Phật Học Tinh Yếu Thiên 2

Đề yếu: Do nghiệp sai biệt của loài hữu tình, nên thế gian chia ra ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới là nơi chúng sanh còn nhiễm năm dục lạc; Sắc giới là nơi chúng sinh đã ly dục, nhưng còn có sắc tướng trang nghiêm của thân và cảnh; Vô sắc giới có thể gọi là tinh thần giới, vì nơi đây tuyệt tướng thân cảnh, người đồng bích lạc, cõi tợ hư không, duy có bốn ấm vi tế của chúng sinh. Các hữu tình trong ba cõi chia thành bốn loại: loại sinh thai, loại sinh trứng, loại sinh nơi chỗ ẩm ướt và loại hóa sinh. Trong bốn loại này, y theo thứ tự cao thấp, lại có bảy nẻo: Trời, Tiên, Người, A tu la, Quỷ thần, Bàng sanh, Địa ngục. Trong bảy nẻo, tùy theo nghiệp nhân lành dữ sai biệt, nên chúng sinh từ sắc thân, thọ lượng, cho đến sự thọ dụng, có xấu đẹp, dài ngắn, tinh thô, vui khổ không đồng. Trên đây là đại khái của sáu tiết trong bản chương.

Chúng sinh là chánh báo, hoàn cảnh là y báo; chánh báo là phần chính, y báo là phần phụ. Trong bản Thiên diễn tả hữu tình trước phần thế giới do bởi ý này.

Phật Học Tinh Yếu Thiên Thứ Nhất

Phật Học Tinh Yếu Thiên Thứ Hai

Phật Học Tinh Yếu Thiên Thứ Ba

(Thiếu phần biểu đồ. bttdtkvn)

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. PL. 2543 – DL. 1999

Mục Lục Thiên Thứ Hai

Chương I: Chúng Sinh Trong Ba Cõi.

Chương II: Thân Trung Hữu Và Sự Thọ Sanh.

Chương III: Thế Giới Quan Của Đạo Phật.

Chương IV: Cõi Đại Thiên Và Thời Kiếp.

Chương V: Từ Đức Thích Ca Đến Phật Di Lặc.

Chương VI: Các Chủng Loại Thế Giới.

Chương VII: Biển Thế Giới Hoa Tạng.

Chương VIII: Pháp Giới Tổng Luận.

Chương I: Chúng Sinh Trong Ba Cõi.

+ Tiết Mục:

I. Tam giới.

II. Tứ sinh.

III. Thất thú.

IV. Sắc thân của hữu tình.

V. Thọ lượng của hữu tình.

VI. Thọ dụng của hữu tình.

+ Pháp tạng trích dẫn:

- Luận Hiển Dương Thánh Giáo,

- Luận Câu Xá,

- Kinh Giải Thâm Mật,

- Lục đạo Tập,

- Kinh Trường A Hàm,

- Luật Tứ Phần,

- Kinh Bồ tát Xử Thai,

- Luận Du Già Sư Địa,

- Luận Bà Sa,

- Luận A Tỳ Đàm,

- Kinh Khởi Thế Nhân Bản,

- Luận Đại Trí Độ,

- Kinh Giảo Lượng Thọ Mạng,

- Kinh Chánh Pháp Niệm.

+ Đề yếu: Do nghiệp sai biệt của loài hữu tình, nên thế gian chia ra ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới là nơi chúng sanh còn nhiễm năm dục lạc; Sắc giới là nơi chúng sinh đã ly dục, nhưng còn có sắc tướng trang nghiêm của thân và cảnh; Vô sắc giới có thể gọi là tinh thần giới, vì nơi đây tuyệt tướng thân cảnh, người đồng bích lạc, cõi tợ hư không, duy có bốn ấm vi tế của chúng sinh. Các hữu tình trong ba cõi chia thành bốn loại: loại sinh thai, loại sinh trứng, loại sinh nơi chỗ ẩm ướt và loại hóa sinh. Trong bốn loại này, y theo thứ tự cao thấp, lại có bảy nẻo: Trời, Tiên, Người, A tu la, Quỷ thần, Bàng sanh, Địa ngục. Trong bảy nẻo, tùy theo nghiệp nhân lành dữ sai biệt, nên chúng sinh từ sắc thân, thọ lượng, cho đến sự thọ dụng, có xấu đẹp, dài ngắn, tinh thô, vui khổ không đồng. Trên đây là đại khái của sáu tiết trong bản chương.

Chúng sinh là chánh báo, hoàn cảnh là y báo; chánh báo là phần chính, y báo là phần phụ. Trong bản Thiên diễn tả hữu tình trước phần thế giới do bởi ý này.

Tiết I. Tam giới.

Tam giới là gì? Là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới là chỗ ở của các loại hữu tình chưa ly dục, còn tạp phiền não và các uẩn sai biệt. Sắc giới là chỗ ở của các loại hữu tình đã ly dục, nhưng còn tạp phiền não và các uẩn sai biệt. Vô sắc giới là chỗ ở của các loại hữu tình đã ly dục và sắc, song cũng còn tạp phiền não và các uẩn sai biệt. Trong Tam giới lại còn có năm thứ sai biệt khác là tướng sai biệt, thô trọng sai biệt, phương xứ sai biệt, thọ dụng sai biệt và nhiệm trì sai biệt.

Tướng sai biệt trong là cõi Dục có nhiều sắc tướng, những tướng không trong sạch và các thứ tạp tướng; trong cõi Sắc có ít sắc tướng, những tướng trong sạch và không có tạp tướng; còn cõi Vô sắc tuy thuộc về không nghiệp nhưng cũng có sắc, mà sắc thuộc về định, về vô kiến, vô đối. Lại nữa, trong cõi Dục có tướng khổ thọ tương ưng, tướng sân nhuế tương ưng và tướng nhiều tùy phiền não tương ưng. Trong cõi Sắc và Vô sắc có tướng khổ thọ bất tương ưng và tướng ít nhiều tùy phiền não tương ưng.

Thô trọng sai biệt là trong Dục có những sự thô trọng thô mà tổn hại, trong cõi Sắc và Vô sắc sự thô trọng tế mà không tổn hại.

Phương xứ sai biệt là cõi Dục ở phương dưới, cõi Sắc ở phương trên, còn cõi Vô sắc thì không phương xứ.

Thọ dụng sai biệt là chúng sanh cõi Dục thọ dụng cảnh giới bên ngoài, chúng sanh cõi Sắc và Vô sắc thọ dụng cảnh giới bên trong.

Nhiệm trì sai biệt là chúng sanh ở cõi Dục nương nơi bốn sự ăn mà trụ, chúng sanh cõi Sắc và Vô sắc nương nơi ba sự ăn mà trụ (Luận Hiển Dương Thánh Giáo).

Trong ba cõi, Dục giới thuộc về xứ sở hạ phương. Được mệnh danh là Dục giới, vì chúng sanh ở nơi đây nhiễm năm thứ dục lạc: sắc dục, tiền của, danh vị, ăn mặc, ngủ nghỉ. Dục giới cũng gọi là chỗ Ngũ thú tạp cư. Ngũ thú là: Trời, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Tạp cư có hai nghĩa: 1. Trong cõi Dục gồm có năm chủng loại ở. 2. Trong mỗi chủng loại lại có các chủng loại khác ở lẫn lộn, như nơi cõi Trời cũng có Súc sanh, quỉ thần, nơi cõi Người có Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Nếu nói đại khái theo thứ bậc thấp cao, thì trong Dục giới có ba loại: loại ác thú, loại người, loại trời. Loại ác thú có bốn: A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Loại người gồm có nhơn chúng ở bốn nơi: Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Đông Thắng Thần Châu và Bắc Câu Lư Châu. Loại trời có sáu cõi từ thấp đến cao: trời Tứ Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc và trời Tha Hóa Tự Tại. Trong cõi Dục, về hữu tình giới thì kể từ cõi Tha Hóa đến ngục Vô gián; nếu về khí thế giới, phải kể đến phong luân.

Trên Dục giới là Sắc giới, gồm nhiếp hữu tình và khí thế gian. Sở dĩ gọi Sắc giới, vì chúng sinh ở cõi này lìa sự nhiễm dục, từ thân đến cảnh đều là sắc chất trang nghiêm, thanh tịnh. Cõi này chia ra làm 18 Thiên vức khác nhau; ba Thiền Thiên trước mỗi nơi có ba, đệ tứ Thiên có chín. Ba Thiên vức ở Sơ Thiền Ly sanh hỷ lạc địa là: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Ba Thiên vức ở Nhị Thiền Định sanh hỷ lạc địa là: Thiểu Quang Thiên. Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên. Ba Thiên vức ở Tam Thiền Ly hỷ diệu lạc địa là: Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên. Chín Thiên vức ở Tứ Thiền Xả niệm thanh tịnh địa là: Vô Vân Thiên, Phước Sanh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên. Trong chín Thiên vức, năm cõi ở sau cùng tên là Ngũ Tịnh Cư Thiên, cũng gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên, vì là chỗ ở của bậc Thánh A na hàm.

Theo các đại Luận sư ở xứ Ca Thấp Di La thì Sắc giới chỉ có 16 Thiên vức, vì Đại Phạm Thiên nguyên là một vùng lâu các rộng lớn ở cõi Phạm Phụ, chớ không phải biệt trí nơi khác. Còn trời Vô Tưởng thì nhiếp về Quảng Quả Thiên, vì hai Thiên chúng này đồng một thân lượng và thọ lượng.

Trên Sắc giới là Vô sắc giới. Được mệnh danh là Vô sắc, vì đây không có sắc uẩn chỉ có thọ, tưởng, hành, thức bốn ấm mà thôi. Cõi này không có sắc pháp biểu hiện, nên không có phương sở đời quá khứ vị lai đều như thế, lý đã quyết định. Nhưng về phần dị thục sanh sai khác thì có bốn bậc: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn bậc này không phải có riêng xứ sở cao thấp, mà do nghiệp chúng sanh hơn kém khác nhau (Luân Câu Xá, Lục đạo Tập).

Tiết II: Tứ Sanh.

Trong sáu nẻo Luân hồi, loài hữu tình chết nơi đây sanh nơi kia, hoặc do thai sanh, hoặc do noãn sanh, hoặc do thấp sanh, hoặc do hóa sanh (Kinh Giải Thâm Mật).

Thai sanh là chúng hữu tình từ nơi thai tạng mà sanh ra, như loài: voi, ngựa, trâu, dê, heo, lừa... Noãn sanh là chúng hữu tình từ nơi trứng mà sanh ra, như loài ngỗng, công, se sẻ, anh võ, nhạn... Thấp sanh là chúng hữu tình từ nơi chỗ ướt mà sanh ra, như loài trùng, muỗi, đĩa... Hóa sanh là chúng hữu tình chẳng nương nơi nào, từ nơi không mà bỗng hiện ra đủ thân mình và chi phận, như chư Thiên, loài ở Địa ngục...

Loài người sanh ra có đủ bốn cách: thai, noãn, thấp, hóa. Người do thai tạng sanh ra thì dễ biết, như nhơn loại hiện nay. Người thuộc về noãn sanh như ông Ô Ba Thế La sanh từ trứng hạt, và trường hợp ba mươi hai người con của bà Lộc Nữ, năm trăm người con của vua Bà Giá La. Người thuộc về thấp sanh như các vị: Ô Ba Giá Lư, Cáp Man Am La Vệ. Người thuộc về hóa sanh như loài người vào thuở kiếp sơ.

Chúng Bàng sanh có đủ bốn loại: thai, noãn, thấp hoá. Chư Thiên, chúng Địa ngục và thân trung hữu duy thuộc về hóa sanh. Quỉ thú chỉ có hai loại: thai và hóa.

Trong bốn loại thai, noãn, thấp, hóa, loài nào thắng hơn cả?

Chỉ có loài hóa sanh là tối thắng?

Nếu thế tại sao bậc hậu thân Bồ tát có thể sanh tự tại mà lại thọ thai sanh?

Bồ tát thọ thai sanh vì có những điều lợi ích như sau: Vì muốn dẫn dắt các hàng Thích chủng và thân thuộc vào Chánh pháp. Vì muốn cho mọi người biết Bồ tát dòng dõi Luân vương mà sanh lòng cung kính, bỏ tà về chánh. Vì muốn cho chúng sanh phát lòng hướng thượng nghĩ rằng: "Ngài cũng là người, ta cũng là người, tại sao ta không siêng năng tu tập để được như Ngài?" Vì nếu không thị hiện như thế, thì khó biết tộc tánh, mọi người sẽ nghi là trời hoặc quỉ. Vì muốn dứt lòng nghi báng của ngoại đạo, bởi họ có truyền thuyết: "Qua một trăm kiếp sau, sẽ có nhà đại huyễn thuật ra đời, dẫn dụ chúng sanh.” Vì muốn lưu thân giới cho chúng sanh cúng dường để được phước sanh cõi Trời và gieo nhân Giải thoát. Nếu Bồ tát thọ hóa sanh, thì không tộc tánh, sau khi chết như ngọn đèn tắt, không còn lưu Xá Lợi để chúng sanh nương theo đó phát lòng tín ngưỡng.

Trong tứ sanh, loài nào nhiều hơn hết?

Chỉ có loài hóa sanh là nhiều hơn cả; vì trong ngũ thú, nhơn, súc, quỉ có thiểu phần hóa sanh, còn chư Thiên, chúng Địa ngục và tất cả thân trung hữu đều thuộc về hóa sanh. (Luận Câu Xá).

Tiết III. Thất Thú.

Thất thú cũng gọi là thất đạo, gồm có: Thiên, Tiên, Nhơn, A tu la, Quỉ thần, Bàng sanh và Địa ngục. Trong kinh có nơi chỉ gọi là Lục đạo, vì Tiên đạo ở cõi Thiên, Nhơn, Quỉ, Súc đều có, nên nhiếp về các nẻo kia. Có nơi ước kết lại chỉ còn ngũ thú, không kể Tiên và A tu la, vì A tu la ở cõi Thiên, Nhơn, Quỉ, Súc đều có, cũng nhiếp các nẻo ấy. Tuy nhiên, Tiên cùng A tu la thật ra đều có chủng loại và nơi cư trú sai biệt, người học Phật cũng cần biết đến, nên xin kể đủ ra đây.

Sao gọi là "đạo" hoặc "thú"? "Đạo" chỉ cho đường nẻo, "thú" có nghĩa là nơi đến; đường nẻo của chúng sanh luân chuyển gọi là "đạo", chúng sanh do nghiệp thiện ác phải đến đó để thọ sanh, cư trụ, gọi là "thú.” Cho nên kinh Pháp Hoa nói: "Lục đạo chúng sanh, sanh từ sở thú.” Thất thú chúng sanh như sau:

1. Thiên thú: Sao gọi là Thiên thú? Thiên thú là nẻo trời, chữ Thiên có nghĩa: Thiên nhiên, tự nhiên. Đây là chỉ cho chúng sanh ở các cõi Trời do tu thượng phẩm Thập thiện và các Thiền định, nên được hưởng phước Thiên nhiên, sự ăn mặc thọ dụng đều tùy niệm hóa hiện, không cần phải tạo tác. Lại chữ Thiên ở đây còn có bốn ẩn nghĩa: tối thắng, tối thiện, tối lạc, tối tôn. Sáu hạng trời ở cõi Dục đều có hình tướng nam nữ, dục nhiễm tùy theo cao thấp mà có nặng nhẹ. Mười tám hạng trời ở cõi Sắc, không hình tướng nam nữ, không có sự dục nhiễm, dùng Thiền định để trưởng dưỡng sắc thân. Còn bốn hạng trời ở cõi Vô sắc thì không hình tướng sắc thân, duy có tâm thức, vì là báo thể của không định.

2. Tiên thú: Sao gọi là Tiên thú. Tiên thú là nẻo tiên: "Tiên" là an nhàn, tự tại, không còn bị phiền lụy của tục trần ràng buộc. Lại "tiên" cũng có nghĩa là "thuyên", vì hạng này có thể thuyên chuyển hình thần khiến cho dung sắc tươi trẻ, mạng sống lâu dài. Tiên có nhiều bậc như Thiên tiên, nhơn tiên, địa tiên, hoặc dạo chơi nơi nhơn gian, hoặc ở ẩn nơi non sâu, hải đảo. Theo kinh Lăng Nghiêm thì có mười hạng tiên:

Hạng chuyên tu về cách chế luyện các thức ăn, làm hoàn hoặc bánh để dùng. Các vị này do thực đạo mà thành, có thể mạnh khỏe sống lâu, nhưng chưa được nhẹ nhàng bay đi, gọi là Địa hành tiên.

Hạng chuyên phục thực các thứ thảo mộc như tử chi, huỳnh tinh, xương bồ. Hạng này được đạo mà thành, thân được nhẹ nhàng bay đi, gọi là Phi hành tiên.

Hạng chuyên phục thực các chất kim thạch, như thu thạch, hồng diên... Các vị này do hóa đạo mà thành, luyện đơn thành tiên cốt, điểm đá hóa vàng ròng, trong chớp mắt có thể đi xa muôn dặm, gọi là Du hành tiên.

Hạng chuyên luyện về sự động chỉ tu cách điều khí cố tinh. Các vị này do khí tinh mà thành, có thể dời hình ẩn bóng, đi trên hư không, gọi là Không hành tiên.

Hạng chuyên luyện về tân dịch, như nhả thứ cũ nuốt thứ mới, làm cho lửa xuống nước lên. Các vị này do nhuận đức mà thành, mặt sáng rỡ như ngọc, hay dạo chơi nơi cõi Trời, gọi là Thiên hành tiên.

Hạng chuyên luyện về tinh sắc, mỗi ngày hớp thanh khí của trời đất, tống hết cặn bả, thâu lấy tinh hoa. Các vị này do hấp túy mà thành, có thể đi xuyên qua núi non, đạp trên nước lửa, gọi là Thông hành tiên.

Hạng chuyên luyện về chú cấm, nhờ công phu trì chú lâu ngày, nên tâm thần được ngưng tịnh. Các vị này do thuật pháp mà thành, có thể trị bịnh, dứt trừ ma quái để giúp ích cho quần sanh, gọi là Đạo hạnh tiên.

Hạng chuyên kiên cố về tư niệm, luyện theo lối buộc tâm tưởng nơi đơn điền, đưa khí xuống vỉ lư, thăng lên giáp tích, đạt đến nê hoàn, rồi xuất thần nơi đảnh. Các vị này do tư ức mà thành, có thể hồi quang phản chiếu, gọi là Chiếu hạnh tiên.

Hạng kiên cố về sự giao cảm luyện cách phối hợp khảm ly, thâu nhiếp tinh huyết. Các vị này do cảm ứng mà thành, làm cho thân xinh đẹp sống lâu, gọi là Tinh hạnh tiên.

Hạng chuyên luyện về biến hóa, hằng tồn tưởng nơi lý hóa, đến khi tỏ ngộ thì làm được sự huyễn hóa to tát. Các vị này do giác ngộ mà thành, có thể di sơn đảo hải, biến hiện nhiều cách, gọi là Tuyệt hạnh tiên.

Các hạng tiên trên đây, gọi trường sanh thì có, nhưng bất tử thì không; đến khi số hết phải đọa Luân hồi, vì họ chấp hình thần hữu vi mà không rõ suốt chân tánh. Tuy nhiên, họ cũng sung sướng hơn người một bậc nên ở trên Nhơn thú.

3. Nhơn thú: Sao gọi là Nhơn thú? Nhơn thú là nẻo người. "Nhơn" có nghĩa là nhẫn, chỉ cho loài người khi gặp cảnh thuận nghịch có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phần. Lập Thế Luận nói: "Loài người do tu trung phẩm Thập thiện mà được sanh. Trong ngũ thú chỉ có nhơn thú là nhiều kiêu mạn, nhưng về phần trấn định tâm lý lại hay hơn các nẻo kia.” Chúng sanh thuộc nẻo này có hình tướng nam nữ, ở rải rác khắp bốn đại châu. Chúng sanh trong bốn châu phần nhiều theo đường nhiễm dục, song cũng có người trọn đời giữ nếp sống tu hành thanh tịnh. Luận về phước báo, người ở ba châu: Tây Ngưu Hóa, Đông Thắng Thần, Bắc Câu Lư thù thắng hơn, nhưng về nhân duyên Giải thoát thì họ lại kém thua người ở Nam Thiệm Bộ châu, vì nơi đây có ba điều đặc biệt: Con người trí lanh lợi nhớ dai. Nhiều kẻ siêng tu phạm hạnh. Thường có Phật ra đời.

4. A tu la thú: Sao gọi là A tu la? A tu la là loại chúng sanh nhiều sân hận, đa số có hình tướng không đoan chánh. A tu la cũng gọi là A tố lạc, dịch là Vô đoan chánh, Phi Thiên. Hai danh từ này có nghĩa: không xinh đẹp, có phước trời mà đức không bằng trời. Trong kinh luận có chỗ cho rằng loài A tu la do gây nhân hạ phẩm Thập thiện mà được sanh. Nhưng đó chỉ là nói riêng về một phương diện mà thôi, cho đến danh từ Phi Thiên cũng như thế. Sự thật, phần chánh nhân là loài này do hay nóng giận, hiếu thắng ưa tranh cãi mà được sanh. A tu la chia thành bốn bậc: loài ở cõi Trời thì giống trời, loại ở cõi Người thì giống người, loài ở cõi quỉ thì giống quỉ, loài ở cõi súc thì giống súc. Vì họ không có chủng loại và trụ xứ nhất định, có thể nhiếp về các nẻo khác, nên trong kinh có chỗ chỉ gọi là ngũ đạo hoặc ngũ thú. A tu la ở cõi Trời cũng có cung điện thất bảo, sự ăn mặc tự nhiên hóa hiện như chư Thiên. Nhưng do nhân sân hận họ có ba sự kiện kém hơn người, nên ở sau loài người: Dù loài này có ăn các món trân vị, song miếng sau rốt tự nhiên hóa ra bùn. Ở cõi Trời mưa hoa hoặc châu báu, nơi cõi Người mưa nước, cõi A tu la mưa xuống những binh khí dao gậy. Loài người tâm điềm tĩnh nên dễ thật hành theo Chánh pháp của Như Lai, loài A tu la tâm sôi nổi hơn thua, nên khó tu đạo Giải thoát.

5. Quỉ thần thú: Sao lại gọi là Quỉ thần? "Quỉ" có nghĩa là "úy", là hay khiếp sợ; "Thần" có nghĩa linh thông biến hóa. Trong kinh có nói loài quỉ do nhân trung phẩm thập ác mà được sanh, và sắp quỉ đạo sau súc đạo. Nhưng đó là chỉ nói riêng về phương diện Ngạ quỷ. Sự thật, nếu nói rộng, phải gọi là quỉ thần thú, vì loài này chia làm hai hạng: hạng có uy phước và hạng không uy phước. Đây là do những nghiệp nhân thiện ác bất định từ thuở tiền sanh. Loại quỉ thần uy phước cũng có cung điện, thân tướng trang nghiêm, nhiều kẻ tùy thuộc, hoặc thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được người thờ cúng. Loại này lại chia ra làm hai hạng: chánh thần và tà thần. Bậc chánh thần thì giữ lòng chân chánh hay giúp đỡ nhơn gian; hạng tà thần tâm niệm quỉ quyệt không chân thật, hoặc đa dâm đa sát, thường làm tổn hại cho người. Loại quỉ không uy phước thì vất vả, ở chỗ âm u, thường đói khát, hoặc ăn những đồ bất tịnh.

Xứ sở của quỉ thần có hai nơi: chánh trụ và biên trụ. Chánh trụ là như trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Có thành Diêm La, nơi ở chánh thức của vô số Ngạ quỷ do Diêm La Vương thống lãnh. Thành này ở dưới châu Diêm phù đề, chu vi rộng 7.500.000 dặm. Nơi đây không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng.” Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng bụi, đình miếu, hang hố, đồng trống, mồ mả, cho đến vườn nhà cùng các nơi bất tịnh. Chánh trụ là xứ sở riêng của loài quỉ nghiệp nặng, thuộc về thế giới Ngạ quỷ. Biên trụ là xứ sở của các quỉ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở lẫn lộn trong loài người.

6. Bàng sanh thú: Sao gọi là Bàng sanh? Bàng sanh là loại chúng sanh có xương nằm ngang. Lại chữ "bàng" còn có nghĩa "biến mãn", vì Bàng sanh có nhiều chi loại, và ở các nẻo kia đều có loài này. Trong sách Phật có chỗ gọi nẻo này là Súc sanh đạo, nhưng danh từ Súc sanh chỉ ở trong phạm vi loài sanh vật được người nuôi dưỡng, vẫn không rộng rãi và đầy đủ bằng danh từ Bàng sanh. Chủng loại Bàng sanh tuy nhiều, song đại ước có ba: loại bay trên hư không, loại ở mặt đất và loại sống dưới nước. Theo kinh Chánh Pháp Niệm, Bàng sanh có đến 40 ức chi loại khác nhau. Duyên phận của loại này cao thấp không đồng, cao như Kim súy điểu vương, Long vương, có uy phước thần thông; thấp như dòi, đỉa, côn trùng, sống một khung cảnh nhơ nhớp tối tăm, ngắn ngũi. Bàng sanh cũng có nghiệp nhân thiện ác bất định như quỉ thần và A tu la; nhưng nếu lấy phần đại khái về đa số, thì loài này do nhân hạ phẩm thập ác mà được sanh.

7. Địa ngục thú: Sao gọi là Địa ngục? Danh từ này do người Trung Hoa y theo nghĩa mà lập danh, để chỉ cho lao ngục ở dưới đất, và chữ "ngục" có nghĩa là bó buộc không được tự do. Nhưng theo Luận Bà Sa, thì Địa ngục thú không phải đều ở dưới đất, mà có khi ở trên mặt đất, hoặc dưới nước, hoặc trên hư không. Vì thế bổn kinh Phạm văn không gọi Địa ngục, mà gọi là Nại lạc ca có những nghĩa: khổ cụ, phi đạo, ác nhơn, chỉ cho nơi người tội ác làm điều trái đạo ở, nơi có đủ sự khốn đốn khổ đau. Địa ngục tuy nhiều, nhưng đại ước có hai loại: chánh ngục và biên ngục. Chánh ngục vị trí ở dưới châu Diêm phù đề và giữa núi Thiết Vi. Chánh ngục lại có hai thứ: hàn ngục và nhiệt ngục. Hàn ngục và nhiệt ngục mỗi thứ có tám nơi, mỗi nơi có 16 ngục phụ, mỗi ngục phụ lại có nhiều tiểu ngục khác nữa. Biên ngục cũng gọi là độc ngục, thì ở lẻ loi trên núi, nơi mé biển, dưới nước, chỗ đình miếu, giữa đồng trống, hoặc trong hang sâu. Ở châu Nam Thiệm Bộ có đại Địa ngục, còn ba châu kia chỉ có biên, độc Địa ngục mà thôi. Theo kinh Nghiệp Báo thì Địa ngục là nơi thác sanh của loài hữu tình tạo mười điều ác về thượng phẩm.

Tóm lại, y báo và chánh báo của thất thú đều như huyễn. Chúng sanh do nghiệp duyên lành dữ mà đổi thay hình dạng, chịu sự khổ vui lên lên xuống xuống, luân chuyển không cùng. (Lục đạo Tập).

Tiết IV: Sắc Thân Của Hữu Tình.

1. Thân lượng: Thân chúng sanh ở Nại lạc ca, cao thấp lớn nhỏ không định, có đủ các màu sắc và hình tướng nhơn, quỉ, súc, vì do các nẻo khác sanh về. Nếu loài hữu tình tạo nghiệp cực ác, tự cảm thấy thân thể to lớn vô cùng, chịu đủ các sự khổ. (Luận Du Già Sư Địa).

Thân chúng sanh ở Bàng sanh thú cũng lớn nhỏ không định. Như Nan Đà và Bạt Nan Đà long vương thân hình rất lớn, quấn núi Tu Di bảy vòng, đầu gác trên đỉnh núi, đuôi chấm xuống dưới biển. Loài chim lớn nhứt không chi bằng Kim súy điểu vương. Chim này đầu và đuôi cách nhau tám ngàn do tuần, bề cao thấp cũng như vậy. Khi nó cất cánh thì bay luôn một mạch từ núi Tu Di này đến núi Tu Di kia, giữa chừng không nghỉ. Ở đại hàm hải có loài cá Ma Kiệt, thân dài từ 300 đến 700 do tuần, mắt mũi cực to, miệng như hang máu. (Kinh A Hàm, Luận Tứ Phần, Kinh Bồ Tát Xử Thai).

Thân chúng sanh ở Quỉ thần thú có tốt xấu, lớn nhỏ khác nhau. Đại khái, hạng quỉ lớn nhứt, thân hình cao một do tuần; hạng bậc trung thì thân hình không nhứt định; hạng nhỏ hơn hết, thân hình như đứa trẻ mới vừa biết nói. Hạng quỉ thần có uy phước thân hình cao lớn xinh đẹp như chư Thiên. Các quỉ thần ở non núi, sông ngòi, biển cả, phần nhiều thân thể đều trang nghiêm đoan chánh. Hạng quỉ không uy phước; thân hình thô xấu không thể kể xiết. Có loại bụng lép như chó đói, đầu rối nùi, chân như khúc củi khô, miệng mũi thường chảy ra nước mũi, nước dãi, lỗi tai sanh mủ, nơi mắt chảy ra máu. Có loại cao lênh khênh, bụng lớn như cái trống, cổ họng nhỏ như mũi kim, miệng thường phựt ra lửa, thân mình hôi hám, lông cứng nhọn như gai. Các Ngạ quỷ khác thân thể còn ghê gớm xấu xa hơn nữa (Luận Bà Sa).

