân không, Đại ngã… hay cái tánh Bất sanh Bất diệt, Bất khứ bất lai, không thiện không ác của các pháp. Đứng về phương diện liên hệ giữa Bản thể và hiện tượng thì tâm được diễn tả bằng những danh từ “Như thị, như thị” hay “Như như.”

Tâm của con người chứa đầy hạt giống xấu, tốt lẫn lộn. Đó là nơi tụ hội của Thần lẫn Quỷ, Thần là phần thanh cao tôn quý, Quỷ là phần ô trược bỉ ổi, thấp hèn. Về mặt chân thì tâm có quyền năng vô hạn, hiện diện khắp nơi như hư không. Về mặt vọng thì nó là động cơ thúc đẩy con người đi theo con đường lục dục, thất tình, gây khổ đau, tai họa, nếu nó nghiêng ngả mê mờ. Vì tâm là kho chứa đủ các loại hạt giống của Thánh lẫn phàm nên cổ nhân lo sợ nếu nó nghiêng lệch về một phía, thì sai một ly đi tới vạn dặm.

Đã có Thánh, phàm, ắt có Chân tâm hay Phật tâm và phàm tâm hay vọng tâm. Tự Tánh Di Đà hay Chân tâm, Phật tánh vốn đầy đủ các đức hạnh viên chiếu hồn nhiên, ở Phật chẳng thêm, ở phàm không thiếu. Khi cái tánh thanh cao tuyệt đối ấy chưa phát hiện thì nó vô vi. Đó là phần tiên thiên, vạn tượng hàm chứa trong đó. Nhưng khi nó đã phát hiện ra ngoài thì nó là phần hậu thiên sinh ra thiên hình vạn trạng. Càng đi xa ngọn nguồn trong sạch, nó lại càng ô trược, mờ tối. Từ một tư tưởng bất chính sinh ra mà tâm vốn bất động đã tạo duyên, tác nghiệp, lôi cuốn con người vào guồng máy Luân hồi Sinh tử. Tu là từ hậu thiên trở về tiên thiên, từ vạn hữu sai thù, trở về nguyên lý căn bản, hay từ vọng thức điên đảo hồi về Chân tâm bất động để được Giải thoát.

Cái tâm chỉ có một, thuộc về Bản thể tuyệt đối sinh ra vạn hữu sai thù, có hình, danh, sắc, tướng, gọi là Sự Sự Pháp giới, nên mới có câu: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản.” Tất cả các pháp trong Vũ trụ đều từ cái “nhất chân” ấy sinh ra nên mới bảo: “Một tức là Tất cả và Tất cả tức là Một.” Tướng và Dụng của các pháp đều vọng mà Bản thể của các pháp lại chân, cho nên giữa Chân và Vọng, Tánh và Tướng, Lý và Sự, tuy khác nhau về Tướng, Dụng, nhưng Thể lại vốn đồng và đều dung thông, dung nhiếp với nhau như bóng với hình, nghĩa là các pháp đều “nhất thiết vô ngại.”

Phật và tâm con người rộng lớn như thái hư. Về mặt Thể nó bao hàm cả vạn hữu, ẩn tàng và siêu xuất. Tâm có sức mạnh tinh thần phi thường nên ta biết cách tập trung năng lực của nó vào một mối, đừng để cho năng lực ý phân tán thất thoát qua lỗ hổng của sáu căn thì nó có đủ sức hoán cải cả càn khôn. Người ngồi Thiền tập trung tư tưởng trong đại định có dụng ý để năng lực tinh thần của tâm không bị suy giảm bởi đã khép kín được sáu căn. Khi đó họ đã dùng năng lực tinh thần (của Tâm) để quan sát sự vật và đắc một thứ trực giác siêu phàm gọi là Bát nhã trí, thấy rõ Thực tại toàn chân. Người thường, trong phút lâm chung, sáu căn biến hoại cũng có được một lúc tâm không vọng động và lúc ấy nếu biết hướng về Phật pháp hoặc được bên ngoài trợ lực, nhắc nhở cho biết để hướng về nơi thanh cao siêu thoát, và hướng tới Phật, niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn thì có thể nhờ được Tha lực của chư Phật và Bồ tát cùng người bạn hộ niệm cho mình phối hợp với tinh thần của y lúc bấy giờ mà dắt y về cảnh Cực lạc Tây phương.

Về mặt Vật lý (theo bản báo cáo của BS Nguyễn Khánh Dư về thành tích hoạt động của Bệnh viện Chợ Rẫy (Saigon) trong ngành chữa trị bệnh tim, đăng trong báo Saigon Giải Phóng) thì tâm là một chiếc máy bơm thần diệu bền bỉ hơn sắt, thép, có sức hút được một khối lượng máu, bằng cả một khối nước chứa đầy một cái hồ dài 10 cây số, rộng 7 cây số, và sâu 2,50 thước để nuôi cơ thể một người trung bình thọ 60 tuổi, hoặc có thể nâng bổng một cơ thể nặng 60 Kg lên tới đỉnh ngọn núi chọc trời Everest cao 8848 thước, bằng sức của nó chỉ mới tích lũy trong vòng một tháng mà thôi? Thế mà ta lại cứ tưởng nó yếu ớt tầm thường, không đáng kể!

 - Tâm ấy gây sóng gió, làm cho đời người điên đảo, điêu linh mà cũng chính nó lại mở đường cho chúng ta nhập cảnh giới Niết bàn, hạnh phúc nên mới có câu:

Vị bất tòng thức Pháp giới lưu,

Mạc bất hoành quy thức Pháp giới.

Pháp giới ở đây là Pháp giới tánh là tâm của Vũ trụ mà cũng là tâm của con người, nơi xuất sinh vạn hữu, và là nơi vạn hữu quay về. Đó cũng là lý nghĩa của câu kinh: “Tam giới duy tâm, vạn pháp Duy thức.” Nếu tâm thức của con người mà không quân bình thì trời đất đều bị điên đảo, đảo điên.

Nếu Tâm con người mà ngả nghiêng nghiêng ngả, chỉ biết cái Ta, chẳng còn lưu ý đến cái tốt, cái hay và quyền lợi của thiên hạ thì bao nỗi mâu thuẫn, bất đồng, xâu xé nhau từ đó phát sinh. Bổn phận và lý tưởng của mọi người là đi theo con đường chính hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Giữa hai nẻo Thiên đường và Địa ngục, con người có toàn quyền tự do lựa chọn. Bổn phận của ta là phải thoát ly cảnh mờ tối của tâm hồn vì vô minh che lấp ánh sáng của Chân tâm để trở về với Chân tánh sáng suốt của mình. Bởi vì Chân tâm là cái vô hình, vô tướng, khó hiểu và khó chỉ bày nên Phật mới phải mượn những vật hữu hình để chỉ cái vô hình vô tướng ấy, do đó mà kinh Phật, bộ nào cũng chứa đầy mật nghĩa khó hiểu.

Xét trong kho tàng Kinh điển Phật giáo có hai bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng có những mối liên hệ mật thiết với nhau, vì cả hai đều được chọn làm Kinh cầu siêu cho người chết, do đó, luận về Kinh A Di Đà mà không bàn qua về Kinh Địa Tạng e bị lỗi thiếu sót.

B. Kinh Địa Tạng.

Cũng giống như Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng là một bộ Kinh Đại thừa liễu nghĩa, khế lý, khế cơ, viên đốn, Lý sự viên dung, có gì lợi cho người còn, người mất, bởi vì người sống nhờ đọc tụng các bộ Kinh này được Giác ngộ, Giải thoát, thì kẻ chết cũng nhờ các bộ Kinh này mà được chuyển nghiệp siêu sinh. Người Phật tử dốc lòng tin lời Phật dạy trong hai bộ kinh này mà tu theo về Sự hay về Lý đến mức độ Ba la mật đều đắc quả như nhau, cùng tăng trưởng Bi Trí, Phúc Tuệ, cùng đạt tới Lý Sự viên dung.

1/ Về mặt Sư tướng:

Theo Kinh điển thì Đức Địa Tạng là một người có thật (cũng như Phật A Di Đà là một vị Phật bằng thịt bằng xương), nếu không vì nguyện lớn độ tận chúng sinh trong cõi đời ô trược, ác thế này thoát vòng tử sinh thì Ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp trước rồi. Ngài nguyện rằng: “Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật.” Lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng sâu rộng vô cùng, bởi vì đối tượng của Ngài vô tận. So với những nguyện lớn của Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quán Thế Âm Bồ tát, còn bao la vĩ đại hơn nhiều bởi vì dù các vị này có hiện ra trăm ngàn muôn ức hóa thân để tế độ chúng sinh khắp mười phương thế giới thoát vòng khổ đau, song những Phật sự của các vị này còn có lúc hoàn mãn, chứ nguyện của Ngài Địa Tạng thề cứu độ hết thảy chúng sinh trong sáu ngả, trải qua vô số kiếp như số cát của muôn ngàn ức sông Hằng thì thật là vô cùng tận. (Phẩm Địa Thần Hộ Pháp thứ 11 Kinh Địa Tạng. Chỉ có 48 lời nguyện của Phật A Di Đà mới sánh ngang với lời nguyện của Ngài Địa Tạng mà thôi).

- Tâm của Bồ tát Địa Tạng viên chiếu, tịch tĩnh, đồng thể với Phật. Vì nguyện độ lớn nên Ngài mới tự nguyện ở ngôi Bồ tát trong thời gian vô tận để hành đạo. Ngài có đủ cả tam Thân:

a. Pháp thân của Ngài Địa Tạng Bồ tát trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, hòa đồng cùng Vũ trụ.

b. Ứng thân của Ngài hiện diện tại cung Trời Đao Lợi khi Phật Thích Ca thuyết Kinh Địa Tạng cho hàng Trời và Bồ tát nghe. Lúc ấy Phật đã lấy tay xoa đầu Bồ tát Địa Tạng và giới thiệu Ngài với Trời Đế Thích.

c. Báo thân của Ngài ví như thân của Thánh nữ Bà la môn Quang Mục trong Kinh Địa Tạng. Như vậy theo Kinh điển, về mặt Sự, rõ ràng Đức Địa Tạng Bồ tát là một nhân vật lịch sử (cũng như Phật A Di Đà), có đời sống như người thường, nghĩa là có tu hành, phát thệ và có mật độ, không thể bảo Ngài là một nhân vật huyền thoại, có danh vô thực, cũng như không thể bảo Pháp Tạng Tỳ kheo, tiền thân Phật A Di Đà là một nhân vật bịa đặt. Theo tục lệ người đời thường vẽ hoặc đắp tượng Ngài giống như một vị Hòa thượng, tay cầm viên minh châu để soi đường nơi âm phủ, và cây tích trượng để phá cửa ngục thiết vi, Giải thoát cho những vong hồn tù đày.

- Trong Kinh Địa Tạng, Phật Thích Ca đã giới thiệu Ngài Địa Tạng cho Trời Đế Thích rõ, cũng như Phật đã từng giới thiệu cảnh Cực lạc Tây phương cho Hoàng hậu Vi Đề Hy hay và cũng như Phật đã tự giới thiệu mình với hàng đệ tử là Ngài chính là em ruột Phật A Di Đà trong tiền kiếp. Ta phải tin lời Phật dạy trong những trường hợp này bởi vì Phật không bịa đặt bao giờ cả. Đã tin lời nguyện của Phật A Di Đà thề độ tận chúng sinh trong khắp các nẻo mê đồ, hễ kẻ nào thành tâm niệm danh hiệu Phật tới mức “nhất tâm bất loạn” thì được thoát ly Sinh tử, được về thế giới Cực lạc Tây phương thì ta cũng phải tin lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thề cứu vớt hết thảy chúng sinh khỏi khổ đau và thoát ly Địa ngục vô gián. Bởi nặng lòng thương chúng sinh sống trong cảnh nhà lửa bốn bề đốt cháy, và bởi Phật đã rõ những lời đại nguyện của Bồ tát Địa Tạng về tiền kiếp nên Phật đã uỷ thác cho Bồ tát Địa Tạng trong thời gian Phật không còn tại thế và Đức Di Lặc chưa xuất hiện để cứu đời, lãnh lấy trọng trách độ hết chúng sinh cương cường khó dạy, còn ngụp lặn trong biển Sinh tử nhất là ở cõi Địa ngục trần gian này, cũng như ở mọi nơi uế độ khác đều được Giải thoát khỏi bát nạn tam đồ. Đức Địa Tạng đã vâng chịu, nhận lãnh lời phó thác ấy tới ba lần. Đọc tới đoạn Kinh trên, ai là người chẳng cảm động trước tấm lòng Từ bi cao cả và tuyệt đối của bậc Thánh cứu thế ấy?

Theo Triết lý thì Kinh Địa Tạng được gọi là Hiếu Kinh, một bộ Kinh dạy về chữ Hiếu đứng hàng đầu. Trong Kinh Địa Tạng, Phật dạy: “Phận làm con phải thờ cha mẹ, cố giữ chữ hiếu đạo đối với mẹ cha mới đền đáp được công ơn sâu dầy dưỡng dục sinh thành.”

Nhưng cha mẹ của chúng ta là những ai?

- Theo lời Phật dạy ông A Nan trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu trọng ân thì không những chúng ta có cha mẹ trong đời hiện tại, mà ta còn có cả phụ mẫu trong các kiếp quá khứ nữa. Đống xương khô của vô số chúng sinh, trong hằng hà sa số kiếp về trước, có thể là hài cốt của cha mẹ ta, bởi vì trong muôn lần kiếp tái sinh, ta đã phải đọa hết làm loài nọ lẫn loài kia, thì trong chuỗi dài vô tận của thời gian, tất cả chúng sinh trong khắp các cõi mê đồ, người còn kẻ mất đều có thể là cha mẹ của chúng ta, chỉ vì vô minh che khuất bản tâm thanh tịnh mà ta không nhận ra đó thôi. Hiểu lẽ đạo làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ khi còn, khi mất để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục trong muôn một, lại hiểu rằng chúng sinh đều có thể là phụ mẫu của mình, thì cũng hiểu được vì sao Phật A Di Đà đã nguyện độ tận chúng sinh, ai nhắc tới tên Ngài đều được Ngài đưa về cõi Tây phương Cực lạc. Bồ tát Địa Tạng đã nguyện cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ngục A tỳ và Bồ tát Quán Thế Âm cũng như các Bồ tát khác lại phân thân ứng hiện khắp nơi, dưới mọi hình tướng để cứu giúp muôn loài khổ đau. Đối với người có tâm Bồ tát thì chúng sinh là những vị ân nhân bởi vì nếu vắng bóng chúng sinh thì Bồ tát không có dịp may để hành đạo và chứng quả Bồ đề, luyện Tứ Vô lượng tâm và Lục độ Ba la mật.

- Theo lý “tương tức tương nhập, và Bình đẳng trên mặt thể tánh thì mình là chúng sinh, chúng sinh là mình. Sự sống của muôn loài trên trái đất đều linh thiêng như nhau, và không có loài nào phải hy sinh tánh mạng mình cho loài khác để họ được đỏ da thắm thịt cả. Đứng trước thảm cảnh những con thú bị thọc huyết phanh thây, tiếng kêu la thảm thiết, dẫy dụa trên máu đỏ lòm, hay giương đôi mắt lờ đờ nhìn cảnh vật chung quanh ai là người có chút từ tâm lại chẳng mủi lòng, thương xót? Không ai có quyền được dùng trí óc khôn lanh của mình để săn, bẫy, giết hại muông thú, hòng thỏa mãn lòng tham ích kỷ và tánh hiếu sát của mình! Cũng vì nhớ tới công lao của chúng sinh đã tạo cho mình nguồn sống mà người có Đạo tâm không nỡ sát sinh súc vật và phải ăn chay suốt đời.

Hiểu được lẽ chúng sinh có thể là phụ mẫu của ta trong tiền kiếp, chúng sinh đồng một Bản thể với ta, và là những vị Phật sẽ thành thì cũng hiểu được vì sao mà ta phải có tâm Vô phân biệt, không nên tự kiêu, coi oán thân không khác và phải sống với Chân lý Bất nhị, Một tức là Tất cả và Tất cả tức là Một.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ở sa mạc có một hồ nước. Trên bờ hồ mọc lên một gốc đại thụ cành, lá, hoa quả sum xuê. Nước ở trong hồ ví như chúng sinh. Rễ cây, thân cây và cành, lá tượng trưng cho Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, còn hoa quả là Phật. Nếu không có nước ở trong hồ thấm nhuần vào rễ thì cây ấy không mọc được để nảy chồi, đâm lộc sinh hoa kết trái.” Quả Phật thuộc về chúng sinh. Nếu không có chúng sinh thì Bồ tát không có nơi nương tựa để hành đạo và thành tựu được quả vị Bồ đề. Cũng vì lẽ đó mà các khóa lễ Phật đều kết thúc lời Kinh bằng hồi hướng công đức khắp tất cả, âu cũng là nghĩa cử thông thường nhằm nghĩ đến ân sâu đối với chúng sinh.

Người học đạo Phật cần phải hiểu đạo Phật, hiểu đạo không phải chỉ là nghiên cứu Kinh điển, mà còn phải trải qua một quá trình lâu dài thấy Đạo, hành Đạo và chứng Đạo tức là hiểu Đạo qua thực nghiệm của bản thân, vượt ra ngoài lý luận viễn vông, nghĩa là phải đi qua nhiều chặng đường thử thách của Tri Hành hợp nhất. Những mớ hiểu biết lỏng lẻo, lý thuyết ban đầu rất cần thiết. Đó là phần tư lương dự trữ trong bọc hành lý buổi đăng trình. Nhưng Tri có thể dễ mà Hành mới thật là khó. Người học đạo Phật chịu khó nghiên cứu và nghe những lời thuyết pháp có thể hiểu được Phật pháp phần nào, nhưng làm những lời vàng ngọc của Phật dạy thì ít ai làm được, chỉ có Phật mới làm theo đúng những lời mình đã nói. Hiểu thiên kinh vạn điển còn dễ, chứ Hành, dù chỉ một chữ thôi (như chữ Xả, chữ Nhẫn, chữ Hiếu chẳng hạn) thực khó vô cùng! Do đó, đôi khi ta phải coi Hành nặng hơn Tri. Hiểu thì phải cố gắng hành trì theo như mình đã hiểu. Nếu Tri mà không Hành, Lý mà thiếu Sự thì Lý phỏng có ích gì?

Nếu ta coi chúng sinh những kiếp trước và kiếp này đều là ân nhân của ta thì ta phải hết lòng nhớ ơn họ, và phải làm đúng theo lời Phật dạy.

Trong Kinh Địa Tạng, Phật đã chỉ bảo tường tận bổn phận làm con phải giữ hiếu đạo đối với cha mẹ, mà một việc cần phải làm là dâng lễ cầu siêu cho cha mẹ quá cố. Phật sự này nhằm đạt hai lợi ích cụ thể, vừa độ sinh lại vừa độ tử như sau:

1. Đối với người còn sống thì dạy ai nấy phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, dù phải khoét mắt, cắt da, lóc thịt để làm thuốc thang cứu chữa cho cha mẹ mắc bệnh cũng không đền đáp được công ơn dưỡng dục một trong muôn phần.

2. Đối với người chết, trong thời gian hấp hối, thần thức hay thân trung ấm hãy còn, phần hồn chưa lìa khỏi xác, mặc dù xác thân bất động nhưng thần thức hãy còn nghe và cảm thọ chính là lúc nghiệp lực nổi dậy chiêu cảm, và cũng là thời gian thuận tiện nhất để chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan, do đó mới có tục lệ muốn cho người chết được hưởng lợi ích để chuyển nghiệp thì thân nhân của họ thường tổ chức những buổi tụng Kinh A Di Đà hay Địa Tạng để cầu siêu cho người chết, mong thoát ly cảnh khổ Địa ngục và được siêu thăng về cảnh giới Cực lạc, Niết bàn, có ý nghĩa thỏa mãn lòng hiếu và xót thương của người sống đối với người đã qua đời, đó là một mỹ tục và việc làm đúng theo lời Phật dạy. Tóm lại, về mặt Sư tướng thì tín ngưỡng về sự hiện hữu của Phật A Di Đà cũng như của Bồ tát Địa Tạng đã khắc sâu vào tâm khảm của quảng đại tín đồ Phật giáo xuyên qua các Kinh điển và hình tượng của các Ngài, những vị Phật và Bồ tát cứu nhân độ thế có những đại nguyện rộng lớn như nhau. Tín ngưỡng đó không bao giờ phai lạt, bởi vì về mặt tâm lý quần chúng thì Đức Phật A Di Đà cũng như Bồ tát Địa Tạng là những điểm tựa tinh thần vững chắc và cần thiết để người đời an tâm, tin rằng hễ cứ niệm Phật A Di Đà hay cầu nguyện Bồ tát Địa Tạng thì người sống, kẻ chết đều được lợi ích cả.

Đối với người còn sống, việc niệm hồng danh A Di Đà là phương pháp thần diệu để an tâm, tĩnh trí, phá tan phiền não để trở về với Phật tánh, Chân tâm. Việc tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu cho người chết, dạy người đời chữ Hiếu, nhắc nhở ai nấy làm tròn đạo làm con, tỏ lòng biết ơn đối với người khuất bóng.

3. Đối với người đã chết thì chuyển được nghiệp nặng biến thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan. Tin như vậy là chính tín. Muốn cho Đức tin thành tựu được công đức tốt lành thì việc lễ bái, cúng dường, cầu siêu, niệm Phật phải được thực hành đúng cách (không sát sinh không đốt vàng mã), làm với tâm thành tuyệt đối, vì thiếu tâm thành thì tín ngưỡng chẳng sâu xa và quả đạt được chẳng đáng là bao, người sống kém phần lợi lạc, mà người chết lại càng hưởng phúc ít hơn. Phật dạy: Kẻ hết lòng tôn kính và biết ơn Như Lai là kẻ đã hành trì đúng theo lời Phật dạy. Chính kẻ ấy đã làm cho giáo pháp của Như Lai trường tồn trên thế gian này.

2/ Về mặt Lý tánh:

Kinh A Di Đà cũng như Địa Tạng, hoặc bất cứ một bộ Kinh liễu nghĩa nào khác của đạo Phật đều nhằm mục tiêu thanh tịnh hóa tâm của con người đọc tụng. Xét về ý nghĩa những danh từ Địa Tạng, U Minh, Bản Tôn và Địa ngục, ta thấy:

Địa là đất; Tạng là chỗ chứa.

Đất có tính chất cứng rắn, sâu dầy, dung chứa muôn loài. Hạt giống nào gieo xuống đất được chăm sóc, gặp duyên lành đều mọc thành cây, đâm hoa kết trái. Lấy đất dụ cho tâm con người nên mới có danh tự Tâm địa. Bởi vì đất khó đo lường được mức độ nông sâu nên tâm con người, cũng như đất, khó đoán được tầm mức nông sâu. Bởi Bản thể của tâm vô hình vô tướng, không đập phá nổi, nên đất cũng như tâm cứng rắn và trường tồn. Bởi tâm con người thiếu Từ bi, đầy tham vọng, vị kỷ, cũng như đất thiếu nước sẽ khô cằn, không gieo trồng gì được. Tâm như bầu thái hư, bao trùm tất cả, không vật gì ở ngoài tâm, tâm sinh ra vạn hữu, rồi vạn hữu lại trở về với tâm, cũng như mọi vật đều từ đất sinh ra rồi lại trở về với lòng đất nên tâm cũng như đất, Bất sanh, Bất diệt, rộng lớn vô lượng vô biên.

U Minh là tối tăm, hắc ám như lòng đất. Lấy cái tối tăm của Địa ngục để dụ cho cái đen tối vô minh trong lòng người mê muội. Mặt biển tuy rộng song không bằng bầu trời bao la. Bầu trời tuy mênh mông bát ngát song đã thấm gì với lòng người rộng lượng vô biên? Nhìn vào đâu mà thấy có ánh hào quang rực rỡ hay có bóng tối đen ngòm bằng nhìn vào lòng người thanh cao đạo đức hay nham hiểm thâm trầm?

Bản là gốc, ám chỉ nguồn gốc của muôn loài là đất hay tâm.

Tôn là kính trọng. Bản Tôn là vật đáng kính trọng, quý báu trong ta. Đó là tâm, phần quý giá nhất trong cơ thể của một sinh vật.

Như vậy về mặt Lý tánh thì Địa Tạng là danh từ chỉ cái gì cực kỳ tôn quý trong con người, có khả năng phá tan vô minh phiền não và Giải thoát con người ra khỏi Địa ngục hắc ám, thoát vòng khổ đau, dẫn con người từ địa vị phàm phu tiến tới nơi cao quý là nhập Niết bàn, thành Phật.

Danh từ Địa Tạng đồng nghĩa với danh từ Pháp Tạng (một ẩn danh của tâm), và Bồ tát Địa Tạng cũng chỉ là một cái tên ngụ ý như Pháp Tạng Tỳ kheo (tức Phật A Di Đà trong tiền kiếp) và Bồ tát Địa Tạng cũng như Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức) chỉ là những danh từ có tên không thực, tượng trưng cho tâm con người mà thôi.

Còn Địa ngục là gì? Theo Phật học đại Từ điển thì Địa ngục (tiếng Phạn là Naraka hay Niraya) có nghĩa là nơi chứa đầy khổ não, chốn tù đày chẳng lúc nào yên vui cần phải được thoát ly ra khỏi. Mà Địa ngục sâu kín nhất trần gian chính là Địa ngục thiết lập trong tâm hồn của mỗi cá thể. Đó là thứ Địa ngục khổ hơn mọi thứ Địa ngục và cũng xuất phát mọi quang cảnh khổ đau nơi trần gian. Khi ngọn lửa tâm tư bùng cháy trong mỗi cá nhân thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không sao dập tắt nổi. Bởi tâm trạng của thế giới loài người là phản ảnh trung thực của đời sống nội tâm và cộng nghiệp của nhân loại là tổng số các biệt nghiệp của từng cá nhân. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tùy thuộc vào sự biến đổi của tâm thức mỗi người và của toàn thể quần chúng. Khi đôi mắt đã đỏ ngầu cuồng vọng tham tàn thì cảnh vật bên ngoài sao không ngập tràn khói lửa? Nhìn tha nhân qua sương mù cách biệt, ảm đạm, thì sao thấy được cảnh đời lung linh màu sắc? Trái lại, nếu dùng con mắt Phật mà “từ nhãn thị chúng sinh” thì sao còn diễn ra cảnh đâm chém giết nhau trên chiến trường không thương xót? Đeo cặp kính màu đen thì cảnh vật hiện ra trong một màu ảm đạm. Nhìn thiên hạ qua cặp kính màu hồng thì cõi trần gian này hóa thành Tiên cảnh, Bồng lai.

- Kinh A Di Đà cũng như Kinh Địa Tạng chứa đựng một Chân lý: khuyên người đời nên trở về với Chân tâm, diệt trừ vô minh để hiển bày Tự Tánh Di Đà hay Phật tánh của mình. Với ý nghĩa trên thì Ngài Địa Tạng Bồ tát chỉ là một vị Bồ tát tiêu biểu cho những đức tánh kiên quyết mong đạt tới Chân tâm, bản tánh của mình. Đó là người đã dùng Trí tuệ Bát nhã và ý chí sắt đá muốn diệt trừ phiền não, phá tan hắc ám vô minh để trở về với tự tánh sáng suốt thanh tịnh của mình. Khi nào tâm ta buồn phiền, tuyệt vọng, bứt rứt, khổ đau, bị cuồng nộ vò xé, thì lúc đó ta đang sống trong Địa ngục tối đen. Sống trong Địa ngục vô gián là sống trong ngu muội, si mê triền miên, tâm bị đảo điên cuồng loạn. Người bị giam trong ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng ví như người bị tù đày trong Địa ngục thiết vi khó thoát.

- Kinh Địa Tạng nói: Trong việc cứu độ chúng sinh thì lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thâm trọng hơn cả bốn vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Di Lặc. Ý Kinh muốn nói: Muốn được Giải thoát khỏi khổ đau thì ngoài bốn đức tánh: Trí tuệ (của Ngài Văn Thù), Hạnh nguyện (của Phổ Hiền), Đại Bi (của Quan Âm) và Đại Từ (của Di Lặc), còn cần phải có lòng dũng cảm, cương quyết và tinh tiến (của Địa Tạng) với hạt minh châu và cây tích trượng trong tay tiêu biểu cho Trí sáng suốt và lòng dũng cảm, quyết tâm thoát cảnh vô minh, ra khỏi ràng buộc của lục dục, thất tình, để được tự do, hạnh phúc.

Trong đoạn kinh nói về Bồ tát Địa Tạng nhận lãnh trọng trách cứu vớt chúng sinh từ thời Đức Thích Ca Niết bàn đến thời Đức Di Lặc ra đời, ý Phật muốn nói: Gặp thời Mạt pháp, không có Phật tại thế thì phải nương tựa vào tâm mình. Quy y Bồ tát Địa Tạng của mình, mong được Giải thoát phải có đủ hai điều kiện là Thệ và Nguyện.

Thệ là thề cương quyết hành động, không rụt rè lùi bước trước mọi khó khăn cản trở, do nội ma và ngoại ma thử thách lòng mình. Nguyện là phải thiết tha mong đạt tới mục tiêu. Muốn được thoát nạn, khỏi khổ đau mà không thề với Lương tâm mình sẽ không tái phạm, lại chẳng cương quyết diệt trừ phiền não, vô minh thì không thể thành công được. “Nhất thiết duy tâm tạo” thì Cực lạc, Niết bàn hay Ta bà, Địa ngục đều ở tâm ta và do ta tự tạo cả. Những gì ta tạo được thì ta cũng phá được, do đó chỉ có Bồ tát Địa Tạng của mình (hay tâm ta) mới phá được Địa ngục do ta tạo ra, và chỉ có Phật A Di Đà của ta (hay tâm mình) mới dẫn ta tới miền Cực lạc được. Người theo về Lý bảo rằng: Nếu tin có Đức Địa Tạng và tin rằng Ngài có đủ khả năng phá tan Địa ngục để giải cứu cho chúng sinh có tội cũng như tin có Phật A Di Đà và tin luôn rằng Phật A Di Đà có thừa hùng lực dẫn dắt chúng sinh, dù nặng nghiệp về cõi Cực lạc Tây phương thì chẳng hóa ra luật Nhân quả Nghiệp báo lại chẳng có tác dụng sao? Nếu sinh thời mà con người tha hồ gây tội ác, rồi ỷ lại, sau khi chết đã có người sống bỏ tiền ra thiết lễ cầu siêu đọc tụng các bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng, nhờ oai lực của Bồ tát Địa Tạng phá tan cửa ngục thiết vi để cứu vớt vong linh kẻ có tội ấy thoát khỏi Địa ngục, rồi lại nhờ Tha lực hùng hậu của Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp dẫn vong linh kẻ đầy nghiệp ác ấy về cõi Cực lạc Tây phương, thì chẳng hóa ra các Ngài lại nhận sự lạy lục, cúng dường của thân nhân họ mà cứu vớt họ thoát khỏi ngục tù và cho họ hưởng hạnh phúc đời đời hay sao? Nếu muốn được Giác ngộ Giải thoát, diệt trừ vô minh để trở về với Chân tâm thanh tịnh của mình thì bất cứ bộ Kinh Phật nào liễu nghĩa dùng để tụng cũng đều công hiệu cả, nhưng dùng Kinh A Di Đà và Địa Tạng để mong Giải thoát khổ đau được kết quả hoàn toàn theo ý muốn của người sống thì khó đạt được lắm, bởi vì Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 7 có nói: Nếu thân nhân người quá cố biết cách cúng dường và tụng Kinh đúng phép thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được hưởng một phần, với điều kiện là thần thức của người chết biết hướng về Phật pháp, ăn năn sám hối, có Tín tâm sâu xa, nghĩa là Tha lực phải cộng với Tự lực mới mong được cứu vớt. Ta nên biết rằng trong lúc ta nằm mộng khi còn sống, hay thời gian sau khi chết, còn ở trong thân trung ấm, thần thức chưa đi đầu thai kiếp khác thì Tiềm thức trở thành Thức và lúc đó là thời gian quyết định cho cuộc đời sau của mình. Nếu trong đời vừa qua ta làm được nhiều việc thiện thì Tiềm thức tạo ra những giấc mơ êm đềm đưa hồn ta vào cõi Niết bàn tưởng tượng, nhưng nếu trong cõi đời qua, ta lại làm nhiều điều ác thì sẽ có những giấc mộng hãi hùng đưa hồn ta tới Địa ngục tưởng tượng để phải chịu cực hình. Song nếu Niết bàn hay Địa ngục chỉ là những nơi tưởng tượng thì sự khổ đau, sợ hãi hay sung sướng, mừng vui trải qua trong thời gian đó, đối với người trong cuộc lại là sự thực, cũng như lúc thôi miên, Pháp sư tạo ra những cảnh vui buồn, sướng khổ tưởng tượng, song kẻ bị thôi miên lại cảm thấy thật sự có buồn vui, sướng khổ trong cơn hôn mê, chẳng khác nào kẻ bị mê sảng phải chịu cực hình trong cơn ác mộng vậy. Những hành động thiện hay ác đều để lại trong A lại da thức hay Tiềm thức những tấm âm bản (Plaque négative) hay hạt giống để hiện hình trong kiếp sau như những tấm âm bản trở thành dương bản trong cuốn phim ảnh được chiếu ra.

Như vậy thì sướng hay khổ, Cực lạc hay Ta bà đều do tâm tạo, và Đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát Địa Tạng cũng do tâm ta tạo ra mà thôi. Ta không làm điều ác chẳng phải vì lo sợ Trời, Phật bắt tội, phải chịu hình phạt đọa Địa ngục. Ta phải hiểu rằng chính bản thân ta phải trả giá đắt vì những hành vi phạm tội của mình.

Khi ta làm điều thiện thì gây được quả báo tốt lành cho mình được hưởng, dù ta không lưu tâm đến việc thiện đó. Cũng chẳng phải là Phật, Trời đã ban phúc cho ta khi ta làm điều lành. Chính ta tự ban thưởng cho mình nếu ta làm được điều thiện. Nghiệp báo là mối quan hệ theo luật Nhân quả và biểu hiện cho hai phương diện: hoạt động tâm lý và hưởng thụ họa phúc. Người tạo nghiệp lành làm cho mình thành người tốt và tự cảm thấy mình được hạnh phúc do việc làm của mình gây ra, còn người tạo nghiệp ác thì trái lại.

- Nếu hiểu rõ lý “Nhất thiết duy tâm tạo” thì ta quyết phải thực hiện lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, dù việc làm của ta không ai chứng kiến, ta cũng cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác. Ta chẳng quan tâm, lo buồn vì đại nghĩa chưa thành, và quả tu chưa viên mãn tới lúc lâm chung. Hoặc nếu ta đã trót gây nghiệp ác lúc sinh thời thì ta cũng chẳng nên nghĩ rằng chết là hết, bởi lẽ bánh xe Nhân quả Nghiệp báo vẫn âm thầm lăn đều qua không gian và thời gian.

Kính thưa quý vị,

Trong phần bình luận về Kinh Địa Tạng ở trên, tôi đã đưa ra những ý kiến khách quan và tương phản của hai phái: một bên thiên về Sư tướng, tin có Bồ tát Địa Tạng bằng thịt, bằng xương; một bên thiên về Lý tánh, cho rằng vị Bồ tát ấy tượng trưng cho tâm con người muốn tích cực thoát ly đau khổ, diệt trừ vọng niệm để trở về nguồn thanh tịnh của bản tâm hồi nguyên thủy. Cả hai phái đó đều lấy Kinh Địa Tạng làm căn bản để biện minh cho lập trường của mình. Một bên theo nghĩa đen, một bên theo nghĩa bóng; một bên theo Sư tướng hay pháp Hữu vi, một bên theo Không tánh hay pháp Vô vi; một bên hướng ngoại cầu Tha lực, nặng về lễ bái, tín ngưỡng (như phái Sự trì danh của tông Tịnh độ thuần túy), một bên thì xoay ngược luồng nhãn quan, hướng nội, nương vào Tự lực, quán chiếu tự tâm, hay “Minh tâm Kiến tánh” (như phái Lý trì danh hiệu Phật của Thiền Tịnh song tu); một bên tu theo Phúc, một bên tu theo Tuệ, nhưng Tánh Tướng vốn Bất nhị, Lý Sự vốn không hai, bên nào cũng làm theo lời Phật dạy cả. Bởi vậy, người tu, tùy theo tình cảm và trình độ của mình mà chọn lối tu, không nên bài bác lẫn nhau. Tốt hơn hết là nên theo cả lối tu Phúc lẫn tu Tuệ, luyện cả Bi lẫn Trí, chẳng nên bám chặt vào Có hoặc Không. Theo về Sự hay tu Phúc thì được quả báo tốt lành, được sinh về Cõi Tây phương Cực lạc, tiếp tục đường tu, không sợ chướng ngại làm cho tâm thoái chuyển. Cho nên những vị Đại Bồ tát như Di Lặc, Nhất sinh bổ xứ, tuy đã ngộ được tâm thanh tịnh rồi, nhưng vẫn tiếp tục hành trì tu Phúc, chuyên cần niệm Phật A Di Đà, cầu được vãng sinh Tịnh độ, không bỏ lỡ cơ hội nào chẳng lập đức bồi công, sáu thời siêng năng sám hối để tiêu trừ sạch nghiệp chướng tế vi cho mau chóng đạt tới ngôi Chánh đẳng, Chánh giác, đủ cho chúng ta thấy không thể bỏ Sự mà thuần theo về Lý được.

Với công đức thậm thâm vi diệu của sáu chữ hồng danh, cộng với sự tinh tiến hành trì thì mỗi câu niệm Phật diệt được một phần vô minh, trừ được một phần phiền não, hưởng được hai phần Phúc - Trí, lần lần hành giả đi sâu thêm vào cảnh giới thanh tịnh Chân như.


Chương 10: Mối Liên Hệ Giữa Tịnh,Thiền Và Duy Thức.

Tu Tịnh độ (thuần túy) là hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới Niết bàn Tịnh độ. Tu Thiền là hướng về nội tâm, hành Pháp tánh, dựa vào Tự lực, quán sát tự tánh để diệt trừ chúng sinh tánh trong lòng mình, mong cho tâm tỏ ngộ.

Nếu Tịnh độ chủ trương Tin là tất cả, và tình cảm là then chốt, thì Thiền nhấn mạnh vào điểm “Thấy” (Kiến) bằng trực giác tâm linh, và quen dùng khối óc hơn là con tim.

So sánh hai Pháp môn Thiền và Tịnh, ta thấy Pháp môn Tịnh độ với phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà thật là thuận tiện, giản dị, dễ tu, nhờ được Tha lực gia hộ nên ít bị chướng ngại, dù có gặp chướng ngại cũng dễ dẹp tan.

Còn tu Thiền, cậy vào sức mình, thường gặp nhiều cam go thử thách, chẳng hạn phải suy nghĩ nát óc để tìm giải đáp cho một câu thoại đầu hay công án bí hiểm, phải mất hàng tháng hàng năm ấp ủ canh cánh bên lòng, mà chẳng thấy tia sáng Chân lý đâu cả. Bởi thế nên có câu: “Khô mộc đường Thiền thác lộ đa.” Y nói tu Thiền cậy vào Tự lực thường gặp nhiều nỗi nguy nan, trong khi tham công án hoặc quán thoại đầu thường bị mất ăn, bỏ ngủ, tinh thần căng thẳng, xác thân khô đét như cây khô mộc, gặp phải nhiều chướng ngại khó vượt qua.

- Nhưng nếu bảo Thiền chỉ dựa vào Tự lực mà Tịnh độ tông hoàn toàn dựa vào Tha lực là vô tình đã đánh giá thấp Pháp môn Tịnh độ bởi đã bỏ quên một yếu tố quan trọng của Pháp môn Trì danh hiệu Phật, là ý chí sắt đá của hành giả để mong tiến tới đích. Đáng lẽ phải nói: Tịnh độ tông nhờ vào ý chí cương quyết của người tu trong việc Trì danh hiệu Phật tới chỗ “nhất tâm bất loạn”, tức là trông vào quyết tâm của mình để diệt vọng quy chân, lại còn được nhờ vào năng lực hộ trì của chư Phật và Long Thần hộ pháp mới được sinh về cõi Cực lạc Tây phương. Như vậy thì ngoài Tự lực của hành giả vốn có hạn, lại còn được nhờ vào Tha lực vô biên của Phật và Thánh chúng nữa thì lo gì mà chẳng thấy được bản tánh Chân tâm của mình?

Pháp tướng dễ hành trì nhưng tiến chậm. Pháp tánh khó tu hơn, lại đòi hỏi phải có lợi căn, nhưng tiến mau hơn. Tuy nhiên tới chỗ cùng đường thì hai bên lại gặp nhau ở chỗ Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại.

- Tịnh và Thiền, bề ngoài dường như mâu thuẫn song bề trong đã đồng nhất trong sai biệt, để dung hòa hiện thực với siêu nhiên. Nếu Thiền là lắng đọng tư duy, và Định là tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn Chánh niệm để duy trì thường trực tánh năng biết nhiệm mầu hay tri kiến của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền định, vì hành giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định. Người tu không duyên theo vang bóng của việc đã qua, không lo nghĩ về hoàn cảnh hiện tại, cũng chẳng mơ tưởng đến việc vị lai: đó là Thiền. Người tu lía sắc tướng và chuyên cần Trì danh hiệu Phật: đó là Định. Hiểu biết các căn, trần, và thân khẩu ý của mình đều trong sạch, đêm ngày hướng về cõi Phật, và lúc nào cũng ý thức được công việc mình đang làm: đó là Thiền Định. Nếu Thiền Định là phương pháp nhiệm mầu để thoát lý mối tương quan Tâm - Cảnh, siêu lên ý niệm Nhị nguyên để đạt tới tâm điểm của Thực tại Nhất nguyên, thì niệm Phật cũng là phương pháp đễ dẫn tới Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, thoát ly sự phân chia chủ khách, ra khỏi sự khuấy động của tạp niệm để tới chỗ Chánh niệm, Chánh định và đạt lý Nhất nguyên, Bất nhị.

- Niệm Phật với tâm vô niệm cũng giống như Tham thiền nhập Định để thể nhập vào tự tánh thanh tịnh của mình, hòa tan vào Bản thể của Vũ trụ. Như vậy tu Tịnh nghiệp cũng gồm đủ cả Giới Định Tuệ, Văn Tư Tu, và Thiền Tịnh nào có khác gì nhau? Do đó, người tu Tịnh nghiệp đương nhiên hành cả pháp Thiền hay thực hiện cùng một lúc Pháp môn Thiền Tịnh song tu. Ngày đêm, trong bốn oai nghi, hành giả niệm Phật trong lúc đi, niệm Phật trong lúc đứng, lúc ngồi, lúc nằm, biết rõ lúc nào mình cũng đang niệm Phật. Hành giả ý thức rõ ràng công việc mình đang làm, bất cứ lúc nào, như vậy hành giả đã thực hiện công phu Thiền ở mức độ cao vậy.

 - Xét trong Phật giáo Tiểu thừa có phép tu Tứ Niệm Xứ (Sattipattana) mà niệm Phật với Niệm Xứ khác gì nhau? Thiền (tối thượng thừa) của Trung Quốc, so với Tứ Niệm Xứ của Ấn Độ và phép Niệm Phật giống nhau về mặt lý thuyết. Kinh A Di Đà nói đến bốn cảnh miền Cực lạc thì trong Thiền cũng có bốn cảnh của Thiền. Tịnh độ dạy Niệm Phật với “nhất tâm bất loạn”, chẳng khác nào người ngồi Thiền ở trong đại định. Thiền có Định của Thiền thì Tịnh cũng có Định của Tịnh. Chỗ “nhất tâm bất loạn” của Tịnh so với “Nhất hạnh Tam muội” của Thiền, nào có khác gì nhau?

Mục 6: Nghi Vấn Về Mâu Thuẫn Giữa Tịnh Với Thiền.

Có nhiều nghi vấn giữa Tịnh độ tông và Thiền tông cần được soi sáng để phá bỏ những chỗ mờ ám tối tăm:

1. Thiền tông cho rằng: Niệm Phật là có tướng hữu vi. Muốn đạt tới Vô tướng, Vô vi của Chân tâm, Thể tánh, không thể dùng lối niệm Phật được.

 - Để trả lời câu chỉ trích trên, phái Tịnh độ cho rằng: Thiền sư khi ngồi Thiền, lúc tham thoại đầu hay giảng pháp đều không ở trong cảnh Hữu vi sao? Nếu cho rằng Vô vi là làm những việc hữu vi mà không lưu ý đến việc mình làm thì Vô niệm cũng vậy, vì Vô niệm xuất phát từ đáy lòng mình, không từ căn trần hữu lậu. Vô là Thể của Niệm. Niệm là Dụng của Vô. Người đạt tới công phu, Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, thì đã tới được chỗ Niệm Vô vi rồi. Khi ấy người niệm Phật thấy mọi pháp mà không bị nhiễm tướng của các pháp bởi vì hành giả đã lấy Tuệ Bát nhã chiếu soi. Niệm trước, niệm sau cứ mặc chúng tự nhiên lui tới. Ác niệm đến thì tự tiêu. Thiện niệm đến thì hành động, làm xong lại xả: Hành giả ở trong trạng thái Chân tâm, như bóng soi gương mà chẳng dính vào mặt gương nên không tạo ô nhiễm. Niệm mà như không niệm, không niệm mà vẫn niệm, như thế gọi là Vô niệm. Khi nói “Niệm - Vô niệm”, người ta đã dùng cái Không để vô hiệu hóa cái Hữu, nhưng khi nói “Vô niệm - Niệm” người ta đã dùng cái Bất Không để vô hiệu hóa cái Không. Hành động Niệm được Không hóa bằng Vô niệm. Đến lượt Vô niệm lại bị phá hủy bằng Bất Không (tức Hữu niệm) để cho lý Bất nhị hay Trung đạo, hoặc “Chân không Diệu hữu” tỏ bày. Đó là Vô Tâm mà Niêm. Niệm Vô Tâm không mong cầu gì cả thì Sự Lý viên dung, Năng Sở hợp nhất, một tấm gương phản ảnh vào một tấm gương, Chủ thể nhập vào đối tượng, nhạc sĩ nhập vào cây đàn, họa sĩ nhập vào bút vẽ, thi sĩ nhập vào nguồn thơ, người niệm Phật nhập vào Đức Phật của mình. Niệm như thế gọi là “Vô niệm - Niệm, Niệm - Vô Niệm”, chứ chẳng phải tuyệt đối bỏ hẳn ngôn ngữ, hành động, sống như khúc gỗ, tảng đá vô tri mới là Vô niệm. Niệm - Vô niệm là đi sâu vào thế giới tâm linh Vô sai biệt và Vô phân biệt mà không qua cửa ải phân biệt Niệm với Không niệm, tức là không chặt đứt mối dây liên hệ với đời sống hàng ngày của mình. Niệm như vậy còn có ý nghĩa là niệm mà không dụng công, niệm một cách tự nhiên, như mây bay gió cuốn, hữu vi một cách vô vi, và vô vi một cách hữu vi, cho nên không tác động vào Bản thể tự nhiên vốn bất động. Vì không còn tướng niệm nên không cần dụng công diệt trừ Tà niệm và nuôi dưỡng Chánh niệm. Ta đã thanh tịnh trong suốt như gương thì tâm không ngại cảnh, cảnh chẳng ngại tâm, sự sự đều vô ngại, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đó là diệu dụng của tâm Bồ đề. Cũng như Hành - Vô hành, hay Hành vô biệt niệm thì tâm không phân biệt, không gây Nhân quả vô diệt Vô sanh, thể nhập vào hiện tiền, cắt đứt được tư duy, do đó phá được cái Ta, và hòa đồng Khách Chủ vào Chân Thể của sự vật.

2. Có người lại đặt nghi vấn:

Muốn thấy tướng Vô tướng của các pháp, phải dùng Vô tướng, Vô niệm, nhưng Pháp môn Tịnh độ lại dùng lối Hữu tướng, Hữu hình, để đạt tới chỗ có hình tướng là cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà, như thế phỏng có trái lý Thực tướng Vô tướng của các pháp chăng? Bởi vì Chân tánh thì Vô tướng, mà đã Hữu tướng, hữu hình thì không thể là Chân tánh được. Lấy cái hữu hình thì nắm bắt sao được cái vô hình tướng? Hình ảnh viên ngọc tươi thắm trên núi lửa và bông sen nở trên đống than hồng là những hình ảnh mô tả sự nhiệm mầu của Chân tâm chỉ đạt tới do một tâm trạng vô tướng, vô tác, vô đắc, vô cầu, bởi thế mà Thiền tông đã dùng bài thơ sau đây để chỉ cái khó đạt được của Chân tâm Pháp tánh, nếu dùng lối hữu tướng hữu niệm của phái Tịnh độ tông:

Diệu tánh hư vô bất khả phân.

Hư vô tâm ngộ, đắc hà nan?

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị can.

Dịch:

Chân tánh hư vô khó đến nơi

Hư tâm mới đạt tới mà thôi.

Trên núi ngọc thiêu mầu còn nhuận

Trong lò sen nở sắc thường tươi.

- Xin thưa: Pháp môn Tịnh độ dẫn vào phương pháp niệm Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, tự nó không thể đưa thẳng chúng sinh đến chỗ chứng được trực tiếp thực tướng “Không” nhưng nó lại có công năng dẫn chúng sinh đến cõi Tịnh độ, ở đó có hoàn cảnh thuận lợi để đưa tới chỗ chứng được thực tướng “Không” một cách dễ dàng, bởi vì ở thế giới Cực lạc Tây phương, chúng sinh chung sống với các bậc Hiền Thánh trong một môi trường lý tưởng cộng nghiệp tốt lành, có đủ phương tiện để học hỏi giáo lý Không và thành tựu được Phật đạo một cách chắc chắn.

3. Một nghi vấn nữa được nêu lên ở đây là nguyện vọng của người tu Tịnh độ được vãng sinh Cực lạc quốc, so với nguyện vọng của pháp tu Thiền để được thành Phật có khác nhau không?

Thoạt nghe ai cũng tưởng rằng mục tiêu của phái tu Tịnh độ thua kém phái tu Thiền, nhưng xét kỹ ta lại thấy Pháp môn Tịnh độ là nơi mà người tu theo bất cứ Pháp môn nào cũng đều phải ghé qua trước khi đặt bước vào tòa nhà Như Lai. Nếu chưa được vãng sinh về cõi Tịnh độ thì chưa đạt được tâm Không, còn mang nặng ưu tư phiền muộn thì tâm chưa Định, đó là ý nghĩa của bốn chữ “Vãng sinh Tịnh độ.” Tâm còn mang nặng sắc, tài, danh, lợi, tham luyến nhiễm ô thì mong gì được thành Phật? Như vậy ta đã thấy rõ chủ đích của Pháp môn Tịnh độ là rũ sạch tà niệm để tâm được trong sáng và định ở chỗ sáng đó. Hễ có Định là có Tuệ và đây là cái mà kinh nói: “Hoa khai kiến Phật tức văn Phật thừa, đốn khai Phật tuệ….” Thấy Phật là thấy được Chân tâm bản tánh, chuyển được Bát thức thành Tứ Trí, đổi được ba độc tham, sân, si thành ba pháp Giải thoát Giới, Định, Tuệ và thắng được sáu tên giặc (lục căn hay lục thức) buộc nó phải hàng phục sáu pháp Lục độ, như vậy Tịnh nào có thua kém gì Thiền?

4. Lại có người cho rằng: Tịnh độ tông đặt niềm tin vào Tha lực, lấy đó làm điểm tựa cần thiết cho việc siêu sinh. Thoạt nghe, ta thấy Tịnh độ giống như Thiên Chúa giáo chỉ tin tưởng vào sự cứu rỗi của Chúa mà không tự tin ở sức của mình, nhưng xét kỹ, ta lại thấy không đúng như vậy, bởi vì tuy ở Pháp môn Tịnh độ, người Phật tử phải tin vào Tha lực của Phật A Di Đà nhưng vẫn phải nỗ lực niệm Phật đêm ngày mới tới được chỗ “nhất tâm bất loạn.” Ngoài ra hành giả còn phải tạo thêm nhiều phúc đức nhân duyên nữa, nhất là trong lúc lâm chung phải giữ sao cho “thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào Thiền định” mới mong được vãng sinh. Như vậy thì người niệm Phật tới mức độ ấy khác hẳn tín đồ bên Thiên Chúa giáo chỉ thuần ỷ lại vào ân sủng của Chúa để được đưa lên Thiên đường. Người tu Tịnh nghiệp ở trong trạng thái ấy cũng giống như Tham thiền trong Chánh định. Có khác chăng chỉ ở mức độ cao thấp mà thôi.

Theo kinh Hoa Nghiêm thì giữa Thiền và Tịnh, Lý và Sự, Tri và Hành vẫn có mối dây liên hệ mật thiết theo lý: Lý Sự và Sự Sự vô ngại Pháp giới. Thiền tông và Tịnh độ tông cùng chung một mục tiêu: đưa hành giả vào trạng thái đại Định để phát sinh Tuệ giác. Việc tiếp dẫn của Phật A Di Đà về cõi Tây phương Cực lạc được coi như một chiếc cầu bắc ngang nối liền tâm linh của hành giả với Chân như Pháp giới, tức là nối liền Tuệ giác siêu thoát của người tu với cái tâm đại đồng của Vũ trụ. Đó là một thứ liên giác thể nhập, và với ý đó thì Thiền, Tịnh vốn cùng chung một điểm là phá chấp Ngã và chấp Pháp. Thiền tông và Tịnh độ tông không hề mâu thuẫn, một khi cả hai tông đó đều cùng nhằm đạt tới Phật tánh, Chân tâm, một phái bằng lối niệm Phật với “nhất tâm bất loạn”, một phái bằng lối nhập định Tam muội. Giây phút đột biến đạt đạo của Thiền Tịnh song tu, thấy Niết bàn, Tịnh độ ở tại tâm, ngay tại đây và ngay trong lúc này. Mối dây liên lạc giữa hai tông ngày càng được thắt chặt một cách cụ thể trên thực tế, bằng chứng là có những ngôi chùa mệnh danh là Thiền Tịnh Đạo tràng, ở đó có nhiều vị Thiền sư chuyên cần niệm Phật A Di Đà và quán tưởng cõi Tây phương Cực lạc để mong cầu được vãng sinh. Với Pháp môn Tịnh độ lúc nào cũng làm chủ được tâm mình, và lúc nào cũng quan sát thiện ác chính tà, trong bốn oai nghi, lúc nào cũng niệm Phật thì sáu chữ hồng danh nhắc nhở hành giả phải làm việc thiện, giữ tâm thanh tịnh, không để Căn, Trần, Thức dấy lên, và ba nghiệp thân, khẩu, ý được trong sạch thì chừng đó tâm định sẽ sinh tuệ. Như vậy thì người Tịnh nghiệp sống sáu thời trong cảnh Thiền định, chứ chẳng phải chỉ ngồi Thiền trong chốc lát ở một nơi mà thôi.

Trong chốn tấp nập xôn xao, chung sống với đủ mọi hạng người mà vẫn niệm Phật. Tâm không dao động thì hành giả thực hiện được lối tu Thiền cao tột vậy. Nếu quan sát thật kỹ, thì trong Pháp môn Tịnh độ bộ Kinh A Di Đà dạy phương pháp Trì danh niệm Phật nghiêng về Sư tướng, như bộ Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại dạy 16 phép quán, nghiêng về Lý tánh. Với phương pháp thực nghiệm tâm linh, quán tưởng Phật A Di Đà cùng cõi Tây phương Cực lạc và niệm hồng danh Phật, thì Pháp môn Tịnh độ, theo dòng Quán Niệm của Tổ Tuệ Viễn gồm cả Thiền lẫn Tịnh, có đủ cả hai lối tu Đốn và Tiệm. Mục đích của Thiền là soi sáng ý nghĩa của sự sống, còn mục đích của Tịnh là thanh toán vấn đề Sinh tử, hai bên bổ túc cho nhau. Thiền thì chủ trương nhìn thẳng vào tâm mình để nhận thấy tánh mình là tánh Phật, trong khi Tịnh độ tông lại nhằm tới cõi Tịnh độ (vốn là tâm mình) cũng để thấy rõ tánh mình là tánh Phật A Di Đà, cho nên Hư Vân Đại sư mới nói: Tịnh độ tông tức Thiền tông không khác, vì cả hai đều cùng chung một mục đích là thanh tịnh hóa tâm con người. Chỉ vì sau người đời quen thói phân biệt nên mới lấy niệm Phật làm Tịnh, và chấp Thiền định là Thiền, gây nên chia rẽ, chứ xưa kia Đức Phật Thích Ca đắc đạo có phân chia ra Thiền với Tịnh như ngày nay đâu? Để bày tỏ lý Thiền và Tịnh tuy hai mà một, Tây Trai Lão Hòa thượng mới để lại bài thơ sau đây:

Tức tâm là Phật, lý không ngoa.

Tịnh khác Thiền đâu vẫn một nhà.

Sắc hiển trang nghiêm mầu Diệu hữu

Không kiêm vô ngại cõi hằng sa.

Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc,

Biển giác bao la đức hải hà,

Ngoảnh lại đường tu ai sớm tỉnh.

Nỗi thương ác đạo mãi vào ra.

- Thiền tông và Tịnh độ tông không có Pháp môn nào cao thấp, hơn kém, nhưng về căn cơ thì Thiền tông có lợi cho hàng thượng căn, còn Tịnh độ tông lại nhiếp đủ mọi hạng người. Thiền tông không phổ cập đại chúng bằng Tịnh độ tông, nhất là trong thời đại ngày nay, tinh thần đạo đức của nhân loại sa sút, và số người hiểu rõ về Triết lý cao siêu của đạo Phật còn rất hiếm, cho nên muốn đạt tới chính quả, hiện nay cần nên theo con đường Tịnh nghiệp mới mong khỏi sa đọa.

- Cùng một Pháp môn Tịnh độ mà ngày xưa được trọng thị hơn ngày nay chỉ vì bên cạnh Tịnh độ tông còn có Thiền tông. Hai Pháp môn này, trong quá khứ đều song song phát triển. Nhiều vị cao Tăng đã theo Thiền Tịnh song tu và hiểu rõ lý niệm Phật, thấy được Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ và nhìn nhận rằng trong Pháp môn này có Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại. Tiếc rằng đến nay Thiền tông gần như bị thất truyền đường lối vào cửa Thiền chỉ có một thiểu số cao Tăng có thực tu, thực chứng lý Không, ẩn náu nơi rừng thẳm non cao, lánh cư ở những nơi khuất tịch, không gây được ảnh hưởng sâu đậm trực tiếp trong quần chúng cho nên Pháp môn Tịnh độ thuần túy mà vắng bóng Thiền, với lối Trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh Tịnh độ trở thành một lối tu của đại chúng, phần đông gồm những người ít học, già nua, ốm yếu, không tự tin, quen ỷ lại chẳng biết rằng trong mỗi chúng sinh đều có viên ngọc quý vô giá là Phật tánh, Chân tâm và với bảo bối đó thì cầu gì chẳng được? Do đó, số đông Phật tử ngày nay tu theo Pháp môn Tịnh độ mà chẳng hiểu lý thâm sâu của pháp vô lượng nghĩa này, một pháp khó hiểu, khó nói như lời Phật đã dạy. Muốn cho Pháp môn Tịnh độ lấy lại được phong độ xưa thì ngày nay đành phải dựa vào Pháp tướng Duy thức học vậy. Căn cơ của người bình dân Việt Nam thời nay chưa thích hợp với Pháp môn nào khác ngoài Pháp môn Tịnh độ và muốn cho người căn cơ từ bậc trung trở xuống thông hiểu được sự mầu nhiệm và ý nghĩa thâm sâu của Pháp môn này thì không gì hơn là giải bày cho họ hiểu về thuyết huân sinh, huân trưởng và cộng nghiệp, biệt nghiệp của Duy thức học.

- Vũ trụ quan của Phật giáo theo Pháp môn Duy thức được thiết lập trên nền tảng tự biến và cộng biến. Mỗi người sống trong một hoàn cảnh hay thế giới hiện tượng riêng gọi là thế giới Đới chất cảnh được nhận thức bằng giác quan riêng của từng cá nhân. Ngoài thế giới Đới chất cảnh còn có một thế giới Tánh cảnh, làm bản chất cho cái thế giới Đới chất cảnh của từng người và đó là thế giới của Thực tại tự thân, do Cộng nghiệp của chúng sinh thành lập. Mỗi cá nhân có một nghiệp lực riêng tạo ra hoàn cảnh của chúng sinh sống hay thế giới Y báo hoặc Tổng báo của chúng sinh ấy, và thân mạng hay Chánh báo của y. Hoàn cảnh và thân mạng ấy tiêu hoại đi, khi một giai đoạn sinh mệnh kết thúc, nhưng cái nghiệp lực kia vẫn còn cái đà tồn tại (élan vital) và phát sinh ra một giai đoạn sinh mệnh mới, gồm một căn thân mới sinh hoạt trong một Cộng nghiệp mới. Cái vòng Sinh tử tiếp nối triền miên ấy gọi là Luân hồi. Thế giới bản chất Tánh cảnh hàm chứa trong Thức A lại da của mỗi chúng sinh, gồm có đủ cả phần Tánh cảnh (hay thế giới Thực tại trung thực) và phần Đới chất cảnh (hay thế giới méo mó của Thực tại biến đổi theo sự sai biệt của từng cá nhân). Thức A lại da có tác dụng chấp trì sinh mệnh và chứa đựng tất cả những hiện tượng thực chất, cũng như những ảnh hưởng biến chất không để rơi mất. Thế giới Tánh cảnh ấy do A lại da thức của nhiều chúng sinh trong cộng đồng phát hiện, trong đó có phần phát hiện chung gọi là Cộng biến, và phần phát hiện riêng gọi là Tự biến. Xã hội của loài người là một hình thức Cộng biến do Thức A lại da của tất cả cá nhân trong tập thể tác động sinh khởi, hay do hoạt động (hoặc nghiệp lực về thân khẩu ý) của các cá nhân trong xã hội đó tạo ra. Xã hội (hay môi trường sinh hoạt) là Cộng biến, còn hoàn cảnh hay số phận riêng của từng người trong tập thể, do nghiệp riêng của mình trong tập thể tạo ra là Tự biến. Trong Cộng biến có Tự biến và trong Tự biến có Cộng biến. Mỗi cá nhân trong đoàn thể tuy cùng hưởng những quyền lợi về chế độ xã hội như nhau nhưng vì mỗi người có biệt nghiệp riêng và ý chí tự do khác nhau, hành động và suy nghĩ khác nhau, nên đã tự tạo cho mình những hoàn cảnh không giống người khác, kẻ sướng, người khổ chẳng đồng đều.

- Pháp môn Duy thức là một phương pháp đi từ Tướng vào Tánh, từ Sự đến Lý, một môn học phân tích tâm lý tỉ mỉ, nói rõ Sinh tử, Nghiệp báo, một môn học nghiêng về suy luận và lý trí. Hiểu được học thuyết Duy thức, ta thấy rõ tầm quan trọng của việc niệm Phật cầu vãng sinh, một công việc huân sinh, huân tập bằng hình ảnh và âm thanh (phương pháp nghe nhìn) nhằm gieo những chủng tử Phật cực giác và cực lành vào A lại da thức, và tác dụng của A lại da đối với 7 thức kia, do đó mới nhận thấy rõ sự thần diệu của việc niệm Phật là thanh tịnh hóa dần dần tâm con người. Bằng phương pháp niệm danh hiệu Phật, ta ngăn chặn không cho những chủng tử hữu lậu thuận lợi cho vô minh tà kiến nảy nở, để chúng không được hiện hành tác hại nữa, và nhường chỗ cho những chủng tử vô lậu, vị tha, Từ bi hỷ xả được sinh trưởng tiếp nối. Chủng tử có thể hoặc tồn tại, biến chuyển hay tiêu diệt. Chúng hiện hành để tạo nên những chủng tử mới biến chuyển từng sát na. Bởi A lại da thức là tổng thể của mọi chủng tử, và chính A lại da thức cũng luôn luôn biến chuyển theo luật Hằng Chuyển, cho nên bằng phương pháp niệm Phật, ta có thể làm cho A lại da thức khỏi bị nhiễm ô, và trang bị cho nó những hạt giống thanh tịnh, đưa nó tới giai đoạn chỉ còn thuần những chủng tử vô cấu, có cơ hội biến hành và tham dự vào một cộng nghiệp tốt lành. Đó là nguyên lý của công phu niệm Phật cầu vãng sinh để biến đổi biệt nghiệp và cộng nghiệp, hay đạt tới Chân tâm, Phật tánh của mình, và mong chuyển biến cõi Ta bà thành nơi Tịnh độ.

- Nghiệp có thể Thiện, Ác hoặc Vô ký và mang tính cách cá nhân hay tập thể. Cũng bởi biệt nghiệp của từng cá nhân có mối tương quan mật thiết với cộng nghiệp của xã hội, cho nên mỗi hành động, ý nghĩ, tư tưởng của cá nhân gây hậu quả cho xã hội, cũng như những quyết định của xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cá nhân. Đóng vai trò trọng yếu cho sự tạo nghiệp là ý thức tự do của con người. Sự quán chiếu tự tâm và sự luyện tập những hình ảnh và âm thanh vào Ý thức và Mạt na thức, tạo nên những động lực có tác dụng chuyển biến tận gốc các Thức ấy trong căn để của A lại da thức, ở nơi tận cùng thâm sâu, trong Vô Thức của hành giả. Một ngày nào đó, bằng quán tưởng và niệm Phật, sự chuyển biến phát hiện, và khi ấy thì những chủng tử Phật tiềm tàng lu mờ từ lâu, dưới danh nghĩa là Tùy miên, bỗng trở thành rõ nét, và thành hình Phật trong sáng nơi tâm của hành giả đột nhiên bừng Giác ngộ, biến đổi tâm Thức thành bốn Trí hay chuyển được A lại da thức thành Đại Viên Cảnh Trí để tự tách ra khỏi khối Cộng nghiệp Luân hồi Sinh tử. Sức mạnh khiến cho mặt nước Chân như yên lặng bỗng nhiên nổi sóng gió, A lại da thức là những tác động vô thức của bản năng sinh tồn, lôi cuốn con người vào bóng tối vô minh, tạo nghiệp bất thiện. Bản năng sinh tồn ấy chính là các khuynh hướng âm thầm chấp ngã, chấp pháp, nhiễm đấy tính chất ích kỷ, mê mờ, do Mạt na thức gây ra từ khi con người mới sinh ra đời. Càng tạo nghiệp xấu bao nhiêu thì Dục vọng càng nảy nở và ngã ái, ngã kiến, ngã chấp, ngã si… càng bành trướng hoành hành. Chống lại sức mạnh mù quáng đó là Ý chí Tự do Sáng suốt, tạo điều kiện cho những chuyển biến hướng nội, về mục tiêu Chân, Thiện, Mỹ để được Giải thoát.

Trong Bát Thức Tâm vương chỉ duy có Ý thức (thức thứ 6) là có khả năng tự do hoạt động, không bị nghiệp lực ràng buộc. Trái lại, nó còn có thể hoán cải được nghiệp nữa. Tùy theo nghiệp tốt hay xấu mà phạm vi hoạt động của ý thức hay ý chí tự do rộng hẹp khác nhau. Người mang nghiệp quá nặng nề xấu xa, sống trong một cộng nghiệp (môi trường) có nhiều nghịch cảnh, lại phải mang một tấm thân đần độn, ngu si, bị vô minh bịt kín ánh sáng Chân lý do đó cũng ít có ý chí tự do. Ý chí tự do này tác động trên biệt nghiệp dễ hơn trên cộng nghiệp. Trên đường dẫn tới Giải thoát, càng lên cao bao nhiêu, con người lại càng thoát ly được những cộng nghiệp xấu xa, hạn chế bớt ý chí tự do, và càng tiến đến những môi trường (cộng nghiệp) được hưởng một chế độ tự do rộng rãi hơn thì ý chí tự do được phát triển dễ dàng hơn. Sống trong cộng nghiệp con người không thể thay đổi được những định luật của thế giới cộng nghiệp, tuy nhiên vẫn có thể dùng những phương tiện thích nghi để tăng trưởng thiện nghiệp, tiêu trừ ác nghiệp riêng, do đó mà tuy cùng sống chung trong một nghịch cảnh nhưng nếu biết tu Tịnh nghiệp thì ít bị chi phối bởi môi trường chung mà vẫn được hưởng quả báo của một biệt nghiệp tốt lành hơn, so với những người cùng cảnh ngộ.

- Trên lập trường Tứ Đế thì Khổ Đế và Tập Đế liên quan đến bản năng sinh tồn mù quáng và bị luật Nhân quả trói buộc chặt chẽ, còn Diệt Đế và Đạo Đế thì liên quan đến ý chí tự do sáng suốt và vấn đề tu dưỡng là để đối phó với luật Nhân quả thiên nhiên khắc nghiệt, bằng cách chuyển Nghiệp thành Nguyện, cố gắng gây thiện nghiệp để cải tiến sinh mệnh ngay ở kiếp này. Chính vì lẽ đó mà Phật khuyên chúng sinh nên nỗ lực thoát ly bản năng sinh tồn của tiên thiên mù quáng mà thực hiện cho được Ý chí tự do của Ý thức hậu thiên sáng suốt bằng tu đạo. Giữa hai nẻo thiện ác, con người có toàn quyền lựa chọn. Trên bước đường thăng hoa từ Cộng nghiệp với chúng sinh tiến tới Cộng nghiệp với Thánh hiền, từ Thức phân biệt nhiễm ô chuyển thành Tâm Vô phân biệt thanh tịnh, từ tham lam ích kỷ, si mê tiến đến thấu triệt lý Vô ngã, Vô thường, hiểu rõ thực tướng “Không” bất biến của Vũ trụ nhân sinh, tự do ý chí hay khí chất hậu thiên của con người càng ngày càng phát triển để chống lại khuynh hướng vị kỷ, và phân biệt bất bình đẳng, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh của bản năng sinh tồn, hay của khí chất tiên thiên mù quáng. Tự do ý chí vừa là mục tiêu, vừa là công cụ. Là mục tiêu vì trước sau con người cũng phải tìm cách thoát ly đau khổ để được Giải thoát khỏi mọi triền phược và những kiềm tỏa của vô minh bất giác. Là công cụ để được Giải thoát, vì nếu không có tự do ý chí thì con người sẽ không tự ý chọn được giữa hai nẻo Thiện Ác, và không thực sự đóng góp được vào công cuộc tiến hóa chung. Không thể cải thiện được nội tâm một cách sâu sắc. Không thể tự giác, tự độ, giác tha, độ tha, giác hạnh viên mãn. Tất cả sự chuyển biến đó đều do công phu của Ý thức của con người vẫn được hướng về nẻo Thiện bằng phương pháp Thiền định hoặc Niệm Phật để Ý thức được chuyển thành Tuệ giác hay Diệu quan sát trí, cùng với Mạt na thức được chuyển thành Bình đẳng tánh trí, đó là điều kiện thiết yếu để phá Ngã và Pháp chấp và trở về với Chân tâm Bình đẳng, Vô phân biệt của mình hay được vãng sinh Tịnh độ, tức là được sống trong Cộng nghiệp tốt đẹp của thế giới Cực lạc Tây phương trong đó chỉ có toàn những vị Bồ tát thuần thiện, thuần lương.

Thoạt nhìn bề ngoài chúng ta không khỏi có cảm tưởng cho phương pháp niệm Phật và quán tưởng Phật đượm màu sắc dị đoan, thần bí, nhưng nhìn kỹ, xét sâu ta thấy phương pháp này hợp với lý Y tha khởi và Viên Thành Thật tánh của Duy thức học. Bởi vì tâm niệm Phật là nhân lành, nguyện lực của Phật a Di Đà và nỗ lực niệm Phật của người tu là Tăng thượng duyên, cảnh giới Cực lạc hay tâm Chân như thanh tịnh là quả. Đó là thế giới mà chúng ta góp phần xây dựng tạo thành. Nhân sao thì quả vậy. Không có Chính báo và Y báo nào tốt đẹp bằng Chính báo và Y báo ở cõi Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà mà Phật tử hàng ngày thường quán tưởng và mong cầu về đó. Khi dùng phương pháp quán niệm thì hành giả thanh tịnh hóa được ba căn thân, khẩu, ý và dùng Sự để hiển Lý, tiến tới Lý Sự viên dung, hay Tâm - Cảnh nhất như Bất nhị. Bởi vì A lại da thức và những chủng tử nằm trong đó đều có năng lực phát sinh ra các hiện tượng tâm lý và Vật lý, và chủng tử lại là nguồn gốc của mọi hiện hành theo luật Nhân quả cho nên khi niệm Phật thì hành giả gieo vào tạng thức của mình những hạt giống Phật, được huân sinh huân trưởng tại đó, để đợi thời cơ thuận tiện phát khởi. Mỗi chúng sinh có một A lại da thức riêng nằm trong khối A lại da thức chung của toàn thể. Không có một A lại da thức nào tồn tại độc lập và biệt lập cả. A lại da thức nào hiện hữu là nhờ sự có mặt của A lại da thức kia, trong mối tương quan, tương duyên trùng điệp chỉ khi nào A lại da thức của một cá nhân trở thành vô cấu, do công phu tinh luyện lâu ngày để trở thành thật trong sạch, thì mới tách rời khỏi khối A lại da thức chung của cộng đồng chưa Giác ngộ để nhập vào Bản thể sáng suốt thanh tịnh của Vũ trụ, hay nhập vào Bản thể Chân như Pháp giới. Nói khác đi, thì chừng nào công phu tu luyện niệm Phật của hành giả đã chín mùi thì người đó nhập vào Pháp giới tánh, hay thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà và được chung sống trong Cộng nghiệp tốt lành của các bậc Hiền, Thánh. Trái lại, nếu công phu niệm Phật còn non thì các chủng tử Phật của người đó gieo mà chưa đủ điều kiện để hiện hành, sẽ rơi vào khối A lại da thức chung, trong đó có đủ thứ chủng tử thiện lẫn ác và tiềm phục tại đây. Tuy còn ở trong trạng thái chủng tử chưa hiện hành nhưng tất cả những chủng tử này vẫn tiếp tục chuyển biến không ngừng dưới hình thức Nghiệp báo và ở đây thì A lại da thức được nhận định là bản thân của Cộng nghiệp.

Duy thức học chủ trương rằng: sinh mệnh và môi trường trong đó chúng sinh hoạt động (hay Chính báo và Y báo) do cả hai loại A lại da thức riêng của cá nhân, và của chung toàn thể cộng đồng tạo thành. Đó là thuyết Cộng biến và Tự biến, hoàn cảnh sinh sống của cá nhân là Tự biến, và hoạt động của cộng đồng là Cộng biến. Then chốt của sự tạo thành một thế giới chính là nghiệp lực hay nghiệp cảm Duyên khởi. Thấu hiểu được tác dụng của Cộng biến và Tự biến của dị thục, ta mới thấy sự kiến tạo thế giới Cực lạc cũng như sự tạo lập một cõi Bồng lai hay Tịnh độ nơi hạ giới này là hợp lý, nhờ đó mà phá tan được mọi nghi ngờ về “nan tín chi pháp.” Vũ trụ quan của Phật giáo dựa trên thuyết “Duyên sinh Cộng nghiệp” hay “Trùng trung duyên khởi” ở vào thế động, rất phù hợp với tư tưởng tiến bộ và quyền Bình đẳng, tự do của con người, không phân biệt màu da sắc tộc, có thể dùng làm nền tảng để thực hiện lý tưởng hòa bình và đại đoàn kết của nhân loại trên toàn hành tinh này. Trên một quy mô nhỏ hẹp hơn thì một quốc gia lấy tín ngưỡng Vũ trụ quan Duyên sinh cộng nghiệp làm điểm tựa, có thể đạt được một sự đoàn kết quốc gia sâu rộng giữa toàn dân trong nước, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo và có thể tạo lập được một nền văn minh nhân bản, hướng thiện, làm cho xã hội đó sớm trở nên hùng tráng, ấm no, hạnh phúc, bởi vì theo lý Duy thức thì các hiện tượng sinh diệt từng sát na, hiện hành trở về chủng tử, chủng tử trở thành hiện hành, nương nhau mà huân sinh, huân trưởng, biến đổi theo luật tương quan, tương duyên, cho nên việc niệm Phật thường xuyên là cố để chọn những mầm giống Phật hiện hành trong tâm của hành giả. Niệm Phật mà đạt tới điểm cao nhất, tới giai đoạn “nhất tâm bất loạn” thì quả Phật sẽ thành. Do đó mà khi ta thấu hiểu được lý Nhân quả hay lý Y tha khởi của Duy thức, ta không còn dám coi thường việc niệm Phật cầu vãng sinh và sẽ nhận thấy Pháp môn Tịnh độ thật là tuyệt diệu.