Thân thể của A tu la tùy theo chủng loại không định, hoặc giống người, hoặc giống quỉ, hoặc giống súc. Các loại A tu la ở cõi nhơn Thiên, người nam thì xấu, trái lại người nữ rất xinh đẹp. Còn các bậc vua A tu la, bản thân cao từ một trăm đến bảy trăm do tuần, hóa thân cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, chân đứng dưới đáy biển, đầu cao bằng núi Tu Di. A tu la vương có đại huyễn thuật, thường đánh với chư Thiên, vì phước kém hơn trời nên hằng bại trận (Lục đạo Tập).

Thân lượng chúng sanh ở nhơn thú thuộc châu Nam Thiệm Bộ tùy theo kiếp tăng giảm, lớn nhỏ không định. Người ở châu Đông Tỳ Ha Đề, thân lượng quyết định (Luận Du Già Sư Địa).

Người ở Nam châu thân cao ba chẩu rưỡi hoặc bốn chẩu. Người ở Đông châu cao tám chẩu, ở Tây châu cao mười sáu chẩu, ở Bắc châu cao ba mươi hai chẩu (Luận A Tỳ Đàm),

Ở tám trung châu, con người thân hình thấp nhỏ. Ngoài ra lại có 500 tiểu châu, hoặc do loài người ở, hoặc do loài phi nhơn ở, hoặc không có ai ở (Luận Bà Sa).

Người ở Bắc châu mắt có thể thấy suốt tường vách núi non, tai có thể nghe rõ ràng những tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ ở xa hay gần. Người ở Đông châu mắt có thể thấy rõ ràng màu sắc hình dáng trong chỗ tối, tai có thể nghe tiếng ở cách xa một làn tên. Người ở Tây châu mắt có thể nghe được tiếng và thấy suốt tường vách núi non; tai nghe được những âm thanh ở các nơi xa xôi cách ngại. Nhơn loại ở Nam châu có đủ các sắc da, ở hai châu Đông, Tây cũng có các sắc da nhưng không có giống người da đen. Nhơn dân ở Bắc châu chỉ toàn là người da trắng (Luận A Tỳ Đàm).

Về Thiên phú, nơi Dục giới, chư Thiên trời Tứ Vương thân lượng cao nửa dặm, áo nặng nửa lượng. Chư Thiên trời Đạo Lợi cao một dặm, áo nặng sáu thù. Chư Thiên trời Dạ Ma cao một dặm rưỡi, áo nặng ba thù. Chư Thiên trời Đâu Suất cao hai dặm, áo nặng hai thù. Chư Thiên trời Hóa Lạc cao hai dặm rưỡi, áo nặng một thù. Chư Thiên trời Tha Hóa cao ba dặm, áo nặng nửa thù.

Ở Sắc giới, chư Thiên trời Phạm Chúng thân lượng cao nửa do tuần, trời Đại Phạm cao một do tuần rưỡi, trời Thiểu Quang cao hai do tuần, trời Vô Lượng Quang cao bốn do tuần, trời Quang Âm cao tám do tuần, trời Thiểu Tịnh cao 16 do tuần, trời Vô Lượng Tịnh cao 32 do tuần, trời Biến Tịnh cao 64 do tuần, trời Vô Vân cao 125 do tuần, trời Phước Sanh cao 250 do tuần, trời Quảng Quả cao 500 do tuần, trời Vô Tưởng cao 500 do tuần, trời Vô Phiền cao 1.000 do tuần, trời Vô Nhiệt cao 2.000 tuần, trời Thiện Kiến cao 4.000 do tuần, trời Thiện Hiện cao 8.000 do tuần, trời Sắc Cứu Cánh cao 16.000 do tuần.

Chư Thiên cõi Sắc tuy không mặc y phục, song cũng như có mặc; tuy không đội Thiên quan, cũng như có đội, vì do thân quang chiếu hiện.

Chư Thiên ở Vô sắc giới chỉ có định quả sắc, nên không có thân lượng. (Luận Câu Xá, Khinh Khởi Thế, Kinh Trường A Hàm).

2. Thân Quang: Chư Thiên ở Dục giới do tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thanh tịnh nên thân thường có ánh sáng rực rỡ. Chư Thiên cõi Sắc do ly dục tu Thiền định, nên nơi thân phát ra ánh sáng nhiệm mầu, hơn cả ánh nhật, nguyệt và quang minh của Thiên chúng cõi Dục. Ánh sáng đây là do tâm thanh tịnh mà có. (Luận Trí Độ).

Chư Thiên ở cõi Dục thân hình có bốn sắc: biếc, hồng, vàng, trắng tươi sáng như ngọc. Thiên chúng ở đây khi mới hóa sanh, nếu thấy bích hoa hiện thì người sắc biếc, hồng, vàng, trắng cũng như thế. Chư Thiên ở cõi Sắc đa số thân hình có hai sắc: huỳnh kim và bạch ngân. Nhưng cũng có số Thiên chúng thân sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, vì do nhân tu về Biên xứ định. (Luận A Tỳ Đàm).

Tiết V: Thọ Lượng Của Hữu Tình.

Loài hữu tình ở Địa ngục tội ác sâu nặng, nên thọ mạng rất lâu dài. Chúng sanh ngục Đẳng Hượt thọ 500 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 16.200 câu đê năm cõi Người. Chúng sanh ngục Hắc Thằng thọ 1.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 32.400 câu đê năm cõi Người. Chúng sanh ngục Chúng Hiệp thọ 2.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 64.800 câu đê năm cõi Người. Chúng sanh ngục Kiếu Hoán thọ 4.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 129.600 câu đê năm cõi Người. Chúng sanh ngục Đại Kiếu Hoán thọ 8.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 259.200 câu đê năm cõi Người. Chúng sanh ngục Viêm Nhiệt thọ 16.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 518.400 câu đê năm cõi Người. Như thế cứ tăng gấp đôi cho đến ngục Cực Nhiệt, chúng sanh thọ nửa trung kiếp; ngục Vô gián chúng sanh thọ một trung kiếp. (Kinh Giáo Lượng Thọ Mạng, Luận A Tỳ Đàm).

Loài hữu tình ở Quỉ thần và Bàng sanh thú, thọ lượng dài ngắn không định, hoặc trong sát na như cực vi trùng, hoặc muôn ức năm như loài Ngạ quỷ. Các loại rồng và kim Súy điểu thọ lượng một trung kiếp, cũng có khi giữa chừng chết yểu. (Luận Du Già, Kinh Khởi Thế).

Loài hữu tình ở A tu la thú thọ lượng cũng bất định, tùy theo súc, quỉ, nhơn, Thiên, mà có ít nhiều, hơn kém. Thiên A tu la thọ lượng bằng chư Thiên, như La Hầu A tu la vương và thuộc chúng ở thành Quang Minh thọ 5.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 500 năm cõi Người. Dõng Kiện A tu la vương và thuộc chúng ở thành Tinh Mạng thọ 6.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 600 năm cõi Người. Hoa Mang A tu la vương và thuộc chúng ở thành Tỳ Xá La thọ 7.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 700 năm cõi Người. Tỳ Ma Chất Đa A tu la vương và thuộc chúng ở thành Xá Tỳ La thọ 8.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 800 năm cõi Người. (Kinh Chánh Pháp Niệm).

Chúng sanh ở Nhơn thú, thọ lượng tùy nơi có hơn kém. Người ở châu Nam Thiệm Bộ thọ lượng bất định, như ở vào lúc kiếp cực tăng thì sống đến 84.000 tuổi, ở vào lúc kiếp cực giảm chỉ sống có 10 tuổi. Người ở châu Đông Tỳ Đề Ha thọ 250 tuổi. Người ở châu Tây Cù Đà Ni thọ 500 tuổi. Người ở châu Bắc Uất Đan Việt thọ 1.000 tuổi. Nhơn loại ở Bắc châu thọ lượng nhứt định, không có yểu chiết; còn ba châu kia thì có khi yểu chiết giữa chừng. (Luận Du Già Sư Địa).

Thọ lượng của chúng sanh ở Thiên thú cũng có hơn kém tùy mỗi từng trời. Như về Dục giới, trời Tứ Vương thọ 500 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 50 năm cõi Người. Trời Đao Lợi thọ 1.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 100 năm cõi Người. Trời Dạ Ma thọ 2.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 200 năm cõi Người. Trời Đâu Suất thọ 4.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 400 năm cõi Người. Trời Hóa Lạc thọ 8.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 800 năm cõi Người. Trời Tha Hóa thọ 16.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 1.600 năm cõi Người.

Thọ mạng chư Thiên ở cõi Sắc thì lấy kiếp làm lượng. Như về Sơ Thiền, trời Phạm Chúng thọ nửa trung kiếp, trời Phạm Phụ thọ một trung kiếp, trời Đại Phạm thọ một trung kiếp rưỡi. Về Nhị Thiền, trời Thiểu Quang thọ hai đại kiếp, trời Vô Lượng Quang thọ bốn đại kiếp, trời Quang Âm thọ tám đại kiếp. Về Tam Thiền, trời Thiểu Tịnh thọ 16 đại kiếp, trời Vô Lượng Tịnh thọ 32 đại kiếp, trời Biến Tịnh thọ 64 đại kiếp. Về Tứ Thiền, trời Vô Vân thọ 125 đại kiếp, cứ như thế tăng gấp đôi cho đến trời Sắc Cứu Cánh thọ 16.000 đại kiếp. Trong đây trừ Vô Tưởng Thiên thọ lượng đồng với Quảng Quả Thiên.

Ở cõi Vô sắc, trời Không Vô Biên thọ 20.000 đại kiếp, cứ tăng gấp đôi cho đến trời Phi Phi Tưởng thọ 80.000 đại kiếp. (Luận Câu Xá, Luận A Tỳ Đàm, Kinh Giảo Lượng Thọ Mạng).

Tiết VI: Thọ Dụng Của Hữu Tình.

1. Khổ lạc thọ dụng: Sự thọ dụng của loài hữu tình như về khổ lạc thọ dụng, thì chúng sanh ở Địa ngục chịu đựng nhiều phần hình phạt khổ sở. Chúng hữu tình thuộc Bàng sanh thú chịu nhiều phần khổ về sự ăn nuốt lẫn nhau, chút ít phần vui. Chúng hữu tình thuộc Quỉ thần thú chịu nhiều phần khổ về sự đói khát, chút ít phần vui; trừ loại quỉ thần có uy phước. Chúng hữu tình thuộc A tu la và Nhơn thú thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc nhiều hoặc ít tùy theo tội phước hơn kém. Chư Thiên ở cõi Dục thọ dụng nhiều phần vui, ít phần khổ về sự suy não đọa lạc. Thiên chúng ở cõi Hóa Lạc tự biến ra lạc cảnh để làm vui. Thiên chúng ở cõi Tha Hóa lấy hóa cảnh dục lạc của trời Hóa Lạc làm vui. Ở Sắc giới từ Sơ Thiền đến Tam Thiền chư Thiên lấy định cảnh làm vui, sự vui cùng cực duy ở cõi Tam Thiền. Từ trời Tứ Thiền cho đến cõi Vô sắc thì không có khổ lạc thọ. (Luận Du Già, Luận Câu Xá).

2. Ẩm thực thọ dụng: Về ẩm thực thọ dụng, chúng hữu tình ở Nại lạc ca đều dùng thức thực mà duy trì thân. Loài này cũng có thọ dụng phần đoạn thực vi tế, là ở nơi tạng phủ có hơi gió thoảng động, do nhân duyên này mà được sống lâu. Các Bàng sanh, quỉ thần đều dùng thô đoạn thực. Các loài rồng thường dùng cá, rùa, trùng, ếch nhái làm thức ăn. Những vị long vương có phước báo cũng thọ dụng các trân vị như hương phạn, cam lồ, nhưng miếng ăn sau rốt hóa thành ếch nhái. Loài kim súy điểu dùng rồng làm thức ăn. Loài quỉ thần có uy phước thọ dụng những trân vị. Loại quỉ thần không uy phước thường đói khát, khi ăn đồ bất tịnh. Loại Ngạ quỷ nghiệp nặng khi dùng nước hoặc thức ăn, thì những thứ này đều hóa thành máu, lửa, hoặc cát, sạn.

Chúng A tu la và Nhơn thú thọ dụng thô đoạn thực và tế đoạn thực. Tế đoạn thực là khi ở trong thai thọ dụng huyết phần của mẹ. Thô đoạn thực là ăn những thức ăn: cơm, bánh, trái, cá, thịt, hoặc các thức trân vị khác. Các A tu la ở cõi Trời cũng dùng vị tô đà như chư Thiên. Trong bốn châu ở cõi Người, riêng về Bắc châu thì do phước báo nhiều, nên sự ăn mặc tự nhiên mà có, không cần phải tạo tác như ba châu kia. Nói rộng ra ngoài việc ăn uống, các sự thọ dụng khác như phòng nhà, chăn gối, tắm gội, xông ướp hương, thoa dầu phấn, xoa nắn thân thể... cũng gọi là vi tế thực.

Chư Thiên ở Dục giới thọ dụng những trân vị như cam lộ, tô đà, cùng trăm món quí lạ khác, khi ăn vào liền tiêu hóa không có đại tiểu tiện. Còn các sự thọ dụng vi tế như những âm nhạc, xướng hát, du ngoạn, cung điện thất bảo... thì rất thù thắng nhiệm mầu. Tuy nhiên, chư Thiên phước báo cũng có dày mỏng nên có vị thì sự thọ dụng đầy đủ, có vị thọ dụng lại không xứng tâm. Như chư Thiên ăn chung trong một bảo khí vị phước đức bậc thượng thấy cơm sắc trắng, vị phước đức bậc trung thấy cơm sắc vàng, vị phước đức bậc hạ thấy cơm sắc đỏ, mùi vị cũng có thứ bậc ngon dở hơn kém. Chư Thiên ở sắc giới thọ phần Tư thực, dùng sự vui thiền dịnh để nuôi dưỡng sắc thân. Còn chư Thiên ở cõi Vô sắc thì chỉ có thức thực. (Kinh Chánh Pháp Niệm, Kinh Khởi Thế, Luận Du Già).

3. Dục nhiễm thọ dụng: Về dục nhiễm thọ dụng, thì loài hữu tình ở Địa ngục không có sự dâm, vì bị nhiều hình phạt quá đau khổ. Các hữu tình thuộc Bàng sanh, Quỉ thần, A tu la và Người, do vì khổ vui xen lẫn, nên có sự dâm dục. Ở các cõi này, khi hai giống giao hợp, liền có chất bất tịnh thoát ra. Thiên chúng ở dục giới khi gần gũi nhau, không có thứ bất tịnh ấy, duy nơi căn môn có hơi gió nhẹ thổi ra, Dục niệm liền tiêu. Trời Tứ Vương và Đao lợi sự giao hợp cũng như loài người. Trời Dạ Ma, nam nữ chỉ ôm nhau là cảm dục niệm đã thỏa mãn. Trời Đâu Suất, hai bên nắm tay nhau dục niệm liền tiêu. Trời Hóa Lạc, chư Thiên nam nữ chỉ chăm chú nhìn nhau cười, là dục sự đầy đủ, Trời Tha Hóa, chư Thiên nam nữ chỉ liếc nhau là đã xong rồi dục sự. Chư Thiên cõi Sắc và Vô sắc đều tu phạm hạnh, không có dục nhiễm thọ dụng.

Các loại Bàng sanh, Quỉ thần, A tu la, tùy theo hạng cao thấp, hoặc có giá thú, đôi bạn, hoặc si mê giao hợp xen tạp. Loài người ở Nam, Tây, Đông châu, có lễ giá thú, đôi bạn và thê thiếp riêng. Loài người ở Bắc châu, vì không ngã sở nên không có sự giá thú. Đại lực quỉ và chư Thiên cõi Dục cũng có đôi bạn thê thiếp riêng như người ở Ba châu kia, duy trừ trời Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại. (Luận Du Già Sư Địa).

Chúng sanh trong ba cõi chen chúc nhau nhiều đến số vô lượng, nhưng do đâu mà bị luân chuyển và sẽ đi về đâu? Kinh nói: "Tất cả hữu tình đều nương sự ăn mà trụ. Tất cả chúng sanh đều lấy dâm dục làm phần chánh cho mạng sống.” Chữ "dâm" ở đây cũng có nghĩa là tham nhiễm, dù là tham nhiễm Thiền lạc, không định. Sự khổ của thế gian phải trừ lòng tham, muốn trừ tham nhiễm phải dứt ngã chấp (Lục đạo Tập).


Chương II: Thân Trung Hữu Và Sự Thọ Sanh.

+ Tiết Mục:

I. Thân trung hữu

II. Trạng thái lúc vào thai

III. Trạng thái khi ở trong thai

IV. Sanh về ác đạo

V. Sanh về thiện đạo

VI. Nghiệp duyên thọ sanh

+ Pháp tạng trích dẫn:

- Tỳ Nại Gia Tạp Sự,

- Luận Du Già,

- Kinh Đại Bảo Tích,

- Kinh Thủ Hộ Quốc Giới,

- Tạp Sự Lục,

- Đại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận,

- Kinh Chánh Pháp Niệm,

- Luận Thuận Chánh Lý,

- Luận Câu Xá,

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm,

- Pháp Giới Tập.

+ Đề yếu: Loài hữu tình sau khi mạng chung, đã bỏ thân tiền hữu, chưa thọ thân hậu hữu thì ở vào giai đoạn cảm thân trung hữu. Thân trung hữu này do năm ấm thân. Trong đây, trừ những chúng sanh tạo nghiệp cực thiện thuộc cõi Vô sắc, hoặc nghiệp cực ác thuộc nẻo A tỳ, thì liền hóa sanh ngay những nơi đó, mà không trải qua trung ấm thân. Ba tiết trước của bản chương thuật lại hình dáng xấu đẹp sai biệt của những trung ấm thân thuộc các nẻo thiện ác, trạng thái của trung hữu lúc vào thai và khi chuyển thọ thân hậu hữu ở trong thai. Hai tiết mục kế, nói về tiên triệu khi chúng sanh lâm chung sẽ sanh về ác đạo hay thiện đạo, cùng những cảnh tướng hiển hiện khi trung hữu sắp sanh về các nẻo. Tiết sau cùng nói tổng quát về nghiệp duyên của chúng sanh thăng trầm trong Tam giới, hoặc được siêu sanh về Tịnh độ.

Mục đích của chương này là trình bày cảnh duyên thiện ác, cho người học Phật bỏ điều dữ tu pháp lành, và biết trước các nghiệp tướng để tìm nẻo thiện sanh, tránh đường sa đọa.

Tiết I: Thân Trung Hữu.

Sao gọi là Trung hữu? Trung hữu là thân quả báo ở khoảng giữa của đời này và đời sau, vì quả báo ấy có mà chẳng phải không, nên gọi là "hữu.” Trung hữu cũng gọi là trung ấm, vì thân ấy do năm ấm tạo thành.

Đức Phật bảo Nan Đà: Khi cha mẹ giao hợp lúc là thân trung hữu vào thai. Trung ấm có hai loại: hình sắc xinh đẹp, và dung mạo xấu xa. Trung hữu của Địa ngục hình rất xấu, sắc đen như than. Trung hữu của Bàng sanh sắc nám như khói. Trung hữu của Ngạ quỷ sắc đạm như nước. Trung hữu của người và trời Dục giới sắc như vàng ròng. Trung hữu của chư Thiên cõi Sắc rất đẹp, màu tươi trắng sáng rõ. Thân trung ấm của hàng nhơn Thiên ở cõi Dục, đại để bằng đứa trẻ năm bảy tuổi. Thân trung ấm của chúng sanh cõi Sắc lớn bằng thân bản hữu và có y phục vì do nhiều chủng tử tàm tu. Chúng sanh ở cõi Vô sắc không có trung ấm thân, bởi vì không hình sắc. Loài hữu tình cực thiện như nghiệp báo cõi Vô sắc và cực ác như nghiệp báo ngục A tỳ, khi chết rồi liền thọ sanh ngay, không trải qua thân trung hữu. Trung ấm thân có loại hai tay hai chân, có loại bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân. Đại khái, chúng hữu tình tùy theo nghiệp đã tạo, phải thác sanh về nẻo nào, loài nào, thì trung ấm thân có hình dáng giống như loài ấy. Trung hữu của chư Thiên đầu hướng lên, Trung hữu của người, Bàng sanh và quỉ nằm ngang mà bay đi. Trung hữu của chúng sanh cõi Địa ngục đầu trúc xuống. Các trung ấm thân đều có thần thông, nương hư không mà đi, thị tuyến rất xa và sáng suốt, trong khoảng khắc đã tìm đến chỗ phải thọ sanh (Tỳ Nại Gia Tạp Sự).

Trung ấm thân cũng có đủ các căn. Trung hữu của kẻ tạo nghiệp ác, ánh ra sắc đen xám cũng như đêm tối tăm. Trung hữu của kẻ tạo nghiệp thiện ánh ra sắc trắng như đêm trong sáng. Mắt của trung ấm thân nhìn suốt xa như Thiên nhãn, không bị chướng ngại, thấy các trung hữu khác và chỗ mình sẽ thọ sanh. Trong giây phút, trung ấm thân có thể bay vòng quanh giáp núi Tu Di, lại có thể đi xuyên qua tuờng vách núi non không chi chướng ngại, trừ ra thai mẹ và tòa Kim Cang của Phật. Những trung hữu thuộc về nghiệp ác, úp mặt nhìn xuống mà bay đi, còn những trung hữu thuộc về nghiệp thiện thì đầu ngước lên.

Trung ấm thân chỉ trụ được bảy ngày đêm, nếu trong thời hạn ấy không tìm được chỗ thác sanh, thì chết rồi sống lại, nhưng đại khái trong vòng 49 ngày là được thọ sanh. Trung hữu khi chết, hoặc sanh trở lại như thân trước, hoặc do nghiệp lành dữ chuyển biến, đổi lại thành thân của các loại khác. Trung ấm cũng có tên là Kiền Đạt Phược (hương hành), vì đi tìm mùi, dùng mùi mà tự nuôi sống. Lại trung hữu, khi sắp diệt để thọ thân hậu hữu, tùy theo nghiệp đã tạo, thấy nhiều tướng khác nhau; bấy giờ tâm thức mơ màng dường như ở trong mộng. Những kẻ tạo nghiệp sát, hay giết heo, dê, gà, vịt, tôm, cá, thì lúc ấy thấy những loài đó, lại thấy có người đang làm thịt, tùy theo túc nghiệp tự nhiên sanh ra ưa thích muốn đi đến xem. Khi đến nơi liền bị cảnh sắc làm trở ngại không thể thoát ly, trung hữu liền diệt mà thọ thân hậu hữu. Lúc sắp diệt, trung ấm thấy nhiều màu sắc sanh diệt liên tục, như người sắp chết thấy những hình tướng tạp loạn, mắt chăm chú nhìn, tay chỉ chỗ này chỗ khác. (Luận Du Già).

Tiết II: Trạng Thái Lúc Vào Thai.

Trường hợp nào thân trung hữu không vào thai được? Đó là những lúc cha mẹ không giao hợp, hoặc khi giao hợp tinh cha ra tinh mẹ không ra, tinh mẹ ra tinh cha không ra, hoặc đều không ra. Lại nữa, hoặc khi người mẹ quá mập, nhiều thịt dư, hay có các chứng bịnh như tử cung lạnh, khí huyết kết thành cục, vàng võ nhiều đàm, hoặc do uống thuốc cấm thai, cùng các chứng bịnh riêng của người cha. Về phần nghiệp báo, nếu cha mẹ tôn quý con ty tiện, hay là trái lại, thì không thể thành thai. Hoặc có khi cha mẹ cùng con đều tôn quý hay đều ty tiện, nhưng nghiệp duyên không hợp cũng không thể thành thai.

Đức Phật bảo: Này Nan Đà! Nếu không có các trường hợp như trên, thì trung hữu mới vào thai mẹ. Như các duyên đều thuận, khi cha mẹ giao hợp, thân trung ấm ở xa trông thấy ánh sáng liền bay đến đó. Lúc ấy, do túc nghiệp, trung hữu liền khởi ra các sự vọng tưởng; như trung ấm nam thì đối với mẹ sanh lòng mến yêu, với cha lại ganh ghét; trung hữu nữ thì đối với mẹ sanh lòng ganh ghét, với cha lại mến yêu.

Bấy giờ trung ấm bỗng có cảm giác nóng hoặc lạnh, hay thấy mưa to, gió lớn, mây mù nổi lên, hoặc nghe nhiều tiếng huyên náo đáng chán buồn, hay tiếng thanh tao đáng ưa thích. Khi các vọng tâm, huyễn cảnh này hiện ra, tùy nghiệp hơn kém, trung hữu lại khởi sanh mười huyễn tướng khác như: nay ta vào nhà, ta muốn lên lầu, ta lên đền đài cao đẹp, ta lên ngồi trên giường ghế, ta vào am tranh, ta vào chòi lá, ta đi vô rừng, ta vào lùm bụi, ta xuyên qua lỗ tường vách, ta chui vào hàng rào. Khi khởi các tưởng niệm như trên xong, trung hữu liền vào thai. Sự kết thai đây có ba điều kiện hỗn hợp: tinh cha, huyết mẹ và nghiệp thức. Trạng thái này vì như người để sữa chín vào bình, rồi lấy đũa quậy đánh mãi cho đến khi dậy lên thành ra vị tô. Kết quả hỗn hợp của tinh cha, huyết mẹ, nghiệp thức hòa thành một khối gọi là Yết La Lam.

Này Nan Đà! Ví như loại thảo trùng nương nơi cỏ mà sanh, cỏ không phải trùng, trùng không lìa cỏ, nhưng do nhân duyên cỏ hòa hợp mà con trùng thân sắc màu xanh. Trường hợp này cũng như con bọ hung sanh nơi phân trâu, thân sắc màu vàng sậm. nên biết thân Yết La Lam do tinh cha huyết mẹ cũng lại như thế.

Lại nữa, thân Yết La Lam phải có đủ bốn giới: địa, thủy, hỏa, phong, tức là các tánh chất: cứng đặc, ướt nhuần, nóng ấm và khinh động. Nếu thân ấy chỉ có địa giới thiếu thủy giới thì không thành; ví như người dùng tay nắm bột hoặc tro khô, khi buông tay ra, tro bột đều bay tan. Trường hợp có thủy giới thiếu địa giới cũng như thế; ví như người chỉ nhồi nước hoặc dầu, rốt cuộc vẫn là chất tan lỏng không kết thành khối được. Nên biết do thủy giới nên địa giới không rã, do địa giới nên thủy giới không tan. Và, nếu Yết La Lam thiếu phong giới thì không thể tăng trưởng, thiếu hỏa giới thì không thể thành thục. Cho nên sắc thân con người khởi thỉ từ Yết La Lam do các duyên hòa hợp mà có sanh, trụ, tăng trưởng, suy hoại, thật rất đáng chán, ta không chút chi ưa thích! Xét ra sanh tức là khổ, trụ là bịnh, tăng trưởng, suy hoại tức là già, chết. Kẻ nào đối với biển hữu vi mà sanh lòng ưa thích, tất phải nằm trong thai mẹ, chịu đủ các điều khổ (Luận Du Già, Tỳ Nại Gia Tạp Sự).

Tiết III: Trạng Thái Khi Ở Trong Thai.

Đức Phật bảo: Này A Nan! Thân Yết La Lam ở nơi thai mẹ trong bảy ngày đầu, hình dáng như sữa tươi, từ đó do sức nội nhiệt, lần lần tăng trưởng. Trong khoảng bảy ngày thứ hai, cảm phát gió nghiệp tên là Biến mãn, thổi hai bên hông người mẹ, khiến cho Yết La Lam đọng lại như sữa đặc, sắp hiện ra tướng trạng người, gọi là An phù đà. Trong khoảng bảy ngày thứ ba, cảm phát gió nghiệp tên là Tàng khẩu; so sức gió này thân An phù đà có hình dáng hai cánh tay khép lại, giống như cái chày đâm thuốc. Trong khoảng bảy ngày thứ tư, cảm phát gió nghiệp tên là Nhiếp thủ; do sức gió này biến tướng hai cánh tay khép lại thành ra Dà na (mật hậu, mật hiệp), hình như chiếc giày cong cong. Trong khoảng bảy ngày thứ năm, cảm phát gió nghiệp tên là Nhiếp trì; do sức gió này chuyển biến Dà na thành Bát la xa khê (nhục đoàn vị), hiện ra tướng hai bên mông, hai vai, thân và đầu. Trong khoảng bảy ngày thứ sáu, cảm phát gió nghiệp tên là Vi phạn; do sức gió này chuyển thành bốn tướng là hai cánh tay và hai bắp chơn. Trong khoảng bảy ngày thứ bảy, cảm phát gió nghiệp tên là Toàn chuyển; do sức gió này, thai nhi lần hiện ra hai bàn tay hai bàn chơn. Trong khoảng bảy ngày thứ tám cảm phát gió nghiệp tên là Phiên chuyển; do sức gió này, mười ngón tay và chơn sanh ra đầy đủ. Trong khoảng bảy ngày thứ chín, cảm phát gió nghiệp tên là Phân tán; do sức gió này sanh ra các tướng: mặt, tai, mũi, miệng và đường đại tiểu tiện. Trong khoảng bảy ngày thứ mười, cảm phát hai luồng gió nghiệp tên là Kiên tiên và Phổ môn, hai thứ gió này làm cho thai nhi đọng chắc lại và phồng no đầy đủ dường như cái pháo. Trong khoảng bảy ngày thứ 11, cảm phát gió nghiệp tên là Kim cang, sức gió này làm cho thai nhi cửu khiếu đều thông, tay chơn máy động, miệng tươm máu bầm, mũi chảy ra nước. Trong khoảng bảy ngày thứ 12, cảm phát hai luồng gió tên là Khúc Khẩu, Xuyên phát; sức thổi của hai thứ gió này khiến cho sanh ra đại tiểu trường, 320 chi tiết và 101 yếu huyệt. Trong khoảng bảy ngày thứ 13, cảm phát gió nghiệp tên là Cơ khát; do sức gió này, thai nhi bỗng sanh ra niệm đói khát, từ nơi cuống rún thâu rút chất bổ ăn uống từ người mẹ vào, để tự nuôi dưỡng. Lúc ấy, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đứa bé trong thai mẹ

Mười ba lần bảy ngày

Cảm giác thân trống không

Liền sanh niệm đói khát

Thức ăn của người mẹ

Tư dưỡng vào thai nhi

Do đó thân mạng con

Lần lần được thêm lớn.

Này A Nan! Trong khoảng bảy ngày thứ 14, cảm phát gió nghiệp tên là Tuyến khẩu; do sức gió này 900 đường gân sanh ra. Trong khoảng bảy ngày thứ 15, cảm phát gió nghiệp tên là Liên hoa, sức gió này làm cho sanh ra 20 mạch lớn, chất ăn uống chạy theo đó mà tư dưỡng thai nhi. Mỗi mạch lớn có 40 mạch trung, mỗi mạch trung lại có 100 mạch nhỏ, thành ra tám vạn mạch có đủ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng. Những mạch này liên quan với các lỗ chân lông. Trong khoảng bảy ngày thứ 16, cảm phát gió nghiệp tên là Cam lộ, sức gió này làm cho cửu khiếu đều thông các tạng bên trong, hơi thở lưu chuyển theo thân thai nhi không còn trở ngại. Trong khoảng bảy ngày thứ 17, cảm phát gió nghiệp tên là Mạo ngưu diện; sức gió này làm cho đôi mắt thai nhi sáng sạch, các căn khác lần lần thành tựu. Trong khoảng bảy ngày thứ 18 cảm phát gió nghiệp tên là Đại kiên cường, sức gió này làm cho các căn tươi sạch, như gió thổi mây tan lộ ánh nhựt nguyệt. Trong khoảng bảy ngày thứ 19, cũng do sức gió trước, từ thân căn, mạng căn, ý căn, cho đến các căn khác thảy đều thành tựu đầy đủ. Trong khoảng bảy ngày thứ 20 cảm phát gió nghiệp tên là Kiên cố; do sức gió này, các thứ xương thân đều sanh ra. Trong khoảng bảy ngày thứ 21, cảm phát gió nghiệp tên là Sanh khởi, sức gió này làm cho sanh ra thịt. Trong khoảng bảy ngày thứ 22, cảm phát gió nghiệp tên là Phù lưu, sức gió này làm cho sanh ra máu. Trong khoảng bảy ngày thứ 23, cảm phát gió nghiệp tên là Tịnh trì; sức gió này làm cho sanh ra da. Trong khoảng bảy ngày thứ 24, cảm phát gió nghiệp tên là Trì vân, sức gió này làm cho bì phu có sắc tươi nhuần. Trong khoảng bảy ngày thứ 25, cảm phát gió nghiệp tên là Trì thành, sức gió này làm cho máu thịt của thai nhi lần lần được tư nhuận. Trong khoảng bảy ngày thứ 26, cảm phát gió nghiệp tên là Sanh thành, sức gió này làm cho sanh ra tóc, lông, móng tay và chơn. Trong khoảng bảy ngày thứ 27, cảm phát gió nghiệp tên là Khúc dược; sức gió này làm cho thân tướng được thành tựu. Khi ấy, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đứa bé trong thai mẹ

Hăm bảy lần bảy ngày

Do các nghiệp lành dữ

Thân tướng hiện xấu đẹp.

Nếu thai nhi là trai

Ở hông bên mặt mẹ

Ngồi co, tay che mặt

Hướng về phía xương sống.

Như thai nhi là gái

Thì ở hông bên trái

Hai tay úp vào mặt

Ngồi hướng về trước bụng.

Khi người mẹ đi mau

Hoặc ngồi nằm hơi lâu

Hoặc ăn các mùi vị

Nóng, lạnh không hợp thân

Hoặc ăn ít ăn nhiều.

Thai nhi đều chịu khổ.

Cho nên người có trí

Chớ mến nẻo Luân hồi.

Lại nữa, A Nan! Trong khoảng bảy ngày thứ 28, thai nhi sanh ra tám thứ vọng tưởng điên đảo, như: mình ngồi xe ngựa hoặc đi thuyền, ở lầu cao, nằm trên giường, nghe suối chảy, đến đầm ao, thấy sông rộng, ở khu vườn nhỏ, vào hoa viên to. Trong khoảng bảy ngày thứ 29, cảm phát gió nghiệp tên là Hoa điều, sức gió này làm cho thai thân sáng sủa, các tướng phân minh; do nghiệp lành dữ đời trước, thai nhi hoặc đen, hoặc trắng, hoặc không đen trắng, hoặc có các màu sắc khác, hoặc khô khan, hoặc tươi nhuận. Trong khoảng bảy ngày thứ 30, cảm phát gió nghiệp tên là Thiết khẩu do sức gió này, tóc lông móng tay chơn đều dài ra. Trong khoảng bảy ngày thứ 31, đến 35, thai thân lần lần lớn, nhơn tướng đầy đủ. Trong khoảng bảy ngày thứ 36, thai nhi sanh lòng nhàm chán, không vui. Trong khoảng bảy ngày thứ 37, thai nhi khởi ra năm tưởng niệm điên đảo: tưởng tướng bất tịnh, tưởng sự hôi nhơ, ở trong tù ngục, ở chỗ tối tăm, mình thấy buồn chán. Trong khoảng bảy ngày thứ 38, cảm phát hai luồng gió nghiệp tên là Câu duyên và Thú hạ; sức thổi của hai thứ gió này làm cho thai nhi xoay chuyển, đầu trở xuống dưới, xuôi hai tay như sắp muốn ra. Nếu đứa bé đời trước có tạo nghiệp đọa lạc, thì tay chơn ngang dọc xoay trở không được, chết trong bụng mẹ; làm cho người mẹ rất đau đớn khổ sở hoặc có thể mạng chung. Như đứa bé đời trước tạo những nghiệp lành hay gây nhân sống lâu, thì khi sanh ra, mẹ con đều an ổn (Kinh Đại Bảo Tích).

Nếu thai nhi ở trong bụng mẹ được chín tháng hay hơn chín tháng mới sanh ra gọi là viên mãn. Như chỉ có tám, bảy hay sáu tháng, thì không gọi là viên mãn. Thai tạng khi sanh trưởng có tám vị sai biệt: yết la lam, yết bộ đàm, bế thi, kiền nam, bát la xa khê, phát mao trảo, căn vị, hình vị. Yết la lam vị là lúc tinh huyết mới kết động còn hơi lỏng hình như mũi tên. Yết bộ đàm vị (cũng gọi là an phù đa) là lúc thai tạng chưa sanh thịt, trong ngoài như sữa đặc. Bế thi vị là lúc thai nhi mới tượng hình, có dáng hai cánh tay khép lại, thịt đã sanh mà còn rất mềm. Kiền nam vị (cũng gọi là dà na) là lúc khối thịt đã hơi cứng có thể xoa rờ được. Bát la xa khê vị (cũng gọi là ban la xa khê) là lúc thai nhục lớn lên hiện ra tướng tay chân và đầu. Phát mao trảo vị là lúc tóc, lông, móng tay và chơn hiện ra. Căn vị là lúc phát sanh mắt, tai, mũi, miệng, và đường đại tiểu tiện. Hình vị là lúc các tướng nơi thân hiện ra đầy đủ rõ ràng.

Lại thai nhi còn do nghiệp đời trước của mình, hoặc ảnh hưởng bởi người mẹ gây ra, mà tóc lông, màu sắc làn da, hoặc chi phần có sự biến đổi. Nếu trong lúc mang thai, người mẹ ăn nhiều chất vôi, chất mặn, đứa con bị nguyên nhân ấy mà tóc lông thưa ít. Như người mẹ ở nơi chật hẹp nóng bức, hoặc thường gần chỗ lửa nóng, đứa con bị ảnh hưởng đó, màu da trở nên đen đúa; nếu trái lại, thường ở chỗ lạnh, thì đứa con màu da trắng. Hoặc người mẹ thích ăn nhiều chất nóng, về sau hài nhi sẽ có màu da hung đỏ. Nếu trong lúc cấn thai, người mẹ còn nhiều dâm dục, đứa con sẽ có làn da ghẻ chốc, sần sùi. Trong lúc thai nghén, người mẹ không khéo giữ gìn, thường chạy nhảy làm việc xốc xáo nặng nề, do ảnh hưởng đó, các chi phần của đứa con hoặc xiên xẹo không đầy đủ (Luận Du Già).

Tiết IV: Sanh Về Ác Đạo.

Con người khi sắp chết, thân tâm hôn muội như ngủ mà không có chiêm bao. Lúc ấy minh liễu ý thức không hiện khởi, không thể biết được cảnh sở duyên của sáu chuyển thức, đó là tán hữu tâm cũng gọi sanh tử tâm. Bấy giờ do nghiệp lành dữ, thân phần lần lần lạnh, chỗ nào còn nóng sau rốt, là thần thức ra nơi đó. Có bài tụng rằng: "Đảnh sanh cõi Thánh mắt sanh trời. Bụng nóng Ngạ quỷ, tim nóng người. Bàng sanh thần thức ra đầu gối. Nóng ở bàn chơn Địa ngục thôi!” (Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận).

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào loài Bàng sanh, thì có những tiên triệu như sau:

1. Thân mang bịnh nặng tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù.

2. Sợ nghe danh hiệu Phật, không chịu ai khuyên bảo điều lành.

3. Ưa thích mùi cá thịt.

4. Quyến luyến vợ con, đắm đuối không bỏ.

5. Các ngón tay và chơn đều co quắp.

6. Cả mình toát ra mồ hôi.

7. Khóe miệng chảy ra nước.

8. Tiếng nói khò khè hoặc rít róng khó nghe.

9. Miệng thường ngậm đồ ăn.

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào đường Ngạ quỷ, thì có những tiên triệu như sau:

1. Thân mình nóng như lửa.

2. Lưỡi luôn luôn liếm môi.

3. Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến việc ăn uống.

4. Miệng hả ra không ngậm lại.

5. Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết.

6. Mắt thường trương lên mà không nhắm.

7. Đôi mắt khô khan như mắt chim gỗ.

8. Không có tiểu tiện nhưng đại tiện thì nhiều.

10. Đầu gối bên mặt lạnh trước.

11. Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng bỏn sẻn.

12. Lúc tắt hơi thở hai mắt vẫn mở.

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào nẻo Địa ngục, thì có những tiên triệu như sau:

1. Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét.

2. Đưa tay lên quờ quạng hư không.

3. Đi đại tiểu tiện không tự biết.

4. Thân thường có mùi hôi hám.

5. Nằm úp mặt xuống hoặc che giấu mặt mày.

6. Hai mắt đỏ ngầu.

7. Nằm co về bên trái.

8. Xương lóng đau nhức.

9. Thiện tri thức dù có chỉ bảo, họ cũng không tùy thuận.

10. Nhắm nghiền đôi mắt không mở.

11. Mắt bên trái hay động đậy.

12. Sống mũi xiên xẹo.

13. Gót chân đầu gối luôn luôn run rẩy.

14. Thấy ác tướng vẻ mặt sợ sệt mà nói không được, hoặc sảng sốt kêu la bảo là quỉ hiện.

15. Tâm thức rối loạn.

16. Cả mình giá lạnh, tay nắm lại, thân thể cứng đơ (Kinh Thủ Hộ Quốc Giới).

Thân trung ấm nào sắp sanh về cõi A tu la, thì sẽ thấy có những vườn cây khả ái và những vần lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy cảnh tượng ấy sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là thác sanh vào nẻo này.

Trung ấm nào sắp đọa vào loài chó lợn, thường thấy nhiều cô gái đẹp, mình ưa thích chạy theo; do nhân duyên đó mà bị thác thai. Trung ấm nào sắp đọa vào các loài Bàng sanh khác, cảm thấy có luồng gió mãnh liệt cuốn lôi không tự cưỡng lại được, hoặc thấy vô số quỉ thần cầm binh trượng đuổi theo hoặc thấy lửa cháy lan tới rần rần, sấm sét phủ đầu dữ dội, sương mù phủ giăng mịt mịt, núi lở biển dậy ầm ầm, tự mình sợ hãi chạy vào rừng bụi, hang đá mà lẩn trốn; hoặc đang khi ấy thấy ba cái hố trắng, đỏ, đen, liền nhảy nhào xuống mà ẩn thân. Do nhân duyên đó bị thọ sanh vào dị loại như hùm, beo, nai, chồn, rắn, rít...

Những trung ấm nào sắp đọa vào đường Ngạ quỷ, thì tự thấy, có một bãi sa mạc rộng lớn mênh mông không cây cối, hoặc chỉ có những hang hố cỏ cây khô héo. Lúc ấy tự mình bị sức gió nghiệp đưa đến đó, liền thác sanh vào Ngạ quỷ đạo, chịu nhiều sự nóng bức, đói khát khổ sở vô cùng!

Trung ấm nào sắp sanh vào Địa ngục bỗng nghe những khúc ca hết sức bi ai buồn thảm, thấy cảnh giới mù mịt tối tăm, nhà cửa sắc đen hay trắng, hoặc thấy hang hố sâu thẳm, đường sá lờ mờ. Lúc ấy chính mình bị quỉ xua đuổi vào trong đó, khi vào rồi thì thân không được tự do, liền bị thác sanh.

Trung ấm nào sắp đọa vào ngục hàn băng, do sức nghiệp, bỗng nhiên thân thể nóng bức không kham, gặp hơi lạnh ở hàn ngục xông lên, tự cảm thấy mát mẻ dễ chịu. Khởi lòng ưa thích vội vã bay xuống nơi đó, lúc ấy liền bị thác sanh. Trung ấm nào sắp đọa vào ngục viêm nhiệt, do sức nghiệp, bỗng nhiên thân thể giá rét không kham, gặp hơi nóng ở hỏa ngục xông lên, tự cảm thấy ấm áp dễ chịu, khởi lòng ưa thích vội vã bay xuống nơi đó, lúc ấy liền bị thọ sanh. Trung ấm nào sắp đọa vào ngục phẩn uế, do sức nghiệp, bỗng cảm thấy một mùi thơm ngạt ngào chịu không kham, bấy giờ trong tâm ước ao muốn tìm nơi có mùi hôi thúi để đánh át bớt mùi thơm đó; bởi nhân duyên ấy mà bị thọ sanh.

Lại trung ấm nào thấy ánh sáng màu lục lờ mờ, ưa thích đi vào đó, liền thác sanh về cõi A tu la. Trung ấm nào thấy ánh sáng màu hơi xanh, ưa thích đi vào đó, liền bị thọ thân Bàng sanh. Trung ấm nào thấy ánh sáng màu hơi đỏ, ưa thích đi đến đó, liền thác sanh vào loài Ngạ quỷ. Trung ấm nào thấy ánh sáng mờ đục như khói đen, ưa thích đi đến đó, liền thác sanh vào nẻo Địa ngục. (Tạp Sự Lục).

Đức Phật bảo Đại Dược Bồ tát: Những chúng sanh tạo nghiệp ác, sắp đọa vào Nại lạc ca, tự nhiên có lòng buồn thảm kinh sợ tùy theo bản nghiệp thấy hình tướng của các Địa ngục, khi thần thức lìa thân liền sanh vào nơi đó. Hoặc có kẻ thấy phương khác có dáng đỏ tươi dường như máu rưới, liền sanh lòng nhiễm truớc, do nhân duyên đó mà thọ sanh. Bấy giờ Ngài Bạt Đà La Bà Lê thưa: Bạch Thế Tôn! Các chúng sanh ở Nại lạc ca thân hình có những màu sắc gì? Sự thọ thân như thế nào? Đức Phật bảo: nếu chúng sanh nào nhiễm trước sông Tỳ la ni (Nan độ hà), thì thân thể như sắc mây không trắng không đen. Nếu chúng sanh nào nhiễm trước Khôi hà, thì thân thể có sắc vằn. Chúng sanh ở những nơi đó thọ thân to lớn, cao tám chẩu rưỡi, râu ria cùng tóc rất dài, bàn chơn hướng về phía sau. Giả sử người ở cõi Diêm phù được trông thấy hình tướng ghê gớm của các chúng sanh ấy, cũng phải kinh sợ mà chết! (Kinh Đại Bảo Tích).

Tiết V: Sanh Về Thiện Đạo.

Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lại cõi Người, thì có những tiên triệu như sau: 1. Thân không bịnh nặng. 2. Khởi niệm lành, sanh lòng hòa dịu, lòng vui vẻ vô tư, ưa việc phước đức. 3. Ít sự nói phô, nhớ nghĩ đến cha mẹ vợ con. 4. Đối với việc lành hay dữ, tâm không lầm loạn. 5. Sanh lòng tịnh tín, thỉnh Tam bảo đến đối diện quy y. 6. Con trai con gái đều đem lòng thương mến và gần gũi, coi như việc thường. 7. Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bè bạn. 8. Tâm chánh trực không dua nịnh. 9. Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, khi thấy bà con săn sóc sanh lòng vui mừng. 10. Dặn dò giao phó các việc lại cho thân quyến, rồi từ biệt mà đi.

Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lên cõi Trời, thì có những tiên triệu như sau: 1. Sanh lòng thương xót. 2. Phát khởi tâm lành. 3. Lòng thường vui vẻ. 4. Chánh niệm hiện ra. 5. Đối với tiền của vợ con không còn tham luyến. 6. Đôi mắt có vẻ sáng sạch. 7. Ngước mặt trông lên miệng mỉm cười, hoặc tai nghe Thiên nhạc, mắt thấy Thiên đồng. 8. Không có những sự hôi hám. 9. Sống mũi không xiên xẹo. 10. Lòng không giận dữ.

Người nào lúc bình thời giữ giới niệm Phật không được tinh tấn khi sắp chết không có các tướng lành dữ, nhắm mắt đi xuôi như người ngủ; kẻ ấy nghi tình chưa dứt, sẽ sanh về nghi thành ở biên phương Tịnh độ.

Người nào khi lâm chung biết ngày giờ trước, Chánh niệm rõ ràng, tự tắm gội thay đổi y phục, hoặc thấy quang minh chiếu thân, hoặc thấy tướng hảo của Phật, các điềm lành hiển hiện, kẻ ấy sẽ sanh về cõi Tịnh độ (Kinh Thủ Hộ Quốc Giới).

Chúng hữu tình ở ba đường ác, khi nghiệp hết, nếu có túc phước cũng được sanh ngay trên cõi Trời, như loại Bàng sanh, lúc mạng chung sắp chuyển sinh lên Thiên cung, tự thấy có ánh sáng rực rỡ, lòng si nhẹ bớt, Trí tuệ mở mang, trong lòng an vui, liền thoát hóa về Thiên giới. Các Ngạ quỷ lúc mạng chung sắp sanh lên cõi Trời, tự có cảm giác không còn đói khát, tuy thấy các thức ăn uống, chỉ lấy mắt mà nhìn, nơi tâm vui vẻ, liền được thọ sanh. Chúng sanh ở Địa ngục khi nghiệp hết sắp sinh lên Thiên cung thì đang lúc bị các hình phạt như: quỉ tốt đánh đập, bỏ vào vạt dầu sôi, để trên giường sắt nóng, hay trong khi chim sắt, ác thú cắn mổ liền chết ngay không còn sống lại. Bấy giờ, tự nghe thấy chư Thiên múa hát cười nói, cảm biết gió thơm thổi vào mình, liền được thọ sanh.

Các hữu tình khi mạng chung, thân trung ấm đang bơ vơ không nơi nương tựa, thì lúc ấy có ánh sáng yếu ớt của lục phàm soi đến. Tùy theo nghiệp duyên thân trung ấm sẽ sanh về cõi nào luồng ánh sáng của đạo ấy càng rực rỡ hơn lên. Ánh sáng của tứ ác đạo như trước đã nói, còn ánh sáng của nẻo trời thì hơi trắng, ánh sánh của nẻo người thì hơi vàng.

Lại nữa, các cõi Phật ở mười phương cũng phóng ra những hào quang rực rỡ và mạnh như: hào quang sắc xanh chói lòa, hào quang sắc trắng trong sạch, hào quang sắc đỏ mãnh liệt. Như thế có rất nhiều thứ hào quang của chư Phật chói suốt lẫn nhau. Nhưng vì nghiệp lực, nên thân trung hữu sợ hãi những hào quang mãnh liệt của chư Phật đã soi đến, mà chỉ ưa thích những hào quang yếu ớt trong Lục đạo. Vì thế nên chúng sanh thường bị xoay vần quanh nẻo Luân hồi, chịu nhiều điều khổ não.

Loài người hiện tại khi mạng chung sắp sanh trở lại châu Nam Thiệm Bộ, trước tiên thấy có tòa núi to như muốn rớt trên mình, tự đưa tay ra đỡ. Liền khi ấy, lại thấy tòa núi đó đổi hình lại như giải nệm trắng, chính mình ngồi nơi nệm ấy mà bay đi. Trong khi bay lên, lại thấy nệm hóa ra màu đỏ. Kế đó, lại thấy ánh sáng, trong ánh sáng có nam nữ hội hiệp. Nếu sẽ sanh làm thân nam, đối với cha cho là chướng ngại, có lòng ghét; như sẽ sanh làm thân nữ thì trái lại. Bấy giờ hốt nhiên tướng trung ấm diệt liền vào thai.

Chúng hữu tình ở châu Nam Thiệm Bộ sắp sanh về châu Đông Phất Bà Đề, khi lâm chung thấy tất cả đều là màu xanh, có một giải niệm xanh rũ xuống, lúc ấy do sợ giải nệm xanh rớt, tự đưa hai tay lên đỡ lấy, vẻ mặt dường như có sắc kinh hãi. Kế đó lại thấy một cái hồ, bầy ngựa chạy giỡn trên bãi cỏ, cha là ngựa đực, mẹ là ngựa cái. Nếu trung ấm sẽ sanh làm người nam, thì tự thấy mình là ngựa đực, đối với cha sanh lòng ghét, với mẹ sanh lòng yêu. Như trung ấm sẽ sanh làm người nữ, thì tự thấy mình là ngựa cái, đối với cha yêu mến, với mẹ lại ganh ghét. Lúc ấy liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở Châu Nam Thiệm Bộ khi lâm chung sắp sanh về châu Tây Cù Đà Ni, thì trước tiên thấy một giải nệm vàng vây quấn, nhà cửa đều biến thành sắc vàng. Kế đó lại thấy một cái hồ, bốn bên bờ có trâu gặm cỏ, thân mình là trâu, cha là trâu đực, mẹ là trâu cái. Lúc ấy tùy nghiệp duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối với cha hoặc mẹ sanh lòng điên đảo yêu ghét. Bấy giờ liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở châu Nam Thiệm Bộ khi lâm chung sắp sanh về châu Bắc Uất Đan Việt, trước tiên thấy một giải nệm đỏ mịn màng, trong lòng ưa thích đưa tay khuấy động như muốn tiếp lấy. Kế lại trông thấy một hồ sen xanh, các loài bạch nga, hồng, nhạn, oan ương lội đùa trên mặt nước, mình cũng vào đó chơi giỡn. Khi ở dưới hồ bước lên, vừa lúc cha mẹ dục nhiễm bất tịnh, do nghiệp điên đảo thấy mình là chim ngỗng, cha là ngỗng trống, mẹ là ngỗng mái. Bấy giờ tùy nghiệp duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối với cha mẹ sanh lòng điên đảo ghét yêu. Trong khi đó liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở Đông, Tây, Bắc châu, từ nơi đây sanh nơi kia, khi lâm chung thấy trong hang tối có lá phướn dài rũ xuống: ánh sáng như làn điển đỏ. Lúc ấy tự mình nắm phăng theo ngọn phướn đi vào, mà thọ trung ấm thân. Còn các tướng sanh về châu nào thì tùy mỗi nơi hoặc thấy hai con ngựa, hai con trâu, hai chim ngỗng như trước.

Chúng hữu tình ở châu Nam Thiệm Bộ, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, trước tiên thấy một giải nệm trắng tế nhuyễn rũ xuống như muốn rớt, lại trông thấy các tướng vườn cây, ao hoa, chư Thiên múa hát. Lúc đó dù quyến thuộc có than khóc kêu gọi, do bởi phước nghiệp, kẻ ấy cũng không nghe biết, chỉ ngửi thấy mùi thơm, nghe tiếng âm nhạc, trong lòng vui vẻ không còn nhớ nghĩ chi cả, liền được thiện chung.

Chúng hữu tình ở châu Phất Bà Đề, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, tự thấy cung đền nghiêm đẹp, xung quanh có Thiên tử, Thiên nữ đang vui vẻ nhàn du. Lúc đó trong lòng sanh hoan hỷ, tự có cảm giác như người mới thức dậy. Bấy giờ liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở châu Cù Đà Ni, khi lâm chung sắp sanh lên cõi Trời, trước tiên thấy nước chảy xao xuyến trong ao đầm rộng lớn. Lúc ấy thần thức nương theo ngọn nước trôi qua đến bờ bên kia. Kế đó lại thấy các Thiên nữ xinh đẹp, tự mình chạy đến mà ôm. Khi ấy chính là lúc hóa sanh.

Chúng hữu tình ở châu Uất Đan Việt, khi sanh lên cõi Trời, có nhiều tướng trạng. Nếu là người phước đức bậc hạ, thì lúc lâm chung, mũi ngửi mùi thơm lạ, mắt thấy hoa quí đẹp, trong lòng ưa thích muốn leo lên cây cao. Đang khi leo cây chính là lúc trung ấm bay lên núi Tu Di. Khi đến nơi liền thấy thế giới của chư Thiên, cung điện vườn hoa, tất cả đều trang nghiêm xinh đẹp. Lúc ấy tùy theo nhân nhơn duyên kẻ đáng làm cha mẹ mà hóa sanh. Như kẻ phước đức bậc trung, thì khi lâm chung thấy có bầy ong vần vũ xung quanh một hoa sen trong hồ, tự mình bước lên hoa sen ấy, bay đến Thiên cung. Lúc ấy tùy nơi nhân duyên của kẻ đáng làm cha mẹ mà hóa sanh. Còn người phước đức bậc thượng, thì khi lâm chung thấy cung điện tốt đẹp trang nghiêm, thân trung hữu nương nơi cung điện ấy mà bay lên hóa sanh nơi Thiên giới.

Chư Thiên khi thọ chung sắp sanh lại cõi Trời, tự thấy các đồ trang nghiêm nơi thân không mất, không có vị Thiên tử nào ngồi ở bản tòa của mình. Lúc ấy tự thân bỗng diệt rồi lại sanh, như ngọn đèn tắt rồi lại cháy. Nếu sanh lên cõi Trời cao hơn, thì có những tướng trạng thù thắng đáng mến. Như sanh xuống cõi Trời thấp hơn, thì thấy vườn cây ao đều không bằng khi trước, tự có cảm niệm u buồn đói khát. Lúc đó liền hóa sanh. (Kinh Chánh Pháp Niệm, Tạp Sự Lục).

Bấy giờ, Đại Dược Bồ tát hỏi Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Loài hữu tình sau khi mạng chung, tướng trạng thọ Thiên thân như thế nào? Đức Phật bảo: Này Đại Dược! Những chúng sanh có phước nghiệp khi sắp sinh lên Thiên giới, thì có Thiên nhãn, thấy được y báo và chánh báo ở cõi lục dục. Chúng sanh đó thấy nhiều cung điện tốt đẹp, ao hoa, vườn cây quí lạ, rừng hoan hỷ... Nơi ấy có những tòa cao trải lót bằng Thiên y cùng vô lượng sự trang nghiêm khác. Chư Thiên vị nào cũng xinh đẹp, trang sức bằng hoa tai, vòng xuyến, chuổi anh lạc. Những Thiên tử và ngọc nữ dạo chơi khắp các nơi, đối nhau tươi cười. Lúc thấy các tướng như thế, chúng sanh ấy tự nhiên sanh lòng vui mừng. Khi người đó mạng chung, tâm không điên đảo, mũi không xiên vẹo, miệng không có mùi hôi, tai và mắt giống như sắc hoa sen xanh, thân thể không chảy máu cũng không ra đồ bất tịnh, tay chân không co rút. Lại khi lâm chung, kẻ ấy hoặc thấy xe kiệu tốt đẹp hiện ra trước. Xe đó rộng lớn có đến ngàn cây cột, trang nghiêm bằng hoa thơm, chuỗi ngọc, lưới châu, linh báu. Từ nơi bảo linh phát ra các tiếng nhiệm mầu. Mùi hương bay lan phưởng phất. Vô lượng Thiên đồng cũng theo xe đi đến. Khi thấy các tướng trạng như thế, người ấy thân tâm vui vẻ, yên ổn mà xả thân. (Kinh Đại Bảo Tích).