- Tịnh độ tông gần với Duy thức tông bởi vì cả hai tông này đều cùng chủ trương tùng Tướng nhập Tánh. Tịnh độ tông dùng phương pháp niệm Phật để đi tới “Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm” mà ngộ được Chân tâm, tức là gián tiếp đạt đạo quả bằng cách gieo mãi chủng tử Phật vào tiềm thức của hành giả, cũng như Duy thức tông phải dùng Thức để truyền Thức, mượn ngôn ngữ hình danh để truyền đạo mà nhập vào Duy thức tánh, như vẽ hình con chim trên giấy tờ để lưu bóng con chim đang bay. Không như Thiền tông dùng Tâm truyền Tâm để ngộ đạo một cách trực tiếp, chỉ thẳng vào Tâm để trực ngộ Chân tâm, không phải nhờ trung gian bất cứ một sự vật gì cả, cũng như chỉ thẳng vào con chim đang bay trên hư không mà chẳng phải mượn bút vẽ để lưu bóng con chim trên tờ giấy. Phương pháp của Duy thức là phân tích vạn vật thành 100 pháp để nhận thấy rõ vạn vật đều là nhân duyên giả sinh giả hợp, không có thực thể cố định. Đây là tướng Không, và khi đã đi tới chỗ rốt ráo thì cũng tới Chân không, đồng một Thể tánh với Tánh Không của Thiền vậy. Cũng như người tu Tịnh nghiệp mà được vãng sinh Tịnh độ là được về nơi để luyện cho tâm trở về với Chân như Pháp giới, kết quả không khác gì nhau. Tuy trên nguyên tắc Thiền tuyên bố bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền, nhưng trên thực tế Thiền vẫn phải dùng ngôn ngữ, văn tự làm phương tiện để khai tâm, dẫn đến chỗ ngộ nhập Thực tại vô ngôn, vô niệm. Dù chưa nhờ Duy thức mà được chứng ngộ, nhưng người học Duy thức ngày nay có thể dùng sở học của mình về môn học này để làm cơ sở cho một Đức tin vững vàng và lành mạnh để thực hành Pháp môn Tịnh độ, và như vậy thì việc niệm Phật A Di Đà trở thành phần thực hành, còn phần lý thuyết lại do Pháp môn Duy thức soi sáng. Bởi vậy một học giả đã nói một câu rất có lý: “Học Phật ngày nay nên nghiên cứu về Pháp môn Duy thức vì nó phù hợp với Khoa học thực nghiệm đương thời, còn phần thực hành thì nên theo Pháp môn Tịnh độ.”

Chương 11: Nhận Định Về Tha lực Và Tự lực.

Vấn đề Tha lực và Tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi.

Đứng trước sức mạnh cuồng bạo của thiên nhiên, loài người tự cảm thấy mình nhỏ nhoi yếu đuối, sợ bị tiêu diệt, nên mới phải thần phục sức mạnh của tạo hóa và dựa vào Tha lực để an tâm lập mệnh. Đó là căn bản của bản năng sinh tồn mang nặng tính chất ỷ lại và vô minh, ngã si và vị kỷ. Nhưng mặt khác, trong con người biết suy nghĩ, lại có sức mạnh tinh thần quật khởi, có ý chí khát khao tự do muốn vươn lên để đòi hỏi con người phải ức chế dục vọng để tự cứu mình thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên nhất là ngày nay Khoa học đã tiếp tay giúp loài người đoạt quyền tạo hóa trong nhiều lãnh vực, thì loài người đã cảm thấy rằng mình đã nhiều phen thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên.

Giữa hai lập trường trái ngược đó, hoặc là ỷ lại vào Tha lực, thường thường là một đấng Thần linh cao cả, ban phúc giáng họa cho con người, giao phó tánh mệnh của mình vào tay con tạo xoay vần, không còn tin ở tài sức của mình nữa, hoặc là chỉ dựa vào Tự lực vùng lên với tinh thần dũng mãnh để tự Giải thoát, không cầu mong ở bất cứ ai. Còn một khuynh hướng thứ ba là dung hòa cả hai phái trên, đi theo con đường “Thần, Nhân hợp tác” hay “Tự tha đồng hiệp lực” (Synergisme). Trong Phật giáo Đại thừa, vấn đề Tha lực và Tự lực đã từng được nhiều nhà bình luận cổ kim tranh biện, làm nổi bật hai luồng tư tưởng khác nhau:

1. Một đường thì thừa nhận chúng sinh nào cũng có Phật tánh và khả năng thành Phật, do đó phải tìm cách phát huy năng lực sẵn có của mình: đó là lập trường của phái Thiền tông chủ trương “trực chỉ nhân tâm Kiến tánh thành Phật”, quy Tự lực vào một mối nhằm đạt tới Phật tánh Chân tâm của mình.

2. Một đường thì tin rằng: Các vị Bồ tát đã sẵn có lòng Từ bi và lập nguyện sâu dày cứu độ chúng sinh, nếu chưa độ tận chúng sinh thoát vòng khổ đau Sinh tử, thì các Ngài quyết không thành Phật, cho nên chẳng ai lại dại mà không cầu Phật cùng các Bồ tát có thần lực hơn hẳn mình cứu giúp để được Giải thoát: đó là lập trường của phái Tịnh độ tông và Chân ngôn tông, quy về nguyện lực của chư Phật và Thánh hiền.

Lập trường của Thiền tông là chỉ trông cậy vào chính mình. Khắc phục tự tâm để tiến tới Giác ngộ, Giải thoát. Những người tu Thiền phải là bậc thượng căn, hội đủ năm điều kiện thiết yếu sau đây mới mong đạt tới Thánh quả:

1. Giữ giới trang nghiêm.

2. Căn cơ bén nhọn.

3. Thông hiểu giáo lý và phân biệt rành rẽ chân vọng, chánh tà.

4. Có ý chí cương quyết tiến tới mục đích đã định, không chịu lùi bước trước mọi chướng ngại trên đường tu.

5. Ngoài ra còn phải nương cậy vào một bậc Thiền sư dẫn đạo cho mình, tức là vẫn phải đi theo con đường “Tự, Tha đồng hiệp lực.” Tuy phần lớn nhờ vào ý chí sắt đá của mình để quyết định công phu tu tập, nhưng muốn chứng ngộ thì Thiền sinh phải tùy thuộc vào một yếu tố then chốt gọi là “Thời tiết nhân duyên bất khả tư nghị”, nghĩa là dù hành giả có nỗ lực tới đâu mà “thời tiết nhân duyên” chưa tới thì vẫn chưa thể chứng ngộ được. Bởi vì sự chứng ngộ là trạng thái bộc phát bất thần, cũng như hòn than hồng phải được thổi hay quạt vào để cho sức nóng của nó gia tăng tới mức độ cao tột, mới mong bốc thành ngọn lửa được. Có thể nói đó là một loại “Thần Khải” (Révélation). Sự bộc phát bất thần ấy tức là sự “hốt nhiên khai ngộ” mà người Nhật Bản gọi là Satori, là giây phút thần diệu, thiêng liêng xảy ra trong trường hợp đặc biệt mà người tu coi là một sự kiện mặc nhiên khai ngộ, siêu việt mọi suy tư, ngôn ngữ. Giây phút thần diệu thiêng liêng ấy chỉ đến với Thiền sinh vào lúc hành giả ở trong Đại Định hay Quán tưởng chín mùi, và chỉ riêng người chứng ngộ ấy tự biết mà thôi, cũng ví như người uống nước trà mới thưởng thức mùi vị đậm nhạt, thơm ngon và nóng lạnh của chén trà mình vừa mới uống. Như trên đã nói: tuy sự hốt nhiên khai ngộ là kết quả chủ yếu của công phu tu luyện bền gan lâu dài của hành giả, nhưng dù cho khắc phục, gian nan khổ luyện tới mức nào cũng vẫn chưa đủ, mà còn phải đợi “thời tiết nhân duyên” bất khả tư nghị kia tới với mình mới thành tựu được việc lớn hằng ước mong. Bởi thế cái “thời tiết nhân duyên” ấy đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong sự thành công của hành giả. Câu nói: “Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông” thường được dùng đến có nghĩa là Thiền sinh phải đợi tới lúc thời tiết nhân duyên đến với mình. Và câu “Thôi trác đồng thời” nghĩa là tình trạng quả trứng khi sắp nở, chim con trong quả trứng thôi thúc muốn thoát ra ngoài hì ngay lúc đó chim mẹ phải mổ vào vỏ trứng, làm cho cái vỏ đó rạn nứt mới giúp cho chú chim con phá được vỏ trứng vây bọc nó mà chui ra ngoài. Cảnh chứng ngộ của Thiền sinh cũng vậy, phải do nỗ lực song phương của hành giả phối hợp với Tha lực là thời tiết nhân duyên, trong ngoài nhất trí mới mong đạt tới giây phút thiêng liêng của sự Đại Ngộ. Như vậy thì Tự lực vẫn cần phải có Tha lực, nhưng ở vào mức độ có giới hạn, không ỷ lại quá đáng vào Tha lực mà thôi.

Xét về chủ nghĩa Tha lực, nghĩa là không tin ở tài sức của mình mà chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của một thế lực ngoại lai, thường là một đấng thiêng liêng nào đó, nhưng nếu không diệt được Tự ngã, tức là không từ khước được ý chí tự kỷ một cách triệt để thì không thể hướng vào tuyệt đối được. Cũng ví như người đi biển gặp nạn đắm thuyền, cố bám vào một mảnh ván trôi lênh đênh giữa biển khơi trong cơn giông tố, nghĩa là ở trong cảnh tuyệt vọng tột đỉnh chờ chết, không còn tin vào sức mình để được cứu thoát nữa, nếu không thiết tha mong cầu Thần lực của Thượng đế thì khó lòng thoát khỏi thủy tai. Muốn được cứu thoát tất phải nỗ lực xả kỷ và tinh tấn cầu nguyện lực của Phật để được Giải thoát mà không tin tấn diệt trừ vọng niệm, cùng những nết xấu tật hư, chỉ niệm Phật suông mà thôi, trong khi vẫn cứ buông thả cho lục dục, thất tình của mình làm càn thì tất nhiên không thể đạt được nguyện vọng. Cũng ví như người sắp chết đuối, chỉ còn cái phao để bám vào, nếu không biết giữ gìn cái phao cho tốt, lại còn phạm lỗi hủy hoại cái phao đó thì Tha lực cũng khó hòng cứu nổi. Cuối cùng chúng ta đi đến kết luận: Tự lực vẫn phải nhờ vào Tha lực, và trong Tha lực vẫn có Tự lực hàm chứa. Tha lực với Tự lực chẳng qua chỉ là sự bất đồng trên mặt danh từ mà thôi, chứ thực chất thì không có sự phân khu biệt gì trong vấn đề đó cả. Trong Tự có Tha, trong Tha có Tự, chỉ vì câu nệ danh ngôn nên mới bày đặt ra Tự và Tha mà thôi. Cả hai đường lối Sự trì danh và Lý trì danh hiệu Phật A Di Đà đều đòi hỏi phải có sự nỗ lực quyết tâm vượt bậc vững tin ở tài sức của mình. Và cũng tin cậy vào cả nguyện lực của chư Phật gia hộ nữa. Có Tự lực dũng mãnh lại thêm được Tha lực gia hộ thì Tự lực ấy càng vững mạnh, tăng lên gấp bội và trở thành một sức mạnh vô biên, muốn gì chẳng được? Như vậy thì bất luận dựa vào Tha lực hay Tự lực danh từ tuy khác nhau, song đều đưa tới kết quả là diệt trừ được phiền não, nhiễm ô, được Giác ngộ, Giải thoát, và chung cuộc, nếu dựa vào Tha lực lấy việc niệm danh hiệu Phật làm nhân, sẽ được hái quả Vãng sinh Tịnh độ, nghĩa là có Định thì có Tuệ, do đó mới nói rằng: Vãng sinh Tịnh độ tức là thành Phật hay là trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình.

Chương 12: Phương Pháp Tu Để Được Vãng Sinh Tịnh Độ Hay Trở Về Với Chân Tâm Của Mình.

- Pháp môn Tịnh độ có bốn lối Trì danh gọi là Tứ Hạnh, tùy căn cơ sở thích của người tu lựa chọn.

1. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà (không cần tụng kinh trì chú hay quán tưởng của Tịnh độ tông thuần túy).

2. Niệm Phật A Di Đà kiêm Tham thiền, quán tưởng Phật cùng cảnh Cực lạc Tây phương của Thiền Tịnh song tu.

3. Niệm Phật A Di Đà (là chính) và tụng kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kim Cương, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, hoặc các phẩm Phổ Môn, Phổ Hiền Hạnh nguyện (là phụ) của Giáo Tịnh song tu.

4. Niệm Phật A Di Đà (là chính) và Trì Chú Đại Bi, Vãng sinh, Chuẩn Đề, Lục Tự Đại Minh chân ngôn (là phụ) của Mật Tịnh song tu.

Dưới đây tôi chỉ xin đề cập đến hai lối tu Niệm Phật thuần túy và Thiền Tịnh song tu mà thôi. Căn bản của Pháp môn Tịnh độ để được Vãng sinh Cực lạc quốc, hay được trở về với Chân tâm, bản tánh của mình dựa trên phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà và quán tưởng Phật với cõi Cực lạc Tây phương tới mức “nhất tâm bất loạn.”

Phật dạy: “Muốn được tiếp dẫn về miền Cực lạc phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 đến 7 ngày lên tiếp và luôn luôn tưởng nhớ tới Phật A Di Đà. Phật thương chúng sinh như mẹ hiền thương con thơ dại, nếu con không nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì lòng mẹ nhớ thương con cũng thành vô ích. Với lòng đại bi, Phật thương nhớ chúng sinh, nhưng chúng sinh cũng phải nhớ tưởng tới Phật A Di Đà và mong cầu tha thiết được về quốc độ của Ngài, như hai mẹ con xa nhau lâu ngày cùng mong được tái ngộ. Đạo cảm ứng giao thông mới tạo được mối giao cảm, bằng không thì khó có được sự tiếp dẫn mầu nhiệm. Để đạt tới sự cảm thông ấy, thì người tu Tịnh độ, ngoài việc niệm danh hiệu Phật, còn cần phải tưởng nhớ tới Phật cho nên trong Pháp môn Tịnh độ, ngoài lối Trì danh hiệu Phật theo Sư tướng, người tu còn quán tưởng Phật và cõi Tịnh độ Tây phương theo Lý trì danh hay lối Thiền Tịnh song tu.

- Trong đạo Phật, Thiền tông hướng về Trí, còn Tịnh độ tông lại hướng về Bi. Trí mà thiếu Bi thì cái Trí ấy khô cạn. Bi mà thiếu Trí là cái Bi mù quáng. Trong cuộc sống phải có đủ cả Trí lẫn Bi, dung hợp hài hòa, với mong tạo được hạnh phúc và Giải thoát cho toàn thể sinh linh. Vì thế mà Thiền Tịnh song tu được coi là phương pháp lý tưởng của người tu để đạt tới đích: “Thượng cầu Bồ đề, hạ hóa chúng sinh” bằng con đường Lục độ và Tứ Vô lượng tâm của đạo Bồ tát.

Để ca tụng đường lối của Thiền Tịnh song tu, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ của Liên Tông có bài kệ như sau:

1. Không Thiền tông, có Tịnh độ,

Vạn người tu, vạn người đỗ.

Thấy được Phật A Di Đà

Còn lo gì chẳng khai ngộ?

2. Có Thiền tông, khôngTịnh độ,

Mười người tu, chín ngại khó.

Đến khi ấm cảnh bày ra

Nhắm mắt lại, nghiệp liền thọ.

3. Không Thiền tông, không Tịnh độ,

Chịu giường sắt, cột đồng đỏ.

Tu muôn kiếp với ngàn đời

Chẳng tìm được nơi nương tựa.

4. Có Thiền tông, có Tịnh độ,

Như thêm sừng cho mãnh hổ.

Đời hiện tại làm Thầy người

Kiếp vị lai làm Phật Tổ.

Mục 7: Phương Pháp Tu Của Phái Tịnh Độ Thuần Túy.

- Niệm Phật thì Tâm được tĩnh lặng, buông xả mọi tạp tưởng, cũng như ly nước đục, muốn cho trong cần để yên lặng cho cặn nhơ từ từ lắng xuống. Trong khi niệm thì danh hiệu Phật phát xuất từ tâm thành tiếng ở miệng, tai nghe, tiếng lại trở về tâm. Tâm tưởng, miệng niệm, tiếng đậu ở tai, rồi lại trở về tâm phát xuất, cứ tuần tự diễn biến như thế, thì mọi tạp niệm đều chấm dứt. Muốn đạt tới cảnh “nhất tâm bất loạn” thì không có cách nào mới lạ cả chỉ cần một lòng tin kiên cố, rồi tập trung tâm lực toàn diện vào việc niệm danh hiệu Phật. Phải niệm sao cho tiếng niệm nọ tiếp nối với tiếng niệm kia không có kẻ hở. Việc tập trung tâm thức vào câu niệm Phật làm cho danh hiệu Phật trở thành một loại Thần chú (Dharani) có năng lực đưa hành giả tới điểm Nhất tâm. Với niệm Phật chỉ cần một cái tâm chất phác, đơn thuần. Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tấn là đủ. Lâu ngày niệm lực càng mạnh sẽ tới được điểm “nhất tâm bất loạn.” đó là trạng thái ly không thời gian, xả bỏ tri thức một cách tuyệt đối, khiến không còn thụ cảm ký ức, khái niệm về thiện ác, sướng khổ, có không, Niết bàn, Địa ngục, Giác ngộ, mê mờ… gì cả. Lúc đó thì tâm dứt bỏ được vọng tưởng trở thành vô tâm, và thực hiện được cái Tâm hư, Vô trụ, Vô đắc, Vô cầu, Vô công, Vô danh…

- Khi còn sơ cơ, hành giả cần phải dùng xâu chuỗi và niệm thành tiếng rõ ràng, và ấn định thời khóa biểu hàng ngày để nhớ rõ câu niệm, lấy đó làm tiêu chuẩn, tiếp lên mãi mãi. Hành trì như vậy một thời gian cho quen, lâu ngày niệm lực thuần thục, hóa thành cảnh niệm mà không niệm, không niệm mà vẫn niệm. Tới được thói quen đó rồi thì không cần ghi số câu niệm cũng được và như thế thì lúc nào tâm cũng ở trong Chánh niệm, các vọng niệm không còn quấy phá mình nữa. Tâm lúc đó ở vào trạng thái “nhất niệm Tam muội” hay “nhất tâm bất loạn.” Nếu lúc đầu đã vội đốt giai đoạn, không chịu qua cầu trước tướng, đòi được viên dung tự tại ngay trong khi vọng thức còn đương sôi nổi thì làm sao có được Chánh niệm? Muốn đạt tới “nhất tâm bất loạn” bằng phương pháp Trì danh hiệu Phật có thể niệm rõ ràng thành tiếng hay niệm thầm trong bụng bốn chữ A Di Đà Phật, hoặc thêm hai chữ “Nam mô” thành sáu chữ. Trì bốn chữ có lợi là dễ nhập tâm và niệm được nhiều câu. Trì sáu chữ có lợi là phát tâm thành kính và cảm ứng đạo giao dễ thành tựu. Có người chủ trương nên dùng tâm niệm thay cho khẩu niệm vì niệm lâu dễ mỏi. Không ai có thể niệm thành tiếng suốt đêm ngày dù chỉ là niệm nhỏ tiếng. Bởi vậy, nếu không niệm to tiếng để buộc tâm viên ý mã không cho nó được tự do rong ruổi trong buổi sơ cơ thì dùng lối Tâm niệm quả là dễ đạt tới điểm “nhất tâm bất loạn”, bởi lẽ với Tâm niệm, hành giả nhiếp được tâm trong Chánh niệm. Niệm niệm Phật không dứt thì xua đuổi được tạp niệm, dễ đạt tới Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm, tức là luôn luôn ở trong Chánh niệm vậy.

- Niệm Phật theo Sư tướng (hay Tịnh độ thuần túy) chủ trương dựa vào niềm tin hơn là luận giả. Tín là chính yếu và Nguyện là phụ thuộc. Trên thực tế, đối với người sơ cơ cần phải có Nguyện và Hành để bồi đắp cho Đức tin thêm vững bền. Tin là nguyên lý của trường phái Tịnh độ tông và Mật tông và cũng là lập trường của Tổ Từ Mẫn Tuệ Nhật của Liên tông đời Đường bên Trung Quốc. Có vững tin mới đưa tới trạng thái “nhất tâm bất loạn” và như thế thì mới đạt tới kết quả của công phu niệm Phật như sau:

Xét ra niệm Phật dễ mà không.

Khẩu ý buông lung giữ chẳng đồng.

Miệng niệm Di Đà, tâm tán loạn.

Dù cho khán cổ vẫn hoài công.

- Niệm Phật chân chính phải là niệm với tinh thần “Tam luân không tịch” nghĩa là không còn năng và sở niệm, nhân và quả niệm, Ngã và Pháp niệm nữa.

- Để thức tỉnh những ai niệm Phật đừng rơi vào vọng niệm, và có được tinh thần “Tam luân không tịch” nói trên, chư Tổ đã dùng câu thoại đầu: “Người niệm Phật là ai?” làm cho hành giả phải giật mình tỉnh ngộ và thốt lên rằng: “Ủa! Không phải là tôi niệm, mà là ma chướng nào đã nhập vào tôi để niệm rồi!” Bấy lâu nay mình vẫn chủ trương diệt Ngã và biết rõ là không có người niệm (Vô ngã) sao nay lại còn mê muội chấp là có người niệm? Bởi vì cái mớ ngũ uẩn và phương tiện để tu hành đều do nhân duyên gọi là kết tụ mà thành, đâu phải là thật có bền lâu không hề biến đổi? Cái Tôi chân chính (Chân ngã) vốn xưa nay bất động không hề niệm, vậy thì ai niệm đây? “Người niệm” là ai? và ai sẽ được về Tây phương Cực lạc? Xét cho kỹ, nghĩ cho cùng thì chính cái Giả ngã hay cái nhóm ngũ uẩn giả hợp nó vọng niệm, chứ đâu phải là Tôi hay cái Chân ngã niệm? Niệm tức là động, động thì tức quai, không còn là chân nữa. Nói cách khác thì chính cái “Tác ý” phát minh ra nguyện lực thiết tha mong cầu được về Tây phương Cực lạc đã kết duyên với Tín tâm tạo thành động lực thúc đẩy làm công việc niệm Phật, lại nhờ những trợ duyên là Tinh tiến, Tự lực và Tha lực tạo thành cái nhân duyên hay người niệm, đưa tới trạng thái thanh tịnh của tâm là cái quả hay kẻ thụ hưởng cảnh vui Niết bàn. Ngoài Tác ý và Thọ là hai yếu tố tinh thần trong nhóm năm Tâm sở biến hành (là Tác ý, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư) hoặc Thức và Thọ là hai yếu tố tinh thần trong nhóm ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) một gây nhân, một hưởng quả, ngoài ra không tìm thấy bóng dáng người niệm Phật và kẻ được về Cực lạc Tây phương. Hai yếu tố đó chỉ là những huyễn ảnh do tâm con người tạo ra mà thôi. Sở dĩ phải có những cái huyễn đó thì mới đạt được tới cảnh giới Niết bàn Tịnh độ, hay trở về với Chân tâm bản tánh của mình vốn là Tâm Phật. Song những thứ này vẫn là những huyễn pháp ở bậc cao hơn mà thôi; bởi vì không có thực pháp nào làm nhân để tu hành, cũng không có thực pháp nào làm quả để chứng ngộ cả, chỉ vì chúng sinh đã có sẵn đầy đủ trong tâm mình hạt giống Bồ đề từ vô thủy. Ta với Phật đều có Giác tánh như nhau.

Ta chỉ khác Phật ở chỗ cam tâm sống mãi trong mê mờ tối tăm mà không chịu thắp sáng ngọn đèn lòng hay tri kiến của mình để nhìn thấy Chân lý mà thôi. Người ngộ đạo phải niệm Phật với tinh thần phá ngã, phá pháp, triệt để như vậy mới đúng với câu: “Tu như huyễn pháp, hành như huyễn sự.”

- Cũng như cống án Thiền: “Ai là người niệm Phật” thì chữ Ai (chỉ vọng ngã, vọng thức hay chúng sinh khi còn mê) tức Tác ý hay Thức là nhân để tu hành, và chữ Phật (chỉ Chân tâm, Chân ngã hay chúng sinh khi đã Giác ngộ) là Thọ hay Quả của công việc tu hành. Từ mê đến ngộ là quãng đường hành trì để phá vô minh vọng thức, triệt để phá chấp ngã và chấp pháp, để mong chứng được “Đệ nhất nghĩa không” hay thấy được Chân tâm, Phật tánh của mình. Khi còn là chúng sinh mê muội thì Ai niệm Phật chưa phải là Phật. Lúc đã ngộ rồi thì Ai tức Phật, và Phật tức Ai. Nếu còn phân biệt Ai và Phật là hai đối tượng năng sở, chủ khách, Nhân quả khác nhau thì còn chưa hiểu được lẽ “Tức Tâm tức Phật”, “Chúng sinh tức Phật, phiền não tức Bồ đề”, “Ta bà tức Phật độ” và “Phật vốn là tâm luống phải tầm”, và như vậy là còn giữ nguyên ranh giới giữa Tâm và Cảnh, Kiến phần và Tướng phần, chưa thực sự diệt được Ngã và Pháp, chưa thực hiện được cái lý “tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi”, hay cái “lý Bất nhị”, “Chân không Diệu hữu”, và “Sự Sự nhất thiết vô ngại.”

Sau đây là bài thơ để hiển bày cái lý thâm sâu đó:

Đừng tìm Cực lạc với Di Đà.

Tịnh độ, Ta bà vốn ở ta.

Giác tánh không phân chia cao thấp.

Hương trầm chẳng ngại tỏa gần xa.

Trăng Thu sáng tỏ trời cao rộng.

Gió Hạ giải nồng khắp mọi nhà.

Tịnh, nhiễm xưa nay đồng một thể

Giác, mê vốn dĩ chẳng hai mà.

Trên căn bản thì tâm bất động. Động là hiện tượng khách trần. Do một niệm khởi mà Chân tâm vốn bất động, bỗng trở thành Vọng thức, sinh ra đủ thứ quả báo tốt xấu. Mọi niệm tưởng đều nằm trong không gian và thời gian, cho nên khi nào vượt được ra ngoài khuôn khổ của Không - thời gian, giới hạn tự do của con người mới được Giải thoát và thấy được Chân tâm là một phương pháp thần diệu để phá không gian và thời gian, diệt trừ vọng niệm đã buộc chặt con người vào khuôn khổ chật hẹp đó, vì khi niệm Phật tới giai đoạn “nhất tâm bất loạn” thì ta quên cả Phương lẫn Thời, quên mọi sự vật, bặt mọi tư duy, phá được ngã lẫn pháp để chỉ còn nhớ là mình đang ở trong Chánh niệm, hay ở trạng thái Chánh định của Chân tâm. Niệm Phật Tam muội hay Bảo vương Tam muội thì diệt được vô lượng tội chướng và chúng sinh tánh, tăng trưởng được vô biên phúc tuệ và vô lượng công đức.

- Trong khi niệm Phật, đối với người sơ cơ, vọng tưởng thi nhau đến quấy phá. Lúc đó phải niệm Phật thành tiếng rõ ràng và dùng xâu chuỗi để đếm số câu niệm Phật cho khỏi quên cốt để buộc chặt tâm mình lại cho nó khỏi rong ruổi, cũng như kẻ chăn bò phải dùng đoạn dây thừng xỏ mũi bò mới điều khiển nổi con vật còn hung hăng. Cũng có thể chẳng cần quan tâm để ý đến những vọng niệm, coi chúng như khách vãng lai đến rồi đi, còn cái tâm chủ nhà thì vẫn ở lại để coi nhà. Lối nào cũng chỉ nhắm vào mục tiêu đưa tới Định tâm và khi đã niệm quen rồi thì dùng lối tâm niệm, thay cho khẩu niệm là tốt hơn hết.

Phương pháp niệm Phật có nhiều lối:

1. Phản văn Trì danh là lối miệng niệm, tai nghe, tâm điều khiển từng tiếng và bắt kịp những tưởng đó. Tư tưởng và âm thanh dung hợp nhau. Cách niệm này khiến hành giả dễ gạn lọc được vọng niệm và mau đạt được tâm thanh tịnh.

2. Sổ châu Trì danh là lối miệng niệm Phật, tay lần tràng hạt. Với lối này, niệm lực được mạnh nhờ sự phù trợ của xâu chuỗi, cũng ví như người leo núi, lúc đầu chưa quen, phải dùng cây gậy để chống đỡ thì leo dốc mới dễ dàng, đỡ mỏi và khỏi trượt chân. Với cách này thì tiếng niệm phải rõ ràng và nhớ rõ số câu niệm của mỗi thời, tiến lên mãi mãi, nhờ vậy mà chữa được bệnh giải đãi, đạt tới Định tâm. Niệm như vậy lâu ngày thành thói quen sau không cần ghi số câu niệm mà tâm lúc nào cũng ở trong Chánh niệm.

3. Ký thập Trì danh là niệm mà đếm số câu, cứ 10 niệm là một đơn vị, lại lần một hạt ở xâu chuỗi. Với lối này phải nhớ số câu niệm, nếu không sẽ đếm sai và như vậy thì tâm chưa định. Phương pháp này buộc hành giả phải chuyên tâm vào công phu niệm Phật, kết quả tốt cho người mang tâm vọng động.

4. Tùy tức Trì danh là niệm thầm không ra tiếng, lúc niệm nương vào hơi thở, mỗi hơi thở, không cứ được bao nhiêu câu cũng coi là một niệm, và khi đếm mười hơi thở thì gọi là Thập niệm. Cách niệm này do Từ Vân Đại sư chế ra, căn cứ vào Kinh Quán Vô Lượng Thọ để giúp những người đa đoan công việc, với dụng ý dùng hơi thở để nhiếp tâm. Đủ 10 hơi thở hay 10 niệm là làm tròn công phu một buổi niệm Phật, rất tiện cho những người bận công việc mà vẫn nhiếp được tâm bằng lối niệm Phật.

5. Truy đỉnh Trì danh là lối niệm Phật mà không để một kẻ hở, niệm nọ niệm kia tiếp nối nhau như hạt mưa sa, nhờ vậy mà tâm của hành giả dễ định vì oai lực của câu niệm buộc vọng niệm phải lắng xuống cho tâm trở nên thanh tịnh.

6. Lễ bái Trì danh là lối vừa niệm vừa lễ Phật. Lễ phải nhẹ nhàng, chậm rãi, đúng oai nghi. Lời niệm phải rõ ràng, rành rẽ, đi đôi với việc lễ bái. Trong khi đó thì ý cũng phải thành khẩn, thiết tha. Ba căn thân, khẩu, ý phối hợp với nhau chặt chẽ và tập trung vào một mối. Phương pháp này trị được bệnh hôn trầm nhưng chỉ những người cường tráng, sức lực gân cốt có thừa mới áp dụng được bởi lẽ lễ lâu dễ mỏi, người yếu sức khó lòng đương nổi.

7. Kim cương Trì danh là lối niệm chỉ hơi động môi đôi chút, niệm nhanh như cây truỳ bằng kim cương liên tiếp giáng xuống như cái máy. Điểm quan trọng là dù niệm thầm nhưng vẫn không hề rối loạn, lời niệm vẫn phải gắn bó với tâm niệm. Với lối này lâu ngày thành thói quen, sức niệm càng mau, càng nhiều, sớm đạt tới điểm “nhất tâm bất loạn.” Khi nào sức dồn chứa những chủng tử Phật đã nhiều thì bất cứ lúc nào, dù thức hay ngủ, câu niệm Phật cũng từ tạng thức của hành giả hiện hành phát ra. Để có thể niệm được nhiều câu và đỡ mỏi. Hòa Thượng Đào Nguyên khuyên nên:

1. Ngồi mà niệm, trừ phi đau yếu mệt mỏi quá phải nằm để niệm là điều bất đắc dĩ.

2. Niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” hay ba chữ “Nam mô Phật”, thay vì sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” để niệm được nhiều câu trong cùng một thời gian.

3. Dùng xâu chuỗi nhẹ, hạt vừa phải.

4. Trong khi niệm phải gác bỏ mọi việc trần gian ra ngoài để tâm khỏi tán loạn.

- Lục Tổ Huệ Năng nói:

Vô niệm, niệm mới chánh,

Hữu niệm, niệm thành tà.

Ta phải hiểu nghĩa chữ Vô niệm ở đây như thế nào mới đúng? Vô niệm tức là vô tà niệm, vô dục niệm, chứ không phải là vô Chánh niệm. Trong khi niệm, hành giả không được tưởng tới bất cứ điều gì ngoài Phật A Di Đà, và cõi Tây phương Cực lạc. Người niệm phải luôn luôn nhớ tới Giác đức của Phật, tưởng tới 48 lời nguyện của Ngài và suy xét tường tận ý nghĩa 10 danh hiệu Phật. Có hiểu tường tận về Phật mới làm tăng trưởng Đức tin của mình và quý trọng Ngài hơn, đúng như câu nói của một nhà nghiên cứu về Phật giáo người nước Anh bình luận về Đức Phật.

The more I know Him

The more I love Him

The more I love Him

The more I know Him

(Càng hiểu Phật, tôi càng kính yêu Ngài, càng kính yêu Ngài, tôi càng hiểu rõ Ngài thêm).

- Người Phật tử tu Tịnh nghiệp, trong bốn oai nghi, lúc nào cũng ý thức được sáng suốt công việc mình đang làm là niệm Phật không ngừng.

Tổ Huệ Năng nói: “Chẳng phải Vô niệm là không niệm mà là thường xuyên lúc nào cũng niệm Phật với tâm vô nhiễm và diệt hết các niệm tưởng đối đầu: Năng Sở, Có Không… đó gọi là “Vô niệm.” Muôn niệm tan vào nơi không niệm, mà trong vô niệm, Niệm hằng sa.” Tổ Huệ Năng lấy Vô niệm làm tôn chỉ vì Ngài cho rằng: Người đời miệng nói Kiến tánh mà vẫn vọng động thì Kiến tánh sao được? Có giới dục, khử tà, thì tâm mới định hay ở trong Chánh niệm và như thế mới Kiến tánh được. Danh từ Vô sanh hay Bất sanh cũng vậy, phải hiểu theo nghĩa tương tự. Vô sanh nghĩa là chỉ cần sinh một lần chót, về thế giới Cực lạc Tây phương nữa mà thôi, không cần phải đọa lạc mãi trong sáu ngã Luân hồi nữa. Các hiện tượng tuy có sinh diệt, nhưng tướng sinh diệt đó là giả. Các hiện tượng giả sinh, giả diệt nên gọi là Vô sanh, Vô diệt hay Bất sanh, Bất diệt. Nếu cho rằng Vô niệm là Không niệm, Vô sanh là Không sinh thì chẳng hóa ra lại rơi vào hư vô chủ nghĩa, và như vậy là muốn tránh chấp Có lại lạc vào chấp Không sao? Bởi vậy Lục Tổ Huệ Năng lại phải bổ túc thêm hai câu nữa:

Có không đều chẳng tưởng

Mới ngự xa bạch ngưu.

Một vị cao Tăng có để lại cho hậu thế bài thơ dưới đây:

Có niệm, đồng không niệm

Không sinh tức là sinh,

Chẳng phải rời nửa bước

Thân tới Pháp vương thành.

Thời nay hiếm thấy người tu Tịnh nghiệp mà có được tác phong niệm Phật đạt tới trình độ “Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm” như các bậc thượng căn thuở xưa. Thời nay chỉ cần Tin sâu, Nguyện thiết và tinh tấn niệm Phật đã là quý lắm rồi, vì nếu tạo được thói quen siêng năng niệm Phật thì giờ phút lâm chung ta đã tạo được cảnh thanh lương tự tại để được chung sống với các vị Hiền Thánh, còn lo gì đến vấn đề Hữu niệm lẫn Vô niệm nữa? Nếu chẳng biết lượng sức mình mà cứ muốn đạt ngay tới điểm Vô niệm từ ban đầu rồi chẳng làm nổi, lại sinh tâm phiền não, chán nản, thực đáng thương.

Mục 8: Phương Pháp Niệm Phật Của Phái Thiền Tịnh Song Tu.

Người theo phái Thiền Tịnh song tu có nhiều lối quán tưởng đi đôi với việc Trì danh hiệu Phật A Di Đà, đại để như:

1. Thực tướng niệm Phật tức quán Pháp thân Phật A Di Đà bao trùm cả hư không bao la, kết quả mau chứng được Chân như thực tướng hay Lý “Chân không Diệu hữu”, hoặc Chân tâm thanh tịnh của mình. Phương pháp này của Thiền tông nhưng đối tượng quán tưởng lại là Phật A Di Đà nên cũng thuộc về tông Tịnh độ. Pháp quán này do các bậc thượng căn sử dụng nên trong Tịnh độ thuần túy hàng hạ căn ít khi dùng đến.

2. Quán tưởng niệm Phật là quán Chính bào và Y báo tức quán thân mình và cuộc sống trong cảnh Cực lạc Tây phương. Phương pháp này được Phật Thích Ca dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Nếu quán tưởng thành thục thì bất cứ lúc nào hành giả cũng thấy mình như được sống trong thế giới Cực lạc, kinh hành dạo chơi cùng với các vị Đại Bồ tát, được nghe các loài chim hót lên lời kinh tiếng kệ du dương, lại được học hỏi chính pháp Đại thừa cùng các vị “Nhất sinh bổ xứ.” Công đức của pháp quán này lớn lao vô cùng, nhưng ít người theo được vì sự quán tưởng khó hành trì đối với người căn cơ thấp kém, chỉ những bậc Thiền sư quen ngồi Thiền định mới áp dụng được mà thôi.

3. Quán tượng niệm Phật là chăm chú nhìn vào một bức tranh hay một pho tượng Phật A Di Đà bày trước mặt, quan sát vẻ đẹp trang nghiêm của Phật từng chi tiết, cho đến khi không có ảnh tượng Phật A Di Đà trước mặt mà lúc nào cũng thấy Phật với đầy đủ tướng tốt, trang nghiêm. Từ quán tượng niệm Phật đến “nhất tâm bất loạn”, hành giả cảm thông được với Phật, và hình tướng giả của Phật biến thành Thật tướng của Phật chói rạng sáng ngời trong tâm của hành giả, bởi vì năng lực tinh thần và vật chất, hay Tâm và Vật chỉ là một, tượng Phật là cảnh mà Quán niệm là Tâm. Khi đã hiểu rõ lý Nhất như rồi thì sự cảm thông giữa hình tượng giả bên ngoài biến thành Thật tướng của Phật trong tâm hành giả là một sự kiện đương nhiên xảy ra.