Chư Thiên cõi lục dục khi mới sanh, tùy theo Thiên giới cao thấp, thân hình có lớn nhỏ sai biệt, hoặc như đứa bé năm, sáu, bảy tuổi, hoặc như đứa bé tám, chín, mười tuổi. Sau khi hóa sanh, Thiên đồng cảm thấy đói khát, liền có các vị tô đà, cam lộ, đựng trong bảo khí hiện ra. Lúc đó tùy theo phước báo ít nhiều, tự mình thấy thức ăn có những sắc hoặc trắng, vàng, đỏ khác nhau. Khi ăn uống xong, thân thể hóa hiện trang nghiêm, cao lớn. Thường thường Thiên nam hóa sanh ở đầu gối bên trái của mẹ. Hoặc có khi chư Thiên nam, nữ đều hóa sanh ở đóa hoa nơi tay của Thiên mẫu. Chư Thiên cõi Sắc khi mới sanh, Thiên tướng liền viên mãn, không trải qua sự ăn uống. Tất cả Thiên chúng đều tự biết Thánh ngữ, không cần học tập. (Luận Thuận Chánh Lý).

Chư Thiên khi sắp mạng chung có năm tướng tiểu suy:

1. Y phục và đồ trang nghiêm như vòng xuyến, chuổi anh lạc, kêu vang ra tiếng không được thanh tao êm dịu.

2. Ánh sáng nơi thân hốt nhiên mờ yếu.

3. Khi tắm, gội, các giọt nước dính đọng nơi mình.

4. Tánh tình thường thung dung phóng khoáng, nay bị trệ lại một cảnh.

5. Mắt luôn luôn máy động, không được trong lặng như mọi khi.

Nhưng năm tướng này hiện ra cũng có khi nhằm trường hợp khác, không phải nhứt định là sẽ chết. Kế đó lại có năm tướng đại suy:

1. Y phục dính bụi.

2. Vòng hoa trên đầu rũ héo.

3. Hai nách chảy mồ hôi.

4. Thân có mùi hôi bay ra.

5. Không ưa chỗ ngồi của mình.

Lúc năm tướng này hiện ra, quyết định sẽ mạng chung (Luận Câu Xá. Theo kinh Nhân quả thì năm tướng đại suy điều một là hai mắt máy động; điều 4 là ánh sáng nơi thân tắt mất).

Tiết VI: Nghiệp Duyên Thọ Sanh.

Đức Phật bảo: Này A Nan! Tất cả loài hữu tình chết nơi đây, sanh nơi kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi lâm chung, các nghiệp lành dữ trong một đời đều hiện. Chúng sinh nào thuần tưởng thì bay lên hóa sinh nơi cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng gồm có phước huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm khai được thấy mười phương chư Phật, tùy nguyện sanh về cõi Tịnh độ. Chúng sanh nào tình ít tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi rất nhẹ nhàng, nhưng không được xa bằng hạng thuần tưởng. Chúng sanh nào tình, tưởng bằng nhau, sẽ thác sinh vào cõi Người; bởi tưởng là thông sáng, tình là tối mê, nên không lên không xuống. Chúng sanh nào tình nhiều tưởng ít, sẽ lạc vào đường Bàng sanh, nhẹ thì làm loài phi cầm, nặng thì làm loài tẩu thú. Chúng sanh nào bảy phần tình ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm thân Ngạ quỷ, thường chịu nóng bức đói khát trải qua trăm ngàn kiếp. Chúng sanh nào chín phần tình, một phần tưởng, sẽ bị đọa vào Nại lạc ca nhẹ thì sanh nơi ngục hữu gián, nặng thì sanh nơi ngục Vô gián. Chúng sanh nào thuần tình sẽ bị đọa ngục đại A tỳ. Nếu trong tâm ấy còn kiêm các tội như: Hủy cấm giới của Phật, khinh báng kinh Đại thừa, thuyết pháp sai lầm, tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính và phạm ngũ nghịch thập ác, thì sẽ bị quả luân chuyển sanh về ngục Vô gián ở mười phương. (Kinh Thủ Lăng Nghiêm)

Bởi ba cõi định ngôi, sáu đường chia loại, nên hình hài xấu đẹp, quả có khổ vui! Tìm ra điểm sanh khởi chẳng rời sắc tâm; xả đến chỗ hội quy không ngoài sanh diệt. Mà sanh diệt Luân hồi chính thật Vô thường, sắc tâm hư huyễn nguyên là cội khổ! Thế nên, kinh Pháp Hoa dụ cho nhà lửa, kinh Niết bàn ví với sông to: Bậc Thánh nhơn thuyết giáo để đưa sanh loại vượt ra ba cõi, về nẻo chân tâm là do lẽ trên vậy. Đến như Thiên báo, tuy lầu quỳnh áo gấm, người đẹp cảnh xinh, nhưng trên trời Tha Hóa còn có Thiên ma, trong cõi Vô Vân vẫn nhiều ngoại đạo. Huống nữa bậc Phi tưởng định còn đạo phi ly, trời Đâu Suất Đà hãy mê ngũ dục; nên biết phước báo dễ sanh kiêu mạn, cảnh vui khó học Niết bàn! Đến khi thắng nghiệp hết rồi, thì tóc tiên hoa héo, áo ngọc bụi vương, điện vàng tắt ánh quang minh, thân nhớp còn chi vẻ đẹp? Khắp khuyên rửa lòng sám hối, niệm Phật làm lành, xa thì vui quả chân thường, gần được về nơi Tịnh độ (Pháp giới tập thuật ngữ).


Chương III: Thế Giới Quan Của Đạo Phật

+ Tiết Mục:

I. Tiểu thế giới

II. Ba luân bao bọc

III. Chín núi tám biển

IV. Bốn đại bộ châu

V. Địa ngục

VI. Thiên xứ ở núi Tu Di

VII. Không cư Thiên

+ Kinh sách tham khảo:

Luận Lập Thế A Tỳ Đàm,

Luận Câu Xá,

Kinh Bồ Tát Tạng,

Kinh Tăng Nhất A Hàm,

Kinh Trường A Hàm,

Kinh Khởi Thế Nhân Bản,

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt,

Luận Thuận Chánh Lý,

Kinh Tỳ Gia Tiên Nhơn,

Truyện Thiên Nhơn Cảm Thông.

+ Đề yếu: Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tâm như người họa khéo. Vẽ vời cảnh thế gian" (Tâm như công họa sư. Thiên họa chư thế gian). Tất cả chánh báo y báo khổ vui xấu đẹp, đều do tâm chúng sanh huyễn hiện. Chúng sanh đã có vô lượng nghiệp thiện ác, tất y báo chánh báo cũng tùy đó có vô lượng sai biệt. Vì thế, nói theo tục đế, các cõi khổ vui đều có thật.

Thuở xưa, trong khi thuyết pháp đức Phật có nói đến ba cõi sáu đường cùng các thế giới tịnh uế. Về Tam giới Lục đạo, vì mục đích để chỉ cho đồ chúng biết những Nhân quả thiện ác, đức Phật duy nói khái lược những điểm chánh yếu không phân tích tỉ mỉ như các nhà khoa học hiện nay. Vì vậy dù dày công khảo cứu kinh Phật, cũng khó mà biết một cách tinh vi về sự an lập và vận chuyển của các thế giới. Bản tánh người Đông phương phần nhiều thích đi sâu về huyền lý, không quan thiết lắm với thời gian, không gian. Còn người Tây phương thì lịch sử, địa dư, nhất nhất đều phải rành rẽ. Tuy nhiên, người học Phật không thể không biết qua thế giới quan của đạo Phật, dù rằng biết một cách sơ lược.

Vì mục đích trên, trong bản chương, bút giả cố gắng sưu khảo các kinh luận, để lược trình về điểm này.

Tiết I: Tiểu Thế Giới.

1/ Chủ thuyết:

Giữa thời khoa học, nói đến thế giới quan của đạo Phật, các học giả Phật giáo không khỏi sanh quan niệm hoài nghi, vì trong vấn đề này, Phật giáo và khoa học có đôi điểm sai khác. Có kẻ đã ngờ rằng: hoặc giả đức Thích Ca muốn thỏa mãn lòng ước vọng của môn đồ, hay muốn tránh lỗi "thế gian tương vi" theo Nhân minh học, nên mới đem cổ thuyết về thế giới quan của Bà la môn giáo làm của Phật giáo. Nhưng theo sự nghiên cứu và so sánh gần đây của Diễn Bồi Pháp sư trong quyển Tiểu Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, thì thế giới quan của Bà la môn giáo cho đến Kỳ na giáo, đều khác xa với Phật giáo. Thế thì ức thuyết trên hoàn toàn không đúng.

Riêng Mộc Thôn Thái Hiền, một học giả Nhật Bản, lại bảo: "Thỉ chung đức Phật vẫn từ chối nói về thế giới quan, vì vấn đề ấy không cấp thiết, con người phải nghĩ ngay đến nỗi khổ, thân tâm hiện tại mà sớm tìm cách đoạn trừ. Vậy thế giới quan trong kinh A Hàm, có lẽ do người sau đặt ra, để làm thỏa mãn một tin tưởng thần thoại hay lòng hiếu kỳ nào đó của người học Phật.” Theo bút giả, luận thuyết này không khỏi có tánh cách hàm hồ, bởi hai lẽ: A. Thế giới quan của đạo Phật không phải chỉ có nói trong kinh A Hàm, mà rất nhiều kinh luận Đại, Tiểu thừa đều đề cập đến. B. Đoạn thuyết pháp mà Mộc Thôn Thái Hiền ám chỉ, là đức Phật muốn ngăn quan niệm vẩn vơ của một vị Tỳ kheo trước kia nguyên gốc người ở phái Anatanantika, chuyên thảo luận về thế giới hữu hạn hay vô hạn, hữu biên hay vô biên. Vậy không nên đem câu chuyện tùy cơ giáo hóa riêng cho một cá nhơn, mà gán ép rằng: đó là ý tưởng chung, không xê dịch, trong một đời thuyết pháp của Phật. Theo bút giả, khi xét về vấn đề thế giới quan của Phật giáo, ta nên thận trọng trong ba điểm:

a) Chớ một mặt theo lòng tin tưởng của mình: Đức tin cố nhiên là điều rất tốt cho người học đạo, nhưng lòng tin luôn luôn phải dung hòa với lý trí. Nếu nghe đâu tin đó, tất dễ bị lạc lầm. Điểm này chính đức Phật cũng có đem khuyên răn các đệ tử.

b) Đừng quá chấp nê theo lý trí: Lý trí là một hướng dẫn tinh thần tốt trên đường đời cũng như đường đạo. Nhưng ta chớ quên rằng lý trí con người vẫn ở trong phạm vi hữu hạn, theo sự thấy biết hay dự đoán của giác quan. Một thí dụ gồm cả chứng minh hiện thật: Như khi xưa vua Tự Đức và triều thần, vì chưa tiếp xúc với nền văn minh Âu Tây, nên khi nghe cụ Phan Thanh Giản đi Pháp về, nói có thứ đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không có ngựa kéo, người bơi hoặc trương buồm mà vẫn chạy được; ai nấy đều cho là vô lý, là đi xa về kiếm chuyện nói dối. Cho đến cụ Nguyễn Tri Phương là một bạn đồng liêu thân nhất của cụ Phan, cũng một mực lắc đầu không tin. Thế thì nếu căn cứ nơi lý trí của mấy vị ấy, đèn điện, xe hơi, tàu thủy không có hay sao?

Còn một điều không đáng tin nơi giác quan của chúng sanh, mà đức Phật gọi đó là "Biệt nghiệp vọng kiến.” Thí dụ: người bị bịnh nóng sảng sốt, nhìn lên mái nhà thấy mấy cây đòn tay tưởng là những con rắn lăn quăn; biệt nghiệp vọng kiến của chúng sanh cũng như thế, loài người thấy chất ở dưới sông là nước, các thủy tộc thấy đó là nhà cửa, chư Thiên nhìn ra là lưu ly, Ngạ quỷ thấy là một vùng máu lửa. Có được sự thấy xác đáng nhất, âu chỉ là chư Phật. Kinh Pháp Hoa nói: "Bất như Tam giới kiến ư Tam giới chi tướng, Như Lai tri kiến vô hữu thác mậu.” Câu này có nghĩa: "Cái thấy Tam giới của Như Lai; không phải lầm lạc như cái thấy Tam giới của chúng sanh.” Dẫn ra lời này dường như hơi xa vấn đề, nhưng để cho chúng ta đừng vội tự hào rằng lý trí của mình luôn luôn là đúng, và đừng đem tâm hiểu biết của phàm phu mà trắc lượng, phê bình sự hiểu biết của Hiền Thánh. Cho nên trong kinh có đoạn Phật bảo: "Phải suy xét kỹ, đừng vội tin một lời gì, dù người ta bảo đó là lời của Như Lai nói.” Nhưng cũng có đoạn Phật bảo: "Phải tin nơi lời thành thật chắc chắn của Như Lai, vì cảnh giới này không phải là sức các người có thể hiểu biết được.” Ta nên suy gẫm lại điểm ấy.

c) Không nên cực đoan y cứ theo khoa học: Xin lập lại, đây không phải ý nghĩa phủ nhận khoa học, mà là một cảnh giác nhắc ta nên dè dặt, đừng chấp nhận khoa học theo lối cực đoan. Vì dù sao, khoa học vẫn còn ở trên con đường suy luận, chưa đi đến chỗ kết luận. Đã có vài nhận định, trong thời gian quá khứ khoa học cho là đúng, nhưng trong hiện tại nó đã thành sai. Theo đó suy ra, việc này là xác thật ở hiện kim, biết đâu tương lai nó lại chẳng có thể hóa nên lầm lạc? Như trước kia người kia bảo trái đất vuông, bây giờ nó chẳng phải vuông mà là tròn, có thể mai sau nó sẽ thành hình méo. Hoặc như mặt trời người ta vẫn cho là định tinh, nhưng gần đây một vài nhà khoa học lại bảo rằng nhật cầu có sự xê dịch. Sở dĩ bút giả nêu lên điểm này, vì nhận thấy trước trào lưu văn minh mới đa số người Đông phương cho cái gì của Tây phương cũng là hay mà quên cái hay cố hữu của mình, cái gì của khoa học cũng là đúng, mà không xét kỷ xem nó có phải thật đúng hay không? Do đó, mới ghi ra đây một cảnh giác dè dặt như thế thôi.

Dung hội ba điểm trên để xét qua vấn đề thế giới quan của Phật giáo, ta có thể ước lượng như sau: có lẽ một ít chi tiết về thế giới quan của Phật giáo là sai lạc, chẳng hạn như trong một việc mà các kinh luận nói khác nhau, nhưng phần chánh yếu như các cõi Trời, tứ đại bộ châu, Địa ngục, thì quyết nhiên có thật vì các kinh lập luận tương đồng. Thí dụ như Hương Thủy hải là có, nhưng kinh Khởi Thế Nhân Bản nói biển Hương Thủy ngoài núi Tu Di bề ngang rộng 84.000 do tuần. Luận Câu Xá nói rộng 80.000 do tuần. Hoặc như tứ đại bộ châu có thể là bốn quả địa cầu như nhật cầu, nguyệt cầu chẳng hạn, nhưng có lẽ vì muốn giản dị hóa cho người thời bấy giờ dễ hiểu, hay vì lý do khoa học thuở xưa chưa được tinh minh, nên người ghi chép diễn tả một hòn đảo. Phần chi tiết có lẽ sai là thế, còn phần chánh yếu thỉ chung vẫn là đúng. Sự đúng này căn cứ nơi Trí lượng, Hiện thật lượng và Thánh ngôn lượng mà quyết đoán, tuyệt không phải lời nói mơ hồ. Dù sao, bản ý của bút giả chẳng qua chỉ muốn ghi lại nơi đây một khái niệm về thế giới quan của Phật giáo vậy. Vì phạm vi của bài có hạn, cũng để khỏi đi xa vấn đề xin miễn giải thích về ba lượng đã nói, mong gặp lại một dịp khác. Kế đây, xin tiếp nói lược qua về tiểu thế giới.

2/ Khái luận:

Theo học thuyết Cổ Bà la môn giáo, đại khái thế gian chia làm ba cõi là: Địa giới, Không giới và Thiên giới. Trong Phật giáo cũng có nói đến ba cõi nhưng khác hơn, ấy là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Bà la môn giáo cho rằng thế giới này do Phạm Thiên tạo thành, từ lúc khởi nguyên cho đến khi diệt tận đều do thần quyền làm chủ. Trái lại Phật giáo không quan niệm như thế. Theo thế giới quan đạo Phật, thì các cõi từ sự thành lập, biến diệt đến tướng khổ vui, xấu đẹp, đều do nhân duyên, nghiệp lực của chúng sanh.

Lập trường của A Tỳ Đạt Ma, Phật giáo nhìn ba cõi trên phương diện vật lý. Vì thế, trong vấn đề hiện tượng luận của thế giới, học thuyết này không đề cập đến cõi Vô sắc, bởi cõi ấy hoàn toàn thoát ly mọi quan hệ về vật chất. Được nói đến trong Thế giới hiện tượng luận, chỉ có Dục giới và Sắc giới. Trong một tiểu thế giới, núi Tu Di là trung tâm điểm. Về trực độ, trên từ trời Tha Hóa Tự Tại cho đến phong luân. Về hoành độ thì có cõi lục dục, chín lớp núi, tám lớp biển, mặt trời mặt trăng, bốn đại châu và Địa ngục. Quả đất của chúng ta đang ở chỉ là một châu trong bốn châu của tiểu thế giới mà thôi.

Tiết II: Ba Luân Bao Bọc.

Tiểu thế giới được ba lớp bao bọc. Lớp nhứt ở trong gọi là Kim luân (lớp cứng chắc), bề thâm hậu 3 lạc xoa 20.000 du thiện na, bề rộng 12 lạc xoa 3.450 du thiện na. (Mỗi lạc xoa là một ức, số ức thời xưa có bốn bậc: 100.000, 1.000.000, 10.000.000, 100.000.000 du thiện na (yojana) tức do tuần, do tuần cũng có ba bậc: 16 dặm, 30 dặm, 60 dặm). Ngoài Kim luân, có lớp thứ hai gọi là Thủy luân, bề thâm hậu 8 lạc xoa du thiện na, bề rộng cũng 12 lạc xoa 3.450 du thiện na. (Thủy luân khi còn là hơi nước, chưa bị gió thổi đọng lại, bề thâm hậu đến 11 lạc xoa 20.000 du thiện na). Do nghiệp lực của chúng sanh, nước không tan rã như thức ăn, khi chưa tiêu không sa vào thục tạng. Ngoài Thủy luân, có lớp thứ ba là Phong luân, bề thâm hậu 16 lạc xoa du thiện na, bề rộng có vô số du thiện na. Ngoài Phong luân lại có hư không rộng rãi vô biên tế. Kim luân an trụ nơi Thủy luân, Thủy luân an trụ nơi Phong luân, Phong luân an trụ nơi hư không. (Trích luận Câu Xá, theo các kinh luận khác như Trường A Hàm kinh, Khởi Thế kinh, Khởi Thế Nhân Bản kinh, Lâu Thán kinh, Lập Thế A Tỳ Đàm luận, thì có chỗ lại thêm vào Địa luân, về bề thâm hậu cùng bề rộng của mỗi luân có đôi chút sai khác).

Tiết III: Chín Núi Tám Biển.

Một tiểu thế giới có một núi Tu Di làm trung tâm điểm; đó là lớp núi thứ nhứt. Núi Tu Di (Sumeru Diệu Cao sơn) an trụ nơi Kim luân, hình thể trên dưới rộng ra, khoảng giữa eo lại, bề cao từ mặt nước trở lên 80.000 do tuần (có chỗ nói 84.000 do tuần). Ngoài núi Tu Di có một vòng biển nước thơm gọi là Hương Thủy hải, chiều ngang cũng rộng 80.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ hai là Trì Song Sơn (Du Kiện Đạt La Sudassana), bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương Thủy hải bao bọc, chiều ngang rộng 40.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ ba là Trì Trục Sơn (Y Sa Đà La Isadhara) bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 20.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ tư là Chiêm Mộc Sơn (Khê Địa Lạc Ca Nemindhara), bề cao từ mặt nước trở lên 10.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 10.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ năm là Thiện Kiến Sơn (Tô Đạt Lê Xá Na Assakanna), bề cao từ mặt nước trở lên 5.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 5.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ sáu là Mã Nhĩ Sơn (Ngạch Phạ Yết Noa Karavika), bề cao từ mặt nước trở lên 2.500 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng.

Như thế có tất cả chín lớp núi, tám lớp biển. Núi Tu Di do bốn chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bảy lớp núi kế gọi là Thất Kim Sơn, đều do chất vàng tạo thành. Núi Thiết Vi do chất sắt tạo thành. Tu Di Sơn là chỗ chư Thiên, chư Thần ở. Thất Kim Sơn là chỗ chư Thiên thần và ngũ thông tiên nhơn ở. Tiết Vi Sơn là chỗ của chúng Ngạ quỷ, Địa ngục ở. Chíp lớp núi đều an trụ trên Kim luân và chiều sâu từ mặt nước trở xuống đều 80.000 do tuần, chu vi của mỗi núi bằng bề cao từ mặt nước trở lên (1). Tám lớp biển đều sâu 80.000 do tuần. Bảy biển trước gọi là nội hải, dẩy đầy nước bát công đức ngọt thơm; một biển sau gọi là ngoại hải, thuộc về vùng nước mặn. Thế nào là bát công đức thủy của hương hải? Ấy là thứ nước có tám đặc tánh: ngon ngọt, mát mẻ, trong sạch, nhu nhuyễn, nhẹ nhàng, trơn nhuần, thơm tho không mùi hôi, uống vào trừ đói khát và bịnh hoạn, uống vào có thể trưởng dưỡng các căn (theo các kinh luận khác, chiều rộng của mỗi biển, và chiều sâu của mỗi núi từ mặt biển trở xuống có hơi sai biệt).

Tiết IV: Bốn Đại Bộ Châu

Bốn đại bộ châu vị trí ở vào vùng biển thứ tám là Đại hàm thủy hải.

Phía Nam núi Tu Di là phương vị của Nam Thiệm Bộ Châu. Châu này cũng có tên là Diêm Phù Đề (Jambudvika), vì ở phương Bắc của bản châu có thứ cây Diêm Phù, dưới cây ấy có chất vàng rất quí tên là Diêm phù na đàn (Thắng kim). Hình thế châu Nam Thiệm Bộ phương Bắc rộng, phương Nam hẹp, chu vi độ 7.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía Đông núi Tu Di là Đông Thắng Thần châu. Châu này tiếng Phạn gọi là Tỳ Đề Ha hay Phất Bà Đề (Pùrvavidela Thắng Thần). Châu Thắng Thần hình bán nguyệt, phương Đông hẹp, phương Tây rộng, chu vi độ 9.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía Tây núi Tu Di là châu Cù Đà Ni (Aparagodàniya), cũng gọi là Ngưu Hóa châu. Nhân dân ở châu này dùng trâu, bò, ngựa, châu báu, để mua bán, đổi chác vật dụng cho nhau, nên do đó mà được mệnh danh (Ngưu Hóa). Lập Thế Luận thì cho rằng ở châu này có một quả núi rất to, hình giống như con trâu, vì thế nên được gọi là Cù Đà Ni. Tây Ngưu Hóa châu địa hình như mặt trăng tròn, chu vi độ 8.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía Bắc núi Tu Di là Bắc Câu Lư châu, cũng gọi là Uất Đan Việt (Uttara Kuru Tối Thắng). Cảnh sắc và nhơn vật ở châu này đều hơn ba châu kia. Về y báo thì tại bản châu non sông tú lệ, cây cỏ thanh u, nhiều hồ ao trong mát, hoa quả đủ màu sắc tốt tươi. Các loài chim như bạch nga, hồng, nhạn, oan ương kêu hót giao hòa khắp nơi. Khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành; không có gai gốc cùng loài ruồi, muỗi, độc trùng; các thứ gạo thơm tự nhiên sanh ra, đầy đủ vị ngon. Về chánh báo thì loài người ở đây toàn là giống da trắng, khỏe mạnh sống lâu, thân hình cao lớn xinh đẹp. Khi muốn ăn, họ lấy gạo thơm để trong bảo khí, phía dưới đặt hạt châu Diệm Quang Ma Ni, trong giây phút ánh sáng hạt châu tắt là gạo đã chín. Lúc muốn cần dùng y phục, vật dụng, họ đến cây Hương Thọ hái trái chín, trái này tự nứt ra, trong ấy có đủ y phục tốt đẹp, hoặc đồ dùng, hoặc thức ăn. Muốn nghĩ mát, họ đến dưới cây Khúc Cung, cây này cành lá dày nhặt xanh tươi, nắng mưa không lọt, có thể nằm ngủ ở dưới mà không lo ngại. Muốn dạo chơi, họ xuống bảo thuyền bơi nhẹ theo sông hồ, đề huề đàn sáo, khúc ca tiếng nhạc hòa điệu lẫn nhau, âm thanh du dương trong trẻo nhiệm mầu. Khi vầy đoàn tắm gội, họ xếp y phục để trên mé hồ, ai lên trước cứ gặp cái nào mặc ngay cái ấy, không cần tìm chọn đồ của mình, mặc xong cũng hóa vừa vặn xinh đẹp y như y phục cũ. Người ở Bắc Câu Lư châu hình mạo đều đồng, không có tật bình, tóc chỉ rủ xuống tới chân mày, màu xanh biếc. Lúc nghĩ đến sự dục lạc, người nam chăm chú nhìn người nữ; nếu bên nữ đồng ý, thì đem nhau đến vườn cây. Như nữ nhơn với nam nhơn vốn là người thân thuộc thì cây Khúc cung không phủ xuống, mỗi bên tự tản đi. Nếu không phải người trong thân, tự nhiên cây phủ chụp úp kín đáo, hai bên tùy ý ân ái một ngày đến bảy ngày rồi phân tán. Người nữ mang thai độ bảy tám ngày liền sanh. Lúc sanh ra, dù là trai hay gái, cũng đem để ở ngã tư đường; mỗi người đi qua đều đến đưa ngón tay vào miệng đứa bé, từ trong ngón tay tuôn ra chất sữa ngọt, hài nhi được no đủ. Như thế đến ngày thứ bảy, đứa bé cao lớn như thường nhơn, con trai thì đi theo đoàn người nam, con gái đi theo đoàn người nữ. Đất ở châu này nhu nhuyễn, dân chúng khi đi, chân đạp đến đâu đất nơi ấy tự êm dịu bằng phẳng. Lúc người đại tiểu tiện, đất tự nứt ra, khi xong rồi, cũng tự khép lại. Nhơn dân ở châu Uất Đan Việt thọ lượng đều đúng 1.000 tuổi, nên khi chết không ai khóc lóc tang điếu. Kẻ chết được đồng bọn gói gắm kỹ, đem để nơi đường vắng. Liền đó có loại chim to lớn tên là Ưu Uất Thiền Già gắp thây đem đi xa bỏ nơi khác. Chúng sanh ở nơi đây sở dĩ được phước báo như thế, là do vì đời trước có tu Thập thiện nghiệp.

Châu Bắc Câu Lư hình vuông, chu vi độ 10.000 do tuần, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Các kinh luận đều nói, hình dáng của châu nào ra sao, thì khuôn mặt của dân chúng châu đó cũng như thế ấy. Như người ở Nam Thiệm bộ châu, khuôn mặt phần nhiều trên lớn dưới nhỏ. Người ở Đông Thắng Thần châu khuôn mặt tương tợ hình bán nguyệt. Người ở Tây Ngưu Hóa châu khuôn mặt như trăng tròn. Người ở Bắc Câu Lư châu khuôn mặt hơi vuông.

Tiết V: Địa Ngục.

Lập thuyết Địa ngục của Phật giáo, từ tư tưởng sơ kỳ đến tư tưởng chung cuộc được trình bày qua các kinh luận như: Kinh Tăng Nhất A hàm, Kinh Trung A Hàm (Ba ly), Kinh Bản Sanh, Kinh Trường A Hàm, Luận Lập Thế A Tỳ Đàm, Luận Thế Gian Thi Thiết, Luận Câu Xá, Luận Du Già Sư Địa.

Xứ sở và số lượng của Địa ngục, tiết Thất thú nơi chương một của bản Thiên đã có nói lược qua. Về vấn đề ngục tốt, các Luận sư của Đại Chúng Bộ, Chánh Lượng Bộ cho là thuộc về loại hữu tình, nhưng bên Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ lại chỉ định là đại chủng biến hình của nghiệp ác. Duy Thức Nhị Thập Tụng Thuật Ký của Đại thừa cũng đồng ý với lập luận sau. Đến như thuyết Diêm Ma Pháp Vương thì kinh Trường A Hàm và luận Lập Thế A Tỳ Đàm đều quy thuộc về quỉ thần loại, có phận sự răn trách xử phạt tội nhơn.

Trở lại vấn đề Địa ngục, xin y theo Câu Xá Luận, lược thuật hai chủng loại hàn, nhiệt của Nại lạc ca. Về nhiệt ngục từ khinh đến trọng có tám thứ:

1. Đẳng Hoạt (Cánh hoạt).

2. Hắc Thằng.

3. Chúng Hiệp.

4. Hiều Kiếu (Kiếu Hoán).

5. Đại Hiều Kiếu (Đại Kiếu Hoán).

6. Viêm Nhiệt.

7. Cực Nhiệt.

8. Vô Gián.

Hàn ngục cũng có tám thứ khinh trọng:

1. Án Phù Đà (Nhục Đoạn).

2. Ni Lại Phù Đà (Bào Đống).

3. A Tra Tra (Ha Ha).

4. A Ba Ba (Nại Hà).

5. Ấu Hầu Hầu (Dương Minh).

6. Ưu Bát La (Thanh Liên).

7. Ba Đầu Ma (Xích Liên).

8. Phân Đà Lợi (Bạch Liên).

Mỗi ngục trên đây đều có 16 ngục phụ, như thế kể cả bản ngục và phụ ngục của hai loại hàn nhiệt, tất cả có 272 ngục. Ngoài phụ ngục còn có nhiều tiểu ngục, ngoài tiểu ngục lại có vô số biên ngục. Đại khái, chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng thượng, sẽ bị đọa vào chánh ngục; chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng trung, sẽ bị đọa vào phụ ngục; chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng hạ, sẽ bị đọa vào tiểu ngục, biên ngục. Các ngục sở do đồng, sắt hoặc đá tạo thành, những hình cụ trong ấy nhiều đến vô lượng. Tất cả đều bởi nghiệp ác của chúng sanh mà huyễn hiện.

Tiết VI: Thiên Xứ Ở Núi Tu Di.

1/ Tứ vương và tùy thuộc:

Như trên đã nói, núi Tu Di bề cao từ mặt nước trở lên được 80.000 do tuần, hình thế khoảng giữa eo lại, trên dưới rộng ra. Chu vi của hai đầu trên dưới đều 80.000 do tuần. Từ mặt nước lên đến giữa núi Tu Di có bốn tầng cấp, mỗi tầng cấp cách nhau 10.000 do tuần. Tầng cấp thứ nhứt bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 16.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Kiên Thủ. Tầng cấp thứ hai bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 8.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Trì Hoa Mang. Tầng cấp thứ ba bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 4.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Thường Phóng Dật (Hằng Kiều Dược Xoa). Ba xứ sở này là nơi ở các thần dưới quyền thống lãnh của Tứ Thiên vương. Tầng cấp thứ tư bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 2.000 do tuần. Đây là trụ xứ của bốn vị Thiên vương, gọi là Tứ Thiên vương (Oàturmahàràjakàyika).

Tứ Thiên vương thống lãnh chư thần ủng hộ bốn đại bộ châu. Phương Đông, giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Đề Đầu Lại Tra Thiên vương (Trì Quốc Thiên vương) và chư Thiên tùy thuộc. Đề Đầu Lại Tra Thiên vương thống lãnh các quỉ thần Càn thát bà và Tỳ Xá Xà, ủng hộ Đông Thắng Thần châu. Thiên xứ này thuộc về vùng bạch ngân cung điện phần lớn đều bằng chất bạc trắng, có một khu thành to rộng gọi là Thượng Hiền. Phương Nam giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Lưu Lạc Xoa Thiên vương (Tăng Trưởng Thiên vương) và chư Thiên tùy thuộc. Tỳ Lưu Lặc Xoa Thiên vương thống lãnh các quỉ thần Cưu Bàn Trà và Tịch Hiệp Đa, ủng hộ Nam Thiệm Bộ Châu. Thiên xứ này thuộc về vùng thanh lưu ly, cung điện phần lớn đều bằng chất lưu ly xanh, có một khu thành to rộng gọi là Thiện Kiến. Phương Tây giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Lưu Bác Xoa Thiên vương (Quảng Mục Thiên vương) và chư Thiên tùy thuộc. Tỳ Lưu Bác xoa Thiên vương thống lãnh các Long thần và quỉ Phú Đơn Na, ủng hộ Tây Ngưu Hóa châu. Thiên xứ này thuộc về vùng hoàng kim, cung điện phần lớn đều bằng chất vàng ròng, có một khu thành to rộng gọi là Châu La, Phương Bắc giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Sa môn Thiên vương (Đa Văn Thiên vương) và chư Thiên tùy thuộc. Tỳ Sa môn Thiên vương thống lãnh các quỉ thần Dạ xoa, La sát, ủng hộ Bắc Câu Lư Châu. Thiên xứ này thuộc về vùng thủy tinh, có ba khu thành to rộng tên là: Khả Úy, Thiên Kính, và Chúng Quy. Tứ Thiên Vương mỗi vị đều có tám viên đại tướng, chín mươi mốt người con. Theo Trí Luận thì các thần núi, sông, đất, rừng, cây, thành quách, cung điện... tất cả quỉ thần đều thuộc về quyền thống nhiếp của Tứ Đại Thiên vương.

2/ Tam thập Tam Thiên:

Trên đảnh núi Tu Di là xứ sở của trời Đạo Lợi (Tra yastrimsá Tam thập Tam Thiên). Nơi đây địa thế rộng rãi tốt đẹp. Ở bốn góc trên đảnh núi Tu Di có bốn tòa núi nhỏ, bề cao và rộng đều 500 do tuần, có thần Dược Xoa tên là Kim Cương Thủ trụ nơi đây để tuần thị và hộ vệ chư Thiên.

Chính giữa đảnh Tu Di có khu thành rộng lớn, bề chu vi 10.000 do tuần, tên là Diệu Kiến (Thiện Kiến, Hỉ Kiến), có 1.000 cửa. Giữa khu thành này lại có một tòa thành quách chu vi rộng 1.000 do tuần, cao một do tuần rưỡi, toàn bằng chơn kim, có 500 cửa. Đất nơi đây cũng bằng chất chơn kim nhu nhuyễn như nệm, khi bước đi tự nhiên êm dịu không làm tổn chân. Chỗ này là thành đô của trời Đế Thích, lâu các nguy nga tráng lệ, nghiêm suất bằng các thứ tạp bảo. Điện của trời Đế Thích ở, tên là Tỳ Thiền Diên, xung quanh có 101 tòa lâu các gồm 10.770 phòng, mỗi phòng có bảy Thiên nữ, mỗi Thiên nữ có bảy thể nữ hầu hạ. Các Thiên nữ đó đều là chánh phi của trời Đế Thích. Đế Thích ở chung với Xá Chỉ ngọc nữ, hóa thân của ông ở với bà phi.

Khoảng giữa thành Diệu Kiến và Tỳ Thiền Diên có bảy khu thị tứ là: Mễ Cốc, Ẩm Thực, Y Phục, Chúng Hương, Hí Nữ, Công Xảo, Hoa Mang. Tại bảy nơi đây đều có thị quan. Các Thiên tử, Thiên nữ khi đến du ngoạn, cũng bình luận món này món khác là đắt hay rẻ, y như cách thức mậu dịch, nhưng không ai bán cũng chẳng ai mua, thỉnh thoảng vị nào muốn cần dùng món gì, có thể tự tiện lấy đem đi. Trong thành Diệu Kiến lại có Thiên châu, Thiên huyện, Thiên thôn, đầy khắp các nơi.

Xung quanh thành Diệu Kiến có 32 Thiên xứ, mỗi nơi do một vị Thiên chủ quản trị. Ba mươi hai Thiên xứ này với trung đô của Đế Thích, hợp lại 33 Thiên xứ, nên gọi là Tam thập Tam Thiên.

Ngoài bốn phía thành Diệu Kiến, có bốn đại viên uyển; vườn Chúng Xa ở phương Đông, vườn Thô Sáp ở phương Nam, vườn Tạp Lâm ở phương Tây, vườn Hoan Hỷ ở phương Bắc. Khi chư Thiên vào vườn Chúng Xa, tùy nơi phước đức hơn kém, các thứ xe hoặc thắng hoặc liệt đều hiện ra, mỗi vị đều lên ngồi cỗ xe của mình mà dạo chơi. Lúc chư Thiên sắp đánh với A tu la, liền kéo nhau vào vườn Thô Sáp, nơi đây các món giáp trượng tự hiện ra. Cảnh vườn này rất tươi đẹp, chư Thiên khi vào du ngoạn tranh nhau đi trước đi sau. Vườn Tạp Lâm là nơi có nhiều cung điện, rừng cây u nhã, các thể nữ ở cung Tỳ Thiền Diên thường ra đây họp bạn với Thiên chúng mà chơi đùa, thọ đủ năm sự dục lạc. Vườn Hoan Hỷ có một cảnh sắc đặc biệt, chư Thiên vào đây đều sanh lòng hớn hở tươi vui. Mỗi khu vườn, bốn góc có bốn hồ Như Ý, mỗi hồ chu vi rộng 50 do tuần, trong ấy dẫy đầy nước bát công đức. Các thứ hoa trong mỗi hồ tranh nhau đua nở, phô trương vẻ đẹp thần tiên. (Theo các vị A la hán sau Phật diệt độ, thì ở bốn khu vườn đều có Bảo tháp thờ di tích của Phật. Như ở vườn Chúng Xa có khu tiểu viên tên là Chiếu Minh, nơi đây có tháp thờ tóc Phật. Vườn Thô Sáp có tháp thờ y của Phật. Vườn Tạp Lâm có tháp thờ bát của Phật. Vườn Hoan Hỷ có tháp thờ răng của Phật).

Phía Đông Bắc thành Diệu Kiến, có cây Ba Lợi Chất Đa (Paricitra Hương Biến Thọ) cao 100 do tuần, tàng rậm cũng 100 do tuần, như chiếc tán to lớn, đây là một thắng sở du ngoạn của chư Thiên. Cây này hoa nở liên miên không dứt, mùi hương thanh nhẹ bay lan rộng xa, gặp khi thuận gió hơi thơm đầy khắp 100 do tuần khi nghịch gió cũng được 50 do tuần. Phía Tây Nam thành Diệu Kiến, có ngôi Thiện Pháp Đường. Ngôi điện này rất to rộng, có đến 84.000 cây cột. Đây là chỗ chư Thiên tập họp để bàn luận về đạo lý, xử đoán các việc phi pháp của A tu la, và kiểm soát những điều thiện ác trong thế gian. Khi tập họp, trời Đế Thích ngồi tòa sư tử ở giữa, hai bên tả hữu đều có 16 Thiên vương ngồi đối diện nhau. Mỗi Thiên vương có hai Thái tử cũng là hai vị đại tướng, ngồi hai bên ở sau mà tùy thị. Nơi vòng ngoài, Trì Quốc Thiên vương cùng hàng đại thần ngồi ở phía Đông, Tăng Trưởng Thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía Nam, Quảng Mục Thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía Tây, Đa Văn Thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía Bắc. Tứ Đại Thiên vương đem việc thiện ác ở thế gian tâu với trời Đế Thích. Nếu Thích Đề Hoàn Nhân (Năng Thiên Chủ) nghe ở hạ giới không có nhiều kẻ giữ giới, bố thí, thì sanh lòng lo buồn và bảo: "Thiên Chúng sẽ lần lần kém ít, các A tu la càng ngày lại tăng thêm!”

Nói chung, Tam thập Tam Thiên có tất cả bảy lớp thành, bảy lớp lan can, bảy lớp linh võng (lưới có treo linh báu), phía ngoài lại có bảy lớp hàng cây Đa la bao quanh, nhiều màu sắc xinh đẹp. Mỗi lớp thành có nhiều cửa, ở mỗi cửa cũng có lầu ngăn giặc. Ngoài ra còn những điện các, ao nước, rừng hoa, nhiều thứ chim hòa nhau kêu, Thiên nhạc tự nhiên tấu theo giờ khắc. Màu sắc và ánh sáng mặt trời mặt trăng, chỉ có quang minh của cung điện, bảo thọ và chư Thiên. Khi hoa sen hồng khép lại, hoa sen xanh nở ra, Thiên chúng ưa ngủ nghỉ là ban đêm. Lúc hoa sen hồng nở ra, hoa sen xanh khép lại, chư Thiên ít ngủ, thích đi dạo chơi là ban ngày. Thiên chúng ở trời Đạo Lợi vui đắm theo dục lạc như quên mất thời gian, ca múa nói cười, dạo hết cảnh này lại kéo nhau du ngoạn cảnh khác.

Tiết VII: Không Cư Thiên.

Các tầng trời y cứ nơi núi Tu Di gọi là Địa cư Thiên, vượt khỏi đảnh Tu Di trở lên thuộc về Không cư Thiên. Không cư Thiên là những Thiên xứ rộng lớn hư phù giữa không gian như mây.

Từ cõi Đạo Lợi lên trên 160.000 do tuần, có một Thiên giới lơ lững như mây, do thất bảo nhu nhuyễn tạo thành, bằng phẳng an ổn, chu vi rộng 80.000 do tuần, cung điện lầu các, vườn cây ao hoa, tất cả đều trang nghiêm diễm lệ. Đây là cõi Trời Dạ Ma (Yàma Tu Diệm Ma, Trời Phận Thiên). Từ trời Dạ Ma lên trên cách 320.000 do tuần, có một Thiên giới bằng thất bảo, lơ lửng như mây, chu vi rộng 160.000 do tuần. Đây là cõi Trời Đâu Suất Đà (Tusita Đổ Sử Đa, Hỷ Túc Thiên). Từ trời Đâu Suất lên trên cách 640.000 do tuần, có một Thiên giới bằng thất bảo, lơ lững như mây, chu vi rộng 320.000 do tuần. Đây là cõi Trời Hóa Lạc (Nirmànarati Tu Niết Mật Đà, Hóa Tự Lạc Thiên). Từ cõi Hóa Lạc lên trên cách 1.280.000 do tuần, có một Thiên giới bằng thất bảo, lơ lửng trên mây, chu vi rộng 640.000 do tuần. Đây là cõi Trời Tha Hóa (Paranirmita vàsavartin Bà Xá Bạt Đề, Tha Hóa Tự Tại Thiên), cũng là tầng trời cao nhất của Dục giới.

Trên đây là hiện tượng quen thuộc phạm vi một tiểu thế giới. Từ cõi Dục trở lên, lại có bốn tầng Thiền Thiên của Sắc giới, mỗi tầng khoảng cách nhau và bề rộng đều gấp bội. Duy có cõi Vô sắc là không phương xứ. Về danh mục các cõi Trời của Sắc và Vô sắc giới, trong chương một của bản Thiên đã có nói rõ. Để tỉnh giảm bút mặc và tinh thần, nơi đây xin miễn đề cập đến.

Chương IV: Cõi Đại Thiên Và Thời Kiếp.

+ Tiết Mục:

I. Đại Thiên thế giới

II. Kiếp Lượng

III. Bốn giai đoạn của đại kiếp

IV. Ba đại kiếp của cõi Ta bà

+ Kinh sách tham khảo:

Hoa Nghiêm Sớ Sao,

Luận Tỳ Bà Sa,

Kinh Kim Quang Minh,

Luận Lập Thế A Tỳ Đàm,

Luận Du Già Sư Địa,

Kinh Trung A Hàm,

Kinh Tăng Nhất A Hàm,

Kinh Khởi Thế,

Kinh Lâu Thán,

Luận Chánh Lý,

Luận Câu Xá,

Kinh Tam Thiên Phật Danh,

Từ Ân Kiếp Chương,

Phật Tổ Thống Kỷ.

+ Đề yếu: Trước đã nói về Tiểu thế giới, trong bản chương, tiết thứ nhứt lại tiếp tục thuyết minh về phạm vi của các cõi: Tiểu Thiên, Trung Thiên và Đại Thiên. Tiết thứ hai phân biệt về kiếp lượng và các thời kiếp như: tăng kiếp, giảm kiếp, tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Thời kiếp có tăng, giảm, thịnh, suy, đều do nghiệp lực lành hoặc dữ của chúng sanh. Như thuở xưa ở miền Hợp Phố nước Trung Hoa, khi quan tham ô đến cai trị, loài trai có ngọc đều xa lánh, lúc quan liêm chánh đến trấn nhậm thì chúng lại trở về. Cho nên thế gian tu thiện, tất mưa hòa gió thuận, châu báu xuất sanh; nhơn loại tạo ác, tất ngũ cốc mất mùa, Thiên tai nổi dậy. Lý cảm ứng này không phải là điều huyễn hoặc. Tiết thứ ba nói về bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không của đại kiếp. Trong đây chỉ có kiếp trụ là thời kỳ y báo, chánh báo ở thế gian thể hiện đầy đủ. Tiết thứ tư nói khái lược về sự ứng tích của chư Phật trong ba đại kiếp: quá khứ, hiện tại, và vị lai.

Tóm lại, thế gian xấu, tốt, khổ, vui, đều do hạnh nghiệp của chúng sanh. Muốn tạo nên hoàn cảnh tươi đẹp thanh bình, mọi người cần phải hướng về nẻo thiện.

Tiết I: Đại Thiên Thế Giới.

Kể theo phần chánh yếu, Tiểu thế giới có một lục dục thiên, một nhật nguyệt, một núi Tu Di và một tứ đại châu. Một ngàn Tiểu thế giới hợp lại thành một Tiểu Thiên thế giới. Một ngàn Trung Thiên thế giới hợp lại thành một Đại Thiên thế giới. Đại Thiên thế giới có nơi gọi là Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Danh từ này chỉ cho Đại Thiên thế giới do ba lần ngàn thế giới kết hợp, chớ không phải có ba ngàn cõi Đại Thiên.

Hoa Nghiêm Sớ Sao nói: "Về Tiểu Thiên thế giới, chỉ kể Sơ Thiền; về Trung Thiên giới, thì kể Tam Thiền.” Luận Bà Sa nói: "Bề rộng của trời Sơ Thiền che bốn châu Thiên hạ. Bề rộng của trời Nhị Thiền che một cõi Tiểu Thiên. Bề rộng của trời Tam Thiền che một cõi Trung Thiên. Bề rộng của Trời Tứ Thiền che một cõi Đại Thiên.” Thế thì Tiểu Thiên giới có 1.000 cõi Sơ Thiền, Trung Thiên giới có 1.000 cõi Nhị Thiền, Đại Thiên giới có 1.000 cõi Tam Thiền. Xin nêu số lượng thống nhiếp của Tiểu, Trung, Đại Thiên thế giới theo biểu đồ như sau: ($ bieu do)

(Xem tiếp biểu đồ trang 141).

Xét qua Tam tạng, ta thấy như kinh A Hàm, luận Câu Xá nói cõi Đại Thiên có 10.000 ức núi Tu Di; kinh Quang Minh, kinh Hoa Nghiêm nói cõi Đại Thiên có 100 ức núi Tu Di. Lại trong kinh luận có chỗ nói cõi Đại Thiên có 100 ức trời Tứ Thiền. Mới xem qua, dường như các kinh luận có sự bất đồng về số nhiều ít và lượng rộng hẹp, song kỳ thật không phải. Như trước đã nói số ức thời xưa có bốn bậc; kinh A Hàm, luận Câu Xá lấy số 100.000 làm ức, nên nói có 10.000 ức núi Tu Di (1.000.000.000); kinh Quang Minh, Hoa Nghiêm lấy số 10.000.000 làm ức, nên nói có 100 ức núi Tu Di (1.000.000.000), kỳ thật số lượng vẫn đồng. Còn luận thuyết cõi Đại Thiên có một cõi Tứ Thiền che phủ là nói về phần tổng, luận thuyết cõi Đại Thiên có 100 ức cõi Tứ Thiền là nói về phần biệt. Ví như có áng mây to rộng che phủ cả xứ; đứng về phương diện chung của một xứ, duy chỉ có một áng mây; nhìn về phương diện cá biệt của các tỉnh, quận, xã trong xứ, thì có nhiều áng mây.

Lại theo các kinh như Kim Quang Minh, Lăng Nghiêm, thì trên Sắc giới có Tứ không Thiên. Riêng kinh Hoa Nghiêm lại nói: "Ước về xứ sở của Tứ không, duy tới cõi Sắc Cứu Cánh là cùng cực; Tứ không chẳng có phương sở, tùy xứ mà thọ quả, như ở Dục giới đắc định thì thọ quả báo nơi cõi Dục, ở Sắc giới đắc định thì thọ quả báo nơi cõi Sắc.” Hai thuyết trên dường như trái nhau, nhưng kỳ thật, cũng không trái. Luận cứ của các kinh Kim Quang Minh, Lăng Nghiêm là nói về sự thọ báo trong quả, luận cứ của kinh Hoa Nghiêm nói về sự thọ báo trong nhân, thật ra vẫn có Tứ không Thiên. Dẫn ra mấy điểm trên để nhắc cho chúng ta nên có ý niệm về những điều sai biệt trong kinh, phải tìm hiểu xem trong ấy nói ở phương diện nào, chớ vội chỉ định cho là sai lầm.

Tiết II: Kiếp Lượng.

Danh từ "Kiếp", Phạn ngữ gọi kiếp ba (kalpa), Trung Hoa dịch là Trường thời hoặc Đại thời, chỉ cho thời gian quá dài, khó dùng năm tháng ngày giờ mà tính kể được. Nhưng "Kiếp" trong Phật giáo cũng có khi không nhứt định. Theo luận Lập Thế A Tỳ Đàm, có trường hợp một tiểu kiếp kể là một kiếp, hoặc hai mươi, bốn mươi, sáu mươi, tám mươi tiểu kiếp kể là một kiếp. Ngoài ra lại còn có những thời kiếp như: bàn thạch kiếp, giới tử kiếp, hằng sa kiếp, vi trần kiếp, hải kiếp... Bàn thạch kiếp là ví như có một tảng đá vuông, chu vi của bề mặt là 40 dặm, cứ mỗi trăm năm lấy cái áo rất nhuyễn nhẹ mà phất qua một lần, phất đến chừng nào đá mòn tan, kể là một kiếp. Giới tử kiếp là ví như có một vòng thành cao, chu vi bốn mươi dặm, trong ấy đổ đầy những hạt cải, cứ mỗi trăm năm lấy ra một hạt cải, đến thời gian nào lấy hết số hạt cải, kể là một kiếp. Hằng sa kiếp là cát ở sông Hằng rất nhuyễn mịn và nhiều, cứ mỗi hạt cát kể là một đại kiếp, tính hết tất cả số kiếp của cát sông Hằng, gọi là Hằng sa kiếp. Vi trần kiếp là như đem đất của cõi Đại Thiên nghiền thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi kể là một đại kiếp, gồm chung tất cả số kiếp của bụi đó, gọi là vi trần kiếp. Hải kiếp là như nước tất cả biển của cõi Đại Thiên, cứ mỗi giọt nước kể là một đại kiếp, tính hết số của bao nhiêu giọt nước những biển ấy, gọi là hải kiếp. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Phật trong vô biên kiếp hải xa. Vì độ chúng sanh cầu giác đạo.” (Phật ư vô biên đại kiếp hải. Vị chúng sanh cố cầu Bồ đề). Tóm lại, riêng một phương diện, "kiếp" không có hạn kỳ nhứt định, đại để chỉ cho ý nghĩa thời gian dài vô lượng năm.

Tuy nhiên, phương diện khác, "kiếp" cũng có thời gian hạn nhứt định của nó như: giảm kiếp, tăng kiếp, tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp.

1/ Giảm kiếp:

Kiếp giảm lấy nhơn thọ trong thời kỳ tiệm giảm làm hạn lượng. Thọ số của nhơn loại ở châu Diêm phù, mức cực cao là 84.000 tuổi. Từ 84.000 tuổi mỗi 100 năm giảm một tuổi, giảm đến chừng nào con người còn 10 tuổi là mức cuối cùng. Khoảng thời gian này kể là một giảm kiếp. Như thế một giảm kiếp tính ra có đến 8.399.000 năm (84.000 – 10 x 100 =). Trong khi thọ lượng được 84.000 tuổi, con người cao 840 trượng, qua trăm năm giảm một tuổi, bề cao cũng thấp xuống một tấc, qua ngàn năm giảm 10 tuổi, bề cao thấp xuống một thước. Đến chừng nhơn loại còn 10 tuổi là thượng thọ, bề cao con người chỉ còn một thước. Trong kiếp giảm, ác nghiệp của nhơn loại càng ngày càng tăng, phước báo càng lúc càng kém. Như khi nhơn thọ 84.000 tuổi, do phước nghiệp tăng thạnh, nên có bảy báu hiện ra, điềm lành tập hợp, năm vị ngon quí, người thần vui đẹp, mưa gió thuận thời, suối ngọt gạo thơm, dân chúng hiền lành, bậc Thánh vương trị nước. Lúc nhơn thọ còn mười tuổi, do ác nghiệp tăng thạnh nên bảy báu ẩn mất, năm vị lợt lạc, điềm dữ hiện ra, nhơn vật khốn cùng, quỉ thần kêu khóc, âm dương trái độ, mưa gió lỗi thời, cảnh đói khác lan tràn, con người tranh đua lường gạt chém giết lẫn nhau. Lại trong kiếp giảm có tiểu tam tai là: nạn cơ cẩn, nạn dịch khí, và nạn đao binh.

Theo luận Du Già Sư Địa, lúc nhơn thọ giảm còn 30 tuổi, có tai nạn cơ cẩn (đói khát) kéo dài bảy năm bảy tháng bảy ngày. Trong thời gian này cách rất lâu mới có một cơn mưa, ngũ cốc không sanh loài người chết vô số, xương trắng đầy đồng. Khi đó nếu người nào tìm được một hạt lúa, họ xem như ngọc Ma Ni, đem cất giấu ở trong rương. Qua một loạt chết chóc kinh khủng này, những kẻ còn sống sót khởi lòng nhàm chán bậc hạ, thật tâm ăn năn sám hối, tai nạn đó mới dứt. Lúc nhơn thọ giảm còn 20 tuổi, do loài người lui sụt tâm nhàm chán ăn năn trước kia, lần lần làm ác, nên có tai nạn dịch khí (bịnh truyền nhiễm) nổi lên, trải qua thời gian bảy tháng bảy ngày, thây chết rải rác ngổn ngang khắp đường sá đồng ruộng, không ai chôn cất. Khi ấy mọi người tự biết do nghiệp ác nên phải chịu quả khổ như thế, ai nấy đều ăn năn sám hối, khởi lòng nhàm chán bậc trung, nạn dịch khí liền dứt. Rồi tháng năm chầm chậm trôi qua, nhơn loại lần lần quên bao nhiêu cảnh khổ, trở lại tạo thập ác thêm nhiều. Đến lúc thọ lượng của thế nhơn còn 10 tuổi, con nguời sanh ra ít ngày là biết đi, mới năm tháng đã có chồng vợ. Lúc ấy nhơn loại lấy lúa ép làm thức ăn bậc nhất, lấy tóc kết lại làm y phục bậc nhất, lấy sắt làm đồ trang nghiêm bậc nhất. Bao nhiêu thức ăn ngon quí đều ẩn mất, các thứ mật, mía, dầu, muối đều biến chất, không thành mùi vị. Khi có yến hội lớn, người ta thường nấu xương khô để thiết đãi lẫn nhau. Bấy giờ lại có tai nạn đao binh nổi lên. Trước tiên các nước đem binh đánh giết lẫn nhau; trong thân quyến như cha con anh em, chồng vợ luôn luôn có sự tranh cải, huống chi đối với kẻ khác. Đến lúc kiếp mạt, thế lực của nghiệp ác mạnh mẽ cùng cực, trong vòng bảy ngày, loài người như mê cuồng, tay cầm đến cây, gậy, ngói, đá, những thứ ấy đều hóa ra đao kiếm không luận kẻ thân sơ, hễ gặp mặt là tàn sát nhau. Ai nấy đều nghĩ rằng: nếu mình không giết người ta, người ta cũng giết mình. Trong thời gian đó, thây chết cùng khắp, đường sá vắng người. Qua bảy ngày này nghiệp sát tiêu tan, còn độ một muôn người sống sót, trốn ở trong hang đá rừng núi lần lượt đi ra. Bấy giờ thế giới hoang sơ, trong vòng mấy muôn dặm khó thấy một bóng người, nên khi được gặp mặt họ liền ôm nhau mà khóc. Thời gian này kiếp giảm đã đến mức cuối cùng, loài người khởi tâm nhàm chán bậc thượng, lần lần tu pháp lành, nên phước thọ cũng lần lần tăng thêm.