4. Quán chiếu hay Giác chiếu Trì danh là lối niệm Phật hồi quan phản bản, khiến cho hành giả đi sâu vào cõi hư linh siêu thoát, cảm thấy tâm Phật với tâm mình giao hòa và ngưng đọng trong một khối mông mênh viên chiếu. Niệm như vậy tuy chưa mãn phần ở thế gian này nhưng tâm đã chứng được cảnh Thường Tịch Quang Tịnh Độ, thân tuy còn là xác phàm, mà lòng đã ngự ở nơi Liên Đài siêu thoát, và chứng được “Tức thân thành Phật” đúng như câu:

Thân tuy còn ở Ta bà

Mà lòng đã gửi bên tòa Liên hoa.

Chỉ tiếc rằng lối tu này đòi hỏi phải có công phu tu tập lâu ngày khó khăn, kết hợp Tịnh và Thiền ở mức cao độ, dành riêng cho hàng thượng căn, bậc sơ cơ thiểu học, ít người dám nghĩ tới.

5. Liên Hoa Trì danh là tưởng như mình đang đứng trước màn lưới đế châu tại cung Trời Đế Thích, thấy giữa mỗi mắc lưới có đính một viên minh châu tỏa hào quang sáng ngời, hạt nọ hạt kia chiếu vào nhau, ánh phản xạ tạo thành một khối lung linh rực rỡ, nói lên cái lý trùng trùng duyên khởi”, “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một” và “tương tức tương nhập, “Sự sự vô ngại” của Kinh Hoa Nghiêm. Lại thấy như mình đang đứng trước mỗi hạt châu, mà trên mỗi hạt châu lại có một tòa sen ngàn cánh, trên mỗi cánh sen có một tượng Phật A Di Đà tỏa ánh linh quang ngời sáng. Lại tưởng như mình đang hành lễ chiêm ngưỡng và nguyện cầu hằng hà sa số Phật trong khắp đạo tràng này, tưởng mình như được tắm gội trong bầu hào quang huyền diệu, nhiệm mầu ấy của Phật Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức.

Nói chung thì các lối Trì danh và quán tưởng kể trên mỗi lối có một công dụng trị bệnh cho hành giả để diệt trừ vọng niệm, trở về với Chân tâm, cách nào cũng có lợi ích cả, tùy căn cơ của từng người lựa chọn để đi sâu vào con đường Tịnh nghiệp. Tất cả những lối niệm Phật mà miệng niệm, tâm tưởng tới Phật được gọi là Định tâm niệm Phật. Trái lại, miệng tuy niệm Phật mà tâm lại nghĩ tưởng tới đâu đâu, gọi là Tán tâm niệm Phật, kết quả so với nhau, cách xa nhau như trời vực. Tuy nhiên, dù là Tán tâm nhưng vẫn gieo được vào Tạng thức của hành giả những mầm giống Bồ đề, lúc đầu còn lu mờ, lâu ngày thành rõ nét, rồi cũng có lúc hiện hành ra ngoài rồi huân tập trở lại bên trong làm cho Tán tâm hóa thành Định tâm niệm Phật. Bởi vậy, dù lúc đầu chưa quen lối Định tâm, nhưng nếu cứ kiên tâm niệm Phật thì lâu ngày, với thói quen niệm Phật cũng đạt tới điểm “nhất tâm bất loạn”, chỉ sợ lòng người giải đãi bất chuyên mà thôi.

Để giải thích cho hàng sơ cơ cách niệm Phật sao cho đạt tới điểm “nhất tâm bất loạn”, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ dạy rằng: “Phải dùng tâm thành kính mà niệm Phật liên tục, lúc nào cũng giữ tâm ở trong Chánh niệm, cũng như người bị tử tội sắp đem đi hành hình, hay người bị mắc nạn nước lửa bức bách, ở trong cảnh thập tử nhất sinh, hoặc người bị giặc cướp hay ác thú rượt đuổi gấp sau lưng, phải lớn tiếng cầu cứu luôn miệng để gọi người tới cứu mình mới mong thoát nạn, người tu Tịnh độ phải coi việc niệm Phật gắn liền với tánh mạng của mình, không được lãng quên giây phút nào cả, dù phải bận công việc, khi làm xong, lại trở về ngay với việc niệm Phật, coi đó là công việc hệ trọng hàng đầu, còn mọi việc khác đều không đáng kể. Người tu Tịnh độ phải nương vào hơi thở của mình mà niệm cho tới lúc nhắm mắt, tắt hơi, còn hơi thở là còn niệm, như vậy mới gọi là tâm chí thành, chí thiết, và mới mong được Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài.

 - Về mặt Sư tướng, do công phu niệm Phật A Di Đà tới “nhất tâm bất loạn”, hành giả chắc chắn sẽ được đời nghiệp vãng sinh.

 - Về Lý tánh cho rằng thế giới Cực lạc ở ngay trong tâm mình, chỉ cần Kiến tánh là thành Phật. Hai điểm ấy chẳng khác nhau, chẳng qua chỉ là hai lối diễn tả để chỉ một cái đích chung là được Giác ngộ, Giải thoát khỏi cảnh khổ đau trong tam giới mà thôi.

- Một điểm đáng lưu ý là: Niệm Phật cho tới “nhất tâm bất loạn” là muốn ám chỉ tời việc niệm Phật trong giờ phút lâm chung, cần phải Định tâm, dồn hết tâm lực vào việc niệm Phật trong thời điểm quan trọng đó. Bởi vì khi sắp lìa trần cần phải có những tư tưởng tốt lành, trong sáng để có được một nghiệp lực tốt, ảnh hưởng quyết định mạnh mẽ tới kiếp lai sinh. Chỉ cần có từ 1 đến 10 niệm trong sạch lúc bấy giờ cũng đủ để được vãng sinh về cõi Tây phương Cực lạc. Nhưng muốn được “nhất tâm bất loạn” khi lâm chung thì bình nhật phải niệm Phật cho chuyên, cho thuần để có được thói quen niệm Phật, và có được nhiều chủng tử Phật dồn chứa trong A lại da thức, ngõ hầu khi sắp lìa trần, hành giả vừa mới khởi niệm thì chủng tử Phật liền hiện hành ngay. Lúc đó dù không cần tâm vô niệm, mà cảnh vô niệm cũng hiện bày. Trái lại, nếu bình nhật chẳng năng niệm Phật thành thói quen, thì khi lâm chung sẽ bị cận tử nghiệp lôi cuốn, tâm thức tùy theo nghiệp rối loạn, Chánh niệm chẳng thành tựu thì mong gì có được Nhất tâm? Trong giây phút lâm chung, năm căn của người hấp hối như năm cánh cửa khép kín, duy còn căn thứ sáu là Ý thức hoạt động yếu ớt để tiếp xúc với ngoại cảnh. Người đang hôn mê lúc bấy giờ ở vào tình trạng như người nhập định, hoặc người tu theo Duy thức mà thu thúc lục căn, chính trong lúc ấy mà người sắp lìa trần Tự lực hướng về cõi Phật, lại nhờ được Tha lực của những người chung quanh Nhất tâm niệm Phật để trợ lực cho người ấy thì có thể gây được Chánh niệm để được Cận tử nghiệp hướng dẫn thần thức của người ấy về miền Cực lạc.

Bởi băn khoăn về vấn đề cần phải giữ cho tâm thanh tịnh lúc lâm chung để niệm Phật với “nhất tâm bất loạn”, Ngài Đại Ca Diếp đã hỏi Phật và được Phật giải đáp. Câu chuyện được ghi lại trong Luận Tà Trí như sau:

“Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng hay những lúc gặp tai biến bất ngờ như rủi bị ngựa xe cán chết ngay, hay bị voi điên đuổi gấp, ác thú rượt bắt, hoặc bị người đời đánh đập, bắn giết mà chết bất đắc kỳ tử, không kịp niệm Phật trước khi tắt thở thì thần thức con sẽ phải sinh về nơi đâu?”

Để trấn an Ngài Đại Ca Diếp, Phật dạy rằng: “Ông cứ an tâm, chớ lo, không bị sinh vào ác đạo đâu mà sợ. Bởi vì như cây kia thường vẫn nghiêng về hướng Đông, nếu gặp gió bão, cây ấy bị trốc gốc thì nó phải ngã về hướng Đông mà đổ xuống. Người tu Tịnh nghiệp cũng vậy. Nếu hàng ngày người đó chuyên cần niệm Phật A Di Đà chẳng may bị chết thình lình thì sẽ nhờ sức huân tập của ý thức niệm Phật, lâu ngày dồn nén trong Tạng thức mà được sinh về cõi Cực lạc Tây phương chẳng sai.”

Mục 9: Kết Quả Công Phu Niệm Phật A Di Đà

Niệm Phật nhằm đạt cho được Phật tánh nghĩa là có những đức Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng Vô phân biệt giống như Phật vậy. Niệm Phật mà chẳng thực hiện được chút nào những hạnh cao cả đó, không thấy được Phật tánh, Chân tâm của mình, còn bị thất tình lục dục chi phối thì chỉ là nô lệ cho việc niệm Phật mà thôi. Tùy theo công phu hành trì niệm Phật mà người tu Tịnh nghiệp, lúc sinh thời, có thể đạt được những đạo quả sau đây:

1. Đoạt người chẳng đoạt cảnh.

2. Đoạt cảnh chẳng đoạt người.

3. Người và cảnh đều đoạt

4. Người và cảnh đều chẳng đoạt.

Bốn lớp tu này ám chỉ hai cảnh mê và ngộ khác nhau. Ba tầng trên: Tâm và Cảnh, hoặc cả Tâm lẫn Cảnh đều quên. Đến tầng chót (Tâm và Cảnh đều chẳng đoạt) tức là ở vào trạng thái sau khi Tâm và Cảnh đều không quên thì Chân tâm, Giác tánh mới hiển lộ rõ ràng, và hành giả ở vào trạng thái Chân không tỏ bày Diệu hữu. Cũng giống như Thiền sư sau nhiều năm tu tập đã vượt qua các giai đoạn thấy núi là núi, thấy sông là sông, sông khác với núi, rồi thấy núi chẳng phải là núi, thấy sông chẳng phải là sông, rồi thấy núi tức là sông, thấy sông tức là núi, và sau cùng trở về trạng thái “bình thường Tâm là Đạo”, thấy núi vẫn là núi, thấy sông vẫn là sông, đâu đâu cũng đều là đạo mầu cả. Núi đứng đó mặc núi, sông đứng đó mặc sông, núi và sông chẳng phải hiện diện để cho Ta bàn luận về chúng, vì bàn luận, suy tư đều sai lầm cả. “Động niệm tác quai”, “ngôn ngữ tắc đạo đoạn.” Nói cách khác thì có ba trình độ chứng ngộ hợp với ba căn thượng, trung và hạ của những người tu.

1. Đối với hàng thượng căn thì Tâm là Phật, Tâm là cõi Tịnh độ. Tâm ở vào cảnh Vô niệm. Chủ thể niệm và đối tượng niệm không khác. Tâm, Cảnh đều thanh tịnh thì đó là Phật thân. Phật thân ấy với thân của hành giả là một theo lý Bất nhị tịch nhiên thường tồn, siêu việt mọi tư duy nên gọi Thân Tâm ấy là Phật sống.

2. Đối với hàng trung căn, còn phải nhờ vào sự chuyên cần Trì danh hiệu Phật để tâm thuần thục. Thiện niệm hiện hành thì ác niệm tiêu diệt. Dùng lối niệm Phật không dứt thì trừ được vọng niệm, và tâm thường trụ nơi chánh niệm. Được như vậy thì khi mệnh chung, hành giả đạt được cảnh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

3. Đối với hàng hạ căn, miệng phải chuyên cần niệm Phật, tâm luôn luôn tưởng tới hình tượng Phật, sau khi mệnh chung tùy theo tâm dao động ít hay nhiều sẽ được sinh về cõi Đồng cư Tịnh độ dành cho phàm, Thánh cùng ở chung. Ở đây dễ tu vì tránh được nguy cơ làm cho tâm thoái chuyển. Chỉ cần được sinh về cõi này là được dự vào hàng Thánh, như vậy chẳng khác gì lối tu Đốn ngộ của Thiền tông.

 - Người niệm Phật mà đạt được “Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm”, tức là trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc, và sẽ được sinh về cõi Phương tiện Thánh cư độ, dành cho hàng Thanh văn, Duyên giác.

 - Người niệm Phật mà ngộ được lý Nhất tâm phá được vô minh từng phần, sẽ được sinh về cõi Thực báo trang nghiêm độ, dành cho hàng Bồ tát.

 - Người niệm Phật mà phá được hết vô minh, vọng thức sẽ được sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ dành cho chư Phật.

 - Niệm Phật mà tâm thanh tịnh hay đạt tới “nhất tâm bất loạn” thì phá được cả chấp ngã, chấp pháp chứng được Duy Tâm Tịnh Độ.

 - Người niệm Phật mà được vãng sinh về Cực lạc thế giới thì chứng được một trong chín phẩm hoa sen, (hạ, trung và thượng phẩm), mỗi phẩm có ba cấp (thượng, trung và hạ cấp) thuộc ba hạng căn cơ khác nhau (thượng, trung và hạ căn) cộng thành chín bậc.

Chương 13: Đào Sâu Vào Lý Bất Nhị

Các pháp trên thế gian này đều không có tánh riêng biệt và độc lập. Chính con người đã dùng tâm phân biệt của mình mà gán cho các pháp những nhãn hiệu riêng mà thực ra chúng không hề có một cách bất di dịch, do đó nếu đào sâu vào lý Bất nhị ta sẽ có những nhận định sau đây về các vấn đề: Sống chết, Vui buồn, Sướng khổ, Gần xa, Không, Có, khó tu và dễ tu, thuận cảnh và nghịch cảnh, giác và mê, trói buộc và Giải thoát, Tịnh độ và Ta bà v.v… là những sự việc mật thiết với đời sống thường nhật của người tu.

Mục 10: Nhận Định Về Vấn Đề Sống Và Chết

Mọi sinh vật trên trời đất luôn luôn ở trong trạng thái đồng thời sống và chết. Từng giây phút ta đào thải những chất cặn bã và những tế bào chết trong cơ thể để tiếp thu những chất dinh dưỡng để tạo ra những tế bào mới. Như vậy thì hiện tượng sống chết là việc thường tình ở đời. Trong sự sống có sự chết. Hễ là phổi thở ra, dẹp xuống mà không hút dưỡng khí vào để phồng lên là chết. Nếu quan sát thực tướng của sự sống chết ta thấy: chúng ta chỉ sống vẻn vẹn từng sát na sinh diệt của một luồng tư tưởng mà thôi. Khi một tướng tâm sinh khởi thì sự sống chết bắt đầu và sự sống chấm dứt cùng với sự hoại diệt của tướng tâm ấy, để rồi lại tiếp tục sinh ra khi một luồng tư tưởng khác bắt đầu. Tướng tâm sinh diệt từng sát na và sự sống của chúng sinh cũng sinh diệt từng sát na cùng với sự sống của một luồng tư tưởng. Khi tướng tâm không sinh không diệt nữa thì sự sống ngưng lại trong một thân tứ đại. Vì lẽ đó mà người ta không thế sống lại cái tướng tâm của giây phút vừa qua, cũng như tướng tâm của giây phút hiện tại không thể giống như tướng tâm của giây phút vừa qua hay sắp tới được. Hiện tượng sống, chết tiếp nối nhau như ngày và đêm hay như sự chuyên vần tuần tự của bốn mùa qua lại. Trong sự Sống đã có mầm của sự Chết và ngược lại. Hình ảnh những đợt sóng xô đẩy nhau trên mặt biển khi nổi, khi chìm là hình ảnh trung thực nhất của hiện tượng Sống Chết, biểu hiện nguồn sinh lực vô biên của Vũ trụ. Chết với Sống là hai mặt sấp ngửa của một đồng tiền, hay hai khía cạnh của một Thực tại duy nhất. Sự Sống Chết nối tiếp nhau từng sát na, cũng như bánh xe bò lúc nào cũng dính trên mặt đường. Điểm này vừa rời mặt đường thì điểm kia lại tiếp theo liền đó. Nói cách khác thì sự sống chết là một chuỗi dài liên tục những hiện tượng không giống nhau tiếp diễn trong một cuốn phim. Vì thế mà Triết gia Héraclite đã nói một câu có ý nghĩa tương tự: “Chúng ta không ai có diễm phúc được tắm hai lần trên một dòng sông.” Thực ra thì cái chết và cái sống chẳng cái nào quan trọng hơn cái nào cả. Chính cái Chết đã nuôi dưỡng cái Sống, nếu không có cái Chết thì không thể có cái Sống được. Có cái Chết của những tế bào già nua bị thải ra ngoài cơ thể do sự bài tiết, để thay thế bằng những tế bào khác khỏe mạnh hơn thì sinh vật mới sống được. Ta thử ngẫm xem: nếu muôn loài đều sống mãi không chết thì lấy chỗ đâu cho vạn vật sinh trưởng, lấy đâu thức ăn để nuôi dưỡng muôn loài? Vậy thì Sống với Chết đều quan trọng như nhau, và chỉ là quy luật tự nhiên thường tình chi phối muôn vật trong Vũ trụ. Có Sinh phải có Diệt. Có Diệt phải có Sinh. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn lại khuyết, sum họp để rồi phân ly. Mọi sinh vật đều Bình đẳng trước cái Sống và cái Chết. Mạnh yếu, giàu nghèo, sang hèn, lớn nhỏ, đẹp xấu… tất cả đều chịu chung số phận trước Tử thần. Dù kín cổng cao tường, dù được lính gác ngày đêm bảo vệ, dù có bạc vàng đầy kho, cũng không che chở mua chuộc được sự sống và ngăn cản được sự chết để trở thành Bất tử. Bởi vậy ta chớ nên lo sợ cái chết xảy ra. Nếu ta quán tưởng sự chết, như thế thì ta tránh được lỗi Thường kiến và Đoạn kiến, ta bớt được lòng tham vị kỷ, ta thấy rõ Thực tướng vô tướng của sự vật ở đời, hiểu được lý bất nhất, bất dị của hiện tượng Sinh diệt, ta rõ được mối tương quan Bất nhị, giữa Tử và Sinh, do đó ta mới thuận nghiệp mà sống, an lạc tự tại. Khi đã thực sự biết rõ giá trị của Sống Chết thì ta làm được mọi việc lợi ích cho đời.

Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu?

Cái hiện hữu (hay sự sống) của con người không ngoài cái hiện hữu tùy thuộc vào một tràng nhân duyên. Mỗi vật hiện hữu đều do nhân duyên, và nó sẽ tiêu diệt ngay khi những tác dụng của tràng nhân duyên chấm dứt. Những làn sóng trên mặt biển quả là hiện hữu nhưng ta có thể bảo làn sóng đó có tự ngã không? Làn sóng chỉ có khi có gió dao động nước. Mỗi làn sóng tùy thuộc vào sự phối hợp của những cường độ và phương hướng của gió, đến lúc gió im hay gió đổi chiều thì làn sóng cũng chấm dứt hoặc đổi chiều theo. Vậy thì không thể nói là sóng có tự ngã biệt lập với nhân duyên gây ra nó được. Khi con người còn là một hiện hữu tùy thuộc vào một tràng nhân duyên thì nó không có gì để mà cố duy trì lấy sự sống không tùy thuộc vào nó, và con người cũng không thể nhìn mọi vật chung quanh mình từ quan điểm ngã vị trung tâm. Mọi người phải từ bỏ cái tiểu ngã của mình và cố gắng giúp đỡ kẻ khác, coi người như mình, theo tư tưởng “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một.” Con người cá nhân phải nhận thức cái hiện hữu cộng đồng tức xã hội quanh mình, vì con người không thể nào lại hoàn toàn độc lập hiện hữu được. Không có một vật nào trong Vũ trụ này lại có thể trường tồn hay tự tại được vì mọi vật đều Vô ngã, Vô thường trong không gian và thời gian. Không một sát na nào mà sự vật lại không biến đổi. Nếu ta có thể tìm được một thế giới nào mà ở đó không có không gian và thời gian thì thế giới đó mới đích thực là Niết bàn, Giải thoát.

Đã hiểu rõ sự Sống Chết là một hiện tượng biến đổi tự nhiên và giá trị của sự Sống Chết, cùng mối tương quan giữa người và người, người và xã hội, ta chẳng còn nên lãng phí thời giờ quý báu để làm những việc vô ích hay chỉ lợi riêng cho mình. Ta cũng chẳng còn tư tưởng ham sống sợ chết. Nếu cần phải chết để bảo vệ một lý tưởng cao đẹp ta sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình mà không hề tiếc nuối. Nếu ta đã hiểu rõ sự Sống Chết ta sẽ tích cực gây thiện nghiệp để được quả báo tốt lành, ta sẽ nhẹ nhàng cất bước ra đi, khi cần phải chết, không đắn đo luyến tiếc, như từ bỏ một chiếc dép rách cũ nát. Hiểu rõ được lý Bất nhị của sự Sống Chết, ta chẳng còn mong cái Chết tới sớm để trút bỏ gánh khổ não đè nặng trong lòng, cũng chẳng mong nó đến muộn để tận hưởng miếng đỉnh chung của cuộc đời tục luỵ. Giờ phút lâm chung điểm lúc nào ta nhẹ nhàng cất bước ra đi lúc đó, lòng thảnh thơi, không buồn, không vui.

Mục 11: Nhận Định Về Vấn Đề Vui Buồn, Sướng Khổ Và Thiện Ác Ở Đời.

a. Sướng khổ, buồn vui, thiện ác đều là những trạng thái tâm hồn và nhận thức của con người khi còn ở trong mộng. Người ngủ mê không biết mình đang ở trong cơn mê, cũng như người bị vô minh làm mờ ám tâm hồn, không biết mình đang ở trong cảnh hắc ám vô minh. Cuộc đời là một giấc mộng dài. Cũng như người ngủ mê man, khi thức giấc mới biết là mình vừa qua một cảnh mộng. Mọi cảnh vật ở ngoài, cũng như mọi sự việc ở đời đều do tâm ta biến hiện. Nội thức thì có, nhưng cảnh vật và sự việc ở ngoài đời thì không. Người ngủ mê chấp cảnh trong chiêm bao thật có, cũng như người si mê chấp cảnh đời có vui buồn, sướng khổ thật sự. Nếu ai bảo rằng cảnh đời chẳng khác nào cảnh chiêm bao hay những cảnh chiếu trên màn ảnh thì nhất định người si mê không chịu tin. Chỉ khi nào người ngủ mê tỉnh giấc hay người bị vô minh dứt bỏ được tấm màn vô minh che lấp Chân tâm thì lúc đó mới tin rằng cảnh đời là huyễn và hiểu được lý Vô ngã, Vô thường. Do đó muốn có một trái tim bình thản trước cuộc đời, và muốn thoát cảnh vui buồn sướng khổ của nhân thế phải có quan niệm nhân sinh theo bài thơ dưới đây:

Đời người chẳng khổ cũng không vui,

Vui khổ là tâm bệnh cả thôi.

Khổ đấy vui này đều cưỡng gọi

Mê tình, vui khổ tự sinh sôi,

Mê tình ví chẳng sinh ra nổi,

Quả Phật, Chân tâm ắt sáng ngời,

Khổ, sướng, buồn vui đều giả huyễn,

Đừng nên sợ khổ chớ ham vui.

Xin chớ so đo, khổ với vui,

Có chi là khổ, có chi vui?

Vui trong tham dục, vui liền khổ

Khổ chốn tu hành, khổ hóa vui.

Nếu biết có vui là có khổ

Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui.

Mong sao được sống không vui khổ

Để thoát ra ngoài cảnh khổ vui.

- Thọ vui thọ khổ đều là Vô thường, bởi vì các pháp đều dịch biến. Khi đã hiểu rõ nguồn gốc của khổ, vui là Tà kiến và Ái dục, ta phải cố phá cho được chấp Ngã và chấp Pháp để không còn chạy theo vui buồn sướng khổ nữa.

- Đời người, ngoài thì bị thiên nhiên đe dọa, trong thì bị ý chí mù quáng thao túng, nhưng trong sự thúc phược đó, con người biết suy nghĩ vẫn hoài bão tự do, hướng thượng, tìm hạnh phúc. Điểm nổi bật của đạo Nhất thừa chính là ở nơi khổ đau là tìm được giá trị của cuộc đời. Giá trị ấy không ở chỗ lấy sướng khổ về vật chất làm thước đo để đánh giá nhân phẩm theo cấp bậc trong xã hội, dựa trên tiền tài, danh vọng, mà lại lấy sự thực hiện sinh mệnh vĩnh cửu, thực hiện cái hiểu biết sâu rộng và toàn diện, cùng thỏa mãn nhu cầu Đại Bi vô hạn đối với toàn thể sinh linh làm mục tiêu và lý tưởng để đánh giá nhân phẩm. Muốn thực hiện được điều đó thì phải coi thường khổ đau và vui sướng, tự chủ được lòng mình và vượt qua vui buồn, sướng khổ nhờ đó mà lý tưởng Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức được thực hiện lần lần.

Cái đích của người tu học Phật pháp phải là: một mặt thì hướng thượng, từ bỏ thế giới tương đối đầy phân biệt và sai biệt, cùng những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn, để trau dồi những tư tưởng xả kỷ, thanh cao, nuôi dưỡng Tâm Bi để sống với lý Bất nhị, rồi mặt khác lại rời bỏ cái tháp ngà ấy, không trụ ở cảnh giới tuyệt đối thanh cao mà quay về hướng hạ, sống trong thế giới tương đối sai biệt trong Vô sai biệt, và phân biệt trong Vô phân biệt, hòa quang đồng trần, đem cái tâm rộng lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng, Bất nhị từ chỗ tiêu cực không làm điều ác, tiến đến tích cực làm mọi điều lành, không khước từ những việc thiện nhỏ nhặt nhất, để phục vụ xã hội nhân sinh.

- Phật dạy trong kinh Kim Cương:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ, diệc như điễn,

Ưng tác, như thị quán.

Với lời kinh ấy, Phật khuyên chúng sinh chớ nên chạy theo khách trần ảo ảnh, để chuốc lấy luỵ vào thân. Người muốn bước chân vào cửa đạo, sợ cảnh khổ nơi thế gian, coi khổ đau có thật, nên Phật mới phải thuyết Kinh A Di Đà dạy người đời: Đời là bể khổ, phải nên tránh khổ cầu vui bằng cách niệm Phật A Di Đà để cầu được về cảnh Cực lạc Tây phương. Đó là đối với người ít học, ham vui sợ khổ. Nhưng đối với người đã hiểu rõ lý niệm Phật tức là niệm Tâm thì ở đâu cũng thế thôi, bởi vì khi tâm đã thanh tịnh thì đâu đâu cũng là đạo tràng và cõi Phật cả. Lúc còn mê tướng phiền não, khổ đau có thật, do ngoại cảnh gây ra nên phải tìm cách lánh xa cõi trần, cầu mong về nơi Tịnh độ để hưởng lạc thú vĩnh viễn, nhưng khi đã ngộ rồi, biết rõ buồn vui, sướng khổ đều do tâm tạo thì chẳng còn lo sợ nữa. Tâm mang nặng ưu tư, tham luyến, sân hận, si mê thì ở cảnh nào cũng cảm thấy mình bị trói buộc đau khổ.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

(Kim Vân Kiều)

Trái lại, người ngộ đạo thư thái, hồn nhiên thì lúc nào cũng thấy mình được Giải thoát, và giờ phút nào cũng cảm thấy mình được sống trong Niết bàn, Tịnh độ. Phiền não, khổ đau chính là hạt giống Bồ đề, vì có phiền não, khổ đau thì tâm mới trở thành an vui, cho nên trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy rằng: “Phải lấy thân, tâm làm ruộng rẫy, lấy phiền não làm hạt giống, lấy Trí tuệ làm mầm mống, còn Như Lai thì ví như hoa quả, thóc lúa vậy.”

- Phật cũng dạy: “Thế gian này không thật, cũng không hư.” Thế giới Cực lạc Tây phương mà cho là không thật có khi nào tâm con người đã thoát vòng tục luỵ không còn bị phong trần làm vẩn đục nưa. Tâm mà an nhiên tự tại thì tâm ấy là tâm Phật, tâm ấy là cõi Tịnh độ, Niết bàn. Thế giới Cực lạc được coi là thật có khi nào ta còn cảm thấy khổ não, bất an, nhưng khi đã siêu lên mọi sự vui buồn, sướng khổ của tình người thì chẳng còn cần gì Niết bàn, Tịnh độ nữa. Xét ra thì Tịnh độ, Ta bà, hạnh phúc và khổ đau đều chỉ do tâm con người mà ra cả. Những danh từ ấy chỉ để cho người còn mê, mang nặng tâm phân biệt dùng mà thôi. Đứng trước mọi Phật pháp, muốn lựa chọn một Pháp môn nào thích hợp với căn cơ trình độ, tánh tình của mình, ta hãy tự xét kỹ lòng ta. Nếu còn cảm thấy đau khổ, buồn vui, sống chết đều thật cả, còn ham sống sợ chết, thì ta đừng ngần ngại mà chọn ngay Pháp môn Tịnh độ làm chốn dung thân, nương cậy vào Tha lực để “đới nghiệp vãng sanh”, thoát vòng Sinh tử. Trái lại, nếu ta tự xét thấy lòng mình đã đủ vững mạnh trước cảnh nghèo đói bần hàn, đứng trước tám ngọn gió thổi xuôi, thổi ngược mà lòng ta vẫn chẳng lung lay, coi phú quý, sống chết như phù vân, thì tha hồ muốn chọn Pháp môn nào tu cũng được.

b. Vấn đề thiện, ác cũng vậy. Không có cái tuyệt đối thiện hay tuyệt đối ác ở cõi đời này. Ta thường quan niệm những gì có tính cách xây dựng thì coi là thiện, còn cái gì có tính cách phá hoại thì coi là ác. Thật là lầm to! Bởi vì cái coi là nhơ bẩn, thối tha như phân bón hay nước tiểu mà người đời thường ghê tởm lại làm cho cây hồng tốt tươi trổ hoa thơm ngát, như vậy thì cái thối tha, nhơ bẩn của nước tiểu và phân bón phải được coi là Thiện chứ không Ác. Cũng như Âm không luôn luôn xấu và Dương không luôn luôn tốt. Cương và Nhu cũng vậy, cái nào cũng có đủ cả hai mặt thiện, ác. Khi cần đến Cương thì Cương là tốt. Khi cần đến Nhu thì Nhu là hay. Cần Tiến thì Tiến là tốt. Cần Thoái thì Thoái là nên. Cần duy trì thì giữ, cần xả thì bỏ, không nhất thiết phải câu nệ, khư khư trụ mãi vào một bên. Người đạt đạo cảm đâu ứng đó, tùy thuận Tâm Bi và Trí Bát nhã. Tu là đi từ chỗ tối ra chỗ sáng, diệt trừ phiền não, vô minh, cuối cùng phải vượt lên trên cả thiện lẫn ác, hữu và vô, mới mong thoát khỏi gọng kìm của Nhị nguyên, tương đối để đi tới Bình đẳng, Vô phân biệt, không còn danh ngôn khái niệm nữa.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu chuyện Bồ tát Văn Thù dạy Thiện Tài đồng tử về lý Bất nhị. Một hôm Bồ tát Văn Thù sai Thiện Tài vào rừng hái lá thuốc về dùng và dặn: “Hễ thấy thứ gì không phải là thuốc thì đem về.” Thiện Tài lùng kiếm khắp nơi, chẳng tìm được thứ gì không dùng làm thuốc được, đành phải trở về tay không, bạch lại sự việc với Thầy.

Văn Thù lại bảo: “Vậy thấy thứ gì làm thuốc được thì đem về đây.” Lần này Thiện Tài khệ nệ ôm về một bó lá thật to tỏ vẻ hân hoan đã làm vừa lòng Thầy.

Văn Thù cầm lấy mớ lá và nói với đại chúng: Đây vừa là tiên dược để trị bệnh, lại vừa là độc dược giết người. Không gì chẳng phải là thuốc vì khắp thế gian này toàn là thuốc cả bởi vì toàn thể nhân loại đều có bệnh. Vì có bệnh nên mới phải có thuốc. Vì có thuốc nên nhân loại mới bị bệnh. Thuốc và bệnh trị lẫn cho nhau và cùng nhau tồn tại. Nếu không có bệnh thì chẳng cần đến thuốc. Nếu không bệnh, không thuốc thì chẳng cần gì phải nói chuyện giữa chúng ta, ngay cả độc thoại cũng chẳng cần thiết. Suy rộng ra thì tất cả mọi pháp trên thế gian này chẳng có pháp nào thật là ác hay thật là thiện tuyệt đối cả. Cảnh giới Tịnh độ là nơi không còn cái ác nữa, đến cả cái thiện người ta cũng không lưu ý tới, bởi vì tất cả ở đây thuần thiện cả. Cái thiện không còn đối tượng để so sánh là cái thiện tuyệt đối, và cõi Tịnh độ thuộc về Bình đẳng giới trong Nhất nguyên tuyệt đối vậy. Khi còn ở thế giới Nhị nguyên tương đối, ta cần phải tích cực làm điều thiện, tránh điều ác, nhưng đã tới thế giới Nhất nguyên, ta phải siêu lên trên mọi tư tưởng đối đãi giữa ác và thiện đó mới là lập trường chân chính của đạo Giải thoát Tuyệt đối, Bất nhị.

Mục 12: Nhận Định Về Vấn Đề Xa Và Gần.

- Xa và gần do lòng mình đặt ra, tuyệt nhiên không do hoàn cảnh bên ngoài. Hai người không quen biết nhau không hề tưởng nhớ tới nhau, thì ở gần nhau mà vẫn là xa. Hai người thương nhớ nhau, nghĩ tới nhau luôn thì dù ở cách xa nhau hàng vạn dặm đường vẫn là gần nhau. Quốc sư Đại Đăng một buổi gặp Nhật Hoàng Đậu Đề Hồ tâu rằng: “Bệ hạ và thần xa nhau từ vô lượng kiếp mà vẫn chưa hề rời nhau trong phút giây. Bệ hạ và thần đối diện nhau suốt ngày mà vẫn chưa hề gặp nhau lần nào!” Đó là quan niệm về xa và gần của những tâm hồn đã vượt lên trên tất cả đối đãi phân biệt về không gian và thời gian để đứng trên mảnh đất trong sạch, “Cõi Tịnh độ của tâm.”

- Người theo Sự tướng cho rằng: “Cõi Tây phương Cực lạc thật xa, cách chốn Ta bà này hàng vạn ức cõi Phật”: đó là quan niệm của người chưa hiểu lý Bất nhị. Theo lý đó thì chỉ có một cõi Tịnh độ mà thôi và đó là tâm của ta. Người mê, khi niệm Phật cầu vãng sinh, coi cõi Cực lạc là nơi xa với sức yếu hèn của con người mang nặng nghiệp chướng thì khó lòng tới đó được, phải tận lực cầu khẩn Tha lực của Phật tiếp dẫn mới có thể được toại nguyện. Người có Trí tuệ, trái lại cho rằng chỉ cần thanh tịnh tâm mình là đủ. Làm cho tâm mình trong sạch tức khắc được sống trong Niết bàn Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, và điều kiện được về cõi Tịnh độ của tự tâm chỉ cần ngăn cản không làm tám điều tà, trừ mười điều ác, và cố gắng làm mười điều thiện là đủ. Về mặc tiêu cực, tám điều tà phải lìa là: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm và tà định.

Về mặt tích cực mười điều tiện phải thực hiện là:

1. Phóng sinh và tha thứ (thay vì giết hại và căm thù).

2. Bố thí (thay vì trộm cướp, tham lam ích kỷ).

3. Tôn trọng phẩm giá phụ nữ (thay vì tà dâm)

4. Nói lời ngay thẳng, thành thật (thay vì gian dối, quanh co).

5. Nói lời đoàn kết, ôn hòa (thay vì nói lời ác độc, chia rẽ).

6. Nói lời đoan trang, chân chính (thay vì nói thô tục, điêu ngoa, trái đạo lý luân thường).

7. Nói lời ân nghĩa, có ích cho đời (thay vì nói lời đòn xóc hai đầu và điều đâm thọc).

8. Vun trồng và thực thi những tư tưởng thanh cao, quý báu (thay vì có những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn).

9. Có lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả thương xót chúng sinh, coi người như mình.

10. Có tâm chân chính và hành động theo Chánh tư duy.

Mục 13: Nhận Định Về Dễ Tu Và Khó Tu - Tu Trong Thuận Cảnh Và Trong Nghịch Cảnh.

a. Dễ tu và khó tu.

Người đã “Minh tâm Kiến tánh” thấy tâm mình vốn “tịch” và tánh mình vốn “không.” Tâm tánh không tịch tức là Chân tâm. Tự tánh của mình xưa nay vẫn “Như thị”, không hình tướng, tịch tĩnh, lóng trong, an nhiên tự tại. Đó là thế giới Vô sai biệt và Vô phân biệt, đối lập với thế giới của giả tạo, vọng động, đầy phân biệt và sai biệt của trí giác. Nhưng cái thế giới của tri giác phân biệt và sai biệt lại chính từ chỗ tịch tĩnh, không tịch, mầu nhiệm của tâm linh sinh ra, cho nên người hiểu rõ lý Bất nhị và “Chân không Diệu hữu” của vạn pháp, thấy sự việc ở đời chẳng thực, chẳng hư, chẳng không, chẳng có, chẳng tâm chẳng vật một cách dứt khoát, mà mọi sự ở đời lại huyễn sinh, huyễn diệt, từ Tạng thức biến hiện, một cách huyền diệu, do đó mà tâm của người ấy bình thản trước cảnh buồn vui, phúc họa, dễ khó, thuận nghịch và sống chết như tâm của Bàng Long Ẩn Cư sĩ thuở xưa.

“Đản tự vô tâm ư vạn vật,

Hà tằng vạn vật thường vi nhiễu.”