Nói chung, sở dĩ có kiếp giảm, là do nghiệp ác tăng trưởng. Theo kinh Trung A Hàm, khi nhơn loại được tám muôn tuổi, trước tiên loài người sanh ra nghiệp trộm cắp, nên thọ lượng lần giảm xuống còn bốn muôn tuổi. Đến thời gian này chúng sanh lại tăng thêm nghiệp sát, nên thọ lượng lần giảm xuống còn hai muôn tuổi. Kế đó vì tăng thêm nghiệp vọng ngữ, thọ lượng lại giảm xuống còn một muôn tuổi. Rồi sau lại tăng thêm nghiệp tà dâm, ganh ghét, bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính bậc trưởng thượng và người tu hành đạo đức, nên thọ lượng và thân hình lần chuyển giảm. Kiếp càng giảm, thì những người hiền lành tu Thập thiện bị khinh rẻ xem thường, những kẻ thô bạo làm mười điều ác, trái lại được tán dương nể trọng. Chẳng hạn như người nhu hòa bị chê là hèn nhát, kẻ sát hại nhiều được tôn trọng là anh hùng; người thật thà chất phác bị chê là ngu si, kẻ xảo trá lanh lợi được khen là khôn ngoan mưu trí; người giữ lễ giáo bị chê là cổ hủ, kẻ ăn chơi phóng đảng được khen là phong nhã hào hoa. Trên đây là các điểm sơ lược về tình hình chung của kiếp giảm.

2/ Tăng kiếp:

Khi thế lực của giảm kiếp đã mãn, nhơn loại giết nhau hầu hết, lại bắt đầu chuyển sang kiếp tăng. Qua bảy ngày đao binh, loài người khi gặp mặt liền sanh lòng từ ái, xem nhau như thân thuộc, đối với cảnh khổ vừa xảy ra, họ đồng có một tâm niệm ăn năn nhàm chán đến cực điểm. Tất cả đều bảo nhau rằng: "Do chúng ta sanh lòng si cuồng độc ác nên mới có thảm họa ấy. Từ đây về sau chúng ta phải gắng sức làm lành, mới mong cảnh khổ kia khỏi tái diễn. Trước tiên họ giữ giới sát, nên từ 10 tuổi thọ lượng lần lần tăng đến 20 tuổi, sắc thân người cũng lần lần cao đẹp hơn lên. Thấy giữ hạnh lành có kết quả tốt, mọi người lại phát nguyện xa lìa sự trộm cắp, thọ lượng lại lần tăng đến 40 tuổi. Rồi kế tiếp, họ xa lìa những tâm hạnh xấu như: gian dâm, vọng ngữ, tham lam, ganh ghét, giận hờn, tà kiến cùng tu tập những điều lành nên thọ lượng tăng lần lần từ 80, 160, 300, 2.000, 5.000, 10.000, 80.000, 84.000 tuổi. Khi mạng sống đã tăng thì sắc thân của loài người cũng lần lần cao lớn xinh đẹp. Trong các kinh luận, có thuyết nói thuở kiếp tăng, bề cao nhơn loại từ một thước đến 840 trượng, có thuyết nói chỉ cao đến 32 trượng là đình chỉ. Khi thọ số nhơn loại được 84.000 tuổi, mọi người đều hiền lành, biết hiếu thuận với cha mẹ, cung kính bậc Sa môn, tu các phước nghiệp, nam nữ đến 500 tuổi mới có đôi bạn, mưa gió điều hòa, vật loại tốt tươi, thức ăn đầy đủ những thượng vị, nhơn dân an lạc, thế gian không có tai nạn bịnh khổ, đao binh.

Thời gian của kiếp tăng cũng có 8.399.000 năm như kiếp giảm. Trong kiếp tăng lại có bốn bậc Luân vương ra đời. Khi nhơn thọ được hai muôn tuổi có Thiết luân vương xuất thế, thống trị toàn châu Nam Thiệm Bộ, nhưng phải ra oai Thiên hạ mới định. Lúc nhơn thọ được bốn muôn tuổi, có Đồng luân vương xuất thế, thống trị hai châu Nam Thiệm Bộ, Đông Thắng Thần, đợi khi oai đức thạnh hành, Thiên hạ mới phục. Lúc nhơn thọ được sáu muôn tuổi, có Ngân Luân vương xuất thế, thống trị ba châu Nam Thiệm Bộ, Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hóa, còn phải sai sứ đi du thuyết, Thiên hạ mới phục. Khi nhơn thọ tám muôn tuổi có Kim luân vương xuất thế, thống trị bốn châu: Nam Thiệm Bộ, Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hóa, Bắc Câu Lư, thiên hạ chỉ trông oai đức liền qui phục. Kim luân vương có bảy báu, một ngàn người con. Trong bảy báu, món thứ nhứt là Luân bảo, do chơn kim tạo thành, từ trục giữa ra đến ngoài vành có 1.000 bức trụ, trung gian tinh tế dày đặc. Ngày Luân vương làm lễ quán đảnh, Luân bảo này hiện giữa hư không; vua dùng Luân bảo chở các tướng và bốn binh bay khắp tứ đại bộ châu, các vì vua khác trông oai đức mà thuận hóa, không cần đánh dẹp. Báu thứ hai là Ngọc nữ, ngọc nữ này hóa sanh nơi hoa sen xinh đẹp bậc nhứt, khéo biết tâm ý của vua mà thừa thuận. Báu thứ ba là Binh thần, đây là một bề tôi phụ tá của vua, sức mạnh và trí mưu đều quán chúng. Báu thứ tư là Tàng thần, vị đại thần này có thể nhìn thấy các kho báu kỳ lạ ẩn tàng ở dưới đất, dưới nước, trong núi, tùy ý vua dùng mà lấy ra. Báu thứ năm là Như ý châu, hạt châu này chiếu sáng một do tuần, khiến cho ban đêm như ban ngày, lại có thể tùy ý vua mà làm mưa xuống các thứ trân bảo vật dụng. (Có chỗ gọi báu thứ năm là Trí thần, một vị văn thần giúp vua coi việc chánh trị trong nước). Báu thứ sáu là Bạch tượng, đây là một thớt voi to lớn, thân trắng như tuyết, có đủ sáu ngà. Báu thứ bảy là Long mã, một con ngựa quí xuất sanh từ giống rồng; phi mau vô cùng, có thể trong một ngày đi khắp bốn châu thiên hạ. Kim luân vương thọ 84.000 tuổi, trong thời gian trị hóa có bảy thứ trân báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não xuất hiện, các thượng vị nổi lên trên lớp đất mặt rồi tự xuất sanh ra thứ gạo thơm; mưa gió điều hòa, vật sản phong nhuận, dân chúng đều tu mười nghiệp lành.

3/ Tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp:

Cứ một kiếp tăng, kiếp giảm là một tiểu kiếp. Như thế, một tiểu kiếp có 16.678.000 năm. Hai mươi tiểu kiếp có một trung kiếp. Trung kiếp có 333.560.000 năm. Bốn trung kiếp hợp thành một đại kiếp. Đại kiếp có 1.334.240.000 năm. Thế thì một đại kiếp có 80 tiểu kiếp. Bốn trung kiếp trong đại kiếp là: trung kiếp thành, trung kiếp trụ, trung kiếp hoại và trung kiếp không. Tam Thiên thế giới sanh diệt theo tuần tự thành, trụ, hoại, không của đại kiếp. Dưới đây, xin kể lược qua bốn giai đoạn ấy.

Tiết III: Bốn Giai Đoạn Của Đại Kiếp.

1/ Kiếp thành:

Khi thế giới đã tiêu hoại, chỉ còn một khoảng hư không trống rỗng trải qua thời gian rất lâu xa. Do nghiệp lực của chúng sanh, bấy giờ từ nơi không gian bỗng nhiên biến hiện ra áng mây to rộng che khắp một vùng bằng khoảng Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Kế đó lại có mưa to đổ xuống, mỗi giọt mưa lớn như cái bánh xe. Cứ mưa như thế hết trận này đến trận khác. Do nghiệp chúng snah, có nhiều trận mưa sai biệt: có cơn mây mưa lớn tên là Năng Diệt, làm cho tiêu tan những hơi nóng bức. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng Khởi, làm cho nước dâng lên cao. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng Chỉ, làm cho nước lắng hạ xuống. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng Thành, hay tạo thành chất ngọc Ma Ni và các thứ trân bảo. Có cơn mây mưa lớn tên là Phân Biệt hay khu phân các vùng của Đại Thiên thế giới. Mưa như thế trải qua ngàn muôn năm, nước lần lần dâng cao đến cõi Phạm Thiên. Trong khi mưa lại có bốn thứ gió to xen lẫn. Một là Năng trì phong luân, thứ gió này duy trì khiến cho nước không tan rả. Hai là Năng Tiêu phong luân, thứ gió này làm cho nước tiêu bớt. Ba là Kiến Lập phong luân, thứ gió này làm cho các xứ sở được thành lập. Bốn là Trang Nghiêm phong luân, thứ gió này phân bố các xứ sở một cách thiện xảo.

Khi nước đã dâng lên cao đầy khắp cõi Đại Thiên, lại có những hoa sen to lớn tự sanh ra che trải giáp mặt nước. Thứ hoa sen này có 1.000 cánh, tên gọi là Như Lai Xuất Hiện Công Đức Bảo Trang Nghiêm, chư Thiên ở cõi Trời Tịnh cư trông thấy, bay xuống đếm xem được bao nhiêu hoa sen, liền biết trong đại kiếp này có bao nhiêu vị Phật ra đời. Sau khi hoa sen mọc ra không bao lâu, bỗng có cơn gió lớn tên gọi A Na Tỳ La, thổi nước xao động thành những cụm bọt to đọng đặc lại. Kế tiếp lại có thứ gió tên gọi là Thiện Tịnh Quang Minh, gió này thành lập các Thiên cung thuộc cõi Sắc. Trước tiên cõi Tam Thiền được thành lập, thứ đến cõi Nhị Thiền, thứ nữa đến cõi Sơ Thiền. Kế tiếp lại có thứ gió tên gọi là Tịnh Quang Minh Trang Nghiêm, gió này thành lập các cung điện của Không cư Thiên thuộc cõi Dục. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Kiên Mật Vô Năng Hoại, gió này thành lập các Luân Vi sơn lớn nhỏ và Kim Cang sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên Thắng Cao, gió này thành lập các núi Tu Di. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Bất Động, gió này thành lập mười loại núi lớn là: núi Khê Đà La, núi Tiên Nhơn, núi Phục Ma, núi Đại Phục Ma, núi Trì Song, núi Ni Dân Đà La, núi Mục Chơn Lân Đà, núi Ma Ha Mục Chơn Lân Đà và Hương sơn, Tuyết sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên là An Trụ, gió này thành lập các miền đại địa của Đại Thiên giới. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Trang Nghiêm, gió này thành lập các cung điện của Địa cư Thiên, cung điện Long vương và thần Càn thát bà. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Vô Tận Tạng, gió này thành lập tất cả biển lớn của cõi Đại Thiên. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Phổ Quang Minh Tạng, gió này thành lập các báu Ma Ni của Đại Thiên thế giới. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Kiên Cố Căn, gió này thành lập tất cả các cây Như ý. Như thế do nghiệp duyên của chúng sanh không đồng, nên tự nhiên nổi lên những thứ gió sai biệt để tạo thành các cõi sai biệt.

(Đoạn thành lập các núi trên đây là trích dẫn theo kinh Hoa Nghiêm) xin lược dẫn thêm một đoạn trong luận Du Già Sư Địa để học giả so sánh: Bấy giờ giữa hư không lại nổi lên các Giới tạng vân. Do những ánh mây này, có nhiều thứ mưa to đổ xuống, nước mưa đều y trụ trên Kim tánh địa luân. Kế đó lại có gió mạnh khởi lên cổ động làm cho nước thành những chất đặc. Các chất tinh diệu bậc thượng hợp thành núi Tu Di. Núi này khi hoàn thành, thể chất của nó là bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Những chất đặc bậc trung, kết thành bảy núi vàng như: núi Trì Song, núi Trì Trục, núi Chiêm Mộc, núi Thiện Kiến, núi Mã Nhĩ, núi Tượng Nhĩ, núi Trì Địa. Bảy dãy núi này an lập theo thứ lớp và đều vây quanh núi Tu Di. Những chất đặc bậc hạ kết thành bốn đại châu, tám trung châu, núi Thiết Vi, cung điện của hàng Phi Thiên, Long cung, Tuyết sơn, bờ núi bao quanh A Nậu Trì, các chánh ngục, biên ngục, và một phần biệt xứ của loài Ngạ quỷ, Bàng sanh. Cung điện của hàng Phi Thiên ở dưới chân núi Tu Di gần mé nước Long cung ở rải rác theo các Hương thủy hải, giữa bảy núi vàng. Trong các Long cung này có tám đại long vương, thọ lượng đồng một trụ kiếp. Tám Long vương ấy là: Trì Địa long vương, Mục Chơn Lân Đà long vương, Ý Mãnh long vương, Trì Quốc long vương, Đại Hắc long vương, Ế La Diệp long vương.

Tóm lại, kiếp thành là giai đoạn thế giới đang thành lập. Thời gian này kể có 20 tiểu kiếp.

2/ Kiếp trụ:

Trụ kiếp là gì? Ấy là thế giới đã thành, có thể khiến cho chúng sanh được an trụ mà thọ dụng. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tam Thiên Đại Thiên thế giới đã thành lập, khiến cho vô lượng chúng sanh được nhiều sự nhiêu ích: những loài thủy tộc được sự nhiêu ích của nước; những loài ở lục địa được sự nhiêu ích của đất; những loài ở cung điện được sự nhiêu ích của cung điện; những loài ở hư không được sự nhiêu ích của hư không.”

Khi thế giới mới vừa thành lập, đất như chất sữa đặc, có mùi vị thơm tho ngon đẹp. Lúc ấy hàng chư Thiên phước, mạng đều hết, từ cõi Trời Quang Âm hóa sanh xuống miền đại địa. Loại hữu tình này các căn đầy đủ, thân có ánh sáng, bay đi tự tại giữa hư không lấy sự hỉ lạc làm thức ăn, thọ số rất lâu dài. Bấy giờ thế giới không có mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thời tiết và ngày đêm, cũng không phân biệt ai là nam, nữ, sang, hèn mọi người gặp nhau chỉ gọi là "Tát đỏa, tát đỏa.” Khi đó các hữu tình hóa sanh thấy lớp địa tô trắng nhuyễn, lấy ngón tay chấm đưa vào lưỡi nếm thử. Nếm vài ba lần, cảm thấy thơm ngon, mùi vị đặc biệt, họ liền sanh lòng tham trước. Những kẻ nào ăn chất địa tô nhiều, thân thể lần lần thô phì, người ăn ít thì nhan sắc quang nhuận hơn. Do đó họ sanh tâm phân biệt tốt xấu hơn kém. Khi các hữu tình ấy tham nhiễm chất địa tô, thì thần thông ánh sáng và diệu sắc của thân thể cũng lần suy mờ và mất hẳn, thế giới trở nên tối tăm. Lúc đó các ngọn hắc phong thổi vào mặt biển, từ nơi đây phát hiện mặt trời, mặt trăng bay lên hư không soi sáng thế gian. Người thời bấy giờ thấy mặt trời mọc thì mừng, thấy mặt trời lặn thì lo lắng sợ hãi, từ đó mới có ngày đêm phân biệt. Khi loài người đã sanh lòng hơn kém thị phi, phước đức cũng suy giảm, chất địa tô biến thành địa bì, mùi vị kém hơn trước. Lần lần chất địa bì cũng diệt, sanh ra chất địa phu; chất địa phu lại diệt, biến ra chất địa phì, mùi vị như rượu bồ đào. Kế đó chất địa phì cũng mất, từ dưới đất mọc lên cây bồ đào trái ngon ngọt, nhơn loại hái thứ trái ấy mà ăn, ăn hết lại có trái khác sanh ra tiếp tục. Lần lần cây bồ đào thưa thớt không còn trái, từ dưới đất lại mọc lên thứ gạo không có vỏ thóc bên ngoài; thứ gạo này không cần gia vị mà vẫn có đủ mùi chất thơm ngon.

Bấy giờ loài người hóa sanh ăn thứ gạo thơm, còn lại cặn bã nơi thân, thể chất lại biến sanh ra đại, tiểu tiện đạo, hiện rõ căn hình nam nữ. Những kẻ tình nhiễm hơi nặng biến thành nữ nhơn, người tình nhiễm nhẹ hơn biến thành nam tử; hai bên đối nhau cười nói, dục niệm càng tăng, lần lần đi đến sự phối hợp và kết thành chồng vợ ở chung nhau. Từ đấy loài người sanh ra đều từ thai tạng của mẹ. Thứ gạo thơm thuở ấy dài độ bốn tấc, ban mai cắt chiều liền sanh, chiều cắt mai lại sanh, hạt nào hạt nấy đều chín mọng. Trong khi đó đôi kẻ sanh tâm lười biếng, họ cắt luôn thật nhiều, để dành ăn trong ba ngày, năm ngày, hoặc nhiều ngày. Những người kia trông thấy thế bắt chước làm theo, do nghiệp tham lam phóng dật ấy, gạo lần lần sanh ra vỏ thóc, khi cắt rồi không mọc lại liền như lúc trước. Trước cảnh trạng ấy, loài người buồn rầu khóc lóc, cùng nhau phân chia ranh giới của ruộng nương, mỗi gia đình đều tàng trữ lúa riêng, rồi ra sức gieo trồng để tự nuôi sống.

Thời gian sau, lại có kẻ tham lam lười biếng, không chịu gắng sức làm việc, lén cắt trộm lúa của người khác, nhân đó sanh ra sự tranh đấu lẫn nhau. Bấy giờ đại chúng họp lại lựa bậc có đức công cử lên làm điền chủ, với nhiệm vụ xử đoán việc phải quấy, trách phạt kẻ có tội, mỗi người đều trích bớt phần ăn của mình để thù đáp công lao của vị ấy. Đây là mầm móng xuất phát hàng vua chúa và giai cấp Sát đế lỵ về sau. Lúc đó lại có những kẻ thấy nhơn loại lần trở nên ô nhiễm xấu xa, sanh lòng thương xót yểm ly, bỏ vào núi tu hành, giữ hạnh trong sạch được mọi người tôn kính cúng dường. Đây là nguồn gốc của hàng xuất gia tu tịnh hạnh và giai cấp Bà la môn về sau. Lại có những kẻ học tập các kỹ nghệ, hoặc giúp việc cho người khác để tự mưu sanh. Đây là hàng thứ dân và tiện dân, cũng là nguyên ủy của hai giai cấp Phệ xá, Thủ đà la sau này.

Tóm lại, thời gian của kiếp trụ cũng gồm có hai mươi tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp khi tăng thạnh đều có bốn bậc Luân vương ra đời, lúc giảm cực đều có tiểu tam tai.

3/ Kiếp hoại:

Khi trụ kiếp đã mãn, thế giới bắt đầu hư hoại đây gọi là kiếp hoại. Sự hư hoại này có hai phương diện: thú hoại và giới hoại. Thú hoại là chỉ cho sự tiêu hoại của chúng sanh trong thất thú, tức là hữu tình giới. Lúc đó những chúng sanh nào có phước nghiệp liền được sanh về các tầng trời không tiêu hoại, hoặc sanh về các thế giới khác tương xứng với nghiệp của mình. Những chúng sanh nghiệp nặng, sau khi thân xác tiêu tan liền được chuyển sanh về ác đạo ở tha phương. Giới hoại là sự tiêu hoại của non sông vạn vật, tức là khí thế giới.

Về kiếp hoại lại có tướng đại tam tai là: hỏa tai, thủy tai và phong tai.

Khi hỏa tai sắp khởi, những chúng sanh có phước đức đều sanh lên cõi Nhị Thiền. Do nghiệp của loài hữu tình kế đó hắc phong nổi lên dữ dội, khởi thỉ có hai mặt trời hiện ra, làm cho nước ở các ao hồ rạch nhỏ đều khô cạn. Kế tiếp có ba mặt trời hiện ra, làm cho nước ở các sông lớn đều khô cạn. Kế lại có bốn mặt trời hiện ra, làm cho nước ở A Nậu Trì (Vô nhiệt trì) khô cạn. Khi năm mặt trời hiện ra biển lớn đều khô; sáu mặt trời hiện ra núi non đất liền bốc cháy khói lên ngùn ngụt; bảy mặt trời hiện ra núi Tu Di sập đổ, chư Thiên trời lục dục thảy đều mạng chung, sức lửa hủy hoại cả Dục giới và tầng Sơ Thiền của Sắc giới. Lúc ấy từ cõi Trời Quang Âm trở xuống, vạn vật đều thành tro bụi, chư Thiên mới hoá sanh lên đây thấy cảnh tượng chưa từng có ấy, đem lòng sợ hãi. Các Thiên tử cựu trụ đến an ủi rằng: "Chư vị chớ lo sợ, kiếp lửa không thể tiêu hủy được cõi này.”

Khi thủy tai nổi lên, những chúng sanh có phước đức đều sanh trước lên cõi Tam Thiền. Do nghiệp lực của loài hữu tình, Tam Thiên thế giới nổi lên cơn mưa mãnh liệt. Từ cõi Tam Thiền trở xuống, cung điện chư Thiên, núi Tu Di, thất kim sơn, tứ đại châu đều ẩn hình trong biển nước. Cả cõi Dục và tầng Sơ Thiền, Nhị Thiền của Sắc giới đều bị sức nước xung phá tiêu tan. Ví như một khối muối to bỏ xuống nước bị tiêu tan thế nào những sắc chất của cõi này cũng bị tiêu tan như thế ấy.

Khi phong tai nổi lên, những chúng sanh có phước đức đều sanh trước lên cõi Tứ Thiền. Do nghiệp lực của loài hữu tình, có cơn gió mãnh liệt tên là Đại tăng già nổi lên. Từ cõi Tứ Thiền trở xuống, cung điện chư Thiên, núi non, tất cả các sắc chất đều va chạm nhau tan nát như vi trần trong sức quay cuồng dữ dội của gió. Nói chung, phong tai tiêu hoại đồng thời tất cả trời Tam Thiền, Nhị Thiền, Sơ Thiền, và 1.000.000.000 cõi Dục của Đại Thiên thế giới.

Đại tam tai không phải đồng thời khởi lên trong một đại kiếp. Như đại kiếp thứ nhất bị hỏa tai tiêu hoại, đến đại kiếp thứ tám mới bị thủy tai tiêu hoại, cứ bảy lần hỏa tai có một lần thủy tai, bảy lần thủy tai mới có một lần phong tai. Đại tam tai tuần hoàn 64 lần trong một kiếp vận, nếu đại kiếp thứ nhứt bị hỏa tai tiêu hoại, đến đại kiếp thứ 64 mới có phong tai tiêu hoại thế giới. Như thế trong một kiếp vận (64 đại kiếp), có 56 lần đại hỏa tai, 7 lần đại thủy tai, 1 lần đại phong tai.

Hiển Tông Luận nói: "Chư Thiên cõi Sơ Thiền do sức phiền não vi tế của tâm sở tầm, từ bên trong, nên chiêu cảm hỏa tai bên ngoài. Chư Thiên cõi Nhị Thiền do sức nhuận trạch của tâm khinh an, hoan hỉ bên trong, nên chiêu cảm thủy tai bên ngoài. Chư Thiên cõi Tam Thiền do sức dao động của tâm lạc thọ bên trong, nên chiêu cảm phong tai bên ngoài. Bậc Sơ Thiền vì có đủ ba tai nạn bên trong, nên phải thọ ba tai nạn bên ngoài. Bậc Nhị Thiền vì có hai tai nạn (thủy, phong tai) bên trong, nên phải thọ hai tai nạn bên ngoài. Bậc Tam Thiền vì có một tai nạn (phong tai) bên trong, nên phải thọ một tai nạn bên ngoài.” Cứ theo đây mà xét thì trong thời kỳ hỏa tai cũng có thủy tai và phong tai, nhưng thế lực của nước và gió kém hơn lửa, nên chỉ kể phần lửa là đại hỏa tai. Trong thời kỳ thủy tai cũng có hỏa tai và phong tai, nhưng thế lực của lửa và gió kém hơn nước, nên chỉ kể phần nước là đại thủy tai. Trong thời kỳ phong tai cũng có hỏa tai và thủy tai, nhưng thế lực của lửa và nước kém hơn gió, nên chỉ kể phần gió là đại phong tai. Hỏa tai phá hoại đến cõi Sơ Thiền, thủy tai phá hoại đến cõi Nhị Thiền, phong tai phá hoại đến cõi Tam Thiền. Tạp Tâm Luận nói: "Bậc Tứ Thiền không có lửa giác quán như Sơ tịnh lự, không có nước hoan hỷ như Nhị tịnh lự, không có gió lạc thọ như Tam tịnh lự nên không bị tam tai làm hại. Vì thế cõi Tứ Thiền vĩnh viễn không tiêu hoại. Nhưng đệ Tứ Thiền chưa được gọi là chân thường vì định cảnh này không vĩnh viễn tương tục khi sức định đã mòn thế lực của nó phải tiêu tan. Vì thế cõi Tứ Thiền tuy không bị tam tai, nhưng còn bị sự sanh diệt Vô thường làm hư hoại. Tướng hư hoại ấy như thế nào? Như khi vị Thiên tử cõi Tứ Thiền mới hóa sanh, cung điện và bao nhiêu y báo tùy thân cũng đồng thời hiện; khi họ mạng chung y báo riêng cũng đồng thời tiêu diệt.

Trên đây là tướng trạng chung về sự tiêu hoại của thế giới. Mỗi lần thế giới hoại diệt đều trải qua một thời gian là 20 tiểu kiếp. Tóm lại các tướng hữu vi là pháp sanh diệt, ba cõi đều Vô thường, hàng Phật tử không nên tham trước. Cổ đức đã bảo "Lục dục còn mang tướng ngũ suy, Tam Thiền chưa khỏi với phong tai. Dù cho Tu đến Phi phi tưởng. Cũng chẳng bằng lên Bát nhã đài.”

4/ Kiếp không:

Sau khi đã trải qua đại tai, vạn vật đều tiêu tan, chỉ còn một khoảng không gian vô hình. Trạng thái này kéo dài 20 tiểu kiếp mới qua giai đoạn thành lập của thế giới tương lai. Thời kỳ trống không ấy gọi là không kiếp. Không kiếp không có ngày đêm thời tiết, làm sao mà biết được là trải qua 20 tiểu kiếp. Đây là do Trí tuệ vô ngại của Phật thấy suốt mười phương, so sánh với các cõi Trời không hư hoại và trụ của thế giới phương khác, nên biết rõ thời gian ấy trải qua 20 tiểu kiếp.

Như một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông; một đại kiếp phải trải qua bốn kiếp tướng là thành, trụ, hoại, không, liên tục không dứt. Thời tiết hết đông kế sang xuân, kiếp tướng hết thời kỳ trống không lại qua thời kỳ thành lập. Đối Pháp Luận nói: "Như suốt qua phương Đông có vô lượng thế giới, các cõi ấy hoặc sắp thành, hoặc đang hoại, hoặc đang thành, hoặc đã thành rồi trụ, hoặc đã hoại rồi không. Cũng thế, vô biên quốc độ ở mười phương sanh diệt theo bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không, liên tục không dứt. Chánh báo và y báo ở mười phương thế giới có xấu, đẹp, sạch, dơ, đều do đồng nghiệp của chúng sanh mà cảm hiện.” Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: "Ví như lá trong rừng có non, già, khô, rụng, thế giới trong các sát chủng cũng có thành, trụ, hoại, không.”

Tiết IV: Ba Đại Kiếp Của Cõi Ta Bà.

Trong một đại kiếp, ba trung kiếp thành, hoại, không đều không có chúng sanh ở. Khí thế giới, và hữu tình giới duy thể hiện đầy đủ trong kiếp trụ. Cứ theo ba thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai thì đại kiếp vừa qua tên là Trang Nghiêm, đại kiếp hiện nay gọi là Hiền hay Thiện Hiền, đại kiếp sẽ đến tên là Tinh Tú. Trong ba đại kiếp này, mỗi kiếp đều có 1.000 vị Phật ra đời vào trung kiếp trụ.

Sao gọi là kiếp Trang Nghiêm? Kinh Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật Danh nói: "Đại kiếp của thời quá khứ tên là Trang Nghiêm. Trong kiếp này có 1.000 đấng Chánh giác ra đời, vị đầu tiên là Hoa Quang Như Lai, vị sau rốt là Tỳ Xá Phù Phật. Vì một ngàn đức Thế Tôn ra đời làm cho y báo và chánh báo của kiếp này được trang nghiêm, nên gọi là Trang Nghiêm kiếp.”

Sao gọi là kiếp Hiền hay Thiện Hiền? Từ Ân Kiếp Chương nói: "Kiếp hiện tại tên là Hiền Kiếp vì có ngàn đức Phật ra đời và rất nhiều bậc Hiền Thánh.” Trong kinh Bi Hoa có đoạn nói: "Thế giới của đức Phật ấy gọi là Ta bà, đang ở vào đại kiếp tên là Thiện Hiền. Vì trong đại kiếp này có 1.000 đức Thế Tôn đã thành tựu đại bi tâm, xuất hiện ra đời.