- Trong Vũ trụ chỉ có một thế giới duy nhất, vô vi, tịch tĩnh, không sai biệt và không phân biệt của tâm. Nhưng ý thức của con người lại bị thói quen, thành kiến do Sở tri chướng tích lũy lâu đời biến cải cái Nhất tâm Chân như ấy thành thế giới hiện tượng nghìn sai muôn khác, phân hóa bởi vọng động và thể hiện trong nếp sống bình nhật. Thế là cái một biến thành cái vạn. Thế giới hiện tượng sai thù từ cái một sinh ra thì vạn hữu tức là Chân tâm nên ta nhận thấy Chân tướng của sự vật thì đã vén được bức màn vô minh che lấp chúng nên chẳng ý thức được điều đó thì ta cứ dấn thân mãi vào vòng mâu thuẫn vướng vít đầy phân biệt sai thù, khi nhìn sự vật ở đời hời hợt qua bề ngoài của hình danh, sắc tướng. Tu là để thấy rõ Chân tướng, Vô tướng của sự vật, thấy rõ lý Bất nhị của các pháp trên thế gian và sống trong ánh sáng Chân lý Vô ngã, Vô thường biến dịch của cuộc đời dâu bể. Khi mê còn giữ tâm phân biệt, còn thấy đời là bể khổ nên còn tìm mọi cách, hết chạy sang Đông lại chạy sang Tây để mong thoát khỏi Nghiệp báo Sinh tử, nhưng lúc đã ngộ rồi, hiểu rõ Nghiệp báo Sinh tử, khổ đau đều do tâm tạo thì không còn thấy buồn, thương, đau khổ nữa. Chỉ vì Biến kế Sở chấp mà người đời mới thấy buồn, vui, sướng, khổ, dễ tu, khó tu… mà thôi, chứ vạn pháp xưa nay vốn Vô tự tánh. Cùng một hoàn cảnh, nếu còn chấp có Ngã và Ngã sở, còn bị lệ thuộc vào Căn, Trần, Thức thì còn là phàm phu, còn phải gánh chịu khổ não, đau buồn. Nếu biết phá bỏ mọi chấp trước và giữ cho tâm trong trắng, phẳng lặng thì tuy sống trong Niết bàn thanh cao vui sướng. Nhưng làm sao biết được mình đang sống trong trần lao điên đảo, hay đang được hưởng cảnh tự tại, thanh lương? Phải sống chung với thiên hạ, lăn lộn trong cuộc đời phồn tạp mới biết rõ là tâm mình có còn bị tám ngọn gió thổi ngược, xuôi làm cho ta điên đảo hay không? Có bị thử thách trong cuộc sống hàng ngày mới biết rõ trình độ tu chứng của ta.

Đời sống, nhất là trong nghịch cảnh, là tấm gương trung thực để ta soi tỏ được lòng mình.

b. Nhận định về việc tu trong thuận cảnh và tu trong nghịch cảnh.

Không thể nào bảo thuận cảnh hay nghịch cảnh, cảnh nào dễ tu hay khó chứng, vì dễ, khó, thuận, nghịch đều tùy thuộc vào lòng mình, hoàn cảnh bên ngoài không có tự tánh riêng biệt. Cùng một bầu trời mưa tầm tã mà người nông phu đang khát khao có nước để tưới cây, cày ruộng, dù phải lội bùn ướt đẫm quần áo, vẫn thấy sung sướng như Trời ban cho vàng bạc. Còn người ở đô thị, đi ngoài đường phố, gặp cơn mưa bất thần, bị bẩn chân ướt áo, lại thấy khó chịu bực mình. Có người cho rằng thuận cảnh khó tu, vì đang sống hạnh phúc tràn trề với vợ đẹp con ngoan, danh cao lộc hậu, khó dứt bỏ công danh sự nghiệp hơn người nghèo túng, chẳng có một tấc đất cắm dùi, hay một đồng tiền dính túi, trong cảnh cơ cực, bữa đói bữa no. Với những gì mình đang nâng niu quý báu bỗng dưng lại coi như khói mây ảo ảnh thật là khó. Như Thái tử Tất Đạt Đa đương ở ngôi quyền quý cao sang tột đỉnh, bỗng dưng dứt bỏ ngay tất cả để sống cuộc đời khất thực, lang thang, thật ít người làm nổi.

Nhưng có người lại cho rằng sống ở cõi Ta bà cực khổ, gặp những cảnh gai mắt, nghịch tai mà làm ngơ, nhẫn được mới mau chứng ngộ. Như Đề Bà Đạt Đa là kẻ bạo nghịch đã tìm mọi cách để hại Bồ tát Đạt Đa, mà Ngài vẫn không mang dạ oán thù, lại còn nhớ công ơn kẻ đã làm cho mình chứng được Tứ Vô lượng tâm và đạt được lý Oán thân Bất nhị. Như vậy thì cả hai bên đều có lý. Ở trường hợp sau, coi người thân nghịch không khác. Ở trường hợp đầu, Bồ tát phải tìm đến những nơi lầm than cơ cực, lửa bỏng dầu sôi để chia sẻ nỗi khổ đau với những kẻ xấu số mong luyện Tâm Từ.

“Vô nhân kiến xúc, đạo quả nan thành”: không có nhân khiến cho tâm can xúc động thì đạo quả khó bề thành tựu. Cho nên người tu không sợ chướng ngại, vì có chướng ngại mới có duyên lành để tiến bước trên đường tu. Chướng ngại là thước đo Đạo tâm của hành giả. Với cảnh ngộ nào cũng tu huyễn, luyện Trí Bát nhã, coi sự việc ở đời là Vô thường, Vô ngã, nên luyện được Tâm Bi và Tâm Bình đẳng Vô phân biệt. Nếu nhận xét một cách khái quát thì cảnh thuận thường dễ khiến người đời chạy theo bả vật chất, do đó mà nhụt dần tinh tiến, mất dần Đạo tâm. Ở đời, ta hay bị hại bởi lời đường mật, ít ai bị chết bởi câu nghịch nhĩ chân ngôn, cho nên ở trong thuận cảnh cần phải đề phòng nhiều hơn ở trong nghịch cảnh. Bởi vì nghịch cảnh có tác dụng thức tỉnh lòng người, làm cho ta thoát ly được ác tưởng và cố gắng phấn đấu để vươn lên cao tới nơi Giải thoát rốt ráo; còn cảnh thuận lại âm thầm ru ngủ Tâm thức, làm cho con người dễ thoái đọa, trở nên yếu hèn vì quen sống trong nhung lụa, xa hoa. Nếu nói theo chiều thuận thì chúng ta ở đời này thật là ít phúc nên mới phải sinh vào cõi Ta bà trong thời mạt kiếp, không còn Phật tại thế nên khó tu. Nếu nói theo chiều nghịch thì chúng ta thật là tốt phúc mới được sinh ở cõi này, được gặp nhiều hoàn cảnh thuận tiện để hành Bồ tát đạo, luyện Tứ Vô lượng tâm và Lục độ Ba la mật. Dù ở hoàn cảnh nào, thuận hay nghịch ta cũng phải phấn đấu với lòng mình từng phút giây. Những ác tưởng là những phản ứng tự nhiên của Thức hay của bản năng mù quáng gây nên những hành động lỗi lầm, dẫn tới nghiệp quả bất thiện. Đó là những bệnh mà ta phải đề phòng cẩn mật. Để nhớ tới chúng ta phải dùng Trí để niệm. Mỗi người trong hoàn cảnh riêng của mình tự tìm cách để cảnh giác mình và nhớ tới Lương tâm hay Chân tâm, Phật tánh của mình. Nếu thực hành được điều đó là bước đầu ta dấn thân vào đường hành Bồ tát đạo. Ở cõi Trời cao tột tuy được hưởng nhiều hạnh phúc, không bị vật chất bức bách, nhưng lại thiếu những cảnh đau thương để thức tỉnh lòng mình. Trái lại, ở chốn trần gian khổ nhẫn này, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều cảnh ngộ đau buồn thì người có Tâm đạo khó cầm lòng được trước những thống khổ của tha nhân, nên mới mạnh dạn dấn thân vào vòng tục luỵ mà hòa quang đồng trần để cải hóa cõi Ta bà mong nó trở thành thế giới Cực lạc.

- Trong kinh Duy Ma Cật, Phật dạy ông Xá Lợi Phất: “Ông nên hiểu rằng người mù không thấy mặt trăng, mặt trời đó không phải là lỗi tại các tinh tú đó. Chỉ vì tâm của chúng sinh bất tịnh nên mới thấy cõi Ta bà này nhơ uế, xấu xa, chứ thực ra thì cõi thế gian này vốn vẫn trang nghiêm, thanh tịnh. Thế gian mà chúng sinh đang sống đây, xưa nay vẫn bằng phẳng, tốt đẹp, không có gai góc, hầm hố bẩn thỉu. Đối với Phật nhãn thì cõi Ta bà này lúc nào cũng đầy hương vị thơm tho.” Nơi nào đầy nước mắt đau thương, những nơi nước đọng, bùn lầy, chính là quốc độ mà Bồ tát tự nguyện dấn thân vào đó để thực thi bản nguyện của mình. Cũng ví như hoa sen thơm ngát và thanh khiết chỉ mọc ở chỗ bùn lầy hôi tanh, mà không thấy sinh ra trên gò cao sạch sẽ. Bồ tát cũng vậy. Các Ngài không trốn tránh cuộc đời lầm than, chỉ ưa vào chốn dầu sôi lửa bỏng, để xoa dịu vết thương của muôn loài đau khổ. Hạnh phúc ở đời phải tìm ở nơi vong thân xả kỷ, xa lìa những tư tưởng khinh mọn thấp hèn. Hạnh phúc đời chỉ có khi con người tìm thấy nguồn vui của mình trong niềm vui của thiên hạ. Niềm vui thanh khiết, bao la, chẳng ở đâu xa, mà buồn vui, sướng khổ, dễ khó, thuận nghịch trong việc tu hành, tìm sự Giải thoát đều ở đáy lòng mình.

Đời người không phải lúc nào cũng duyên dáng ngát hương như đóa hồng tươi, cũng chẳng phải lúc nào cũng buồn thương chán ghét như bụi hồng đầy gai nhọn. Hoa là hoa mà gai là gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái thuộc về gai là của gai. Không vì sợ gai nhọn chích vào da thịt mà ngại không dám hái hoa ngát thơm tươi đẹp. Cũng không vì quá yêu hoa mà lao mình vào bụi gai, bất chấp hiểm nguy để chuốc lấy tai biến. Người lạc quan cho thế gian này là tuyệt đẹp như cánh hồng nhung tươi thắm ngọt ngào. Người bi quan lại cho cõi đời tục luỵ này là nơi đầy gai nhọn gây khổ cực đau thương. Đối với bậc liễu đạo nhìn thế gian này “Như thị, như thị”, không hẳn tươi đẹp hay khổ đau một chiều, mà lại nhìn đời bằng cặp mắt thực tiễn, không buồn, không vui, không say mê vẻ quyến rũ của sắc hương, nhưng nhận định rõ Thực tướng vô tướng của hoa để hành động thận trọng cho khỏi bị gai nhọn đâm vào da thịt mà vẫn thưởng thức được tánh hoa của đất trời huyền diệu, thấy đâu đâu cũng là đạo mầu, đâu đâu cũng là Tịnh độ.

Chương 14: Nhận Định Về Không gian Và Thời gian

Mục 14: Lý Tương Đối Của Các Pháp Trong Vũ Trụ.

Danh hiệu Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức) và thế giơi Cực lạc Tây phương cách xa chúng ta hàng vạn ức Phật độ, đã gợi ý cho chúng ta nghĩ tới hai pháp Phương và Thời trong 24 pháp Tâm sở Bất Tương Ưng Hành của Duy thức tông cùng sự liên quan tương đối của vạn pháp trong. Vũ trụ Vậy ta phải có một nhận xét sao về Không gian và Thời gian?

- Theo Chân lý thì hai pháp này chỉ là những pháp hư giả, chúng không có tự tánh riêng biệt. Chúng Vô ngã. Đó là những sản phẩm do con người tạo ra, dựa vào sự xoay vần của trái đất quanh mình nó và quanh mặt trời. Rồi con người lại tạo ra nào là đồng hồ để đo thời gian, nào là thước tấc để đo không gian, với mục đích là cụ thể hóa những gì mơ hồ trong đầu óc. Giả sử trái đất này ngừng quay hay không còn mặt trời nữa, thì ý niệm về không gian và thời gian cũng tiêu tan luôn, đồng thời với ý niệm, nhỏ, to, trên, dưới, trong, ngoài, quá khứ, hiện tại, vị lai, v.v… sẽ sụp đổ tan tành cùng một lúc với toàn thể Vũ trụ. Do đó ta thấy không có gì tuyệt đối, thường tồn trong thế tương đối này cả. Cái này phải dựa vào cái kia để tồn tại theo lý “tương tức tương nhập,, trùng trùng duyên khởi, và Sự Sự nhất thiết vô ngại mà Kinh Hoa Nghiêm đã đề ra. Theo Chân lý thì không có một khoảng cách nào tuyệt đối xa hay tuyệt đối gần, cũng không có một quãng thời gian nào tuyệt đối mau hay tuyệt đối chậm cả. Không có một điểm nào trong không gian được coi là cố định, bất di dịch, có thể dùng làm tiêu chuẩn để ấn định vị trí cho các vật thể khác. Chữ “định tinh” thật là vô nghĩa và phải xóa bỏ trong Tự điển của loài người, bởi vì không có một vật thể nào trong Vũ trụ lại chẳng hằng chuyển. Do đó, tìm một thứ gì tuyệt đối độc lập và biệt lập hoàn toàn đối với các vật thể khác thật là uổng công. Toàn thể nhật nguyệt sơn hà trong bầu khí quyển mênh mông đều có những mối tương quan tương duyên chằng chịt với nhau, không thể tách rời nhau ra được. Tất cả đều nằm trong Tương đối mà nhà Bác học Einstein mới khám phá ra cách đây non một thế kỷ.

- Trong Lã Thị Xuân Thu có câu chuyện “Khắc Chu Cầu Kiếm” được Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trích dịch trong tác phẩm Cổ Học Tinh Hoa nói về một người đi thuyền vô ý đánh rớt thanh gươm ở giữa dòng sông. Anh ta liền đánh dấu vào mạn thuyền, nơi lưỡi kiếm bị rơi xuống nước và nói rằng: “Ta đánh rơi thanh gươm ở chỗ này đây.” Khi thuyền vừa cập bến, anh vội thuê người lặn xuống sông, nơi đánh dấu ở mạn thuyền để mò, nhưng tìm sao được thanh gươm ngay gần bờ sông? Thấy vậy, thiên hạ đều cười, chê anh chàng là ngốc. Thiên hạ chê cười vì anh ta đã không biết là con thuyền đã di động và thanh gươm đổi vị trí, tương đối với chỗ thanh gươm bị rơi. Đó là quan niệm của người xưa về nghĩa tương đối của không gian.

- Trong thi văn, người ta cũng thường thấy các văn nhân thi sĩ đề cập đến hiện tượng “thời gian ngừng trôi.” Thi sĩ Lamartine trong bài thơ “Le Lac” đã để lại những câu bất hủ:

Ô Temps! Suspends ton vol! Et vous, Heure propice, suspendez, votre cours!

(Thời gian hạ cánh chớ bay! Giờ Hoàng đạo xin ngừng ngay bước dồn!)

Các chàng si tình đều cảm thấy lòng mình như bị lửa đốt khi phải đợi chờ người yêu, vì mỗi phút đợi chờ dài hơn một thế kỷ! Trái lại, nếu được gần nhau trong một thời gian, rồi lại phải ly biệt thì thấy thời gian ở bên nhau đi mau quá mỗi khắc, mỗi giây tựa như mọc cánh tung bay!

- Với những người phải chịu cực hình ngồi trên ghế điện chờ chết, hoặc trên đống than hồng, cũng cảm thấy mỗi phút trôi qua là cả một thiên thu bất tận! Hiển nhiên là các văn nhân thi sĩ cũng như những gã si tình hay phạm nhân phải chịu cực hình đều cảm thấy thời gian chẳng phải là một cái gì tuyệt đối, hoàn toàn độc lập với thế giới chung quanh, mà lại tương đối, tùy thuận vào tâm thức của con người trong cuộc. Quan niệm về thời gian tương đối của Khoa học ở chỗ, trong thi ca, thời gian tương đối lâu hay mau tùy thuộc vào tâm của con người, còn trong thuyết tương đối của Einstein thì Thời gian tương đối lại là một hiện tượng Vật lý có thể kiểm chứng, đo lường được. Ở đây tôi chỉ xin nói sơ lược về thuyết tương đối của Einstein. Thuyết này có hai phần:

1. Tương đối đặc biệt hay thu hẹp (Relativite Spéciale ou restreime) công bố năm 1905, nói về các vật thể chuyển động đều và chịu ảnh hưởng về hấp lực của các Thiên thể khác trong Vũ trụ. Thuyết Tương đối đặc biệt hay tu hẹp được tóm tắt trong những đề tài về Tương đối của vận tốc của khoảng cách, của thời gian, và của khối lượng.

a. Tương đối về vận tốc: Một cậu bé chăn trâu đứng ở bên đường nhìn thấy một chiếc xe hơi chạy vụt qua trước mặt cậu rất nhanh. Nhưng lúc ấy một người ngồi trong toa xe lửa chạy với tốc độ nhanh gần bằng xe hơi, lại thấy chiếc xe hơi này chạy quá chậm, gần như bò trên mặt đường tựa một con ốc sên. Nếu xe lửa lại chạy nhanh bằng xe hơi, thì đối với người ngồi trong xe hơi hay người ngồi trong toa xe lửa, đều cảm thấy hai chiếc xe này cùng đứng yên không chuyển động, mà chỉ thấy cây cối, cột điện hay nhà cửa ở ven đường thi nhau chạy ngược chiều mà thôi.

b. Tương đối về thời gian: Một chiếc đồng hồ luôn luôn di chuyển, nghĩa là được mang theo với người đi du lịch, ngồi trên phi cơ, chạy với một nhịp độ khác chiếc đồng hồ ở yên một chỗ dưới đất. Đồng hồ được di chuyển càng mau bao nhiêu thì nhịp độ của chiếc đồng hồ ấy lại càng chậm bấy nhiêu. Một hiện tượng thường xảy ra cho người đi du lịch bằng phi cơ là phải điều chỉnh lại đồng hồ mang theo khi đáp xuống phi trường nước ngoài vì giờ địa phương nơi đến khác với lúc khởi hành. Người ta đã tính được rằng: trên một chiếc xe hơi chạy với tốc độ 90 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại một phần nhỏ của một giây đồng hồ trong một ngày. Vì thời gian quá ngắn nên ít người để ý tới, song sự chậm đó thực sự có xảy ra. Nếu được di chuyển trên một hỏa tiễn bay với tốc độ 150.000 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại 3 giờ 10 phút trong một ngày, và nếu lại được di chuyển nhanh bằng tốc độ của ánh sáng (300.000 c/s giây) thì chiếc đồng hồ này ngưng chạy! Thực ra thì đó chỉ là một giả thuyết mà thôi, bởi vì trên thực tế không có một vật nào trên trái đất này lại chạy nhanh bằng ánh sáng cả (trừ tư tưởng con người). Nhưng giả thử lại có một loại hỏa tiễn chạy nhanh tới 200.000 c/s giây, thì bằng phương pháp trắc viễn để đo nhịp tim, nhịp mạch máu và nhịp phát triển bộ phận trong cơ thể của phi hành gia sẽ thấy các cơ quan này hoạt động với nhịp độ chậm hơn lúc bình thường khi còn ở mặt đất, song phi hành gia ngồi trên hỏa tiễn đang bay lại chẳng cảm thấy có sự thay đổi gì khác thường cả, bởi vì các máy móc và lục phủ ngũ tạng của người đó đều hoạt động chậm lại như nhau.

- Những câu chuyện thần thoại như Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai hay chàng Từ Thức lạc vào Tiên động được sống với nàng Giáng Tiên trong một thời gian mặn nồng hương lửa, sau lại trở về cõi tục để ngao ngán tiếc rằng mình đã là người của thế hệ mấy trăm năm về trước. Hoặc những câu chuyện Khoa học giả tưởng trong đó có những người được đưa tới các hành tinh xa lạ, có nhịp độ quay chậm hơn trái đất, sau một thời gian sống thần tiên ở những phương trời xa lạ ấy sẽ thấy mình đã trải qua một thời gian lâu hàng thế kỷ so với đời sống ở trần gian.

c. Tương đối về khoảng cách: Khi một hỏa tiễn vọt lên trời, thì người ở dưới đất thấy hỏa tiễn ngắn hơn lúc nó còn nằm ở mặt đất. Ngược lại, người ngồi hỏa tiễn lại cảm thấy nhà cửa, cây cối và mọi vật ở dưới đất nhỏ bé và ngắn hơn so với lúc bình thường.

d. Tương đối về khối lượng: Theo Khoa học Vật lý cổ truyền thì khối lượng và Năng lượng là hai thứ hoàn toàn khác nhau và không bao giờ thay đổi (Loi de conservation de la maitère ét loi de conservation de l’ énergie). Einstein đã bác bỏ hẳn hai thuyết trên và cho rằng: Khối lượng của một vật thể tăng lên cùng với vận tốc của nó. Sự chuyển động hay vận tốc là một hình thức của Năng lượng, và sự gia tăng khối lượng của một vật thể kéo theo sự gia tốc hay Năng lượng của vật thể ấy. Einstein đã cô đọng thuyết này trong công thức E = MC² trong đó E (Energie) là Năng lượng; M (Masse) là Khối lượng của vật thể; và C (Constant) là hằng số 3 x 10.5 (10 mũ 5) tức tốc độ của ánh sáng. Công thức này có nghĩa là một vật chuyển động nhanh bao nhiêu thì sức mạnh của nó cũng tăng lên bấy nhiêu, do đó mà một hòn sỏi rơi gần mặt đất không gây ảnh hưởng gì cả, nhưng nếu nó lại rơi từ cửa sổ của một cao ốc chọc trời sẽ bay vun vút xuống và có thể gây tai hại khủng khiếp đối với những gì ở dưới đất, bởi vì sức mạnh (Năng lượng) của nó có thể bằng một khối đá lớn giáng xuống từ trên cao. Khi một vật ở nguyên một chỗ thì Năng lượng của nó bằng khối lượng của nó E = M. Như vậy theo Einstein, vật chất không còn là một thứ cố định, không thay đổi, như Khoa học cổ điển đã quan niệm lỗi thời nữa. Vật chất sinh ra Năng lượng, và Năng lượng sinh ra vật chất. Khối lượng và Năng lượng hỗ tương. Năng lượng có Khối lượng và Khối lượng có Năng lượng. Nói theo lối Phật giáo thì Khối lượng và Năng lượng tương duyên tương sinh, tương tức tương nhập với nhau chứ không biệt lập và độc lập. Các Khoa học gia ngày nay còn cho rằng: Bản thể của vạn hữu không phải là vật chất mà là Năng lượng (tinh thần) và toàn thể vạn hữu chỉ là Năng lượng mà thôi, vì nếu lấy Điện tử làm cơ sở cho vật chất thì nó không còn là vật chất nữa khi nó ở trạng thái tinh thể loãng và ba động, cho nên các tân Khoa học gia mới đi tới kết luận: “Vật chất là Năng lượng ở thể cô đọng. Và Năng lượng là vật chất ở thể loãng”, hay “Vật chất chỉ là Tinh thần ở trạng thái chậm lụt” (la matière n’est qu’un ralenti de l’. Esprit) bởi vì Điện tử, nền tảng của vật chất, lại không có khối lượng khi nó ở thể loãng. Theo phương trình của Einstein (E = MC²) thì khi người ta biến đổi hoàn toàn một gramme than đá thành Năng lượng thì sẽ được một số Năng lượng tương đương với 25 triệu kilowatt) giờ điện, đủ sức cung cấp nguồn điện lực cho một tập thể dân cư của một quận sử dụng tùy thích trong suốt một năm, hoặc có thể đun sôi 270 triệu lít nước. Còn nếu chỉ đốt cháy một gramme than đá theo lối thường thì nhiệt lượng phát ra chỉ vừa đủ để làm ấm một ly nước lạnh mà thôi. Nhiệt lượng sinh ra do sự đốt cháy là kết quả của sự phản ứng hóa học thông thường. Nếu cân số tro than còn lại và số thán khí bay ra thì ta sẽ thấy khối lượng vẫn bằng một gramme than đá nguyên chất. Phương trình E = MC² giải thích được tại sao mặt trời cùng các tinh tú có thể chói sáng rực rỡ và phát ra nhiệt độ hàng tỷ tỷ năm qua mà vẫn chẳng thấm vào đâu, còn nếu chúng bị đốt cháy theo lối thông thường, thì chúng đã bị tắt, giá lạnh và tiêu tan từ lâu rồi, chứ không thể còn tồn tại cho tới ngày nay nữa.

Công thức E = MC² đưa tới việc chế tạo ra nguồn Năng lượng nguyên tử. Để hình dung mức độ nguyên tử năng to lớn đến bậc nào, ta có những tài liệu sau: nếu phá hết một kilogramme Uranium, thì Năng lượng hoặc nhiệt lượng của 1kg uranium gấp 3 triệu lần nhiệt lượng của 1kg than đá đốt cháy theo lối bình thường. Sự biến đổi vật chất ra Năng lượng được ứng dụng vào việc chế tạo ra Pile hay bom nguyên tử. Cách 40 năm sau khi công thức Einstein ra đời, hoàn cầu có dịp được kiểm chứng bằng thực nghiệm của Khoa học, và toàn thể nhân loại thời đó đều bàng hoàng xúc động khi phải trả giá đắt cho cuộc thí nghiệm của hai trái bom nguyên tử ném xuống tàn sát hơn 35 vạn nhân mạng tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Vậy mà bom hạch tâm ngày nay với sức tàn phá của hàng triệu tấn thuốc nổ T.N.T, so với bom nguyên tử đầu tiên thời xưa còn mạnh gấp hàng ngàn vạn lần!

- Einstein lại còn đưa ra thuyết Không gian bốn chiều để đánh đổ quan niệm lỗi thời về Không gian ba chiều (rộng, dài và cao). Theo ông thì Không gian liên tục và thay đổi cùng với Thời gian trôi qua. Ông cho rằng: thuyết Không gian ba chiều không đủ để diễn tả Thực tại, mà còn cần phải thêm chiều thứ tư nữa là Thời gian mới đo được chính xác bởi vì quả đất không ngừng quay. Không những trái đất xoay quanh trục của nó mỗi ngày 40.000 cây số, và xoay quanh quỹ đạo mặt trời mỗi giây đồng hồ 30 cây số, mà nó còn bị lôi cuốn vào cơn lốc xoay tít của tất cả mọi vật thể khác trong Vũ trụ nữa. Muốn ấn định vị trí một phi cơ đang bay cần phải biết rõ phi cơ ấy ở kinh tuyến nào, vĩ tuyến nào, độ cao nào, và ở thời điểm nào nữa. Do đó để diễn tả vị trí của một vật thế đang di động (mà vật thể nào lại chẳng di động hoặc bị di động?), ta phải dùng đến quan niệm Không gian và Thời gian (Espace Temps), nghĩa là Không gian và Thời gian là một, “tương tức tương nhập, luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể duy nhất bất khả phân.

Không gian 4 chiều là hình của Không gian 3 chiều di động từng sát na. Thế giới mà ta đang sống là một khoảng bao la, vô giới hạn, trong đó mọi hiện tượng tâm vật và sinh lý đều diễn ra đồng thời ở trên hai bình diện Không gian và Thời gian, không thể tách rời hai phần đó ra được. Có Không gian là có Thời gian và ngược lại. Nếu vì một lý do gì mà Thời gian ngừng trôi theo như nguyện vọng của những chàng trai si tình như Thi sĩ Lamartine, hay một vật thể nào trong Vũ trụ lại đóng vai trò Định tinh, đứng yên một chỗ, không bị di động trong cơn bão lốc đang xoay tít của toàn thể, thì bao nhiêu tinh tú, sơn hà, nhật nguyệt của Vũ trụ đều bị ảnh hưởng tức khắc, theo lý “Trùng trùng duyên khởi.” Theo Einstein thì không có một điểm nào trong Không gian lại cố định cả. Toàn thể Vũ trụ đều ở trong Không, Thời gian 4 chiều, mật thiết liên đới với nhau. Sự cách trở được diễn ra đồng thời trên cả hai mặt Phương và Thời chứ không phải chỉ thuần ở trên mặt Không gian hoặc Thời gian mà thôi. Ánh sáng là một hình thức Năng lượng nên nó cũng có khối lượng (E = M). Khi ánh sáng xuyên qua những khối vật thể lớn thì nó bị hút bởi các vật thể ấy và đi theo một đường cong thay vì đường thẳng, bởi vì không gian ở đây cong hơn ở những nơi có vật thể tương đối bé. Sự có mặt của một vật thể trong Vũ trụ làm cho Không gian bao quanh nó bị cong lại, vì vậy mà không thể có được đường thẳng tuyệt đối theo kiểu Toán học cổ điển. Einstein cho rằng đường thẳng chỉ có ở những đoạn ngắn, còn ở quãng xa nó trở thành cong chứ không thẳng nữa, và những đường thẳng song song đều gặp nhau ở tâm điểm của trái đất. Cũng theo Einstein chỉ có thời gian địa phương chứ không có thời gian phổ quát, vì vậy mà ý niệm về “bây giờ” chỉ được áp dụng cho “ở đây” mà thôi, chứ không thể áp dụng cho một nơi xa xôi nào khác.

Tóm lại, theo thuyết của Einstein thì Không gian và Thời gian không được coi là hai thực thể cố định tuyệt đối độc lập và vô cùng tận. Hai thứ đó đều không có thực, cũng chẳng thực không. Nếu tách rời ra thì không có Không gian và Thời gian có tự tánh riêng biệt, mà chỉ khi nào chúng phối hợp với nhau chặt chẽ thành một khối duy nhất mới diễn tả được Thực tại. Trên thực tế thì Không gian chỉ là cái dùng để chỉ khoảng cách giữa hai vật thể, và Thời gian chỉ là cái dùng để chỉ sự liên hệ trước sau giữa các biến cố trong trời đất. Sự hiện diện của các vật thể và các biến cố kéo theo sự có mặt của Không gian và Thời gian. Không gian chỉ là một (Sự) trong những số lượng biến đổi (Vô ngã), và Thời gian chỉ là một (Sự) trong tương đối (Vô thường). Thế giới của Không gian và Thời gian chẳng qua chỉ là một ngục tù mà chúng ta khó lòng thoát ra khỏi, bởi vì chúng ta luôn luôn bị trói buộc trong vòng nhân duyên. Khi nào con người chưa tìm được một thế giới không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian như thế giới Cực lạc Tây phương của Phật A Di Đà (Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức) thì con người vẫn là một sinh vật khổ đau.

Ta nhận thấy: bằng đường lối quan sát các hiện tượng Khoa học ở đầu thế kỷ XX đã khám phá ra được Chân lý Tương đối trên mặt Không gian và Thời gian và cho nhân loại nhận thấy rõ thuyết Khối lượng và Năng lượng (E = M) hay vật chất và Tinh thần hoặc Tâm - Cảnh Nhất như.

Bằng đường lối thực nghiệm tâm linh, các Thiền sư trong đạo Phật đã nhận thấy rõ Chân lý Tương đối cách đây trên 2500 năm. Theo đạo Phật thì quan niệm Không gian và Thời gian là hai “Sự” khác biệt hẳn nhau hoàn toàn không đúng, và với lý “Sự sự vô ngại” Pháp giới thì Không gian và Thời gian không còn là hai “Sự” biệt lập và độc lập với nhau mà chúng hòa hợp với nhau như nước với sữa để trở thành một “Sự” duy nhất Không - Thời gian trên mặt danh từ cũng như trên mặt thực dụng.

- Một phương pháp của đạo Phật để đạt tới Thực tại tuyệt đối là loại trừ những cảm giác chủ quan do lục căn, lục thức của cá nhân tiếp xúc với lục trần, có tính cách “biến kế sở chấp” tánh và phân biệt tánh đã ghép vào Thực tại tuyệt đối. Duy thức học Phật giáo chủ trương dùng phương pháp “Thu thúc lục căn” để đạt tới Thực tại tối hậu, nghĩa là ngăn không để cho lục căn lục trần tiếp xúc với nhau. Nếu ta nhắm mắt, bịt tai lại, không nhìn, không nghe sự vật diễn biến chung quanh, ta vẫn còn thấy có một ý niệm về thời gian diễn biến bên trong, trôi đi không ngừng như một dòng suối âm thầm chảy. Ý niệm đó cho ta cái cảm giác miên tục của dòng sinh mệnh không chia cắt thời gian thành quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý niệm này có tính cách trực giác, không qua trung gian của một giác quan nào cả. Đồng thời lại có một ý niệm thứ hai xuất hiện: đó là ý niệm về Không gian. Những gì mà ta trông thấy quanh mình đều không phải là Thực tại tuyệt đối ở ngay chính thời gian mà chúng được quan sát, vì thực ra đó chỉ là bóng ma của những vật ấy trong quá khứ mà thôi.

Thí dụ như ánh sáng mặt trời mà ta nhìn thấy lúc này chỉ là thứ ánh sáng ở vào 8 phút đã trôi qua, vì ánh sáng phải mất 8 phút để đi từ mặt trời tới trái đất. Sự kiện trên cũng đúng với những vật ở quanh ta. Ở đây khoảng cách về thời gian trước sau tuy ngắn ngủi, song không vì thế mà ta có thể phủ nhận được nó. Sự cách trở như vậy đã xảy ra ở cả hai mặt Không gian và Thời gian, chứ không chỉ thuần túy diễn ra ở một phương diện nào mà thôi. Nói cách khác thì chúng ta nhìn ngoại vật không chỉ riêng về mặt Không gian mà còn cả về mặt thời gian trong quá khứ nữa. Do đó, không gian và thời gian, dưới con mắt của nhà Duy thức học rõ ràng có tính cách “tương tức tương nhập,, không hề cách biệt, độc lập và xa rời nhau.

- Toàn thể Pháp giới, Hư không giới đều bị không gian và Thời gian bao vây, khó thoát.

Mặt khác toàn thể Vũ trụ và Pháp thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, cảm ứng điều hòa, nhịp nhàng như tuân thủ một nhịp điệu huyền vi của một trái tim khổng lồ. Trái tim ấy là A lại da thức của toàn thể Pháp giới mà mặt trời là vật tượng trưng (hay là Phật A Di Đà được nhân cách hóa), là nơi phát nguyên của động lực sinh thành, theo luật trùng trùng duyên khởi” và “tương tức tương nhập, có diệu dụng ứng hiện ra muôn ngàn hiện tượng dung thông vô ngại, sinh sinh hóa hóa, từ vô thủy đến vô chung, góp phần vào mục tiêu đưa toàn thể thế giới tới đích “Chân, Thiện, Mỹ” - nguyên động lực ấy là cái “Thiên Địa chi Tâm” hay cái Tâm diệu dụng của người Giác ngộ dự phần đóng góp vào cứu cánh tròn đầy của Vũ trụ.

- Thể tánh của Không gian và Thời gian vốn Vô vi, Bất sanh Bất diệt, bất khứ bất lai, nên Không gian và Thời gian chính là Chân như, là Như Lai, hay cái Thể “Chân không Diệu hữu” của muôn vật, Không gian và Thời gian kết hợp lại tạo ra thế giới vạn hữu là đại Vũ trụ, con người là một tiểu Vũ trụ nằm trong cái khối đại Vũ trụ ấy, cho nên khi hành giả quán chiếu tự tâm, đi sâu vào nội giới để Kiến tánh thì bắt gặp Không gian và Thời gian bên trong và bên ngoài giao hội tại nội tâm. Khi ấy thì tâm của hành giả vượt qua mọi đối đãi giữa Hữu và Vô, nội và ngoại, trên và dưới… và cảm thấy một sự sống động liên tục, Bất nhị, hằng chuyển.

- Khi nói đến sự chứng ngộ về Hư không trong Thiền quán ở cõi “Thức vô biên xứ” và “Hư không vô biên xứ”, người ta đề cập đến chiều thứ tư là Thời gian. Nói cách khác thì Không gian và Thời gian mà ta vẫn quan niệm xưa nay là “Tĩnh” và bao la như một cái khung bất động, thực ra nó vẫn “Động” bởi vì Vũ trụ không ngừng quay và chiều thứ tư của Không gian, chính là đường gặp gỡ của Không gian và Thời gian cùng chuyển động. Về mặt tâm linh, sự tiếp nối giữa không gian và thời gian trở thành một sự đi sâu vào nội giới. Sự tiếp nối đó được diễn ra trong Tâm định, giữa lúc Thiền sư đi sâu vào nhập định Tam muội. Khi tiến sâu vào đáy lòng mình bằng con đường Thiền quán thì hành giả cảm thấy không gian và thời gian co rút ngắn lại, tưởng chừng như tụ vào điểm “Không” nhưng kỳ thực nó lại vươn lên, tiến tới bao la vĩnh cửu, vô cùng cực, ở chỗ thâm sâu vô đáy của Chân tâm. Trái lại khi ngó ra phía ngoài, hành giả lại cảm thấy không gian với thời gian như giãn dần và tỏa rộng, trải dài khắp nơi, tưởng chừng như đi tới cùng cực, mà thật ra nó lại biến vào hư vô, không thấy tăm hơi, cho nên mỗi phút giây trong Thiền quán vào Hư không Vô biên giới ví tựa thiên thu vô tận. Trong sự dung thông dung nhiếp của Không gian và Thời gian, nghĩa là trong cái “nhất điểm tối hậu và vô lượng” nối liền sát na với A tăng kỳ kiếp, nối liền “nhất niệm, vạn niên” và “vạn niên, nhất niệm” ấy có nhiều tên gọi khác nhau, nào là: Số không, giọt nước, cái hạt, cái mầm, tinh trùng, điện tử, đương xứ… Đó là nơi khởi điểm của một Tâm Định, từ đó sức Thiền quán lần làn tỏa rộng, bao la, khắp pháp giơi, đồng thời cũng là nơi chấm dứt của mọi sự thể nhập. Chính tại nơi tụ điểm này mà không gian bên trong và bên ngoài gặp nhau tại nội tâm, để cùng tại đây mà không gian trong và ngoài hòa nhập với thời gian. Hành giả lúc đó cảm thấy sự hiện diện của nó ở nhịp đập âm thầm của con tim.

- Đối với Thời gian, đạo Phật cho rằng: Quá khứ, Hiện tại và Vị lai liên tục ví như một dòng suối hằng chuyển không ngừng. Người tu hành sống thư thái, ung dung, không quan tâm tới thời gian qua lại, hòa hợp với thiên nhiên trong nhịp vận hành của toàn thể Vũ trụ. Muốn hiểu quan niệm nhân sinh trên ta hãy đọc bài kệ sau đây:

Chư hành Vô thường.

Thị sinh diệt pháp.

Sinh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc?

Chữ “Hành” ở đây bao gồm cả ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tư tưởng và hành động của ta đều là những pháp Vô thường, luôn luôn sinh diệt. Khi đã siêu lên trên sự Sinh Diệt của các pháp, không trụ tâm vào đâu cả thì con người được an lạc, tự tại, ở trong cảnh tịnh tĩnh Niết bàn. Vậy muốn thoát vòng tử sinh, phải xa lìa các pháp hữu vi sinh diệt. Tâm không được trụ vào bất cứ điểm nào của không gian và thời gian.

- Như trên đã nói: Không gian và Thời gian là những pháp tương đối, “tương tức tương nhập,, dung thông với nhau theo lý Sự Sự vô ngại Pháp giới. Những điểm không gian và thời gian tiếp nối nhau như những hạt điện âm dương trong một dòng điện để đi đến chỗ không còn phân biệt nổi đâu là không gian, đâu là thời gian nữa, bởi lẽ không có một sự vật nào ở yên tại chỗ mà không bị xê dịch từng sát na theo cái đà hằng chuyển của toàn thể Vũ trụ trong cơn lốc Vô ngã, Vô thường. Dù cách xa tới đâu, dù lâu dài bao nhiêu thì không gian và thời gian cũng chỉ là ý niệm hay những pháp mê vọng do tâm con người tạo ra mà thôi. Chính mê vọng đã dệt thành màng lưới không gian và thời gian để giam hãm tâm hồn chưa Giác ngộ. Còn sống trong thế giới Nhị nguyên tương đối, phân biệt và sai biệt. Thực tại về Không gian và Thời gian vốn là “Chân không Diệu hữu”, bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Rời bỏ mê vọng, diệt trừ những tư tưởng phân biệt và sai biệt thì khoảng cách dù to đến đâu cũng chỉ ở trong gang tấc, và thời gian, dù lâu dài đến đâu, cũng chỉ ở trong phút giây. Cực lạc hay Ta bà chỉ do một niệm của tâm khởi. Khoảng cách ngàn trùng vẫn là khoảng cách của mê vọng và Cực lạc Tây phương vẫn ở trong cuộc sống bình thường này và ở tại đây. Thực tại thì Nhất Như không biến đổi, chỉ có Tâm vọng động của con người mới chuyển biến không ngừng.

- Ta nghĩ sao về con số “Ba A tăng kỳ kiếp” (Số 3 kèm theo 47 số không) là thời gian cực dài của lối tu Tiệm ngộ, theo Sự tướng hữu vi, hay lối tu đãi Phú so với một Niệm hay Sát na Tam muội (1 giây đồng hồ chia cho 10, kèm theo 43 số không, 1”:10 mũ43) là thời gian cực ngắn của Giác ngộ tại tâm, hay trực giác tâm linh, theo lối tu đốn ngộ của Vô vi pháp phải chăng chỉ do một cử chỉ quyết liệt, cực nhanh của tư tưởng quay đầu trở lại, dứt khoát từ bỏ ác niệm, đoạn tuyệt nếp sống xưa, thay vì hướng ngoại chạy theo tiếng gọi của vật chất, tham, sân, si, phù du biến ảo lại hướng nội, Kiến tánh, để làm sáng tỏ những đức căn bản sẵn có của tự Tâm, tìm về với Lương tâm, Phật tánh của mình.

- Biết vọng là Chân. Biết là mê muội mà từ bỏ mê muội thì liền trở thành Phật sáng suốt, Giác ngộ. Ta phải biết Chết đi để sống lại, chết đi những nết xấu tật hư của thất tình lục dục để được Giải thoát khỏi cái Ta điên dại, điên cuồng, chỉ quen phân biệt ngã, nhân, để sống theo ý nghĩa thiêng liêng cao cả của Chân lý “Vạn vật đồng nhất thể”, “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một.”

- Khi đã từ bỏ được quan niệm sai lầm về Không gian và Thời gian là hai thực thể độc lập tuyệt đối và vô cùng tận ta cũng rời bỏ được quan niệm sai lầm về mạnh và yếu, lớn và nhỏ tuyệt đối, về một và nhiều, về quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc đó ta không còn phân biệt nữa, và ta có thể “đem quá khứ và hiện tại đặt vào tương lai, đem tương lai và hiện tại đặt vào quá khứ, đem quá khứ và tương lai đặt vào hiện tại, đem một niệm đặt vào trong muôn niệm, đem muôn niệm đặt vào trong một niệm, đem muôn kiếp đặt vào trong một sát na…

Dùng tâm Bình đẳng Vô phân biệt nhìn Vũ trụ ta sẽ thấy không những một hạt bụi chứa cả không gian vô cùng mà còn chứa cả thời gian vô tận nữa, và một niệm không những chứa không gian vô biên mà chứa cả thời gian vô hạn nữa, nếu ta biết nhìn sự vật không hời hợt qua sắc tướng bề ngoài, mà lại nhìn sâu vào cốt lõi, chân thể của chúng ở bên trong, hay nếu ta biết nhìn sự vật, qua lăng kính “tương tức tương nhập,, trùng trùng duyên khởi và nhất thiết vô ngại. Với nhãn quan ấy ta sẽ thấy: phải có cái này mới có cái kia, cái này là cái kia, cái kia là cái này… Tất cả những diễn biến trong Vũ trụ đều do sự suy động của ngọn gió nghiệp và luật Nhân quả tuần hành. Sự diễn trình biến đổi của vạn hữu có tính cách tuyệt đối Bình đẳng. Không có một vật nào quan trọng hơn vật nào bởi lẽ vạn vật đều Vô tự tánh, Vô ngã, Vô thường như nhau.

Theo quan niệm “Nhất trần Pháp giới” thì một hạt bụi chứa đủ những bí ẩn ngang các tinh cầu, và bao hàm cả tam thiên đại thiên thế giới. Dưới con mắt của nhà Vật lý học đương thời, họ cũng nhận thấy rõ là Vũ trụ đồng nhất thể, dù là Tinh cầu, Nhật nguyệt, côn trùng hay chất óc của con người, tất cả đều được cấu tạo bằng những nguyên tử như nhau. Trong mỗi nguyên tử có cùng một loại vi trần là Dương điện tử và Âm điện tử cùng Trung hòa tử. Nếu phân tích đến cùng cực thì chỉ còn là một hệ thống về vật chất tiêu tan, và cái gì cũng vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa là vi trần vừa là làn sóng; vừa là Vật lại vừa là Tâm. Khuynh hướng của những nhà Vật lý học ngày nay là quy cả Vũ trụ vào trong các làn sóng điện ngắn dài.

Vật chất không thường còn mãi mãi mà nó có thể biến đổi giả diệt giả sinh. Hễ vật chất diệt thì năng lực sinh, mà năng lực diệt thì vật chất lại sinh. Năng lực (tinh thần) và vật chất thay phiên nhau biến hóa. Cái tướng sinh diệt của vạn hữu do đó chỉ là giả tướng, còn Bản thể của chúng thì không hề sinh diệt. Và như vậy thì Khoa học ngày nay cũng đi tới kết luận như Phật giáo là: Thế giới vật chất hữu hình thật ra chỉ là những bóng hình không tướng, Bất sanh, Bất diệt, Bất giảm, Bất tăng (Rien ne se perd, rien ne se créé - Loi de Lavoisier) và chứng minh được câu: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc…” của Bát nhã Tâm Kinh, cũng những câu: “Ba A tăng kỳ kiếp chẳng khác một Sát na”, “Trong một hạt bụi chứa cả ngọn núi Tu Di”, “Ở đầu một sơi lông hiện ra mười phương cõi Phật”, và “ngồi trong hạt cải mà chuyển được Đại Pháp Luân” của Kinh Hoa Nghiêm. Ta cũng thấy rõ ý nghĩa những câu trong bài Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, do Trúc Thiên dịch dưới đây:

Khoảnh khắc là vạn niên

Mười phương trước mắt liền.

Cực nhỏ là cực lớn

Đồng nhau, bặt cảnh duyên.

Cực lớn là cực nhỏ,

Đồng nhau chẳng giới biên.

Một tức là Tất cả,

Tất cả tức là Một.

Quý hồ được như vậy,

Lo gì chẳng tròn đầy.

- Theo tài liệu của khoa Vật lý học ngày nay thì trong một giọt nước có khoảng 6 triệu triệu tỷ nguyên tử. Nếu một người chỉ nhỏ bằng một hạt nguyên tử thì toàn thể dân tộc Việt Nam 60 triệu người, ngồi quây quần sát vào nhau, chỉ chiếm một khoảng nhỏ xíu trên đầu một chiếc kim gút mà thôi. Hình ảnh này trung hợp với câu thơ của một Thiền sư đời Lý:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng,

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.

(Càn khôn rút lại đầu lông xíu.

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng).

- Khoa học ngày nay đã nhận thấy rằng nguyên tử tuy rất nhỏ, song điện tử (Electron) mang tính chất Âm điện, Proton mang tính chất Dương điện và Neutron hay Trung hòa tử, mang thành tính chất trung tánh, ba thứ này hợp lại tạo thành một hạt nhân nguyên tử, còn nhỏ hơn nguyên tử hàng 2 tỷ lần. Nếu một nguyên tử to bằng một quả bóng lớn thì hạt nhân nguyên tử chỉ bằng một hạt bụi nhỏ mà thôi. Trong khoảng gần như trống rỗng chung quanh hạt nhân nguyên tử thì các hạt Điện tử Electron quay trên một quỹ đạo tròn hay đẹp, chẳng khác nào những hành tinh quay chung quanh mặt trời vậy. Hạt cải tuy nhỏ so với Vũ trụ, cũng như hạt nhân nguyên tử so với nguyên tử tuy chẳng ra gì song chúng đã được tạo lập trên sự liên hệ của toàn thể. Tất cả Vũ trụ đều hòa hợp trong một tấu khúc chung để tạo nên hạt cải hay hạt nhân nguyên tử, cũng như hạt nhân nguyên tử đã hòa hợp với toàn thể để tạo ra nhật nguyệt, tinh cầu. Cái cực đại phải dựa trên cái cực tiểu để tồn tại. Không có cái cực tiểu thì không thể có cái cực đại được. Càn khôn nằm gọn trên đầu một sơi lông tơ chính là ý nghĩa ấy. Sự lớn nhỏ sai biệt trên mặt Sắc tướng và hiện tượng không còn là sự lớn nhỏ nữa nếu ta đứng trên bình diện tuyệt đối Bình đẳng và dưới cặp mắt của nhà tu hành đạt đạo, sống với tâm Vô phân biệt, hay sống với lý Bất nhị và Sự Sự nhất thiết vô ngại. Hiểu lẽ mạnh yếu, lớn nhỏ của các pháp trong vòng tương đối, lại hiểu lẽ Sống Chết chỉ là thường tình trong cõi đời này thì tâm của người đạt đạo lúc nào cũng tự tại an lạc.

Mục 15: Vũ Trụ Và Con Người

Đứng trước Vũ trụ bao la, giữa không gian và thời gian rộng lớn bất tận, con người phải đóng một vai trò như thế nào để xứng đáng với địa vị của mình trong Tam Tài? Con đường lý tưởng phải chọn để tiến tới đỉnh vinh quang hạnh phúc tuyệt đối phải ra sao? Và sự liên hệ mật thiết giữa con người biết suy nghĩ với Vũ trụ vô hồn phải như thế nào? Đó là những mối ưu tư chính đáng và những hoài bão thiết tha của những người có Đạo tâm.

- Xét ra thì Con người và Vũ trụ chỉ là Một theo lý Vạn vật đồng nhất thể. Cả hai đều phải chịu chung quy luật Sinh, Trụ, Dị, Diệt trong guồng máy dịch biến chu trần: Nguồn sống là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống mầu nhiệm cao cả, thiêng liêng tràn lan khắp nơi, triền miên, ẩn hiện, có mặt trong toàn thể các sinh vật, từ cỏ cây côn trùng, muông thú… cho tới loài người. Thậm chí đến cả những khoáng chất, những thể xác vô giá vô tri vẫn có sự Sống, vì hễ đâu có điện tử là ở đó có sự Sống. Mọi sự vật trên đời này chẳng gì không là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống là ánh sáng. Trí tuệ biến chiếu muôn phương. Nguồn sống được thần linh hóa dưới nhân cách Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật A Di Đà. Đứng trước sự sống thì muôn loài như nhau. Ai làm ngăn trở nguồn sống, xúc phạm tới sinh mạng của kẻ khác, vật khác thì người ấy đắc tội với Phật, Trời. Đạo và Phật ở ngay trong lòng ta, sở dĩ ta chưa thấy được Phật của mình chỉ vì Phật ở trong ta còn bị giam giữ (Như Lai tại triền). Nếu ta biết làm sáng tỏ chiếc đèn lòng của mình để vô minh tan biến, thì Đức Phật A Di Đà của ta sẽ xuất triền và tỏ rạng.

- Theo lý Bình đẳng của các pháp thì chẳng phải Tâm có trước hay Vật có trước, mà Tâm, Vật đồng thời có. Vật sở dĩ có là do tâm biến hiện, mà Tâm biến hiện vì có huyễn tướng vật thể tồn tại. Tâm Vật hòa hợp tương tức tương nhập mới là Thể viên mãn tạo ra Vũ trụ vạn hữu.

- Chẳng phải vì thích ứng với hoàn cảnh mà con người tồn tại trải qua quá trình chuyển biến từ cấp sinh vật hạ đẳng, leo dần tới địa vị con người. Chẳng phải vì sự tuyển lựa tự nhiên và đấu tranh đào thải mà con người hiện hữu. Không có một định mệnh khắt khe nào an bài số phận con người. Không có một vị Thần Linh nào ban ân giáng họa cho ai cả. Cũng không phải vì ngẫu nhiên, vô tình hay hữu ý mà vạn vật xuất hiện, mà chính là do nhân duyên mà vạn hữu được kết hợp. Mọi vật đều giả diệt, giả sinh thuận theo luật Nhân quả Nghiệp báo tự nhiên mà hiện hữu… Hạnh phúc hay không đều do mình tự tạo. Trên lý Vô ngã, Vô thường, đạo Phật đã xây dựng thuyết Duyên khởi trùng trùng để làm sáng tỏ lẽ sống chết, nào là: Nghiệp cảm duyên khởi, Lục đại duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi và Pháp giới trùng trùng duyên khởi.

- Thiên nhiên, con người, bản năng và tâm linh đều biến đổi không ngừng. Sự khác biệt giữa con người và vạn hữu chỉ ở phần sắc tướng, hình hài, tùy nghiệp thức phải mang. Con người và vạn hữu đều cùng chung một cấu trúc. Một tế bào trong cơ thể con người giống như của Vũ trụ, do đó tâm con người là tâm điểm của Vũ trụ, còn xác thân tứ đại của con người là khung cảnh của đại Vũ trụ thu hẹp lại. Vũ trụ hằng chuyển trong con người, và mọi định luật dịch biến trong Vũ trụ đều áp dụng cho con người cả hai phần Danh và Sắc. Do đó con người phải có bổn phận cao cả như Vũ trụ mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn.

Sinh ra, lớn lên, làm việc để trả nợ cơm áo, con người thấy mình, khi bước vào đời, mang một nhiệm vụ cao cả, là phải gánh vác cho sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại. Nếu có một sự vô tình lảng tránh trách nhiệm chung ấy, của một phần tử nào trong xã hội loài người, thì đó chỉ là bức màn vô minh rủ xuống chỗ đó để che lấp phần linh quang riêng của phần tử đó mà thôi. Bước chân vào đời, con người không thể tự coi mình đứng ngoài vòng Vũ trụ và xã hội loài người, hay coi Vũ trụ và nhân loại là đối tượng khách quan với mình. Nhiệm vụ đồng hành của con người và Vũ trụ được thể hiện ở sự tiến hóa chung của nhân loại trong mối tương quan chằng chịt Nhân quả trùng điệp của mọi người trên trần gian. Bởi vậy sống ở đời theo đúng nghĩa của chữ Sống, phải hành động như một sinh linh có ý thức trách nhiệm cao, nhận gánh vác sứ mạng do Vũ trụ vĩ đại đặt lên đôi vai nhỏ yếu của mình, có như thế thì con người mới khỏi bị tấm màn vô minh vây bủa, đưa đẩy mình vào con đường ích kỷ nhỏ hẹp, chỉ biết có phận mình, không thấy quyền lợi của tha nhân, sống thản nhiên góp mặt với đời cho qua những ngày vô vị để rồi trở về với cát bụi, tàn lụi như cỏ cây.

Nhìn dòng nước chảy hay đám mây lơ lửng bay, là thấy cảnh vật mỗi lúc mỗi đổi mới. Đời người cũng vậy. Dòng nước sau đẩy dòng nước trước chảy mau về đại dương. Thế hệ người đi sau thôi thúc lớp người đi trước phải dồn bước về tương lai. Thế hệ hiện tại có trách nhiệm đối với thệ hệ mai sau. Lớp người đi trước mang di sản của tiền nhân để lại trao cho thế hệ đến sau cùng với công sức của mình.

Những bước tiến gắn liền trách nhiệm của mọi người trong một thời đại và mọi khung cảnh, chẳng những đối với các bạn đồng ngũ ngày nay mà cả đối với những người ở các thế hệ mai hậu nữa. Hai tiếng “nhân sinh” mang cả hình thức của không gian sinh động và của thời gian chuyển biến không ngừng.

Cá nhân không thể sống tách rời khỏi cộng đồng xã hội loài người, mà xã hội nhân quần cũng không thể tồn tại nếu vắng bóng cá nhân. Đời sống xã hội đã gắn liền với đời sống cá nhân theo lý Cộng nghiệp, Tự nghiệp, và Cộng biến, Tự biến trong thế liên hoàn trùng trùng duyên khởi.

Nhìn dòng nước chảy, ta thấy có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giọt nước trong dòng suối với nhau để tạo thành một dòng suối luân lưu bất tức. Dòng nước ngưng chảy nếu các giọt nước bị đứt đoạn, mất keo sơn gắn bó. Cuộc đời cũng vậy. Dòng đời lơ lửng nhân thế nổi trôi. Bọt nước Vô thường biến hiện ở nơi đầu ghềnh Sinh tử. Xã hội nhân sinh, tập thể biến dịch hằng chuyển mang sắc thái mông lung, nhưng vẫn giữ được cái tánh đặc thù, vì trong cái Thể chung vẫn có Tướng, Dụng riêng. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận cái Thể chung ấy mà xóa bỏ những nét dị biệt của nhóm nhỏ, để tiến tới sự nhận định về thiết lập một xã hội Chủ thể duy nhất là xã hội của toàn thể loài người nói chung. Không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, văn hóa, Tôn giáo…

Nhân loại là Thể tánh không riêng tư, còn cá nhân và các đoàn thể quốc gia và đảng phái chính trị là những hình thức dị biệt sai thù, quyền lợi khác nhau. Xã hội của toàn thể loài người hiện nay đang lâm vào tình cảnh cốt nhục tương tàn, cá lớn nuốt cá bé, gây bởi lòng vị kỷ cá nhân. Chữ “Cá nhân” ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là đoàn thể quốc gia mang nặng tính chất phân biệt chủng tộc và sắc thái ái quốc bộ lạc cuồng nhiệt. Chúng ta hãy mau dẹp bỏ mọi tư tưởng kỳ thị đưa tới những chế độ chủng tộc hẹp hòi ác độc, dã man, phát xít, những chế độ nuôi dưỡng và bám giữ lấy những quyền lợi cá nhân, gia đình và quốc gia nhỏ bé, để nới rộng vòng tay nhân ái bao quát, tiến tới sự liên kết và thiết lập một cộng đồng hay đại gia đình của loài người nói chung bằng tình thương thay vì tranh chấp hận thù. Hãy công bằng, nhân ái với mọi người, diệt trừ ngã ái, ngã si, hiểu sâu lẽ phải là mọi sự vật đều Vô ngã, Vô thường, Biến dịch, nhưng lại diễn ra trong thường hằng của bậc thang tiến hóa chung.

Đám mây u ám với những sấm sét ầm ầm còn kéo đến bao phủ đe dọa khắp nơi, một cơn bão khủng khiếp có thể tận diệt muôn loài, nhưng đó lại có thể là triệu chứng một cơn đau của một cơ thể đầy nhựa sống, cố sức vươn lên, chuyển biến, từ trạng thái vô minh đến Tuệ giác, từ cuồng loạn tới thái bình thịnh trị vĩnh cửu, để loại bỏ những cặn bã mà trở nên tốt đẹp. Mây đen tuy kéo đến bao phủ bầu trời, nhưng nếu lại được một ngọn gió dịu hiền cuốn sạch, thì nền trời xanh biếc lại phô bày màu thiên thanh tươi mát. Sự cứu vãn nhân loại bắt đầu từ sự cứu vãn tâm linh của từng cá nhân ý thức được hiểm họa của một sự tận diệt muôn loài, biết quay đầu về Chân lý, và trở về với Chân tâm, Phật tánh của mình.

Mục 16: Đạo và Đời

Sống giữa một kỷ nguyên mà Khoa học được tôn sùng như một vị Thần linh uy quyền vạn năng, có thể làm mưa làm gió biến đổi thời tiết, chế ngự thiên nhiên, chuyển những vùng sa mạc cát bỏng khô cằn thành những đồng ruộng phì nhiêu, phá băng giá, lấp cạn biển, bạt núi rừng, ngăn thác nước, đem điện lực của Trời và sức mạnh của sóng, nước, gió, lửa phục vụ cho con người nâng cao đời sống của nhân loại ngang hàng Thần tiên, nhưng cũng có thể bắt sinh linh đi ngược trở về đời sống hang động thời Tiền sử.

Ta cần phải biết rõ mặt trái, mặt phải của Khoa học ra sao, cùng những điểm dị đồng giữa Khoa học và Đạo học (nhất là đối với Đạo Phật) để tìm một con đường lý tưởng, thích hợp với loài người, và để người người cùng nhau, tay trong tay siết chặt đem hết tâm lực ra cùng xây dựng một đời sống mới tốt đẹp hơn.

- Điểm giống nhau giữa Phật giáo và Khoa học hiện đại là từ 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã đẩy lui vấn đề siêu hình ra phía sau hậu trường hoạt động, đẩy lui những tư tưởng khổ khan, trừu tượng để báo động tình trạng khẩn trương về thân phận khổ đau của con người.

Giống như các tư tưởng gia đương thời. Phật giáo đã thức tỉnh con người ý thức được chình mình và giúp con người nhận thức được hoàn bị hơn, lại chỉ cho con người phương thức để tự Giải thoát, không như những Triết gia hiện đại nhìn cuộc đời thấy hoàn toàn là phi lý, xấu xa và bi quan chán nản đến buồn nôn, không giải quyết được gì cả. Trái lại, đạo Phật với lý Vô ngã, Vô thường và Tứ Diệu Đế đã bao hàm ý thức Giác ngộ về mình và người, đã chứa sẵn một năng lực Giải thoát cho toàn thể.

Chỗ giống nhau ở hai bên ở điểm nhà Khoa học dùng trí phân biệt của sáu thức để suy gẫm tìm tới lý tưởng biến hóa sinh diệt của sáu trần, nhưng ngoài trí phân biệt ấy Phật giáo còn dùng cả cái Trí Vô phân biệt làm công cụ quán chiếu tự thân. Đối tượng nghiên cứu của Phật học chẳng hạn cuộc ở sắc, thanh lục trần mà còn ở Tâm pháp và Vô vi pháp nữa. Nhà Khoa học ngày nay tuy đôi khi cũng dùng Tâm để nghiên cứu trong địa hạt Điện tử, nhưng đối với bản thân của Tâm thì lại bỏ quên, hay chỉ nghiên cứu qua loa, hời hợt và nguyên nhân không ngoài hai lý do:

a. Khoa học thường vẫn cho Tâm và Vật là hai đối tượng riêng biệt và cho rằng hiện tượng của vật chẳng phải do cái Tâm chủ quan có thể thay đổi được nên họ cho là đã nghiên cứu hiện tượng của vật chất thì hà tất còn phải nghiên cứu Tâm lý nữa.

b. Dù có một số Khoa học gia đã nhận thấy tầm quan trọng của Tâm và đem Tâm ra khảo cứu, nhưng công cụ để khảo cứu lại vẫn dùng cái Tâm phân biệt, Nhị nguyên, chứ không dùng cái Tâm Vô phân biệt, nhà Tâm lý học ngày nay vì đã dùng những công cụ không tinh xảo là cái Thức chủ quan để nghiên cứu, nên những gì mà họ khám phá được trong khu bí ẩn của Tâm chỉ là một mớ ít ỏi những hiện tượng hoặc phản ứng của Tâm lý trên Sinh lý, còn đối với những pháp như Tâm vương, Tâm sở trong Bách pháp thì vẫn chưa thu hoạch được gì đáng kể.

Đối tượng thực hiện của Phật giáo chẳng phải là vật chất thô kệch mà là Tâm pháp tế vi, nên công cụ và phương pháp dùng để thực nghiệm chẳng giống như công cụ và phương pháp dùng trong các phòng thí nghiệm.

Khoa học đưa đến cái biết dựa trên Thức biến đổi từ lúc này qua lúc khác, còn Phật học lại đưa đến cái biết dựa vào tâm ngàn đời không thay đổi.

Đó là cái biết “thực biết” bắt nguồn từ “Chân” còn cái biết của Khoa học do Vọng mà có. Làm sao có thể so sánh Chân với Vọng, cũng như hạt châu với mắt cá được, tuy vẫn biết Vọng phát xuất từ Chân, và chẳng thể lìa Chân mà có được.

Vì cái biết của Khoa học là cái biết tương đối, nên cái Hành do đó chứa đầy mâu thuẫn, khổ đau. Sự phát triển của Khoa học kỹ thuật tân tiến, với các máy tính điện tử, các máy truyền thanh, truyền hình tối tân đã làm cho loài người đạt tới trình độ Ngũ thông, tạo được nhiều báu vật và tiện nghi vật chất để phục vụ cho đời sống của con người, điều đó chẳng ai còn hoài nghi phủ nhận cả.

Ngày nay Khoa học đã đạt được những thành tích đáng kể nhằm mở rộng tầm hiểu biết của con người trong lãnh vực không gian bằng cách đặt những máy móc trên các vệ tinh nhân tạo để chụp hình rồi chuyển về trái đất những ảnh rõ rệt về sự hình thành của những Thiên hà cách xa Thiên hà của chúng ta hàng tỷ tỷ năm ánh sáng. Với cây đũa thần Nguyên tử năng, Khoa học đã làm lung lay tới cội rễ lý luận của nhiều Tôn giáo trên hoàn cầu xưa nay vẫn đặt niềm tin vào sự hiện diện của một vị Thượng đế toàn thiện toàn năng, ban phúc giáng họa và tạo ra muôn loài, do đó đã làm mất niềm tin vào giá trị thiêng liêng của tinh thần đạo đức nơi đa số quần chúng ở Tây phương vốn sùng thượng vật chất.

Nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương lại khác hẳn vì Khoa học càng tiến bộ bao nhiêu lại càng gần Chân lý của đạo Phật bấy nhiêu. Bởi nhận thấy bước đường mà Khoa học phải đi còn dài mới khám phá được mọi bí ẩn của thiên nhiên, nên Einstein đã nói: “Những điều mà chúng ta biết chỉ như một giọt nước, còn những điều mà chúng ta chưa biết thì mênh mông như đại dương.” Và cũng bởi nhận thấy những tư tưởng cao thâm của Phật giáo phù hợp với bước tiến của Khoa học trong lãnh vực: “Vạn vật đồng nhất thể”, nên nhà bác học Einstein có những lý thuyết phù hợp với các lý thuyết tân tiến nhất của loài người thì đó phải là Phật giáo. Chính những phương pháp làm việc và kết quả của những phát minh Khoa học ngày nay là những điều chứng mình cụ thể nhất cho lời Phật dạy từ trên 25 thế kỷ qua. Xin đơn cử một vài thí dụ:

1. Nhà Khoa học nào có khả năng phát minh lớn nhất, là người đã biết xa lìa những kiến thức mà mình đã thu thập được từ trước tới nay, cũng giống như người Phật tử mà rũ bỏ được Phiền não chướng và Sở tri chướng mới được coi là ngộ đạo.

2. Nhà Vật lý nói rằng: Khi đi sâu vào thế giới Điện tử thì phải giã từ mọi ý niệm về có, không; nhân, quả; trước, sau; sinh, diệt… nghĩa là tất cả những cặp mâu thuẫn xưa nay vẫn áp dụng trong đời sống thường nhật, cũng giống như người tu hành phải lìa bỏ mọi chấp thô, chấp tế, huyễn lớn huyễn nhỏ ở mọi cấp tu chứng mới tiến tới ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác.

3. Phật dạy: “Nếu đập tan cái Ngã chấp thì sẽ được năng lực tinh thần hùng hậu không gì sánh nổi.” Ngày nay các nhà Vật lý học đã chứng minh rằng: nếu đập tan vật chất đến cực vi thì có thể biến vật chất hết sức nhỏ, thành năng lực hết sức lớn. Hai điều này thật giống nhau nếu ta hiểu rằng người tu hành khi đã phá được Ngã chấp thì có được Đại Hùng, Đại Bi, Đại Dũng, và với sức mạnh liên kết của Đại Trí thì nguyện vọng gì cũng đạt được, sức cản nào cũng dẹp tan.

Theo Khoa học gia ngày nay, các chất tử (Corpuscule de matière) có những phối hợp chằng chịt hỗ tương. Chúng dung thông dung nhiếp với nhau để tồn tại. Như vậy đủ chứng minh được quan niệm “tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi”, và Sự sự nhất thiết vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

Những lời vàng ngọc Phật dạy từ ngàn xưa tới nay và mãi mãi sau này, lúc nào cũng là Chân lý Tuyệt đối không bao giờ đổi thay. Còn những lý thuyết của Triết học và Khoa học thì cái nọ phủ nhận hoặc thay thế cái kia, và mãi mãi ở tư thế tìm tòi, thử nghiệm.

Đạo Phật và Khoa học khác nhau trên căn bản: một bên thì đi sâu vào Tâm linh, một bên thì đi sâu vào Lý trí. Lấy Tâm linh làm nền tảng, đạo Phật có khả năng đưa nhân loại tới cảnh hòa bình thịnh trị vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn, trong một nền văn minh tột đỉnh bằng các thuyết: “Nhất thiết duy tâm tạo”, “Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”, “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”, “tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi”, “Vạn vật đồng nhất thể”, “Bất nhị”, “Bình đẳng tuyệt đối”, “Trung đạo”, “Mình là người, người là mình”, “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một”, “Lý Sự viên dung”, “Sự sự vô ngại”… để thẳng tiến tới đỉnh cao là đập tan chấp ngã, chấp pháp, sáp nhập tâm linh con người và Vũ trụ thành một khối theo lý “Vạn vật đồng nguyên”, để xây dựng một xã hội lý tưởng cho nhân loại ngày mai.

- Bản chất của Triết học và Khoa học thuộc về Nhị nguyên Tương đối, chưa đạt được tới Nhất nguyên Tuyệt đối, còn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, tùy thuộc vào địa phương và thời gian mà thay đổi lập trường, chưa một ai trong giới Khoa học hiện nay dám tiên đoán rằng: Khoa học có thể đạt được Thực tại Tuyệt đối và đem lại hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu cho loài người trong bao lâu nữa, bởi vì Khoa học chưa đi đúng đường lối, dùng lý trí nhiều hơn tình thương, và vẫn còn coi ngoại vật là đối tượng của mình. Còn Phật Pháp đã là sự thật Tuyệt đối từ lâu rồi, không vì không gian và thời gian mà thay đổi, và chắc chắn với đường lối Bồ tát đạo, lấy Nhẫn nhục, Từ bi vô lượng và tình thương chân thật, coi mình như người, người như mình mà xử thể tiếp vật, có thể dẫn nhân loại tới chỗ chân thường, chân lạc.

Khoa học chỉ chú trọng tới ngoại giới và xao lãng phần nội giới phong phú, sâu sắc, do đó không trực giác được Thực tại toàn diện. Người ta phải nhìn nhận rằng: Khoa học thất bại không chứng minh được là Vật chất đẻ ra Tinh thần. Và Ngẫu nhiên sinh ra sự Sống. Buộc lòng người ta phải chấp nhận sự phản ngẫu nhiên hay tin vào sự có mặt, bất khả tri của trực giác tâm linh siêu hình hay sức mạnh tinh thần đạo đức, không thể có vô ý, vô tình và ngẫu nhiên để giải thích sự tiến hóa của quần sinh trên quá trình dẫn tới Chân, Thiện, Mỹ.

Các Triết gia và Khoa học gia đều vọng cầu vào Lý trí và ỷ lại vào Tri thức, trong khi Phật giáo lại lên án và phủ nhận Lý trí cùng phá bỏ Tri thức, coi đó là những chướng ngại cho việc tiến tới Bình đẳng tánh và Vô phân biệt tánh của Chân tâm. Sự cách biệt chia rẽ giữa Thượng đế và con người, giữa con người và đồng loại khác màu da, chủng tộc, đảng phái, thành kiến; giữa con người và thiên nhiên ngày càng thêm sâu đậm, làm cho tâm con người ngày càng phức tạp, đa đoan.

Vì hướng đi của Khoa học quá phiến diện, máy móc, nên loài người sống bên nhau mà thiếu niềm tin ở thiện căn của con người, và thiếu Bác ái, Từ bi; chỉ đối xử với nhau thuần bằng khối óc khô khan vị kỷ, chỉ thấy quyền lợi của cá nhân mà không thấy quyền lợi của tất cả, nên dễ ly tán, phân tranh, giết hại nhau không thương xót. Kết quả khốc hại của học thuyết Duy lý do Lý trí hướng dẫn, làm cho con người tự hủy diệt mình khi muốn hủy diệt người khác, vì thế mà nhân loại ngày càng sa đọa. Khi đã nhận có Ta thì đồng thời cũng nhận có cái chẳng phải Ta đối lập. Ở phi ngã là tất cả những gì ở ngoài ta và cả ở trong ta nữa. Ở ngoài ta nó xúi giục ta chiếm đoạt cho đầy lòng tham nên tâm trí ta luôn luôn căng thẳng trong cuộc chạy đua với tham vọng như hình với bóng. Ở trong ta nó đẻ ra con người khổ đau, tự xé xác moi ruột gan mình, đầy đọa mình trong những cơn cuồng loạn tinh thần.

Với sức mạnh tâm linh, Phật giáo còn giúp con người:

1. Đấu tranh với chính mình để tự giải phóng khỏi những độc tố ràng buộc của Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến… hầu đạt tới một đời sống thanh cao, hạnh phúc.

2. Đấu tranh với hoàn cảnh, Vũ trụ để giải phóng con người khỏi hệ luỵ vào thiên nhiên, biến cải luật thiên nhiên tàn bạo thành sức mạnh giúp cho con người khỏi đói lạnh. Bài học lịch sử của những trận thế chiến vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ: không có quốc gia nào hoàn toàn thắng lợi, không bị thiệt hại mà toàn thể loài người nói chung đều bị tổn thất bởi hậu quả của các loại vũ khí giết người bén nhạy, gieo rắc tai họa khắp nơi, và tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải chịu chung những khoản thuế nặng nề để chi cho ngân sách Quốc phòng. Toàn thể nhân loại nghèo đi rất nhiều vì đã phí phạm tài nguyên thiên nhiên, máu xương, tiền của trên các bãi chiến trường.

Càng tôn thờ xa hoa vật chất lại càng dìm sâu tinh thần, đạo đức xuống bùn đen bấy nhiêu. Với lòng vị kỷ tham tàn con người còn đang thi đua sản xuất ráo riết hàng loạt mọi thứ khí giới giết người tối tân, chẳng khác nào một nhóm trẻ điên cuồng cầm dao gậy đe dọa đánh chém nhau, hay cầm mồi lửa đe dọa thiêu đốt nhà nhau, thật là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp!

- Hai yếu tố then chốt của sự tiến hóa và hạnh phúc của nhân loại là Trí tuệ và Từ bi. Thiếu Trí tuệ thì con người sẽ khổ vì dốt nát ngu đần. Thiếu Từ bi, thì Trí tuệ là lợi khí sắc bén để tiêu diệt lẫn nhau, hòng thỏa mãn lòng tham vô đáy. Tình thương bao la và Trí tuệ sáng suốt đi đôi với nhau mới xây dựng được chân hạnh phúc. Có Trí mà thiếu Bi là cái Trí sát nhân của Ma vương, Ác quỷ.

Sự khác biệt giữa Đạo học và Khoa học ở chỗ có thực hiện được không lòng Bác ái Từ bi, có thể hiện được hay không lý Bất nhị và Tâm Bình đẳng, Vô phân biệt. Hiện thời phần đông nhân loại vẫn còn đi xuống dốc, mang nặng hành trang sai biệt và phân biệt giai cấp giàu nghèo, lớn nhỏ, chủng tộc, màu da và chủ nghĩa đủ loại mà thiếu Tâm Từ, cho nên còn lùi bước thay vì hướng thượng tiến lên để đạt tới hòa bình, tự do, hạnh phúc thật sự.

- Xét kỹ thì Khoa học chỉ là một con dao hai lưỡi, tự thân nó không tốt cũng không xấu, tùy Tâm con người sử dụng. Nó có thể tạo ra Bồng lai, Tiên cảnh hay thiết lập cõi Địa ngục ở nơi cõi trần gian này.

- Nhưng cũng may thay trong cảnh hoàng hôn u ám của thế giới ngày nay, đã le lói những tia hy vọng ảo mờ báo hiệu Hoàng kim thời đại có thể sắp tới. Bởi vì gần đây đã thấy xuất hiện một nhóm học giả Tây phương (Nhóm Cahiers de l’ Étoile bên Pháp), năm 1928, đã xuất bản tờ tuyên ngôn hô hào nhân loại trở về nguồn với đạo Nhất nguyên. Đồng thời cũng có một số Khoa học gia lỗi lạc nhận thấy rõ mối nguy cơ của một hướng đi lệch lạc của nhân loại thiên về máy móc, cơ khí, nhằm đáp ứng lòng tham vô đáy, mãi chạy theo bả vinh hoa vật chất, đã đi sâu vào thế giới Điện tử thì buộc lòng họ phải suy tư, và đặt chủ quan của họ vào công cuộc khảo cứu, thay vì vẫn quen đứng ở vị trí khách quan để nghiên cứu ngoại giới.

Khoa học ngày nay đã trở nên trừu tượng hơn xưa. Nhiều nhà Khoa học đương thời khuyên ta nên dùng thần trí mà rọi sâu vào thế giới tâm linh. Với lối nhìn đó, họ trở nên linh động, uyển chuyển và lý thuyết hơn xưa, thay vì quyết đoán ngạo nghễ một chiều như đa số học giả thuộc thế kỷ thứ 19.

Những nguyên lý: “Vật chất và Năng lượng Bất diệt” được trở thành: “Vật chất là Năng lượng, và Năng lượng là vật chất; “Nhất thể lưỡng diện”, “Khí chất tương sinh”, hay “Tương tức và tương nhập” v.v…

Chính nhờ những nhà Khoa học tân tiến này mà nhân loại ngày nay đã thấy rõ Tâm và Vật chỉ là một, hay “Vật chất và Năng lượng không hai” (E = M).