Sao gọi là kiếp Tinh Tú? Phật Tổ Thống Kỷ nói: "Đại kiếp của thời vị lai gọi là Tinh Tú. Trong kiếp này có 1.000 đấng Điều Ngự ra đời, vị đầu tiên là Nhật Quang, vị sau rốt là Tu Di Tướng. Một ngàn vị Phật xuất hiện sáng rõ như các ngôi sao lớn trên trời, nên gọi kiếp sẽ đến là Tinh Tú Kiếp.

Trên đây đã nói lược qua về ba đại kiếp theo ba thời gian, kế tiếp xin kể thêm một vài chi tiết trong kiếp hiện tại của chúng ta đang là Hiền Kiếp.

Trong Hiền Kiếp có 1.000 đức Phật ra đời, vị đầu tiên thành danh Câu Lưu Tôn, vị sau rốt hiệu là Lâu Chí. Về túc nhân của 1.000 đấng Thế Tôn, kinh Hiền Kiếp đã nói: "Đời quá khứ lâu xa về trước, có Phật hiệu là Vô Lượng Tinh Tấn Như Lai ra đời. Thuở ấy, một ngàn người con của vua Đức Hoa nghe Phật thuyết pháp, liền phát tâm Bồ đề, tu theo chánh đạo. Một ngàn vương tử đó, chính là ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp này vậy." Đại Kiếp Thiện Hiền hiện nay, chư Phật đều ra đời trong kiếp trụ. Trong hai mươi tiểu kiếp của kiếp trụ, tám tiểu kiếp trước không có Phật ra đời. Đến tiểu kiếp thứ chín, lúc nhơn thọ giảm còn sáu muôn tuổi, khởi thỉ có đức Phật Câu Lưu Tôn xuất hiện. Khi nhơn thọ giảm xuống còn bốn muôn tuổi, có Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất hiện; Khi nhơn thọ giảm xuống còn hai muôn tuổi, có Phật Ca Diếp xuất hiện; nhơn thọ giảm xuống còn 100 tuổi, có Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện. Như thế trong tiểu kiếp thứ chín có bốn vị Phật ra đời. Sang tiểu kiếp thứ mười lúc nhơn thọ từ 84.000 giảm còn 80.000 tuổi, có Phật Di Lặc ứng thế độ sanh. Từ tiểu kiếp thứ 11 đến tiểu kiếp thứ 14, trong thời gian này không có Phật ra đời. Qua tiểu kiếp thứ 15, có 994 vị Phật nối nhau xuất thế. Trong bốn tiểu kiếp thứ 16, 17, 18, 19 không có Phật ra đời. Đến tiểu kiếp thứ 20, lúc nhơn thọ 84.000 tuổi đức Lâu Chí Như Lai xuất thế, thuyết pháp độ sanh. Sau khi Phật Lâu Chí Niết bàn, mãn tiểu kiếp cuối cùng, thế giới này bắt đầu vào giai đoạn tiêu hoại để chuyển sang sự thành lập của kiếp Tinh Tú tương lai.

Phật giáo đồ khi sám hối, có vị lễ Tam Thiên Phật, đó chính là lạy 3.000 đức Thế Tôn trong ba đại kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai. Về sự ứng thế trước sau của 3.000 vị Phật, có bài kệ tổng quát rằng:

Trang Nghiêm Hoa Quang, Tỳ Xá Phù

Hiền Kiếp Câu Lưu, Lâu Chí Phật

Tinh Tú, Nhật Quang, Tu Di Tướng

Như thế, chư Phật độ chúng sanh.


Chương V: Từ Đức Thích Ca Đến Phật Di Lặc.

+ Tiết Mục:

I. Phật pháp trong ba thời kỳ

II. Phật pháp trong năm thời kỳ

III. Những lời huyền ký về thời mạt kiếp

IV. Đức Từ Thị và hội Long Hoa

+ Kinh sách tham khảo:

Tam Tạng Ký Lục,

Nhơn Vương Kinh Sớ,

Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng,

Tân Bà Sa Luận,

Kinh Đại Bi,

Kinh Ma Ha Ma Da,

Kinh Pháp Diệt Tận,

Kinh Di Lặc Hạ Sanh,

Kinh Trường A Hàm,

An Sĩ Toàn Thơ,

Thái Hư Toàn Thơ.

+ Đề yếu: Muôn vật giữa đời, có thạnh tất có suy, dù cho đạo pháp của Phật cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo là do con người chớ không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam tạng kinh điển đầy đủ hơn xưa, nhưng sở dĩ gọi là Mạt pháp, vì con người kém đạo đức căn lành không giữ đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: "Nhơn năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhơn", chính là ý này, "Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở mang cho người", câu này chỉ có ý nghĩa phiến diện.”

Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, thì hiện tại là thời Mạt pháp; thuyết ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ đây về sau, cứ đúng theo thật tế mà nói, Phật pháp có ở trong tình trạng tiệm suy, nếu có vùng dậy cũng chỉ trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh hưởng bên ngoài. Vậy, nhứt là hàng Phật tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu, để duy trì pháp vận, lợi ích thế gian, và phải làm với hết sức của mình. Tuy nhiên, hết thạnh rồi suy, hết suy lại thạnh, Phật Thích Ca đã nhập diệt, đức Di Lặc sẽ kế tiếp giáng sanh, nên chung qui Chánh pháp vẫn là bất diệt, chẳng qua chỉ tạm ẩn để phục hưng đấy thôi.

Những vị muốn được dự vào Long Hoa tam hội, nên kết duyên bằng cách quy kính hộ trì Tam bảo và thiết thật hành thiện ngay trong lúc này.

Tiết I: Phật Pháp Trong Ba Thời Kỳ.

Khi một đức Phật ra đời rồi nhập diệt, đạo pháp của vị giáo chủ ấy được chia thành ba thời kỳ là: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Về pháp vận của đức Thích Ca, tham khảo trong ba tạng, các kinh, luật, luận đều nói có hai thời chánh và tượng; luận Câu Xá, kinh Tạp A Hàm duy nói một thời Chánh pháp; riêng kinh Đại Bi là nói đủ ba thời mà thôi.

Về vấn đề trên, các kinh luận ghi chép cũng không đồng, đại khái có bốn thuyết:

1. Chánh pháp 1.000 năm, Tượng pháp 1000 năm, Mạt pháp 10.000 năm, là thuyết của kinh Đại Bi. Kinh Tạp A Hàm nói Chánh pháp 1.000 năm, Luật Thiện Kiến nói Chánh, Tượng đều 1000 năm; hai bộ kinh và luật này tuy một không đề cập đến tượng, mạt, một không nói về Mạt pháp, song đại lược cũng đồng với thuyết của kinh Đại Bi.

2. Chánh pháp 500 năm, Tượng pháp 500 năm, là thuyết của kinh Đại thừa Tam Tụ Sám Hối.

3. Chánh pháp 1000 năm, Tượng pháp 500 năm, là thuyết của kinh Bi Hoa.

4. Chánh pháp 500 năm, Tượng pháp 1000 năm, là thuyết của các kinh: Đại Tập Nguyệt Tạng, Hiền Kiếp, Ma Ha Ma Da. Cổ lai, các bậc danh đức Phật giáo bên Trung Hoa đều thể dụng thuyết Chánh pháp 500 năm, Tượng pháp 1000 năm, và y cứ theo kinh Đại Bi thêm vào phần Mạt pháp 10000 năm.

Sao gọi là Chánh, Tượng và Mạt pháp? Sở dĩ nói Chánh pháp, vì "chánh" có nghĩa là "chứng.” Trong thời kỳ này, đức Thế Tôn tuy đã nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa cải, có giáo lý, có kẻ hành trì, có nhiều người chứng quả. Nói Tượng pháp, vì "tượng" có nghĩa "tương tợ", tức là mường tượng. Trong thời kỳ này đạo hóa chỉ còn mường tượng, pháp nghi lệch lạc, tuy có giáo lý, có người hành trì, nhưng rất ít kẻ chứng đạo. Nói Mạt pháp, vì "mạt" hàm ý "vi mạt", nghĩa là mong manh nhỏ nhiệm, như chót đầu lông chim nhỏ, như hạt bụi điểm sương. Trong thời kỳ này đạo hóa suy vi, tuy có giáo lý, song rất ít kẻ hành trì đúng pháp, huống chi là chứng đạo? Nhơn Vương Kinh Sớ nói: "Có giáo lý, có hành trì, có quả chứng, gọi là Chánh pháp. Có giáo lý, có hành trì không quả chứng, gọi là Tượng pháp. Có giáo lý, không hành trì, không quả chứng, gọi là Mạt pháp. Thật ra, thời Tượng pháp chẳng phải là không có quả chứng, song bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời, khó tìm khó gặp; thời Mạt pháp chẳng phải là không có người hành trì, song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có, nên mới gọi là không hành trì.

Trên đây là thuyết minh đại lược ba thời kỳ Chánh, Tượng, và Mạt pháp của đức Thích Ca Mâu Ni. Dẫn ra đoạn này, không phải bút giả cố ý gây quan niệm chán nản tiêu cực cho hàng Phật tử; nhưng ngoài sự trình bày để người học Phật biết thế nào là Chánh, Tượng, Mạt, còn nói lên lời nhắc nhở đồng nhơn nên nhìn vào thật hạnh, đừng để cho pháp đã mạt lại càng thêm mạt.

Tiết II: Phật Pháp Trong Năm Thời Kỳ.

Theo Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, sau khi đức Thế Tôn Niết bàn, Phật pháp sẽ diễn biến qua năm thời kỳ, từ thạnh đến suy. Năm thời ấy gọi là Ngũ kiên cố, mỗi giai đoạn là 500 năm. Hai chữ kiên cố trong đây, ý nói tùy mỗi thời, nghiệp duyên và tâm niệm của chúng sanh hướng theo mỗi chiều huớng một cách bền chắc, ví như gốc cây to rễ bám đã sâu, khó nhổ lên hoặc xô cho lay chuyển. Danh từ kiên cố này, các kinh luận khác cũng thường dùng, như kinh Pháp Hoa có câu: "Diệu Quang giáo hóa nay kiên cố.” Năm thời kiên cố như sau:

1. Giải thoát kiên cố: Sau khi đức Thế Tôn Niết bàn, trong 500 năm đầu tiên, đệ tử của Phật có nhiều vị chứng quả, được vào cảnh an vui Giải thoát. Thời kỳ này các phương diện học, tu, chứng đều thạnh, hành nhơn hiểu sâu lẽ mầu, giữ gìn giới hạnh, một trăm người tu có đến sáu bảy mươi vị đắc đạo. Bấy giờ trong nhơn gian đầy dẫy những bậc Thánh hiền.

2. Thiền định kiên cố: Sang 500 năm thứ hai, hàng Phật tử xuất gia, tại gia tuy ít kẻ chứng đạo như thời gian trước, song phần nhiều đều thật hành đúng theo lời Phật dạy, đi sâu vào cảnh giới Thiền định. Giai đoạn này, trong một trăm người tu, có được sáu bảy người chứng đạo.

3. Đa văn kiên cố: Qua 500 năm thứ ba, đạo căn của chúng sanh đã cạn cợt hơn trước, người tu Phật đa số chỉ thích học rộng nghe nhiều; các phương diện diễn dịch kinh sách, biện luận đạo lý được thạnh hành khắp nơi. Lúc này kẻ thiết thật cầu Giải thoát thâm nhập Thiền định, còn ít có người, huống chi là chứng quả. Tuy nhiên, trong muôn ức người tu, cũng có đôi ba bậc đắc đạo.

4. Tháp tự kiên cố: Sang 500 năm thứ tư, Phật giáo đồ phần nhiều hướng về việc cất chùa, xây tháp, bố thí, tụng kinh để cầu phước báo; về phương diện văn tự rất ít có người, huống nữa là tu? Thuở xưa, cũng vào khoảng thời gian này, bên Trung Hoa có một bậc cao Tăng là Tĩnh Công. Sau khi Ngài Tham thiền ngộ đạo, một vị tôn túc bảo rằng: "Ngày kia ông ra hoằng hóa, dưới tòa có đến 1000 tăng chúng, song không kẻ nào là bậc xuất gia.” Quả nhiên, sau Tĩnh Công đáp lời yêu thỉnh của tiền công, về trụ trì một ngôi chùa, tăng chúng quy tụ đến số ngàn, song chỉ toàn là hạng tụng kinh để gieo căn lành phước báo ở tương lai, không có vị nào Tham thiền ngộ đạo. Cổ đức quan niệm rằng: nghĩa chân thật của "Xuất gia" là phải ra khỏi nhà Tam giới, hay ít nữa ra khỏi nhà phiền não, không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục vào cửa chùa, cạo tóc mặc áo cà sa là đủ. Cách bốn mươi năm về trước, những bạn đồng tham với Tĩnh Công, trong 1000 người cũng được bảy tám mươi vị đại ngộ; không ngờ qua một thời gian chẵng bao lâu mà lại có sự sai biệt dường ấy! Sự kiện này tương tợ các sông rạch gặp cơn nước kém, mỗi ngày mực nước mỗi thấp xuống; căn cơ của chúng sanh trong thời giảm kiếp cũng như vậy.

5. Đấu tranh kiên cố: Đến 500 năm thứ năm, nhơn loại vì ngã chấp nặng, tự ái nhiều, chẳng những ngoài đời thường xảy ra cảnh tượng tranh đua giết hại lẫn nhau, mà trong đạo cũng lắm kẻ chen lấn trên đường danh nẻo lợi. Giai đoạn này, hàng đệ tử Phật tuy nhiều, song đối với Tam tạng kinh điển ít người tin hiểu sâu, ít ai thiết thật vì đạo, đi đúng với đạo trên phương diện tự lợi lợi tha. Kinh Kim Cang nói: "Năm trăm năm rốt sau" chính là thời kỳ này.

Trong An Sĩ Toàn Thơ có đoạn nói về tình trạng hơn kém của phước báo xưa và nay như sau: "Con người do có đức nên mới được hưởng phước, nếu đức đã giảm thì tất cả đều giảm. Chẳng hạn như: thọ số lần lần giảm, phước báo lần lần suy, ngũ cốc lần lần mất mùa, bảy báu lần lần ẩn một, y thực lần lần khó khăn, dung mạo lần lần thô xấu, tư bẩm lần lần tối tăm, tinh thần lần lần bại nhược, phong hóa lần lần hoang sơ, thân tộc lần lần bất hòa, sưu thuế lần lần cao nặng, tai nạn nước lửa trộm giặc lần lần thêm nhiều, người lành lần lần điêu tàn, kẻ ác lần lần tăng thạnh, tà đạo lần lần phát hưng, Phật pháp lần lần hư phế. Lấy một ít việc để suy nghiệm: như thời xưa vào đời nhà Châu, Võ vương thọ 93 tuổi, vua Thuấn thọ 110 tuổi, vua Nghiêu thọ 117 tuổi. Trước vua Nghiêu, vua Đế Cốc ở ngôi 70 năm, vua Chuyên Húc ở ngôi 78 năm, vua Thiếu Hạo ở ngôi 84 năm, vua Huỳnh Đế ở ngôi 100 năm, vua Diêm Đế ở ngôi 140 năm. Thời gian tại vị mà còn dài như thế, thọ số tất cao biết dường nào! Thế thì thuyết nhà Phật nói thọ lượng nhơn loại lúc cực tăng được 84.000 tuổi, khi vào giảm kiếp qua 100 năm bớt một tuổi, không phải là việc hoang đường. Cho nên Hàn Dũ dâng biểu tâu nói thời xưa không có Phật mà nhơn loại sống lâu, đời nay có Phật mà Thiên hạ chết yểu, là bởi ông ta chưa rõ thuyết giảm kiếp của nhà Phật. Đức Thích Ca ra đời lúc nhơn thọ giảm còn 100 tuổi, thuở ấy nhằm thời đại Châu Chiêu vương của Trung Hoa. Bấy giờ thọ số con người thường trên dưới 100 tuổi nên theo pháp chế nhà Châu, trai gái đến 30 tuổi mới được phép có chồng vợ. Từ đời Châu Chiêu vương đến nay đã gần 3000 năm, thọ số con người chỉ trên dưới thất tuần, trai gái mới 13, 14 tuổi đã sớm nghĩ đến đường tình ái. Lại có người khai phát những mộ cổ từ đời nhà Tùy, Đường trở về trước, thấy xương của người xưa to lớn, so với người thời nay cao hơn độ hai thước (thước Trung Hoa). Thế thì thuyết "khi nhơn thọ cao, sắc thân của loài người tùy theo thọ số mà cao lớn" cũng không phải là điều huyễn hoặc. Về trân bảo, như thuở đời Hạ, Thương, Châu, khi các vương hầu tống tặng nhau, thường sắm lễ vàng ròng mấy muôn lượng, ngọc bạch bích mấy trăm đôi, chưa từng dùng thuấn bạch kim. Đến đời nhà Hán mới xen dùng bạch kim, những thứ ngọc dạ quang ánh sáng chiếu xa đôi mươi cỗ xe, các nước nhỏ đều có. Đến nay thì vàng bạc là vật quí báu hi hữu, người ta lại pha chế sen đồng đỏ vào; đây là triệu chứng bảy báu lần lần ẩn một vậy. Thuở xưa quốc khố chứa không đủ lương tiền chi dụng trong mười năm gọi là "bất túc", chứa không đủ lương tiền chi dụng trong sáu năm gọi là "cấp.” Đời nay cầu cái "cấp" còn không được; ấy chẳng phải triệu chứng sự thọ dụng về ăn mặc lần lần khó khăn là gì? Thời xưa các bậc vương hầu còn đến núi rừng thôn dã để cầu hiền, hoặc kết giao với người đạo đức; hàng khanh tướng tuy sang trọng, nhưng không có công lớn chẳng dám ngồi xe quí. Người đời nay vừa được chút quan tước đã coi rẻ bạn bè, xem thường làng xóm, cho đến trẻ không kính già, trò ngang ngổ với Thầy. Đây là triệu chứng phong hóa lần lần hoang sơ, đồi trụy. Thuở xưa các bậc cao Tăng có khi vua mời không đến, vua xuống chiếu thơ cầu thỉnh tất xưng tặng như bậc Thầy; nên Ngài Huyền Trang tịch mà vua Cao Tôn bái triều ba ngày, và các bậc hiền vương hoặc thường giá lâm đến chùa, hoặc thỉnh pháp nơi nội điện. Đời nay hàng sĩ thứ thấy tượng Phật không lễ, gặp bậc cao Tăng không chào; ấy cũng bởi bên trong ít người đạo đức, bên ngoài nhiều kẻ ngạo kiêu. Đây chính là triệu chứng Phật pháp lần lần điêu phế vậy.

Tóm lại, năm thời kiên cố đi theo chiều kiếp giảm, nên căn lành của chúng sanh càng ngày càng kém. Phước đức căn lành của nhơn loại càng kém, thì trong đạo càng ngày ít bậc cao Tăng, ngoài đời càng ngày thêm nỗi đảo điên tai nạn. Cảm tác cảnh thanh tu Giải thoát của người xưa, Bát Chỉ Đầu Đà đã có câu: "Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định. Tùng chi nguyệt lãnh hạt sơ hoàn.” (Giường lau đèn tối tăng vào định. Trăng lạnh cành thông bóng hạt về). Trong tăng giới ngày nay, khó tìm được phong độ tiêu sái ấy. Gần đây, Hư Vân Thiền sư xuất thần lên cung trời Đâu Suất, được nghe Di Lặc Bồ tát nói pháp Duy tâm thức định; sau cùng Bồ tát thuyết kệ trong ấy có câu: "Kiếp nghiệp đương đầu. Cảnh tích phổ giác.” Đại ý của hai câu này, Bồ tát bảo Ngài Hư Vân: "Dưới trần thế đang ở trong giai đoạn khởi đầu của tam tai tiểu kiếp. Vậy ngươi hãy trở về nhắc nhở khuyên mọi người nên giác ngộ, cố gắng tu hành.” Tần Bà Sa Luận nói: "Nếu kẻ nào Thọ giới bất sát đúng pháp trong một ngày đêm, sẽ được tránh khỏi tai nạn đao binh ở tương lai. Nếu kẻ nào đem lòng ân cần trong sạch dùng một trái Ha lê lặc cúng dường chư Tăng, sẽ không gặp tai nạn tật dịch ở tương lai. (Ha lê lặc là thứ trái có thể trị bịnh, người muốn tịnh thí có thể dùng thuốc men để thay thế). Nếu kẻ nào sanh tâm bi mẫn, dùng một nắm cơm bố thí cho loài hữu tình, quyết định không gặp tai nạn cơ cẩn ở tương lai.”

Những ai muốn chủng phước duyên, tránh tam tai tiểu kiếp, nên thật hành các hạnh lành như trên. Và muốn cho kiếp nạn được tiêu giảm, không chỉ sức của một đôi người, mà tất cả mọi người phải đồng tâm hướng thiện.

Tiết III: Những Lời Huyền Ký Về Thời Mạt Kiếp.

Khi đức Thế Tôn sắp Niết bàn, Ngài có huyền ký tình trạng trong đời Mạt pháp và lúc Chánh pháp sắp diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật tử xuất gia tại gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.

Trong kinh Đại Bi, đức Phật bảo: "Này A Nan! Khi ta Niết bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo Chánh pháp, lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng sanh phỉ báng Chánh pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều Tỳ kheo đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm. Cho nên, A Nan! Đối với những vị xuất gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thật hành đạo Từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều này! Tại sao thế? Vì trong cõi ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: đói, khát, giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân duyên làm cho chúng sanh bị xúc não. A Nan! Lúc bấy giờ có các hàng Trưởng giả, cư sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo Phật pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng chung họ được sanh về Thiên đạo, hưởng các điều vui. Còn các Tỳ kheo ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất gia; nhưng sau khi xuất gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào ác đạo...

Kinh Đại Tập nói: "Trong đời Mạt pháp, có những vua, quan, cư sĩ, ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”

Kinh Ma Ha Ma Da nói: "Khi đấng Nhứt Thế Trí vào Niết bàn rồi, một trăm năm sau, có Tỳ kheo Ưu Ba Cúc Đa, đủ tài biện thuyết như Phú Lâu Na, độ vô lượng chúng. Hai trăm năm sau, có Tỳ kheo Thi La Nan Đà, khéo nói pháp yếu, độ mười hai ức người trong châu Diêm Phù. Ba trăm năm sau, có Tỳ kheo Thanh Liên Hoa Nhãn thuyết pháp độ được nữa ức người. Bốn trăm năm sau, có Tỳ kheo Ngưu Khẩu thuyết pháp độ được một vạn người. Năm trăm năm sau có Tỳ kheo Bảo Thiên thuyết pháp độ được hai vạn người, và khiến cho vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đến đây thời kỳ Chánh pháp đã chung mãn. Sáu trăm năm sau, 96 thứ ngoại đạo phục hưng, nhiều tà thuyết nổi lên phá hoại Chánh pháp. Lúc ấy có Tỳ kheo Mã Minh ra đời, dùng tài huệ biện hàng phục ngoại giáo. Bảy trăm năm sau, có Tỳ kheo Long Thọ ra đời, dùng sức chánh trí xô ngã cột phướn tà kiến, đốt sáng ngọn đuốc Phật pháp. Tám trăm năm sau, hàng xuất gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi buông lung, trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc đạo. Chín trăm năm sau, trong giới Tăng Ni, phần nhiều là hạng nô tỳ bỏ tục xuất gia. Một ngàn năm sau, các Tỳ kheo nghe nói pháp bất tịnh quán, pháp sổ tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người chỉ có ít người được vào chánh định. Từ đó về sau, lần lần hàng xuất gia hủy phá Giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của ngôi Tam bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con thì trai làm tăng, gái làm ni, chỉ còn số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương Chánh giáo. Khi áo cà sa của Tăng Ni biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng Phật pháp sắp diệt...”

Trong kinh Pháp Diệt Tận, đức Phật bảo: "Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các vị Bồ tát, Bích chi, La hán vì bản nguyện hộ trì Phật pháp, hiện thân làm Sa môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người. Khi có những vị Sa môn đạo đức như thế, các Tỳ kheo ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên. Từ đó các Tỳ kheo ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sanh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất gia làm Tăng Ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật pháp suy vi chính là do bọn này. Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nữa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết Giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết. Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô, để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỳ kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo.

Lúc Phật pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng sanh, mưa nắng không điều hoà, ngũ sắc hư hao tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư Thiên buồn thương rơi lệ.

Này A Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, bão lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường. Bấy giờ nếu có bậc Bồ tát, Bích Chi, La hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư Thiên hộ trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà sa của hàng Sa môn đổi thành sắc trắng, kinh Thủ Lăng Nghiêm và Bát Chu Tam muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.

Này A Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di Lặc ra đời giáo hóa chúng sanh.”

Tiết IV: Đức Từ Thị Và Hội Long Hoa.

Gần đây, có nhiều thuyết tuyên truyền nói không bao lâu hội Long Hoa sẽ mở, đức Di Lặc sẽ ra đời giáo hóa chúng sanh. Có người lại quả quyết rằng: độ chừng 40 năm nữa, sẽ có hội Long Hoa mở ra tại núi Cấm. Chẳng những ở Việt Nam, mà thời gian trước tại Trung Hoa cũng có thuyết ấy. Đó là do những người của các giáo phái khác không tham khảo chính xác về đạo Phật, nghe nói hội Long Hoa rồi phụ họa theo mà tuyên truyền, nếu có người thử hỏi ý nghĩa của hai chữ Long Hoa, không chừng họ chẳng hiểu nữa là khác! Cũng có giáo phái cố ý đem hội Long Hoa của đạo Phật làm của mình, nên mới sanh ra sự đồn đãi như trên. Xét ra họ được điểm tốt là khuyên mọi người cố gắng làm lành "để rồi gần đây sẽ gặp Di Lặc.” Nhưng cũng có điều lỗi lầm là đã vô tình hoặc cố ý làm sai lạc giáo thuyết trong kinh Phật.

Theo Phật giáo, đức Thích Ca ra đời lúc nhơn thọ còn 100 tuổi. Qua mỗi trăm năm thọ số con người bớt xuống 1 tuổi, giảm đến khi nhơn thọ còn 10 tuổi rồi lại tăng lần đến lúc 84.000 tuổi là mãn tiểu kiếp thứ chín của trụ kiếp. Sang tiểu kiếp thứ mười, lúc nhơn thọ từ 84.000 tuổi giảm còn 80.000 tuổi, đức Di Lặc mới ra đời. Từ khi Phật Thích Ca Niết bàn đến nay đã được 2.536 (DL. 1992), ta tạm kể chẳn là 2.500 năm, mức sống con người hiện thời 75 tuổi kể theo số niên kiếp tăng giảm, thì từ đây đến lúc đức Di Lặc ra đời còn 8.805.500 năm nữa. Lúc đức Di Lặc thành Chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây này là Long Hoa Bồ đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long Hoa pháp hội.

Theo kinh Di Lặc Hạ Sanh và Trường A Hàm, thì khi đức Di Lặc giáng sanh, nhơn thọ được tám muôn tuổi. Bấy giờ mực nước biển giảm xuống để lộ thêm 3.300 du thiện na đất liền, châu Nam Thiêm Bộ chu vi rộng được một vạn du thiện na. Dưới đây là một đoạn kinh tả cảnh tượng vui đẹp thanh bình trong lúc đó:

Thuở ấy nước giàu thạnh

Dân không bị hình phạt

Khỏi tất cả tai ách

Chúng nam nữ trong xứ

Đều do thiện nghiệp sanh.

Đất khắp nơi bằng phẳng

Không có những chông gai

Cỏ xanh tốt dịu mềm

Đi êm như bông nệm

Ngoài nội mọc lúc thơm

Đủ hương vị ngon lạ.

Các cây sanh y phục

Mọi vẻ đều tươi sáng

Cây cao ba câu xá

Hoa trái thường sung mãn.

Bấy giờ người trong nước

Đều sống tám muôn tuổi

Không có các tật bịnh

Tướng mạo rất xinh đẹp

Sắc lực đều đầy đủ

Tâm hằng được an vui

Khi biết mình mệnh chung

Đến Thi lâm xả thọ.

Chỗ Luân vương đóng đô

Là thành Diệu Tràng Tướng

Dọc mười hai do tuần

Bảy do tuần ngang rộng.

Những kẻ ở trong đó

Đều đã chủng nhân mầu

Đây là nơi phước địa

Người hưởng cảnh nhàn vui

Lâu đài để trấn quốc

Bằng bảy ngõ trong ngoài

Đều trang nghiêm mỹ lệ

Những hào lũy quanh thành

Cũng xây bằng chất báu

Hoa tươi khắp bốn bề

Chim lành bay đậu hót

Ngoài thành cây Đa la

Đủ bảy vòng bao bọc

Lưới đẹp cùng linh ngọc

Giăng nối các hàng cây.

Mỗi cơn gió thoảng qua

Tiếng linh khua thanh diệu

Dường như nhạc bát âm

Khiến lòng người vui vẻ.

Trong ngoài nhiều ao hồ

Trong hồ nhiều sen lạ

Vườn hoa cùng hương lâm

Trang nghiêm cảnh thành ấy...