- Các Khoa học gia đó cho rằng: “Những hiểu biết về Vũ trụ và những trực giác trừu tượng của con người, rồi đây sẽ quy về một mối, và cái một tiềm ẩn trong Vũ trụ rồi đây sẽ phơi bày ra ánh sáng. (Toutes les perceptions que l’homme a de l’Univers se ramènent finalement à l’Unité, et la profonde Unité cachée de l’Univers sera enfin dinudée). Như vậy thì càng tiến xa trên đường khám phá ra Thực tại tối hậu của Vũ trụ. Khoa học lại càng gần Chân lý Tuyệt đối “Không hai” của đạo Phật bấy nhiêu.

- Ta nhận thấy: thảm họa của một cuộc thế chiến bằng những khí giới tân tiến của Khoa học sẽ tận diệt loài người, và Hạnh phúc tuyệt đối của nhân loại ở một cõi Địa Dưỡng văn minh, sáng lạng, chỉ do ở sự lựa chọn giữa hai nẻo Thiện và Ác; một là trở về với Chân tâm, Phật tánh, sống một cuộc đời lành mạnh biết đủ và biết ngưng lại đúng lúc, hai là buông thả cho thất tình lục dục tự do tung hoành, theo tiếng gọi của Tham, Sân, Si… tiến sâu vào ngõ hẻm của vật chất xa hoa phù phiếm. Hạnh phúc của nhân loại chỉ có nếu Bi, Trí phát triển song song, hay nếu đạo và đời cùng tiến bước về nẻo Thiện.

- Đã đến lúc chúng ta phải thức tỉnh và hướng ngay về Tâm mình là xóa nhòa biên cương cố chấp, hòa Tâm linh vào Thực tại đại đồng, đem cái Ta nhỏ bé hiệp cùng bao cái Ta khác, bạn và thù để thực hiện lý Bất nhị, thay vì chỉ nghĩ đến mình, lại hết lòng phục vụ tha nhân, khiến cho niềm an lạc vô tư nảy nở, thay đổi hẳn nếp sống xưa, làm cho ta nhìn đời bằng cặp mắt khác, buộc ta phải sửa mình để tuân theo một nếp sống mới, lành mạnh, trong cảnh thanh tịnh của tự tâm.

- Phần đông chúng ta chẳng thực tế chút nào cả. Ta chỉ thở than luyến tiếc bóng ma của thời quá khứ. Ta cứ ngồi mất thời giờ bới đống tro tàn của dĩ vãng, hoặc ước ao, khát vọng đợi chờ tương lai mờ mịt, chẳng biết bao giờ tới mà chẳng chịu quan tâm đến hiện tại sờ sờ ngay trước mắt. Nhưng quá khứ đã mất hút rồi, còn tương lai lại chập chờn hư ảo xa vời, đòi hỏi những điều kiện chẳng thuộc mình giải quyết. Chỉ có Thực tại nhãn tiền mới chính là của ta. Nhà văn André Maurois đã có những vần thơ đẹp ca ngợi phút giây vĩnh cửu hiện tại:

Laisses au vague avenir ses lointaines promesses.

Et au sterile passé son sourire d’adieu

Bannis les rêves d’or et les molles tristesses

Le Présent est à toi, et le reste à Dieu.

Tạm dịch:

Những lời hứa hẹn xa vời

Hãy xin để lại cho thời mai sau.

Nụ cười buồn vĩnh biệt nhau.

Thì xin giữ lại nhịp cầu đã qua.

Mộng vàng uỷ mị lìa xa.

Phút này mới thật của ta trên đời.

Ngoài ra muôn sự tại Trời!

Cùng với ý nghĩa đó, một Thiền sư Việt Nam đời Lý đã để lại mấy dòng thơ đạo vị như sau:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu.

Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân.

Dịch:

Việc ngày nay, biết ngày nay,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì?

Ngoại cảnh, nào đâu phải,

Hoa vàng với trúc xanh?

Lộ vẻ chân toàn vẹn.

Kìa mây trắng, trăng thanh!

Xưa một vị Trời đã hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Cớ sao chư Tăng lại có một nếp sống tự tại, hạnh phúc dù hàng ngày chỉ dùng có môt bữa cơm chay?”

Phật trả lời: “Vì họ không than van sầu muộn về những chuyện đã qua, không nóng nảy khát vọng về những điều chưa tới, chỉ ung dung tập trung tư tưởng vào việc hiện tại. Tâm không tham luyến sân hận, lúc nào cũng thảnh thơi trong cảnh hoan lạc đạo an bần.”

- Bí quyết để có được hạnh phúc bền vững thật là giản đơn. Tuy nhiên đã mấy ai thực hiện được Chân lý đến nơi đến chốn? Đó là nếp sống bình thường, giản dị, với những gì sẵn có không mơ ước hão huyền cái chưa tới, cũng chẳng luyến tiếc dĩ vãng xa xưa, vì ta đã hiểu rõ lý Vô ngã, Vô thường, Nhân quả, biến dịch của mọi sự vật trên đời này. Với Triết lý: “Tri túc, tri chỉ”, và “Bình thường tâm là đạo” ta thấy mọi sự vật ở trên đời đều theo lý Bất nhị, và Như thị, nên ta chẳng chạy theo vật chất tài danh, không quan tâm đến vẻ bên ngoài, chỉ cần luyện cho cái tâm biết đủ, luôn luôn bình thản và mát dịu như nước.

- Có những bậc già nua mà tâm hồn còn tươi trẻ như nụ hồng hàm tiếu. Họ chẳng muốn hưởng thú an nhàn, nghĩ dưỡng già chẳng làm gì cả, mà say sưa hoạt động không ngừng để mưu cầu hạnh phúc cho đời, tiếc từng phút trôi qua vô ích. Tâm trí và tài năng của họ trổ hoa tươi đẹp trong tuổi vãn niên như những nhánh phong lan phô bày sắc hương trên cành khô mộc. Lại có những kẻ tuy tuổi còn niên thiếu mà tâm hồn đã sớm cằn cỗi, xác xơ như những khúc cây hết nhựa, chứa đầy thành kiến mục nát và tư tưởng lạc hậu, việc gì cũng đắn đo suy tính, như những ông già bất lực không dám làm điều gì, sợ thiệt đến thân, chỉ thích sống biếng lười, lại cho như thế là không ngoan, tuy sống mà như đã chết, vì không thích ứng được với dòng đời luôn luôn biến chuyển.

Ta phải biết sống trong hiện tại, vui với đạo Giải thoát, thảnh thơi với Tâm bình thường, rũ sạch bụi trần để chỉ thấy một mùa xuân thanh lương tươi mát ở trong ta. Ngày đã qua thì chìm trong bóng tối. Phút chưa tới thì huyền ảo mơ hồ. Chỉ có tại đây và bây giờ là Chân thật (Đương xứ tức Xuân). Sao lại chán ghét cái hiện tại, luyến tiếc quá khứ và đợi chờ tương lai? Hướng về ngày mai hay nhớ tới ngày trước đều là thái độ trốn tránh hiện tại, hay trốn sống một cuộc đời bình thường. Ta mang cái tâm điên đảo mà ngồi vào bàn ăn, hay leo lên giường ngủ với tâm trạng đang ăn mà ngậm bồ hòn cay đắng, hay ngủ mê mà ôm hết nỗi xót xa đau đớn vào lòng thì trách chi Phật chẳng bảo chúng ta không biết cách ăn cách ngủ!


Chương 15: Nhận Định Về Các Cõi Tịnh Độ.

Tín ngưỡng về Tịnh độ, một nơi được coi là an lạc, thanh tịnh, trang nghiêm, khác hẳn cõi tục luỵ trần gian này đã có từ thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế. Trong Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Phật đã dạy bà Vi Đề Hy, vợ vua Tần Bà Ta La biết là có cõi Cực lạc Tây phương, quốc độ của Phật A Di Đà, ở đó có chân hạnh phúc, khác xa cõi Ta bà uế độ này. Lại một buổi trong vườn Um Ma La, xứ Tỳ Na Ly nước Ấn Độ, Đức Phật đã giảng cho Đồng tử Bảo Tích am hiểu về 17 cõi Tịnh độ như sau:

1. Trực Tịnh độ.

2. Thân Tịnh độ.

3. Đại thừa Tịnh độ.

4. Bố thí Tịnh độ.

5. Trì giới Tịnh độ.

6. Nhẫn nhục Tịnh độ.

7. Tinh tiến Tịnh độ.

8. Thiền định Tịnh độ.

9. Trí tuệ Tịnh độ.

10. Trí Vô lượng Tịnh độ.

11. Trí Nhiếp pháp Tịnh độ.

12. Phương tiện Tịnh độ.

13. Phẩm trợ Tịnh độ.

14. Hồi hướng Tịnh độ.

15. Thoát ly bát nạn Tịnh độ.

16. Giới hạnh trang nghiêm Tịnh độ.

17. Thập thiện Tịnh độ.

(Xin xem Phật Học Từ Điển về danh từ Thập thất chủng Tịnh độ).

Chúng ta thấy ở đây Phật đã lấy những đức tánh cao đẹp của tâm mà đặt tên cho các cõi Tịnh độ, vì nếu thay thế danh từ Tịnh độ trong thập thất chủng Tịnh độ ở trên bằng chữ Tâm, ta sẽ có những danh từ: Trực Tâm, Thâm Tâm, Đại Thừa Tâm, Bố Thí Tâm, Trì Giới Tâm v.v…

Ngoài các cõi Tịnh độ nằm trong tâm con người còn có những cõi Tịnh độ ở ngoài tâm, và tùy theo không gian và thời gian, ta có những loại Tịnh độ như sau:

A/ Tịnh độ tha phương trong tương lai có:

1. Tây phương Cực lạc thế giới hay Tây phương Tịnh độ dưới quyền quản trị của Phật A Di Đà mà hàng Phật tử tu Tịnh nghiệp đều mong cầu được vãng sinh về đó.

2. Đâu suất Tịnh độ dưới quyền điều khiển của Đức Di Lặc, một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, kế thừa Đức Phật Thích Ca sau này ở cõi Ta bà. Ngài sẽ xuất hiện trong hội Long Hoa để tế độ toàn thể loài người còn sống sót ở nhân gian mà chưa được siêu thoát để được về cung trời Đâu Suất.

3. Diệu Hỷ Tịnh độ là nơi cực kỳ sung sướng dưới quyền quản trị của A Sơ Phật hay Đại Mục Như Lai.

4. Đông phương Tịnh độ của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, là nơi thanh tịnh tuyệt đối. Không còn bệnh khổ phiền não, thân tâm thường lạc. Muốn được sinh về các cõi Tịnh độ trên thì điều kiện chung là phải phát tâm dũng mãnh quy hướng về các nơi đó với lòng Tin sâu, Nguyện thiết, Hành trì tinh tấn trong việc niệm danh hiệu các vị Phật giáo chủ ở các cõi này.

B/ Tịnh độ nơi Đương xứ hay Quán Chiếu Tịnh độ

Là cõi Tịnh độ nơi Tâm của hành giả khi đã Giác ngộ thấy Phật ở quanh tâm mình và ngay lúc này nghĩa là được trở về với Chân tâm thanh tịnh của mình. Khi đã lóng trong mọi vọng niệm phiền não ở giây phút Đại Định.

C/ Tịnh độ trong tương lai ở cõi trần gian này

Tức là cõi Ta bà uế độ này được cải thiện thành nơi Cực lạc, thanh tịnh để nhân loại, người người cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.

- Phật pháp chỉ là phương tiện ví như chiếc cầu thang có nhiều bậc phải leo từng bậc từ thấp tới cao. Tuy biết các pháp chỉ là huyễn mà vẫn phải tuần tự leo từ bậc dưới (là huyễn nhỏ) rồi tiến dần lên bậc trên cao hơn (là huyễn lớn) chứ không thể đốt giai đoạn, nhảy vọt một cái lên bậc thang cao nhất, không qua các huyễn nhỏ ở các cấp dưới.

Trên đường đi tới Chân lý cứu cánh thì Cực lạc Tây phương được coi như một “Hóa thành dụ”, nghĩa là một diệu pháp phương tiện trong Chân không, rất cần đối với hành giả ở cõi Ta bà, còn phải dấn bước trên đường tu, cố gắng đạt tới bằng Tín, Nguyện và Hành để được Giải thoát và tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.

Tuy vậy phải quan niệm cõi Cực lạc Tây phương cũng chỉ là một trạm nghĩ tạm thời, ở đó một thời gian để thanh tịnh hóa hoàn toàn tâm mình, và quãng đường tu tập ở các cõi Tịnh độ tha phương chỉ là giai đoạn để nỗ lực tu thân, hành Bồ tát đạo bằng cách tái nhập thế mới mong đạt tới Phật quả.

Sự khác biệt căn bản giữa các cõi Tịnh độ ở góc nhìn của người tu và trình độ Giác ngộ của hành giả, tu làm sao để thực hiện đầy đủ mục tiêu: “Thượng cầu Bồ đề, hạ hóa chúng sinh” hay “Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.”

Nếu cho việc từ bỏ cõi Ta bà là nơi cực khổ và nhìn nhận khổ đau có thật để mong được sống mãi mãi ở nơi Cực lạc hưởng lạc riêng tư, thì đó chỉ là thái độ tiêu cực, có tu mà chưa hành, chỉ mong đạt tới đích của Tiểu thừa, cầu phá Ngã mà chưa phá Pháp, mong tự độ, tự giác mà chưa độ tha. Còn chán ghét Ta bà, còn mong cầu về Cực lạc thì tâm còn phân biệt, chưa đoạn trừ được Tứ tướng.

Đem tâm yêu ghét, Nhị nguyên đó mà cầu đạo cả Vô thượng Bồ đề thì tâm đó như vầng trăng còn lu mờ, chưa thật tỏ sáng. Người ngộ đạo phải sống theo Chân lý Bất nhị, phá triệt để các pháp mới tới được Trung đạo. Người tu khi đã đến ngưỡng cửa của Niết bàn phải tỏ thái độ dứt khoát như Ngài A Nan, buông lời thệ nguyện: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhất chúng sinh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn”, rời bỏ ngay Niết bàn an lạc rồi tự nguyện nhập Ta bà, xả thân hành đạo Bồ tát để độ tận chúng sinh.

- Đại thừa Phật giáo không thỏa mãn với tư tưởng Giải thoát cá nhân nửa vời ích kỷ mà muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp bằng tình thương, hay thực hiện một sự Giải thoát tập thể cho toàn thể nhân loại.

Lý tưởng của người tu hạnh Bồ tát là xây dựng một xã hội đại đồng, Bình đẳng, tự do, hạnh phúc chân chính bằng cách Giác ngộ Phật tánh ở ngay trong lòng mỗi người. Trong xã hội tươi đẹp đó thì con người làm chủ cả mình lẫn thiên nhiên, ai nấy đều tự cứu lấy mình và giúp ích tha nhân cùng hưởng phúc.

Vì hiểu rằng: Khổ đau, nghiệp chướng là lẽ thường ở đời nên người hành đạo Bồ tát không lẩn trốn khổ đau, còn coi đó là phương tiện để xây dựng hạnh phúc, là ngọn lửa hồng để nung luyện chí cao, hay là duyên lành để thúc đẩy chóng kết thành Phật quả.

Người hành đạo Bồ tát hiểu rằng: giá trị và ý nghĩa của cuộc đời không ở chỗ tìm sự sung sướng an lạc cho bản thân làm mục tiêu, mà lại lấy sự thực hiện hạnh phúc tuyệt đối cho muôn loài làm lý tưởng và sự nghiệp của mình. Muốn được Giải thoát rốt ráo phải là vì người, nếu chỉ làm tròn hạnh phúc cho cái Ta nhỏ bé mà chưa thực hiện được hạnh phúc cho mọi cái Ta khác, thì lý tưởng ấy vẫn còn chưa trọn vẹn.

Từ hai loại Niết bàn của Tiểu thừa là Hữu dư và Vô dư Niết bàn có tính cách cá nhân, phải tiến tới Vô trụ xứ Niết bàn, hay Tự tánh thanh tịnh hoặc Bất trụ Niết bàn của Đại thừa có tính cách vị tha, xã hội.

Tuy lấy Bình đẳng tánh làm phương tiện để đạt tới Bình đẳng giới nhưng lại không trụ ở đó mà lại trụ ở Sai biệt giới, giúp đỡ mọi người đau khổ, nghèo khó ở hạ tầng giai cấp xã hội. Tuy lấy Giải thoát khỏi khổ đau và mong cầu Tịnh độ, Niết bàn làm lý tưởng: vừa tự ý dấn thân vào trong vòng Luân hồi để Chân, Thiện, Mỹ hóa cõi đời này bằng những hành vi tích cực hành thiện, lại vừa đáp ứng được lý tưởng “Thượng cầu Bồ đề, hạ hóa chúng sinh”, theo đuổi đường lối “Tam luân không tịch.”

Trong quá trình tiến tới mục tiêu lý tưởng ấy, hành giả vẫn cảm thấy vui buồn như mọi người, nhưng lại thản nhiên trước mọi khổ đau, vượt trên mọi phân biệt, đối đãi, và dồn hết tâm lực của mình để phụng sự nhân loại. Dùng “Bất trụ xứ Niết bàn” và “hoàn tướng hồi hướng” làm nhân sinh quan, Bồ tát tự nguyện hồi nhập Ta bà và thực thi Tứ Nhiếp pháp, cùng mọi người đồng cam cộng khổ để dễ độ đời. Đạo Bồ tát lấy việc kiến thiết một cõi Tịnh độ nhân gian để đề cao lý tưởng của mình, cho nên nếu xa rời công trình xây dựng cõi Địa đường chung thì mất hết ý nghĩa cao đẹp của Đạo Bồ tát.

Lý tưởng kiến thiết một cõi Tịnh độ nhân gian bắt nguồn từ những tư tưởng: “Phiền não tức Bồ đề”, “Chúng sinh tức Phật”, “Sự tức Lý” của Bất nhị Pháp môn, nêu cao ý nghĩa “Nhất chân Pháp giới” hay “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tánh”… là những tư tưởng cao đẹp. Kết tinh trong các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… mà cũng là chủ trương của Pháp môn Tịnh độ.

Theo tinh thần Đại Bi, Đại Trí của đạo Bồ tát thì không thể trốn tránh trách nhiệm của mình cùng những phiền não của cuộc sống phồn tạp hàng ngày, bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác”, mà phải lặn lội vào đời sống thực tế, gắn bó đạo với đời, để cải thiện đời sống xã hội ngày càng đẹp tươi hơn.

Cầu vãng sinh Cực lạc để được tự Giải thoát trong khi quanh mình chúng sinh còn quằn quại trong khổ đau, là còn vị kỷ, mà phải phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Giải thoát cho tất cả nữa. Có độ tận chúng sinh về nơi an lạc cuối cùng mới thực hiện được đúng đường lối của đạo Giải thoát Chánh đẳng Chánh giác. Có vãng sinh Tịnh độ, lại có hồi chuyển Ta bà thì Bồ tát mới Tịnh độ hóa được cõi trần gian này: đó là điểm son làm nổi bật tính cách hoạt động tích cực của đạo Nhất thừa, đồng thời đánh giá cao quan niệm về Tịnh độ nhân gian trong tương lai, so với cõi Tịnh độ tha phương, hoặc ở tại tâm, nơi đương xứ, mới chỉ được coi là Giải thoát nửa vời, tiêu cực.

Bồ tát đạo nói chung, và Pháp môn Tịnh độ nói riêng, là con đường đón nhận tứ chúng đồng tu để tiến tới Niết bàn, Tịnh độ. Không thiếu gì Cư sĩ tại gia xưa và nay đã đạt đạo nhờ đi theo con đường Tịnh nghiệp. Nói đến Cư sĩ lừng danh phải kể đến Ngài Duy Ma Cật thời Phật còn tại thế. Sau này Trung Quốc có Bàng Long Uẩn, và ở Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ đã không thua kém tài đức đối với hàng xuất gia chân chính. Riêng trong Pháp môn Tịnh độ nhiều người đã đạt được Tánh và được dự về cõi Tây phương Cực lạc nhờ âm thầm tinh tiến tu theo Tịnh nghiệp, Nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh.

- Bởi vì sự thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian không thể thực hiện được một sớm một chiều, nên người có tâm phải phát nguyện rộng lớn, ra vào trần gian hết kiếp này đến kiếp khác để độ tận chúng sinh, quyết thực thi bằng được lý tưởng cao đẹp của mình, bất cứ trong thời gian lâu dài bao nhiêu cũng được. Người hành Bồ tát đạo tu theo Tứ Vô lượng tâm và Tứ Nhiếp pháp, nguyện đi vào cuộc đời để phục vụ tha nhân, lấy hạnh phúc của con người làm nguồn vui của mình. Tinh thần vị tha là đức tánh của người Giác ngộ, chỉ biết giúp ích mọi người không vì lợi danh. Không biết mệt mỏi, không quan tâm đến lời khen chê, đe dọa hay trách móc, việc xảy đến thì làm tích cực với tinh thần vô uý, xả kỷ, không làm không được.

- Đạo cốt ở Hành, không ở nói suông. Có hành mới thấy cái khó khăn, khó tin, khó nói. Nói suông chỉ biến đạo thành mớ lý thuyết vô vị. Càng Hành càng hòa hợp, cởi mở, gỡ những mớ bất đồng và hiểu lầm sinh mâu thuẫn tranh chấp, tưởng chừng như không hòa giải nổi. Có Hành mới mở toang cánh cửa của Trí, cánh cửa huyền vi của đạo. Có Hành mới thấy rõ Chân lý Sự Sự nhất thiết vô ngại. Có Hành mới chọc thủng được tấm màn bí ẩn của chữ nghĩa trong các Kinh điển Phật giáo, mới xé rách được cái áo khoác ngoài của Sắc, Tướng, Hình, Danh, và mới nhận được lẽ nhiệm mầu của Chân lý Bất nhị, và “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một” của muôn pháp, do cùng một tâm sinh ra, rồi lại quay trở về tâm, đồng nhất trong sai biệt, thù đồ nhưng đồng quy.

- Nhưng thiết lập một xã hội Bình đẳng, tự do, hạnh phúc tuyệt đối, một cõi Tịnh độ nhân gian. Không phải là phá hủy tất cả bằng sắt, máu, mà phải dùng tình thương vô hạn, thay vì những hành động bạo tàn, chém giết chẳng ghê tay, bởi vì tình trạng bi đát của loài người, với những bất công, sai biệt của ngày nay là kết quả Nghiệp báo của tâm mê vọng của chúng sinh thuộc quá khứ và hiện tại. Lay đổ nền móng cũ mà không chuyển được cái tâm của con người thì cách mạng khó thành công và mãi vẫn còn dang dở. Nguyên nhân để cấu tạo một xã hội công bằng, bác ái là Nghiệp lực. Phá hủy sự sai biệt bất công mà không lưu ý đến nguyên nhân phát sinh ra nó là Tham, Sân, Si thì sự phá hủy đó vô ích, bởi vì gieo nhân lành, duyên tốt thì mới được hái quả tốt lành.

Lẽ Vô thường biến dịch và Nhân quả của thiên nhiên là nguyên lý giúp chúng ta xây đắp một xã hội lý tưởng cho ngày mai. Sự thăng hoa hay thoái bộ trên đường dẫn tới hạnh phúc hoàn toàn do lòng người có thực muốn hoán cải hay không? Câu “Tâm bình, thế giới bình” trong Kinh Hoa Nghiêm phải được coi là phương châm hành động cho những người cầm đầu thiên hạ ngày nay muốn đạt tới một nền hòa bình vĩnh cửu.

Trong phạm vi của cá nhân, ai ai cũng đều có bổn phận giữ cho Tâm bình, cố gắng hành Thập thiện và thực thi Tứ Vô lượng tâm. Chẳng ai có thể bảo là mình đã góp phần nhiều nhất để kiến thiết cõi Tịnh độ chung, bởi vì sự đóng góp tích cực nhất và nhiều nhất chính là sự toàn thắng được lòng mình, và như vậy thì chỉ có mình mới tự đánh giá được mình đúng mức mà thôi, bởi vì chỉ có mình mới tự biết mình đã diệt trừ được lòng Tham, Sân, Si và phá hủy được Ngã chấp và Pháp chấp tới mức nào.

Chỉ có Tuệ và Bi, một lòng thương yêu nhau chân thành coi nhau như bạn hiền cùng chung lý tưởng mới mong tiến tới đích Tự do, Bình đẳng, Hòa bình, Ấm no, Hạnh phúc tuyệt đối. Chúng ta ước mong Khoa học sẽ phá hủy được căn bản của những tư tưởng sai lầm, và Triết học Tây phương ngày càng thâm nhập sâu hơn vào lý Bất nhị, và Bản thể Nhất nguyên của Vũ trụ để đưa loài người ngày nay càng gần hơn tới Chân lý do đấng Giác ngộ chân chính đã đề xướng. Đó chính là cái mà tôi muốn nói trong câu đã viện dẫn ở đoạn trên: “Khoa học sẽ dần dần tiến ngày càng gần hơn tới đạo Phật.”

Không ai bảo ai mà tự nhiên các Triết gia và Khoa học gia Tây phương hiện nay cùng tiến về hướng mà Phật đã vạch ra từ 25 thế kỷ về trước. Chúng ta hy vọng ngày trưởng thành của nhân loại về đạo đức và tinh thần sẽ sắp tới, mặc dù Khoa học đã bác bỏ tất cả những gì làm điểm tựa cho niềm tin về những Tôn giáo ở Tây phương, nhưng rồi các Khoa học gia tân tiến cũng sẽ nhận thấy rõ vẫn còn có một Tôn giáo tiến bộ, có cơ sở vững chắc về Khoa học dẫn tới Chân lý trường cửu để cứu nguy cho nhân loại bằng đường lối hòa bình.

Họ sẽ thấy viễn ảnh một thế giới đại đồng không có kỳ thị dân tộc, ấm no, hạnh phúc hoàn toàn, khi thừa nhận rằng mục đích cuối cùng của loài người là phải tìm cách ra khỏi tấm màn vô minh, và lấy tình thương chân thật đối phó với nhau mới mong Giải thoát khỏi nạn tận diệt.

Chúng ta có thể đặt niềm tin ở khả năng sáng tạo của tim óc con người, tin ở căn bản của Lương tâm con người, với tinh thần nhận thức được toàn bộ Thực tại để giải tỏa những mối bất đồng giữa Tâm Vật, Tự Tha, và san bằng mọi đố kỵ, mâu thuẫn. Chúng ta có thể tin giá trị siêu việt của Triết lý đạo Phật, một đạo Từ bi và Giác ngộ có sức mạnh tâm linh mầu nhiệm, có khả năng hoán cải được con người trở về với Chân tâm, Phật tánh bằng đường lối hòa bình và mở rộng cho nhân loại triển vọng tốt đẹp là con đường Bồ tát đạo lý tưởng để thoát khỏi ngõ bế tắc hiện tại trong lãnh vực tranh chấp nhau về ý thức hệ và về quyền lợi riêng tư, tránh được hiểm họa tàn sát lẫn nhau, và chạy đua nhau trên phạm vi sản xuất các loại vũ khí giết người tập thể.

Bởi lẽ “Nhất thiết duy tâm tạo” và “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh” nên chúng ta có thể tin rằng việc thiết lập một nền Tịnh thổ ở cõi trần gian này chẳng phải là ảo mộng! Tin tưởng đó là hoài bão của Thái Hư Đại sư bên Trung Hoa và cũng là mộng vàng của nhà Bác học có Đạo tâm nước Pháp Le Comte du Nouy hằng ấp ủ với thuyết viễn đích (Téléfinalité) chủ trương đề cao phẩm giá con người, đặt niềm tin Bất diệt ở tương lai tốt đẹp của tinh thần, đạo đức và giá trị của Khoa học, tin tưởng vào cuộc tiến hóa không ngừng của nhân loại và ở định mệnh cao cả của con người, với sự tiếp tay của Khoa học, để đạo phục vụ đắc lực cho đời, trong mưu cầu hạnh phúc chung của nhân loại.

Con người phải lo cải thiện tâm hồn hơn là hoàn cảnh vật chất. Mọi người đều phải góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội huy hoàng cho ngày mai, và điều kiện tiên quyết để đạt tới cảnh thần tiên ấy là ta phải thoát ly những dục lạc và toàn thắng được những ác tưởng của mình. Tóm lại: theo Le Comte du Nouy thì chúng ta đều có bổn phận phát huy cái đức Sáng sẵn có ở trong ta, nỗ lực không ngừng tự cải thiện mình và tin tưởng vào tiềm năng huyền diệu của con tim, đem hết tài năng sáng tạo của mình phục vụ nhân loại, vượt qua mọi chặng đường khó khăn nhất, và chỉ ngừng lại khi nào đạt tới đỉnh cao của Chân Thiện Mỹ.

- Quan niệm về thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian hay trở về với Chân tâm của mình, cũng là quan niệm của Nho giáo chủ trương: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản”, vạn hữu biến dịch theo hai chiều vãng lai phản phục tuần hoàn, vừa phân tán để đào thải những cặn bã thấp hèn, vừa súc tích những tinh hoa trong sáng của trời đất để trở về nơi nguyên thể. Từ quan niệm “Vạn vật đồng nhất thể” tiến tới chủ trương “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh” và “Tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”, ta nhận thấy rõ Phật cũng như Nho đều chủ trương Bản thể tuyệt đối, Bất diệt Chân tâm của mình, biến hóa để trở thành Thánh, Hiền, Tiên, Phật, hay “phối thiên đạt đạo”, tức là kết hợp với tuyệt đối thể vừa là căn nguyên sinh xuất, lại vừa là đích cuối cùng mà muôn loài phải tiến tới.

- Nhưng thực hiện giấc mộng vàng này phải dựa vào Tự lực hay Tha lực đây? Tổng quát mà nói thì việc kiến thiết cõi Tịnh độ trong tương lai, nơi trần thế này phải do nỗ lực của từng cá nhân góp phần tích cực diệt trừ những thói hư tật xấu của mình, song công cuộc xây dựng cõi Tịnh độ lại là một công cuộc vĩ đại đòi hỏi một nỗ lực phi thường, vả chăng chẳng phải riêng cá nhân nào được hưởng một màn hình mà toàn thể nhân loại đều chung hưởng hạnh phúc đời đời, nên sự thành công mau hay chậm còn phải dựa vào một yếu tố mầu nhiệm, bất khả tư nghị là Phật lực gia hộ thêm nữa mới mong thành tựu hoàn mãn và mau chóng. Như vậy “Miêu thuyết phải nhường bước cho Viên thuyết”, như vượn con vẫn phải nhờ vượn mẹ hết lòng bao bọc nâng đỡ trong lúc còn chưa đủ lực chuyền cành một mình. Trước nỗi khổ và cộng nghiệp sâu dầy của nhân loại, người có Đạo tâm lo âu, khắc khoải nhưng không còn cách nào hơn là cầu nguyện thiết tha mong cho Tha lực sớm hiệp cùng Tự lực của mỗi người để thoát cảnh khổ chung.

- Cõi Tịnh độ nhân gian được xây dựng trong một tương lai xa hay gần, một phần nhờ Tha lực của chư Phật và Bồ tát âm thầm tiếp tay, còn phần lớn do chúng ta có chịu xuất toàn tâm lực để kiến tạo nó hay không?

Lỗi ở chúng ta có biết sớm ăn năn hối cải, rũ sạch trần cấu và chịu quay về với bản tâm tự tánh hay không. Yếu tố quan trọng vẫn là yếu tố cá nhân, và nhiệm vụ trọng đại của loài người ngày nay phải cùng nhau cố gắng thanh lọc tâm tư, diệt trừ ba độc, đoạn tuyệt thú tánh và phát huy nhân phẩm của mình. Không nên tìm hiểu xem nỗ lực của ta có lợi ích gì cho công cuộc chung, và kỷ phần đóng góp của ta vào lợi ích cộng đồng phỏng được là bao? Chỉ riêng sự cố gắng tận lực làm Thập thiện cũng đáng kể rồi. Và chỉ với tâm thành đó cũng đủ làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa cao cả thiêng liêng.

- Những bước tiến vĩ đại mà Khoa học đã đạt được trong công cuộc chinh phục không gian và chiến thắng thiên nhiên thực sự chưa đem lại cho loài người hạnh phúc mong muốn khi chưa có một sự phát triển tương đương về mặt đạo đức, tinh thần. Trong hiện tình thế giới ngày nay, sự phát triển toàn diện và thực sự có ích chỉ có được trên bình diện liên minh hòa giải giữa hai nền văn minh Đông, Tây; giữa khối óc duy lý của Khoa học và trái tim siêu lý của Tôn giáo; giữa giá trị nhiệm mầu của con tim rung động trước nỗi khổ đau của tha nhân với sự khô cằn của khối óc thuần lý, vị kỷ; giữa tiêu cực và tích cực; giữa tương đối và tuyệt đối; giữa bản năng sinh tồn mù quáng của thức giác, quen chạy theo lục dục thất tình, với sự tự do lựa chọn của trí sáng suốt, biết đủ, và sự lựa chọn đó lại hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của ta.

- Thế giới này được cải thiện do quan hệ hỗ tương nhân duyên chằng chịt, nên mọi người cần phải tự cải thiện ngăn ngừa ngã ái, ngã si, hăng hái làm việc thiện để giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần xả kỷ, lợi tha để cộng nghiệp được tốt lành. Bởi lẽ xã hội chi phối cá nhân, nhưng ý chí mỗi cá nhân góp lại cũng có thể cải biến được cộng nghiệp của xã hội. Nguyên tắc này phù hợp với tinh thần: Tự giác, giác tha của nhà Phật vì sự Giác ngộ của mỗi người về Phật tánh sẽ gây ảnh hưởng dây chuyền tốt cho người khác quanh mình theo lý trùng trùng duyên khởi.

Mối liên hệ hỗ tương giữa cá nhân và đoàn thể được thể hiện qua hình ảnh của “lưới đế châu” nói trong kinh Hoa Nghiêm. Cái lưới của Phạm Thiên vây bủa khắp Vũ trụ, chiều dọc là thời gian, chiều ngang là không gian, mỗi mắc lưới là một hạt kim cương lóng lánh sáng ngời, tượng trưng cho một cá nhân. Một cá nhân (hay nghiệp quả về thân, khẩu, ý của từng người) cũng như một hạt kim cương phản chiếu vào một đời sống (hay một hạt kim cương khác) ở mọi khía cạnh (hay hành động về thân khẩu ý) và nhắc đi nhắc lại tới vô cùng. Chẳng khác nào trong một buồng sáu bề lát kính, nhìn vào đâu cũng thấy hình bóng mình phản chiếu, nhắc đi nhắc lại hoài: đây chính là cái lưới ảo hóa mà Ôn Như Hầu đã nói: “Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy….” Và Lão Tử cũng bảo là: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát).

- Sự quan hệ hỗ tương mật thiết giữa cá nhân và cá nhân là điều kiện thiết yếu để thành lập một xã hội an lành hạnh phúc. Điểm xuất phát của sự thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian là “tại đây và lúc này.” Nếu mọi người đều cùng sớm thực hiện được điểm xuất phát đó thì cảnh Địa đường sẽ được thiết lập chẳng lâu.

- Theo luật trùng trùng duyên khởi” và “Một tức là Tất cả, Tất cả tức là Một” thì sự Cộng biến và Tự biến tác động lẫn nhau, đưa tới sự hình thành xã hội, là môi trường sinh hoạt của cá nhân. Như vậy thì cõi Tịnh độ trong tương lai, tại chốn Ta bà này được xây đắp nhanh hay chậm là bởi hành vi cải thiện tim óc của từng cá nhân trong cộng đồng thế giới, song song với việc cải thiện guồng máy xã hội của mỗi quốc gia trong mọi lãnh vực văn hóa, đạo đức, chính trị, kinh tế… chỉ lo cải thiện con tim khối óc của từng cá nhân là những bộ phận nhỏ mà không lo cải thiện toàn thể cơ cấu xã hội loài người hay toàn bộ guồng máy vĩ đại của xã hội nhân loại thì chỉ là câu chuyện muốn sửa bóng cho ngay mà hình thì không thẳng, cứ giữ nó mãi trong tình trạng cong vẹo hiện thời, không chịu sửa đổi. Bởi vậy đồng thời với việc thanh tịnh hóa tâm hồn của từng người, cũng cần lo thanh tịnh hóa tình trạng xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.

Hiện nay tinh thần, đạo đức của nhân loại đang ở mức độ quá thấp gây nên bởi cuộc sống giả tạo, hời hợt chạy theo vật chất xa hoa, lệ thuộc quá nhiều vào máy móc và đồng tiền. Phải lấy Tuệ và Bi, lấy Tình thương sáng suốt, tôn trọng sự sống thiêng liêng của muôn loài để kiến thiết một xã hội công bằng và thuần lương, căn cứ vào sự phát huy tiềm năng và phẩm giá của con người.

Dù thời gian dùng để kiến thiết cõi Tịnh độ nhân gian này còn dài lâu và khó khăn đến đâu cũng phải cố gắng thực hiện bằng được bởi tình thương và hợp tác chân thành thay vì thù hận và mưu mô xảo quyệt đấu tranh. Tòa lâu đài hạnh phúc tráng lệ của loài người không thể xây dựng bằng máu xương và nước mắt, mà phải bằng Trí tuệ và Từ bi. Thời gian để kiến thiết tòa lâu đài tùy thuộc vào Nghiệp quả của toàn thể loài người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng đích cuối cùng của thành công rực rỡ nhất định sẽ tới nơi, vào một buổi bình minh êm đẹp trong tương lai, xa hay gần tùy sự tinh tiến và hợp tác chân thành của tất cả.

Mọi trở ngại việc quay về với Chân tâm, Phật tánh của mỗi người, và mọi trở ngại bước thăng hoa của nhân loại tới một nền văn minh huy hoàng vĩnh cửu, hoặc mọi trở ngại tình trạng ổn định của một nếp sống lành mạnh, đạo đức đều chỉ làm trì trệ việc thành tựu cõi Địa đường này mà thôi. Chúng ta chớ nên dục tốc bất đạt!

- Hiểu được thực tướng của các pháp là “Không”, lại hiểu được Chân lý “Chân không Diệu hữu” và Lý Bất nhị, con người sẽ đạt được Thực tại tối hậu hay Niết bàn tại tâm, và xã hội sẽ giảm được nhiều phần tội lỗi khổ đau, bất công chia rẽ. Xã hội loài người sẽ toàn thiện và niềm an lạc sẽ ngự trị trên cảnh Địa đường này, trên mảnh Tâm điền này, nếu mỗi người đều thực muốn hướng về nẻo Chân, Thiện, Mỹ. Con người toàn thiện sống trong một xã hội thực sự hạnh phúc, hay thế giới lý tưởng tuyệt đối, chỉ thành tựu được khi nào toàn thể nhân loại đều ý thức được tầm quan trọng của Chân lý Vô ngã, Vô thường, Nghiệp báo biến dịch, cùng vững tin ở đường lối hòa bình của đạo Bồ tát và sức mạnh vô biên của Tâm Từ vô lượng kết hợp với Trí sáng suốt của Khoa học, biết dùng cây đũa thần Nguyên tử năng để phục vụ cho hạnh phúc chân chính và trường cửu của con người.

- Con đường tiến hóa của nhân loại được diễn ra trên hai chiều thuận nghịch, vãng lai, từ Nhất đến Vạn, rồi từ Vạn đến Nhất, hay từ Thiện đến Ác rồi từ Ác đến Thiện, chứ không phải chỉ trên một chiều tiến thẳng hay tiến theo hình trôn ốc về một phía. Sự tiến hóa đó đi từ Bản thể Chân tâm tiến ra Hiện tượng Vạn hữu, rồi từ Hiện tượng Vạn hữu hoàn về Bản thể Chân tâm. Việc quay trở về với Chân tâm là quyền năng của chúng ta, ai ai cũng có thể làm ngay trong đời hiện tại, bằng cách quán tưởng, niệm Phật, cầu kinh; hồi đầu trở lại nội tâm, đoạn tuyệt hẳn nếp sống xưa, không cần đợi tới kiếp lai sinh mới làm được những việc đó. Với phương pháp “Quán Niệm Âm Văn” dựa vào nhĩ căn viên thông và hồi quan phản bản, quay ngược Tuệ giác chiếu thẳng đáy lòng, ta có thể tóm thâu thời gian và không gian vào sát na Tam muội, để quá khứ và vị lai gặp nhau tại đương xứ, có gì lâu xa đâu?

Phần IV: Kết Luận

Kính thưa quý vị.

Trong các bộ kinh nòng cốt của Pháp môn Tịnh độ thì kinh A Di Đà là một bộ kinh có tính cách Tôn giáo hơn là Triết học, thông tục hơn là chuyên môn, thực hành hơn là lý luận, hòa hợp giữa Đại thừa và Tiểu thừa bằng cách đưa tất cả tín đồ Phật giáo tới Nhất Phật thừa, để cuối cùng dẫn tới Phật quả. Đức Phật Thích Ca đã không dùng lý thuyết trừu tượng để lập luận như các bộ kinh thuộc các tông phái khác, trái lại, Phật chỉ dùng lời nói đơn giản, dễ hiểu để khuyến khích người tu nên thực hành ba điều cần yếu là Tín, Nguyện và Hành. Như thế chẳng phải là Pháp môn Tịnh độ chẳng có Triết lý cao siêu, chẳng qua chỉ vì nghĩa lý của bộ Kinh A Di Đà quá thâm sâu ẩn áo mà ngôn ngữ của loài người khó diễn tả nỗi mà thôi. Đó là lý do mà Phật đã không lý luận dài dòng, chỉ khuyên người ta cứ việc tin và thực hành đúng lời Phật dạy cũng đủ để được Giác ngộ, Giải thoát.

- Cổ đức đã dạy: Pháp môn Tịnh độ mầu nhiệm cao siêu, duy Phật với Phật mới thấu rõ tường tận mọi ý nghĩa mà thôi. Pháp môn này khế hợp mọi căn cơ và đáp ứng hoài bão của chư Phật mong độ tận chúng sinh trong thời Mạt pháp.

Xét về đường học vấn và giáo lý thì người tu Tịnh độ không cần phải biết đọc, biết viết, không cần phải tụng thiên kinh vạn quyển và am hiểu ý nghĩa lý cùng tột của các bộ kinh Phật.

Xét về mặt tu hành thì Pháp môn Tịnh độ không đòi hỏi phải năng sám hối mà vẫn cứ “đới nghiệp vãng sanh” Cực lạc quốc, bởi lẽ khi đã phát tâm dũng mãnh niệm danh hiệu Phật A Di Đà và Định tâm trong Chánh niệm thì một niệm danh hiệu Phật phát khởi tức khắc tiêu trừ vạn tội nặng nhẹ từ muôn kiếp, ngàn đời về quá khứ. Lại nữa, Pháp môn Tịnh độ chẳng cần đoạn trừ phiền não, chấm dứt vô minh, cạn dòng Sinh tử, mà trong lúc Nhất tâm niệm Phật thì tức khắc vô minh, phiền não tiêu trừ, và dòng Sinh tử Luân hồi cũng đương nhiên tát cạn. Pháp môn Tịnh độ chỉ cần lấy cái Tâm, Tín, Nguyện của mình mà chuyên Trì danh hiệu Phật, hễ trì cho đến “nhất tâm bất loạn” thì Tịnh nghiệp tất được thành tựu và khi mạng chung quyết được vãng sinh Cực lạc và vĩnh viễn không còn bị thoái chuyển nữa.

Chúng ta thử nghĩ xem, nếu pháp Trì danh hiệu Phật A Di Đà mà không đạt được hiệu quả như ý muốn thì cớ sao Phật lại khuyên Phụ vương Ngài là vua Tịnh Phạn nên chuyên cần niệm Phật A Di Đà sẽ được về cõi Tây phương Cực lạc chứng quả Vô thượng Bồ đề.

Trong “Như Lai Ứng hóa lục” ông A Nan có hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Cớ sao lại chẳng niệm danh hiệu Đức Thế Tôn là Phật hiện tại mà lại niệm danh hiệu Phật A Di Đà là Phật quá khứ?”

Như Lai đã trả lời: “Bởi vì Phật A Di Đà đã có lời nguyện độ tận chúng sinh, ai muốn xin về quốc độ của Ngài là thế giới Cực lạc Tây phương, tránh khỏi khổ cực ở chốn Ta bà này thì phải hết lòng niệm danh hiệu Ngài.”

- Còn gì phải nghi ngờ nữa khi ta đã biết Phật Thích Ca đã tự giới thiệu mối liên hệ huyết thống của Ngài với Phật A Di Đà cho hàng đệ tử biết như sau: Tiền thân của Ngài là môt vị Hoàng tử, con một đức vua sau trở thành “Đại Thông Trí Thắng Phật.” Đức vua ấy có 16 vị Hoàng tử, mà Ngài là con út, còn vương tử thứ 9 tên là Bất Tư Nghị Thắng Công Đức, sau nhiều kiếp tu hành đã trở thành Phật A Di Đà. Ngài thì phát nguyện thành Phật ở nơi uế độ để điều phục chúng sinh tánh nết cương cường, nên mới tới cõi Ta bà này, còn anh ruột Ngài là Phật A Di Đà lại phát nguyện thành Phật ở cõi Tịnh độ nhiếp phục chúng sinh thanh tịnh ở khắp mười phương thế giới nên quốc độ của Ngài là cõi Tịnh độ Tây phương (theo Phẩm Hóa thành dụ thứ 7 Kinh Pháp Hoa).

Và còn gì phải thắc mắc về cõi Cực lạc Tây phương nữa vì trong Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Phật Thích Ca đã khai thị cho Hoàng hậu Vi Đề Hy được chiêm ngưỡng cảnh Tây phương Cực lạc trong lúc bà này đang bị con ruột là A Xà Thế giam cầm trong lãnh cung, ở vào cảnh ngộ cực kỳ bi đát, chỉ muốn quyên sinh để thoát nợ đời. Lúc đó bà Vi Đề Hy đã được nhìn thấy rõ hai cảnh uế và thanh, khổ và sướng khác nhau ra sao, bà Vi Đề Hy vui mừng khôn xiết, bèn Nhất tâm xin được sinh về cõi Tịnh độ Tây phương không còn mong ước điều gì khác nữa.

- Lại nữa, nếu Pháp môn Tịnh độ chẳng phải là một Pháp môn thù thắng thì cớ sao khi nghe thấy Phật Thích Ca thuyết kinh A Di Đà ở cõi trần, mà chư Phật mười phương lại hết lòng hộ niệm và tán thán công đức vô lượng của Phật Thích Ca, cùng công đức không thể nghĩ bàn của pháp Trì danh hiệu Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà không ai hỏi mà Phật tự nói ra vì lợi ích của chúng sinh, rõ ràng là mắt Phật đã nhìn thấy thế giới Cực lạc và miệng Phật đã nói ra, ai là người còn dám nghi ngờ nữa? Pháp môn Tịnh độ cầu vãng sinh thật là Vô lượng nghĩa, có năng lực phá tan mọi lý luận, tà kiến khiến càng suy nghĩ lại càng thấy Pháp môn này có ý nghĩa cao thâm tột bậc. Thật đúng như câu: “Dĩ tư duy tâm trắc địa Như Lai viên giác cảnh giới, như dĩ huỳnh hỏa nhiên Tu Di Sơn, chung bất khả đắc” trong kinh Viên Giác (Đem tâm suy nghĩa của người đời mà đo lường cảnh giới Giác ngộ viên mãn của Như lai chẳng khác nào lấy lửa của đom đóm mà mong đốt cháy quả núi Tu Di, rốt cuộc chẳng bao giờ thành công được). Trong Kinh A Di Đà có câu: “Không thể do một chút thiện căn phúc đức nhân duyên mà được sinh về cõi Tây phương Cực lạc nhưng nếu lúc lâm chung mà Trì danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 đến 7 ngày liên tiếp, nhất là có từ 1 đến 10 niệm thanh tịnh với tâm bất loạn, ý không điên đảo, lòng không tham luyến thì nhất định sẽ được vãng sinh.” Như vậy là ta phải hiểu rằng: sự chấp Trì danh hiệu Phật A Di Đà quả có công năng hoán cải tâm của hành giả và phát sinh thiện căn phúc đức nhân duyên chẳng phải nhỏ vậy. Người chất phác thật thà âm thầm chuyên tâm niệm Phật đêm ngày không suy nghĩ viễn vông, lại càng mau đạt tới Chánh niệm, cảm thông với Tri Kiến Phật và ám hợp với đạo mầu hơn người thế trí biện thông uổng phí thời giờ suy tưởng, làm cho Tín tâm dễ bị lung lay.

- Nếu bảo rằng Thiền tông được Phật Tổ trực tiếp trao truyền cái tâm Phật bằng lối im lặng Tâm truyền Tâm thì cũng phải hiểu rằng các Pháp môn khác cũng đều được hưởng gián tiếp cái tâm Phật ấy qua trung gian của danh từ ngôn ngữ.

Sự khác biệt trong các Pháp môn Phật dạy ở chỗ hữu ngôn và vô ngôn, dùng hay không dùng ngôn ngữ, văn tự để truyền đạo mà thôi, nhưng đến khi đã ngộ đạo rồi thì kết quả ngang nhau. Sự khác biệt đo do ở tiếng nói của loài người, chỉ có giá trị Tương đối mà đạo lại vốn Tuyệt đối không thể đem cái Tương đối của danh từ ngôn ngữ để diễn đạt cái Tuyệt đối của đạo, vì làm như vậy khác nào đặt Tương đối ngang hàng Tuyệt đối? Cho nên dù Tam tạng Kinh điển đều do Phật nói ra, nhưng Phật không muốn chúng sinh vướng mắc vào chữ nghĩa, lời nói, nên Phật mới tuyên bố: “Ngô tòng Bản lai bất thuyết nhất tự.”

Mỗi lần Phật thuyết pháp, Ngài chỉ dạy một khía cạnh của đạo, chỉ giảng về một diệu dụng của tâm, trong khi còn vô số diệu dụng khác của tâm đều phải xếp lại, không nói tới. Đó là trường hợp của Phật ngữ tông trong các Pháp môn phải phương tiện dùng ngôn ngữ để truyền đạo.

Mỗi Pháp môn chỉ nhận được một tia ánh sáng của đạo mầu mà thôi, nếu Thiền im lặng trực giác, vô ngôn, trong một niệm mà nắm trọn được Thực tại Tuyệt đối, ngộ được cái tròn đầy linh giác của tâm Phật, thì Pháp môn Trì danh hiệu Phật với lối “Niệm - Vô niệm, Vô niệm - Niệm” cũng đạt tới chỗ im lặng, vô ngôn của cái tâm tròn đầy sáng suốt ấy, nào có khác chi? Mỗi tông phái thích hợp cho mỗi căn cơ, điều quan trọng là dù theo bất cứ Pháp môn nào, người học đạo mầu, mặc cho thế đạo biến đổi xoay chiều. Đầu mối là nguồn tâm thanh tịnh vô vi, còn thế đạo là nhân duyên trùng trùng diễn biến, cho nên chỉ cần lãnh hội một câu kinh, hay hiểu được mật nghĩa của một câu niệm Phật A Di Đà cũng đủ. Một quyển kinh chứa đựng vô số quyển kinh. Vô số quyển kinh thâu tóm ý nghĩa vào trong một quyển kinh, và quyển kinh duy nhất đó là “Quyển Kinh Vô Tự” của tâm hành giả. Cũng ví như xâu chuỗi đủ 108 hạt tượng trưng cho 84.000 Pháp môn mà chỉ kết lại bằng một sợi dây duy nhất, hình dung cho một mối tâm của người hành đạo thì một câu niệm Phật A Di Đà cũng là kết tinh của Tam tạng Kinh điển Phật giáo, do đó ta đủ thấy chỉ một câu niệm Phật A Di Đà với tâm thanh tịnh và tin tưởng tuyệt đối bao gồm công đức biết bao! Để nêu rõ giá trị siêu việt của Pháp môn Tịnh độ, Triệt Ngộ Đại sư có để lại bài kệ sau đây:

Nhất cú Di Đà

Đệ nhất nghĩa đế

Thượng siêu bách phi

Khởi lạc tứ cú.

(Một câu A Di Đà

Là Đệ nhất nghĩa đế

Vượt khỏi bách phi

Há rơi vào Tứ Cú).

Bách phi là Chân lý Trung đạo siêu việt nhị biên: phi hữu phi vô, phi thường phi đoạn, phi nhất phi dị, phi khứ phi lai… hàng trăm thứ phi kể không sao xiết. Còn Tứ Cú là: Có, Không, cũng Có cũng Không, chẳng phải Có chẳng phải Không, chẳng phải Không có, chẳng phải Không không có. Nếu thấu hiểu tường tận một câu niệm Phật A Di Đà mà biết vận dụng đúng mức thì hành giả xa lìa được ngôn ngữ suy tư, thể nhập vào hiện tiền, tâm không vọng tưởng, đi thẳng vào Đệ nhất nghĩa đế, phá được cái ta, hòa đồng Chủ lẫn Khách vào Chân thể của sự vật.

- Cái thể của Chân tánh hay cái thâm sâu của đạo mầu chứa trong các bộ kinh của Pháp môn Tịnh độ không thể dùng ngôn ngữ để thuyết minh, cũng không thể suy tư biện luận mà trình bày hết được. Dù nói nhiều tới đâu cũng khó làm tròn được công việc. “Nhiếp sự quy lý”, “Hội tướng nhập tánh”, để nói lên những điểm then chốt mà các bộ kinh Vô lượng nghĩa là Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A Di Đà hàm chứa. Dù Phật chẳng nói ra, nhưng thực sự thì Ngài đã nói đủ cả. Bao nhiêu những tư tưởng được coi là tinh hoa của các bộ kinh liễu nghĩa của Phật giáo Đại thừa đều cô đúc trong bộ kinh A Di Đà để kết tinh bằng sáu chữ hồng danh, nào là:

1. Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tánh (Kinh Đại Bát Niết Bàn).

2. “Tam thừa quy nhất” của Kinh Pháp Hoa nêu rõ lý: Hết thảy chúng sinh xuất gia cũng như tại gia. Không phân biệt sang hèn, giai cấp, kẻ trí người ngu… văn hóa, Tôn giáo, chủng tộc khác nhau, đều có thể phát tâm Bồ đề và thực hiện được nguyện vọng của mình nếu tinh tiến đi theo con đường Tịnh nghiệp.

3. “Nhất thiết duy tâm tạo” của Kinh Hoa Nghiêm nêu rõ lý: “Ai muốn cầu gì đều được như ý”, vì tâm con người có khả năng tạo được tất cả. Cứ thiết tha mong muốn được sống hạnh phúc trong cảnh Cực lạc sẽ được toại nguyện, miễn là Tin sâu, Nguyện thiết và siêng năng niệm Phật.

4. “Lý “Chân không Diệu hữu” của Kinh Bát nhã được Kinh Hoa Nghiêm dùng thế giới quan “Vô tận trùng trùng duyên khởi” khai triển phối hợp với tư tưởng “tương tức tương nhập, “Lý sự viên dung”, “Sự sự vô ngại” của bộ kinh này, và những lý “Bất nhị”, “Bình đẳng Vô sai biệt và Vô phân biệt” của Kinh Duy Ma Cật, được điều hợp với những thuyết “Biệt nghiệp và Cộng nghiệp” của Pháp môn Duy thức… tất cả những hạt châu quý giá đó trong kho tàng tư tưởng của nhân loại đều đã dung nhiếp với nhau một cách hài hòa để phát huy Chân lý của Đức Phật muốn độ tận chúng sinh bằng cách thiết lập một cõi Tịnh độ cho toàn thể chúng sinh cộng hưởng trên cõi thế gian này.

Tư tưởng của Kinh Vô Lượng Thọ trong Pháp môn Tịnh độ, chẳng khác tư tưởng của Kinh Pháp Hoa nói lên điểm then chốt là Phật thường ở cõi thế gian này, và Tha lực của Ngài thường hoạt động và ứng hiện bất cứ đâu và bất cứ lúc nào để sẵn sàng tiếp độ chúng sinh. Tất cả những bông hoa thắm tươi trong vườn tư tưởng của loài người như: “Phật tại Tâm, ngoài Tâm không có Phật”, “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, “Cực lạc tức Ta bà”, “Niết bàn tức Sinh tử”, “Tâm, Phật cập chúng sinh, thị tam Vô sai biệt”, “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”, “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, “Vật chất tức Tinh thần, Tinh thần tức Vật chất”… đều cùng làm sáng tỏ cái lý tối cao “Tâm - Cảnh nhất như”, và tâm con người gồm đủ cả ba đức tánh: “Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ Và Vô Lượng Công Đức.” Chúng sinh là Phật sẽ thành, muốn thành Phật thì phải Kiến tánh, thấy rõ Chân tâm, Phật tánh của mình: đó là mật nghĩa và diệu dụng của bộ “Phật thuyết A Di Đà Kinh” và cũng là mật nghĩa và diệu dụng của sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật.”

- Pháp môn Tịnh độ dễ tu, dễ chứng, nhưng lại khó nói, khó nghe, bởi lý Tịnh độ cực kỳ viên đốn thu nhiếp đủ mọi căn cơ, người nghiệp lành, kẻ tạo ác mà quyết tâm hướng vê miền Cực lạc Tây phương đều được “đới nghiệp vãng sanh.” Chỉ nhờ vào sức niệm Phật của mình mà thoát cảnh Ta bà, được về nơi Cực lạc, chung sống với các bậc Thánh Hiền để tu cho tới Phật quả, là một điều khó khăn vì quá dễ dàng, giản dị. Đến việc tạo dựng một cõi Tịnh độ ở nơi trần gian ác thế này, lại là một điều càng khó tin và khó thực hiện hơn, nhưng cái khó ấy lại hoàn toàn do ở chúng ta, người người khuyên nhau hướng thượng, làm điều lành, bỏ điều ác, và thiết tha mong được sống hạnh phúc bên nhau. Liệu chúng ta có chịu tin ở khả năng bên nhau. Liệu chúng ta có chịu tin ở khả năng hoán cải của tâm mình hay không? Và điều cần thiết là chúng ta có muốn trở về với Chân tâm, bản tánh chí thiện của mình hay không?

Chỉ cần chúng ta Tin sâu, Nguyện thiết và Tinh tiến hành trì theo đúng lời Phật dạy là có thể thấy được Tự Tánh Di Đà thanh tịnh và sống trong cảnh Tịnh độ của tự tâm hay thiết lập được cõi Địa đường ở ngay nơi trần thế này theo đường lối “giai cộng thành Phật đạo.”

- Căn bệnh nan y của loài người là mang tâm phân biệt Nhị nguyên. Không biết rằng mọi pháp trên thế gian này đều Bình đẳng, Bất nhị, bởi thế mà cõi Ta bà này chỉ trở thành cõi Tịnh độ nhân gian khi nào những đóa hoa tình thương đều nở rộ trên mảnh tâm điền của mọi người và được săn sóc bằng lòng khoan dung, độ lượng, hỷ xả của người người khắp nơi trên hoàn vũ biết sống theo lý Bất nhị Sự Sự vô ngại, Sai biệt trong Vô sai biệt, và Phân biệt trong Vô phân biệt của thế giới Hoa Nghiêm.

Để cảnh giác những ai còn mê mờ về ngôn ngữ, danh từ mà chưa đạt được lý Không Hai của nhà Phật. Thiền sư Phật Quốc, sau khi ngộ đạo đã để lại cho hậu thế mấy vần thơ sau đây:

Tâm, Tâm tức Phật, Phật Tâm, Tâm,

Phật, Phật, Tâm, Tâm, tức Phật Tâm.

Tâm, Phật ngộ lai vô nhất vật,

Tướng quan chỉ khát vọng mai lâm.

(Tâm, Tâm tức Phật, Phật tức Tâm,

Phật, Phật tức Tâm, Tâm tức Phật.

Tâm, Phật ngộ rồi, không gì cả

Nói mơ đỡ khát vạn quân binh).

Ngụ ý: Kẻ mê chấp Tâm và Phật riêng khác. Người Trí lại nói: Phật tức Tâm, Tâm tức Phật không hai. Người đã ngộ lý Bất nhị và Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại không còn thấy Phật và Tâm khác nhau nữa. Vì muốn độ chúng sinh mê muội, Phật đã phải dùng ngôn ngữ để thuyết pháp ròng rã 49 năm trường, nhưng cuối cùng Phật lại phủ nhận tất cả và tuyên bố: “Ta có nói gì đâu!” Cũng ví như vị chỉ huy một đạo quân phải vượt qua vùng nắng thiêu cát bỏng, thiếu nước, muốn cho quân mình khỏi bị khô cổ chết khát, phải đặt ra chuyện sắp đi qua một rừng mơ đương độ chín, và khuyên ba quân nên dồn bước để tới ngay khu rừng đầy mơ chín mọng tha hồ nếm vị mơ chua. Quân lính nghĩ tới mơ chín đều thèm nhỏ dãi. Người chỉ huy ba quân bày ra chuyện rừng mơ để cứu đạo binh khỏi chết khát cũng như Phật đã phải dùng ngôn ngữ và 48.000 Pháp môn làm phương tiện để giải mê khai ngộ cho quần sinh đa bệnh. Khi chúng sinh đã tiến tới bờ giác, hết bệnh rồi, cũng như quân lính đã khỏi khát, thì rừng mơ không cần thiết nữa, cũng như những phương tiện dùng để qua sông mê đều phải vứt bỏ hết.

Ngôn ngữ, danh từ cùng những ý niệm của loài người đều là những sản phẩm của ý thức nhằm đạt tới Chân lý. Chúng không phải là cứu cánh, kể cả các Kinh điển Phật. Dù nói nhiều lời tới đâu cũng không đủ để tới được Chân lý tối cao, cho nên Thiền tông mới chủ trương ngậm miệng làm thinh, không thốt nên lời:

Sư đệ tứ mục tuệ nhãn tương giao

Ấn chứng Như Lai, Thiền y tự Tổ,

Dịch:

(Bốn mắt nhìn nhau chẳng nói năng,

Truyền nhau Tuệ nhãn, gửi nhau lòng.

Như Lai siêu xuất trên từ ngữ,

Tâm ấn tương truyền Không ấn Không).

(BS. Nguyễn Văn Thọ)

- Đạo Lão cũng chủ trương: “Hành bất ngôn chi giáo”, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”, “Đạo bản vô ngôn, ngôn sinh lý tánh.”

- Tổ Đạt Ma cũng khuyên người đời chớ để ngôn ngữ, văn tự của thế giới Nhị nguyên tương đối, giết chết tinh thần Nhất nguyên tuyệt đối chứa trong mối đạo. Có thoát ra ngoài vòng trói buộc của ngôn ngữ, văn tự và hình danh sắc tướng của thế giới Nhị nguyên mới thấy được ý nghĩa thâm sâu về Thể tánh của muôn pháp nơi trần thế. Vì thế mà Trang Tử đã nói: “Dùng nơm để bắt cá, được cá phải quên nơm. Dùng bẫy để bắt thỏ, được thỏ phải quên bẫy. Dùng lời để đạt ý, được ý phải quên lời. Ta biết tìm đâu được người quên lời để cùng nhau đàm đạo?” Ta chớ nên để lời giết ý nhưng ta cũng không thể dứt khoát từ bỏ ngôn ngữ, văn tự để cầu đạo Giải thoát, bởi đó là phương tiện cần thiết để đạt đạo đối với người sơ cơ, cũng như cần phải có cây cầu hay chiếc bè để qua sông khi chưa biết bơi. Phải dùng lời lẽ chân thật mới bác bỏ được những luận điệu xuyên tạc sai trái. Phải nuôi dưỡng những tư tưởng cao siêu mới vượt được lên trên những tư tưởng thấp hèn. Phải dùng óc suy luận và lý trí sáng suốt mới soi tỏ được chỗ tối tăm trong vô minh đen tối. Trong Thiền càng ít lời càng gần đạo, nhưng trong Luận và Giáo, muốn bày tỏ Chân lý phải dùng văn tự, ngôn ngữ để biện minh. Thiền dùng Vô ngôn để đi thẳng trực tiếp vào thể Không tịch. Giáo và Luận lại phải trông cậy vào ngôn ngữ văn tự để vận tải đạo, nhiếp Tướng nhập Tánh. Những phương pháp Hữu ngôn hay Vô ngôn đều là Dụng hay phương tiện của đạo dùng đến khi cần, bởi vì:

Giác nguyên tánh vô nhị

Phương tiện hữu đa môn.

(Kinh Lăng Nghiêm)

Ngả về Hữu hoặc nghiêng về Vô đều là bệnh chấp. Người ngộ đạo, khi cần đến ngôn ngữ vẫn phải dùng, nhưng dùng xong lại bỏ, có thế mới đúng lý Trung đạo. Đứng trước một phong cảnh tuyệt mỹ, gây cảm xúc dạt dào, người họa sĩ không thể đừng cầm bút vẽ phác họa đôi nét đan thanh, người nhạc công không thể ngăn cản mình dùng cây đàn hoặc ống sáo để tấu lên một khúc thần diệu, hay thi nhân cũng không thể làm thinh chẳng lên tiếng ngâm nga hay dùng giấy mực lưu lại mấy vần thơ tuyệt tác.

Ở đây trước những ý thâm diệu xúc tích của Pháp môn Tịnh độ, tôi chỉ xin nhắc lại quý vị nhớ tới 16 chữ khẩu quyết dùng làm tôn chỉ cho Pháp môn Tịnh độ:

Vì sự Sinh tử,

Phát lòng Bồ đề,

Dùng Tín, Nguyện sâu

Trì danh hiệu Phật.

Hoặc nhớ tới bài kệ của Triệt Ngộ Đại sư:

Nhất cú Di Đà

Quy nguyên tiệp kính,

Khẩn yếu tư lương,

Duy Tín, Nguyện, Hạnh.

(Dịch: Một câu Di Đà, lối về nguồn tắt, Tư lương cần thiết, chỉ Tín, Nguyện, Hạnh) và ước mong tha thiết toàn thể quý Tín hữu cùng tôi phát nguyện vãng sinh, tinh tiến tu hành, thành kính cầu Tha lực của Phật A Di Đà được về cảnh giới an lạc. Mục tiêu trước mắt của chúng ta là phải được về cảnh giới an lành của bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. An vui tự tai ngay trong giây phút này và ngay tại nơi đây tiếp tục tu, sống với lý “Đệ nhất nghĩa không”, sau đó lại nguyện trở về cõi Ta bà, trở về đời sống hiện tại, tích cực hành đạo Bồ tát để đạt tới ngôi Chánh đẳng Chánh giác. Luận Vãng Sinh Tịnh độ của Mã Minh Bồ tát dạy rằng: “Muốn vào sâu cõi Địa ngục, muốn tế độ hết chúng sinh, phải được về nơi Cực lạc để dễ tu tập thêm, đợi đến khi chứng quả Vô sanh, lúc đó lại tự nguyện trở về đường Sinh tử để độ đời cho có hiệu năng.” Bởi vì phàm còn làm chúng sinh, còn bị trói buộc trong vô minh, thì mong gì độ tha, Giải thoát cho người? Đạo Phật ưa thực hành, và là môn Triết học phù hợp với tinh thần Khoa học. Người theo đạo Phật nên sưu tầm nghiên cứu để tìm hiểu sâu môn Triết học đó. Khi đã hiểu thật rõ, lại phải ra công thực hành cho chu đáo để Lý hướng dẫn Sự, Sự làm sáng tỏ Lý, hầu đạt tới Sự Lý viên dung, Sự sự vô ngại. Nếu thực hành được Sự Lý chu đáo thì sẽ đạt được cảnh Cực lạc cao thâm huyền diệu, hay trở về được với những đức tánh chí thiện, chí mỹ của mình.

Phật học khác Triết học và Khoa học ở chỗ: ai muốn theo Sự hay Lý tùy tâm, miễn sao thực thi đúng đắn những lời Phật dạy, quyết chí tu tập tới điểm “nhất tâm bất loạn” hay “Nhất điểm Tam muội”, vì “Sự cũng như Lý”, “Sắc tức thị Không.” Rất mong quý đạo hữu cùng tôi phát nguyện tu theo Pháp môn Tịnh độ (Tịnh độ thuần túy hoặc Thiền Tịnh song tu, hay Mật Tịnh, Giáo Tịnh tùy ý), cùng nhau chúng ta niệm Phật cho chuyên, cho thuần, để một ngày kia chúng ta được cùng nhau họp mặt nơi Ao Sen bảy báu của Đức Di Đà Thế Tôn. Nhân đây tôi có bài kệ niệm Phật để khuyên các bạn đồng tu:

Lẽ sống chết trọng đại.

Vô thường đuổi sau gáy.

Kiếp người duy có hạn.

Sao chẳng lo tu thân?

Bớt nói chuyện sâu gà,

Vơi đi bao gánh ác

Niệm thêm câu Di Đà.

Tạo nhiều nhân Thường Lạc.

Hẹn gặp nơi Liên trì

Bạn cùng hàng Thiện trí

Cảnh Niết bàn Tịnh ngã.

Là quê hương chúng ta.

Đứng trước chuyển biến cuồn cuộn của không gian và thời gian, phần đông chúng ta đều có tâm trạng lo âu khắc khoải. Bóng thiều quang vùn vụt trôi mau. Ta chớ nên bỏ phí thời giờ quý báu mà chẳng nghĩ tới việc bồi dưỡng tâm tư. Chúng ta thường quen đặt cuộc sống của mình trên hai cái phao nổi bình bồng là quá khứ và vị lai, còn hiện tại thì lại thoát khỏi tầm tay ta vì ta cố tình lẩn tránh nó. Nhưng chỉ có hiện tại là Thực, đó là châu ngọc mà ta để mất đi cho trôi vào quá khứ. Thật là đáng tiếc! Hiện tại mong manh như sợi tơ mành. Nó là khoảnh khắc sát na chớp nhoáng, cắt đứt hai con đường mà không gian và thời gian vô hạn, hay nói đúng hơn là giao điểm giữa quá khứ và vị lai. Nếu đạt được cái ấy tức là xóa nhòa được quá khứ và vị lai. Không còn không gian và thời gian nữa, tức là Giác ngộ, Giải thoát, là ở trong cảnh thái hòa, an lạc vô biên của đương xứ vĩnh cửu. Chúng ta đừng nên luyến tiếc quá khứ phù vân, hãy cho nó rơi theo cánh hoa tàn, tạnh với cơn mưa đêm, tan theo làn gió thoảng… Kìa, một tiếng hạc kêu sương báo hiệu Đông tàn, Xuân tới, sao ta chẳng biết lo liệu tu tâm?

Thân này chẳng tính đời nay độ,

Còn đợi bao giờ mới độ thân?

- Ta thử nghĩ xem. Ta từ đâu đến? Rồi đi về đâu? Bao giờ ta ra đi? Nào ta có biết? Nhưng điều chắc chắn là một ngày nào đó ta phải ra đi! Tài sản, sự nghiệp mà ta trìu mến, thân bằng quyến thuộc mà ta quý yêu, chẳng có gì theo ta cả, ngoại trừ cái Nghiệp của mình!

Ta tới cõi đời này với hai bàn tay trắng, cũng chỉ với hai bàn tay trắng ấy ta ra đi. Tấm thân này từ cát bụi nó đến, nó lại trở về với cát bụi. Danh vọng hão huyền, vinh quang phù phiếm, tất cả đều tiêu tan như bóng mây chiều.

Một thân một mình ta phiêu bạt trong cơn gió lốc Luân hồi, giữa dòng nghiệp nổi trôi, hết làm kiếp người lại làm kiếp thú, hết làm Bồ tát lại làm Tiên, Thần. Chúng ta gặp nhau đây để rồi lại chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Có thể chúng ta còn gặp nhau nhiều lần nữa, nhưng đến lúc đó mặt tuy đối mặt mà nào có hay? Rồi cũng có khi ta tự đặt câu hỏi: “Phải chăng chúng ta sống ở đời chỉ cốt để góp mặt với không gian và thời gian cho qua chuỗi ngày dài trống rỗng, thi nhau dốc cạn chén rượu nồng của cuộc đời vô vị hay say sưa trong giấc mộng hão huyền của sắc tài, danh lợi, để rồi mục nát với cỏ cây?”

- Đời người ví tựa tuần trăng. Lúc mới lọt lòng, tâm hồn còn trong trắng, tròn và sáng như trăng rằm. Càng lớn lên, tâm hồn càng lem luốc, và khi đạt tới đỉnh cao của danh vọng, tiền tài thì cũng là lúc tinh thần đạo đức xuống thấp và đen tối nhất, như những đêm trăng khuyết, không một ánh sao mờ. Chợt đến khi thức tỉnh là lúc đã chán chường, tóc đã điểm sương, nếm đủ mùi cay đắng, tự nhiên ta phải nhìn về nẻo đạo.

Những gì mà ta đã bài bác, phủ nhận trong thời niên thiếu tới lúc đó ta mới chợt nhận thấy rõ chân giá trị của nó, và ước mong cuối cùng của người có Tâm đạo là cố gắng sao cho đến lúc trở về già, tâm hồn lại được quang minh rạng rỡ như vầng trăng vằng vặc đêm Rằm. Đời người là một con đường đi. Con đường đó chẳng phải để cho ta nằm ngủ ngon giấc, hay ngồi duỗi dài chân nghỉ ngơi dưỡng sức, mà để cho ta phải dấn bước tiến lên tới đích lý tưởng xa vời! Cuối con đường này là mặt trời Đạo lý, tỏa Tuệ giác linh quang. Ta phải cố tiến bước về phía có ánh sáng rực rỡ. Vầng trán nào hướng về phía mặt trời đều tỏa hào quang sáng ngời và để lại phía sau lưng bóng tối vô minh. Đã tới lúc ta phải tìm về với chúng ta, đối diện với Thần Lương tâm hay Phật A Di Đà của mình, nhìn lại bộ mặt xưa nay của ta, bởi vì:

Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng.

Mắt theo hình sắc, mũi theo hương.

Lênh đênh làm khách phong trần mãi.

Ngày hết quê xa, vạn dặm đường…

(Trần Thái Tông)

Nếu chúng ta cứ mải mê làm khách phong trần, tha phương cầu thực, rong ruổi chạy theo bóng chập chờn của trần cảnh, cùng những hệ luỵ của tình đời, thì ta cứ mãi mãi làm kiếp cùng tử trong Kinh Pháp Hoa. Không nhận ra mình chính là con ruột của một vị Trưởng giả tột đỉnh giàu sang, tự khinh mình chẳng có Chân tâm, Phật tánh, quen làm những công việc hèn hạ, lạy lục mãi người khác để cầu được cái mà chẳng dè mình đã có, sống lang thang trên đường vô định, quên cả cố hương là Tự Tánh của mình.

“Thiên địa tuần hoàn, chung nhi phục thủy.” Thủy hay chung vẫn chỉ là điểm “Nhất tâm Chân như” khi ẩn khi hiện, chỗ sinh xuất của vạn hữu mà cũng là đích cuối cùng mà muôn loài phải đạt tới, ẩn lúc khởi đầu, hiển khi chung cuộc. Giữa thủy và chung, ẩn và hiển, là một quá trình tu dưỡng tiến hóa hay thoái bộ của muôn loài chúng sinh. Trước cảnh Suy, Già, Bệnh, Chết tôi đã xúc cảm làm mấy vần thơ sau đây:

Tóc bạc, da mồi, mắt hấp háy.

Lưng còng, gối mỏi, răng lung lay.

Vinh hoa phú quý, say mồi lợi,

Tật bệnh già nua, khổ vẫn đây!

Ví hưởng tràn trề mùi khoái lạc.

Sao đã thoát khỏi mối bi ai?

Duy còn một lối ly Sinh, Tử.

Nhất niệm Nam Mô, trọn tháng ngày.

Để nói lên phần nào quan niệm của tôi về vấn đề Tịnh nghiệp, tôi có mấy vần thơ sau đây để bày tỏ tấc lòng:

Đường về Xứ Phật

Vầng hồng rắc hạt châu sương.

Tỉnh cơn trường mộng, tìm đường hồi sinh.

Giã từ vọng thức vô minh.

Đường về xứ Phật dặm trình bao xa?

Xứ kia trụ giữa Ta bà,

Niết bàn cõi ấy sát na đời đời

Hạc vàng nhẹ gánh mộng vơi

Lâng lâng vỗ cánh lưng trời rẽ mây.

Và để kết thúc câu chuyện hôm nay, tôi thành tâm cầu chúc quý đạo hữu trong buổi đầu Xuân, thân tâm thường an lạc, ai nấy đều luôn có nụ cười Di Lặc trên môi; trong hiện tại được trở về với Chân tâm của mình, luôn luôn sống trong Đương Xứ, cõi Tịnh độ của Tự Tâm, và trong tương lai chúng ta cùng nhau vui cảnh đoàn viên trong bầu không khí ấm áp Hạnh phúc Tự do, Bình đẳng tuyệt đối, cùng toàn thể nhân loại hoan ca trong cảnh Địa Đàng.

Giáp Tý 1984

Chung