Đại khái, nhơn loại thời đó đều xinh đẹp sống lâu, trai gái 500 tuổi mới có vợ chồng. Cảnh vật trong nước sáng sủa tốt tươi, không có các loài ruồi muỗi rắn rết độc trùng; gạch ngói sạn đều biến thành lưu ly. Con người thuở ấy không bị khổ vì chiến tranh, khỏi lo nhọc về ăn mặc. Tất cả đều hiền lành, tu mười nghiệp thiện, sau khi chết phần nhiều được sanh lên cõi Trời. Nhưng phước đức chưa được đầy đủ, nên bấy giờ loài người còn có những nghiệp tướng như: nóng, lạnh, đói, khát, tiểu tiện, đại tiện, tham dục, thích ăn uống, suy già. Tuy nhiên, do phước nghiệp, khi đại tiểu tiện xong, đất chỗ ấy nứt ra rồi khép lại che dấu uế vật, hoa sen đỏ liền ló lên tuôn ra mùi thơm đánh tan xú khí.

Vị luân vương thời đó tên là Hướng Khê. Vua cai trị bốn châu, có bảy báu, một ngàn người con và đủ cả bốn binh. Trong nước có bốn kho tàng lớn; mỗi kho chứa trăm vạn ức châu báu. Vị Quốc sư cũng chính phụ tướng đại thần đương triều là Thiện Tịnh Bà la môn, ông này có bà phu nhơn xinh đẹp tên là Tịnh Diệu. Di Lặc Bồ tát từ cõi Trời Đâu Suất giáng sanh làm con trai của vợ chồng Quốc sư. Bồ tát lúc sanh ra, có đủ 32 tướng tốt, thân hình đầy đặn, khuôn mặt đoan trang tươi sáng như trăng rằm, đôi mắt trong đẹp như cánh hoa sen xanh. Khi Bồ tát lớn lên, Ngài thông thuộc các nghề, kẻ tùy học được 84.000 người. Một năm nọ, vua Hướng Khê làm tràng Diệu bảo để mở hội thí vô già, các phạm chí vì giành giựt châu báu làm gãy nát bảo tràng. Bồ tát thấy thế ngộ lý Vô thường, xuất gia tu thành Phật, hiệu là Từ Thị Như Lai. Trong hội thuyết pháp đầu tiên, đức Từ Tôn độ được 96 ức người thành đạo quả; hội thứ hai độ được 94 ức người và hội thứ ba độ được 92 ức người. Nơi Thiền môn, vào kỷ niệm đức Di Lặc, chư Tăng Ni thường đọc bài tán, trong ấy có câu: "Long Hoa Tam hội nguyện tương phùng" (Ba hội Long Hoa nguyền được gặp). Câu này là chỉ cho ba pháp hội đã nói trên. Nhưng thật ra, đức Từ Thị Như Lai thuyết pháp rất nhiều hội, chớ không phải chỉ có ba hội ấy. Sở dỉ trong kinh nói có ba là muốn nêu ra tánh cách quan trọng và lớn lao nhất của ba hội trong nhiều pháp hội đó thôi. Người nào muốn dự ba hội Long Hoa, nên thật hành đúng ba điều kiện, theo lời nguyện của đức Di Lặc như sau:

1. Những vị Tăng Ni xuất gia trong giáo pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu có thể giữ gìn giới hạnh trang nghiêm, tương lai sẽ được tham dự và độ thoát trong pháp hội đầu tiên của ta.

2. Hàng Phật tử tại gia, nếu giữ đúng ngũ giới, bát quan trai giới, phụng thờ và cung kính cúng dường ngôi Tam bảo, sẽ được độ thoát trong pháp hội thứ hai của ta.

3. Những kẻ tuy chưa giữ giới, nhưng có lòng chánh tín đối với ngôi Tam bảo biết kính lễ Phật và đem tâm thành cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sẽ được độ thoát trong pháp hội thứ ba của ta.

Trên đây là đại lược về thời kỳ giáng sanh thành Phật của đức Di Lặc ở tương lai. Nếu vị nào muốn nghe pháp và được hóa độ trong ba hội Long Hoa, cần nên chú ý.

Chương VI: Các Chủng Loại Thế Giới

+ Tiết Muc:

I. Uế độ và Tịnh độ

II. Tịnh độ phương Tây

III. Tịnh độ phương Đông

IV. Cõi Phật mười phương

V. Thế giới sai biệt

+ Kinh sách tham khảo:

Kinh Hoa Nghiêm,

Kinh Thất Phật Công Đức,

Kinh Lăng Nghiêm,

Kinh Vô Lượng Thọ,

Kinh Quán Vô Lượng Thọ,

Kinh Phật Thuyết A Di Đà,

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,

Kinh Duy Ma Cật.

+ Đề yếu: Khi nói kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo ở Long cung, đức Thế Tôn đã chỉ cho chúng hội thấy vô số loài thủy tộc hình tướng kỳ lạ khác nhau, và bảo đó là do nghiệp ác sai biệt cảm hiện. Kế tiếp, Phật lại chỉ kim thân rực rỡ của mình, sắc tướng xinh đẹp trang nghiêm của các vị Bồ tát trong pháp hội, mà chứng minh rằng đó là kết quả của mười nghiệp lành. Ngay như nhơn loại cõi này, chúng ta đã thấy có loài da trắng, da vàng, da đen, da đỏ, kẻ xinh đẹp, người xấu thô. Có xứ khí hậu mát mẻ, cây cối tốt tươi, nhiều ao hồ, cảnh đẹp, nhơn dân thường hưởng phước thanh bình. Lại có các xứ địa thế gần miền sa mạc, quanh năm nắng cháy, cây cỏ héo khô, con người vất vả; thổ dân ở những nơi đây phần nhiều hung dữ. Đó đều là kết quả của những nghiệp nhân thiện hoặc ác.

Trong Tứ tất đàn của Phật nói, có môn Thế giới tất đàn. Vì có những hạng chúng sanh nghe pháp tất đàn này mà tỏ ngộ, hoặc phát tâm hướng đạo, nên trong các kinh, đức Phật thường chỉ dẫn sự sai biệt về chánh báo và y báo của các cõi để hóa độ họ. Thể theo ý đó, trong bản chương đã lược trình bày về các cõi uế, tịnh, cùng sự sai biệt của thế giới ở mười phương, để cho duyệt giả thêm rộng tầm nhãn quan, và suy gẫm sâu về những Nhân quả khổ, vui, xấu, đẹp.

Thiết tưởng đây cũng là một điều cần yếu.

Tiết I: Uế độ Và Tịnh độ.

Trong các thâm kinh như Phạm Võng, Pháp Hoa, đức Thế Tôn đã từng có lời khuyên phải dè dặt không nên đem pháp Đại thừa nói cho hạng tiểu cơ, hoặc những kẻ kém lòng tin, thiếu căn lành nghe; vì e họ không liễu giải rồi sanh lòng phỉ báng mà mang tội. Bởi sự tin hiểu của phàm phu không ngoài các giác quan như mắt thấy, tai nghe; những cái gì vượt quá tầm tri thức thông thường, tất họ không chấp nhận. Song lắm khi các việc ta chưa thấy, chưa hiểu nổi, thật ra nó chẳng phải không có, chỉ do ta thiếu sự bác lãm, hoặc kém trí suy luận mà thôi. Như trước kia, vì chưa tiếp xúc với xúc với nền khoa học cơ giới của Tây phương, người Đông phương nghe một đôi kẻ thuật lại những việc khác lạ ở các nước văn minh, đều cho là đi xa về nói dối. Và bởi chưa mục kích về hiện tượng thuộc khoa học huyền bí của Đông phương, người Tây phương cho những bùa chú của Đông phương là mê tín dị đoạn. Thật ra giữa thế gian này cũng có những việc mê tín dị đoan, song cũng có những hiện tượng mà các nhà mệnh danh là bác học cũng ngơ ngác không giải thích nổi. Việc hiện tại mà còn như thế, huống là những việc cao xa? Trong các kinh Phật nói, nhứt là kinh điển Đại thừa, có những sự lý mà bậc huệ nhãn A la hán không thấy hiểu được trừ bậc đăng địa Bồ tát và hàng phàm phu hay Thanh văn, Duyên giác có tín căn Đại thừa. Vì thế, đối với kinh nghĩa Đại thừa, có kẻ không tin hiểu nổi rồi cho đó là những điều tưởng tượng; lại có người hiểu không thấu suốt rồi giải thích sai lầm. Phạm vào các lỗi này, có khi là những học giả giỏi về thế pháp muốn nghiên cứu qua Tôn giáo, có khi là hàng Phật tử tại gia, một đôi khi là những vị xuất gia kém thông hiểu.

Vì những lý do trên, nên khi sưu khảo kinh tạng để viết về chương Chủng loại thế giới này, bút giả đã đôi ba phen băn khoăn, ngần ngại... Song nghĩ lại, pháp Đại thừa của Phật chẳng lẽ không được tuyên dương, biết đâu có nhiều người tin nhận được mà mình không diễn dịch cũng là một điều phụ với bi tâm của Phật?

Bởi suy xét như thế, bút giả mới đem tâm thành thật và sự phô diễn thô sơ mà viết ra chương này. Lòng tin cố nhiên là điều không thể ép buộc, nhưng mong rằng khi xem qua bản chương, những điều nào mà duyệt giả chưa thể chấp nhận, cũng xin thong thả đừng vội chê bai, vì đây là lời trích dịch theo kinh Phật, người muốn học Phật phải tiềm tâm suy nghĩ kỹ. Và đó mới là thái độ trung thật của nhà học giả.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật bảo: "Này A Nan! Hư không sanh trong tâm ông ví như một áng mây nhỏ điểm giữa khoảng trời xanh rộng lớn bao la, huống chi vô lượng thế giới ở trong hư không ư?” Các kinh khác cũng cho ta biết rằng, ngoài cõi Ta bà còn có nhiều thế giới khác, và trong biển tánh chân như có vô biên quốc độ, gồm các cõi tịnh và uế.

Thế nào là Tịnh độ? Tịnh độ là một cõi mà từ người đến cảnh đều trong sạch đẹp lành. Về phương diện người, tức là phần chánh báo, có những điều kiện như sau:

1. An vui không bịnh.

2. Thọ mạnh lâu dài.

3. Thân tướng xinh đẹp.

4. Không có sự giàu, nghèo, sang hèn cách biệt nhau.

5. Tâm tánh nhu hòa, ý chí cao thượng.

6. Đạo tâm không lui sụt.

7. Người đều hóa sanh, không có sự uế nhiễm về nam nữ, sanh dục.

8. Không có trẻ, già, mạnh, yếu khác nhau.

9. Không có các sự nhơ nhớp như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, đàm dãi, đại tiểu tiện.

10. Đạo đức tinh thần, Trí tuệ thông suốt.

11. Không có các nỗi khổ về tinh thần, thể chất.

12. Sự ăn thọ dụng đều tự nhiên.

13. Có đủ huệ nhãn, chánh kiến.

14. Có ngũ thông hoặc lục thông.

15. Thường trụ nơi chánh định.

Về phương diện cảnh, tức là phần y báo, lại có những điều kiện như sau:

1. Đất đai bằng phẳng, do bảo chất hợp thành, không có sông, biển, núi, gò, chông gai, hầm hố.

2. Không có các nạn cảnh như: chiến tranh, bão, lụt, động đất, nắng hạn, dịch khí, đói khát, sấm sét, sa mù.

3. Khắp nơi đều trong tạnh sáng suốt, không cần ánh quang minh của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc, và không có ngày đêm.

4. Khí hậu thường mát mẻ điều hòa, không có các thời tiết nắng, mưa, nóng, lạnh.

5. Tất cả vật kiện đều khéo đẹp tinh khiết, không mục nát hư hoại.

6. Đường sá, lan can, cây, hoa, đều nghiêm chỉnh xinh đẹp, có hàng lối.

7. Điện các, lâu đài đều nguy nga tráng lệ, hóa hiện tự nhiên, không cần phải dùng sức người kiến trúc.

8. Âm nhạc vi diệu không cần người hòa tấu, muốn nghe liền tự trỗi lên, không thích nghe lại tự yên lặng.

9. Trừ loài người ra, không có thú dữ, ruồi, muỗi, rắn, rít, độc trùng, cùng những loại động vật khác, duy có các thứ chim đẹp lạ do thần lực của Phật, hoặc Bồ tát hóa hiện.

10. Khắp nơi có nhiều ao thất bảo, trong ấy nước bát công đức đầy dẫy, các hoa sen đủ màu sằc, màu nào phóng sáng nấy.

11. Nước ở các ao trong sạch ngọt thơm, tùy ý người mà lên, xuống, ấm mát.

12. Tất cả cảnh vật, khí dụng đều do từ một thứ báu đến nhiều thứ báu hóa thành.

13. Thường có mưa hoa đúng thời rơi xuống.

14. Người tuy tăng thêm, nhưng quốc độ không chật hẹp, vật dụng không thiếu hụt.

15. Thường có Phật, Bồ tát ứng hiện giáo hóa, không bị nạn ngoại đạo tà ma.

Những cõi nào có đủ điều kiện người và cảnh như trên, mới thật đúng là Tịnh độ. Ngoài ra nếu các cõi chỉ có phần ít thanh tịnh, chưa được viên mãn, chỉ tạm gọi là Tịnh độ trên phương tiện giả lập mà thôi. Như thế giới hoàng kim theo người đời hằng mơ ước, hoặc cõi này vào lúc nhơn thọ 84.000 tuổi, cũng có thể tạm gọi là nhơn gian Tịnh độ.

Sao gọi là Uế độ? Đây là cõi mà từ người đến cảnh đều không trong sạch an lành. Như phần người, về thân thì có sự suy già, thô xấu, tật bịnh, đủ các điều nhơ nhớp; về tâm lại có những phiền não, dục nhiễm, ác kiến. Phần cảnh, thì có những hầm hố, gai chông, bùn lầy, sạn sỏi, muỗi mòng, rắn rít, ác thú, độc trùng, thiên tai, nhơn họa. Tóm lại Uế độ là cõi có những điều kiện trái hẳn với Tịnh độ.

Những cõi Tịnh độ đều do công đức, nguyện lực của Phật, Bồ tát, cùng thiện nghiệp của dân chúng cõi đó cảm hiện. Còn Uế độ là do nghiệp bất tịnh của chúng sanh nơi ấy tạo thành.

Tiết II: Tịnh độ Phương Tây.

Về Uế độ, đại khái như cõi Ta bà hiện tại mà chúng ta đang ở, không có chi kỳ đặc đáng kể. Dưới đây, xin trích dẫn các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà, lược thuật về chánh báo, y báo cõi Cực lạc, một Tịnh độ vị trí thuộc phương Tây của thế giới này. Hiểu qua y chánh cõi Cực lạc, tức sẽ quan niệm chung được những y chánh các cõi tịnh ở mười phương; vì quan cảnh cõi Cực lạc thế nào, những Tịnh độ khác về sự thanh tịnh trang nghiêm, cũng tương tợ như thế ấy.

A. Chánh Báo Cõi Cực lạc

1. Thân tướng trang nghiêm: Thân thể của nhơn dân cõi Cực lạc đều là sắc chân kim, đủ 32 tướng, dung nghi xinh đẹp nhiệm mầu, hình mạo đồng nhau không có ai hơn kém. Tất cả đều thọ thân thể vô cực, tự nhiên. Thân tướng của Tây phương Tam Thánh lại càng muôn phần trang nghiêm vi diệu.

2. Thọ mạng vô lượng: Người ở cõi Cực lạc đều sống lâu vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, trừ những vị có bản nguyện đi đến các cõi khác để độ sanh muốn trụ thọ mạng dài hay ngắn đều được tùy ý.

3. Thần thông tự tại: Dân chúng cõi Cực lạc đều có ngũ thông là: Thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, và Thần túc thông. Nếu vị nào chứng quả A la hán, thì kiêm được Lậu tận thông.

4. Thường ở trong chánh định: Tất cả đều an trụ nơi chánh định tụ.

5. Không đọa ác đạo: Kẻ nào được sanh về cõi ấy, tất không còn bị đọa ba đường ác là: Địa ngục, Ngạ quỷ, Bàng sanh.

6. Hóa sanh nơi hoa sen: Nhơn dân cõi Cực lạc đều hóa sanh nơi hoa sen trong ao thất bảo, thuần là người nam, không có sự ái dục và thai sanh.

7. Thân thể tinh sạch: Chúng sanh ở cõi Cực lạc thọ thân kim cương, thể chất thơm tho tinh sạch, không có các uế vật như mồ hôi, đàm dãi, đại tiểu tiện; không thọ các sự khổ: sanh, già, bịnh, chết, thân ái, biệt ly, oán thù gặp gỡ, mong cầu không toại ý và năm ấm lẫy lừng.

8. Vui như bậc lậu tận: Nhơn dân ở cõi ấy thân tâm thường được an vui như bậc Lậu tận Tỳ kheo.

9. Đạo tâm không lui sụt: Những kẻ sanh về cõi này, đều thành bậc A bệ bạt trí, đối với đạo Vô thượng không còn thối chuyển, tu hành mạnh mẽ tinh tấn cho đến khi thành Phật.

10. Trí tuệ biện tài: Nhơn dân cõi Cực lạc có vị đọc tụng, thọ trì, diễn giảng kinh pháp; có vị tư duy diệu nghĩa, nhập dịnh Tham thiền; tất cả đều đủ Trí tuệ biện tài.

11. Được vô sanh nhẫn: Đã sanh về cõi ấy tất sẽ chứng được vô sanh pháp nhẫn và các môn thâm tổng trì.

12. Cúng dường chư Phật: mỗi buổi sớm mai, nhơn dân nước Cực lạc thường đem các thứ hoa quí lạ đi cúng dường chư Phật ở mười phương. Nếu muốn cùng dường hương mầu, y phục, bảo cái, tràng phan; do nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà, đồ cúng dường quí đẹp đúng theo ý muốn, liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển chuyển rơi xuống đạo tràng thành pháp cúng dường. Khi cúng dường và nghe thuyết pháp xong, trong khoảnh khắc, tất cả đều trở về bản quốc trước giờ thọ thực.

13. Không ba ác đạo: Ở cõi Cực lạc không có các loài Địa ngục, Ngạ quỷ, Bàng sanh, cho đến không nghe điều chi bất thiện huống nữa là có thật.

14. Gần gũi Thánh chúng: Người sanh về cõi Cực lạc, thường được gần gũi các bậc đại Bồ tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, chung quanh mình toàn là bậc thượng thiện, không có Thầy tà bạn ác.

15. Oai lực tự tại: Các bậc Thanh văn, Bồ tát ở Cực lạc, thần thông rộng lớn, oai lực tự tại, có thể nhiếp trì tất cả thế giới trong bàn tay.

16. Thân quang rực rỡ: Ánh sáng nơi thân của chúng Thanh văn ở cõi ấy chiếu xa một tầm, còn quang minh của hàng Bồ tát chiếu xa từ 100 do tuần đến Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

17. Nhiều Thanh văn, Bồ tát: Chúng Thanh văn ở pháp hội đầu tiên của Phật A Di Đà nhiều đến vô số. Các chúng Bồ tát cũng như vậy. Đức Bổn sư bảo Ngài A Nan: "Người có Trí tuệ thần thông như bọn ông Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, đến kế các bậc Bồ tát, Thanh văn cũng không biết số lượng là bao nhiêu, huống chi các pháp hội khác!”

18. Bậc Bổ xứ vô biên: Chúng sanh sanh về cõi Cực lạc đều là bậc A bệ bạt trí. Trong ấy những vị nhứt sanh bổ xứ Bồ tát rất nhiều, không thể dùng toán số tính kể được, chỉ có thể đem số vô lượng vô biên A tăng kỳ để nói mà thôi.

B. Y Báo Cõi Cực lạc

1. Quốc độ bằng phẳng: Toàn cõi Cực lạc bằng phẳng, trong sạch không một điểm trần, không có núi Tu di, Kim cang và tất cả các núi, cũng không có các biển lớn nhỏ, sông, suối, giếng, hang.

2. Bảy báu làm đất: Quốc độ của Phật A Di Đà, đất là lưu ly xen với thất bảo, trong ngoài chói suốt nhau, dưới có tràng kim cương thất bảo nâng đỡ. Tràng này hình bát giác đều đặn, mỗi phía do tám thứ báu hợp thành. Mỗi hạt bảo châu phóng ra ngàn tia sáng, mỗi tia sáng có 84.000 sắc chói, đất lưu ly sáng như ngàn ức mặt trời. Mặt đất lưu ly bằng phẳng, có giây hoàng kim cùng thất bảo giăng phân khu vực và đường xá. Mỗi khu vực rộng rãi bao la, cảnh trí kỳ lệ nhiệm mầu, trang nghiêm thanh tịnh.

3. Khí hậu điều hòa: Khí hậu ở cõi Cực lạc không nóng không lạnh, thường mát mẻ điều hòa, không có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.

4. Lưới báu trang nghiêm: Trên hư không có vô lượng lưới báu chia từng khuôn, giăng che khắp Phật độ. Lưới này giây bằng chất nhuyễn kim hoặc chơn châu, trang nghiêm bằng vô lượng kỳ trân tạp bảo, quang sắc rực rỡ như sao. Chung quanh mỗi khuôn lưới có treo nhiều linh báu, mỗi khi gió nhẹ thoảng qua, các bảo linh ấy phát ra vô lượng pháp âm mầu nhiệm. Chư thiện nhơn nghe rồi tự nhiên sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

5. Sáu thời mưa hoa: Ở cõi Cực lạc, ngày đêm sáu thời mưa xuống hoa Mạn đà la, gió nhẹ phi phất, hoa bay khắp Phật độ. Hoa này nhu nhuyễn thơm tho; chư thiện nhơn lúc bước chân đi, hoa lún xuống bốn tấc, khi giở chân lên, hoa tròn nguyên như cũ. Thánh chúng thưởng ngoạn và thọ dụng mưa hoa xong, Mạn đà la hoa lần lượt biến mất, mặt đất trở lại vẻ trang nghiêm, tịnh khiết.

6. Bảo trì thơm sạch: Ở cõi Cực lạc nơi nơi đều có bảo trì rộng rãi mênh mông, trong ao đầy dẫy nước bát công đức trong sạch thơm tho, vị như cam lộ. Những ao này do từ một thứ báu đến bảy thứ báu tạo thành, như thành ao bằng hoàng kim, đáy ao trải cát thủy tinh; thành ao bằng bạch ngân, xa cừ, mã não, đáy ao trải cát lưu ly; hoặc thành ao bằng bạch ngọc, đáy ao trải cát kim cương nhiều màu.

7. Nước ao tùy ý: Các thượng thiện nhơn lúc vào ao để tắm, tùy theo ỷ muốn, nước tự dâng lên, hoặc ngập đến đầu gối, đến bụng, đến cổ. Nước này từ như ý châu vương sanh ra, tùy tâm người mà lên xuống, hoặc sâu, hoặc cạn, hoặc ấm, hoặc mát, rất điều hòa, thuận thích.

8. Sen báu nhiệm mầu: Mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi hoa sen tròn lớn 12 do tuần, có trăm ngàn ức cánh, đủ các màu xinh đẹp, màu nào chiếu ánh sáng nấy. Nước bát công đức chảy lên xuống theo cộng sen hoặc lòn vào cánh hoa, phát ra tiếng thanh tao diễn nói pháp mầu: Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã và các môn Ba la mật.

9. Cây đạo tràng thọ: Cây Bồ đề nơi đạo tràng của Phật do các thứ báu hợp thành, chất báu căn bản tên là Nguyệt Quang Ma Na Trì Hải Luân, Thân cây trang nghiêm bằng ngọc anh lạc treo rũ xuống, chiếu ra ngàn muôn sắc. Trên ngọn cây có lưới báu phủ giăng; nơi thân cây và lưới báu tùy thời ứng hiện vô lượng Phật sự trang nghiêm.

10. Bảo thọ phát âm: Khắp cõi Cực lạc có những cây thất bảo mọc theo hàng lối ngay thẳng, có thứ cây thuần một chất báu, hoặc hai, ba, cho đến bảy chất báu hợp thành. Các hàng cây, thân cây, cành, lá, hoa, trái đều có sự tương đối cân phân. Tất cả Phật sự ở cõi Cực lạc và mười phương thế giới đều hiện bóng rõ nơi thân cây như vật hiện trong gương sáng. Những hoa xinh đẹp sắc vàng Diêm phù đàn xen trong kẽ lá, sáng rỡ như những vòng lửa. Trên hoa tự nhiên có trái thất bảo hình như chiếc bình quý của trời Đế Thích. Sự trang nghiêm của bảo thọ nhìn xem không thể xiết! Gió mát từ thân cây nhẹ nhàng phát ra, nổi lên năm thứ âm thanh vi diệu, tự nhiên hòa tấu, còn nhiệm mầu hơn tiếng nhạc của trời Tha Hóa ngàn muôn ức lần! Âm thanh của bảo thọ diễn nói pháp mầu! Chúng sanh ở cõi ấy tai nghe tiếng tăm, mắt thấy màu sắc, mũi ngửi hương thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân tắm ánh sáng, ý duyên diệu pháp của cây báu, đều được sáu căn thanh triệt, trụ nơi bất thối chuyển.

11. Bảo tòa quý lạ: Ở cõi Cực lạc, Phật, Bồ tát cùng Thánh chúng đều ngồi tòa sen báu. Các liên tọa này do từ một hai, cho đến vô lượng chất báu hợp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh sáng rỡ, nhu nhuyễn lớn nhỏ xứng theo thân thể người ngồi. Tòa sen của Phật có 84.000 cánh, mỗi cánh rộng 250 do tuần, có 100 màu. Nơi mỗi cánh hoa lại hiện 84.000 làn gân, phóng ra 84.000 tia sáng, có trăm ức châu Ma Ni xen lẫn vào. Đài sen bằng chất Thích Ca Tỳ Lăng già bảo, trang nghiêm xen lẫn tám muôn thứ ngọc kim cương, Ma Ni. Sự kỳ lệ của liên tòa này vô cùng, đây là chỉ kể phần sơ lược.

12. Cung điện trang nghiêm: Những giảng đường, Tinh xá, lâu các, cung điện của Phật, Bồ tát, nhơn dân nơi cõi Cực lạc, do vô lượng trân bảo hợp thành, trăm ngàn muôn lần quý đẹp hơn Tự Tại Thiên cung. Những đền đài này có thứ nổi lên giữa hư không, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở, có thứ không theo ý muốn mà trụ trên bảo địa. Đây là do công hạnh tu hành có hơn kém mà trụ xứ khác nhau, nhưng sự thọ dụng về ăn mặc thì đều bình đẳng.

13. Thức uống ăn tinh khiết: Nhơn dân cõi Cực lạc khi muốn uống ăn thì bát khí thất bảo như: vàng, bạc, lưu ly, tùy ý hiện ra trước mặt. Trong các thứ đồ báu ấy có đầy đủ trăm vị ẩm thực, ăn vào tự nhiên tiêu hóa không còn cặn bã, có vị chỉ thấy sắc, nghe hương tự nhiên no đủ, không cần phải ăn uống. Khi sự việc đã xong, bảo khí tự nhiên ẩn mất, đúng thời lại hiện ra, không cần phải dọn dẹp.

14. Pháp phục tùy tâm niệm: Y phục của dân chúng ở cõi này, tùy tâm niệm liền hiện ra nơi thân. Tất cả y phục đều quý đẹp tự nhiên, không cần phải cắt, may, nhuộm, giặt.

15. Hóa cầm nói pháp: Đức Phật A Di Đà vì muốn cho pháp âm lưu thông, hóa hiện ra vô số thứ chim tạp sắc kỳ lạ như: Bạch hạt, Khổng tước, Anh võ, Xá Lợi, Ca lăng tần già, Cộng mạng, Hồng, Nhạn, Oan ương... Các thứ chim này ngày đêm sáu thời kêu lên tiếng hòa nhã, diễn nói những pháp như: năm căn, năm lực, bảy phần Bồ đề, tám phần Thánh đạo. Chúng sanh ở cõi ấy nghe rồi, tự nhiên sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

16. Hương thơm bay khắp: Ở cõi Cực lạc, từ mặt đất cho đến hư không, cung điện lâu đài, ao nước cây hoa, đều do vô lượng tạp bảo, trăm ngàn thứ hương kết thành, sự trang nghiêm kỳ diệu vượt hơn các cõi Trời. Mùi hương bay xa đến mười phương thế giới, hàng Bồ tát nghe rồi đều tu Phật hạnh.

17. Vạn vật nghiêm đẹp: Tất cả muôn vật ở cõi này đều nghiêm, sạch, sáng, đẹp, hình sắc lạ thường, vi diệu cùng cực, không thể diễn tả và nói hết số lượng.

18. Quốc độ sáng trong: Cõi Cực lạc sáng sạnh trong ngần, in bóng vô số thế giới chư Phật ở mười phương. Sự ảnh hiện này rất phân minh, như người nhìn vào gương soi thấy mặt mình.

Tiết III: Tịnh độ Phương Đông

Như trên đã lược thuật phần y chánh của thế giới Cực lạc ở phương Tây. Nhưng phương Tây chẳng phải chỉ có một cõi tịnh là Cực lạc, mà còn vô số Tịnh độ khác. Các phương kia cũng như thế. Xin y theo kinh lược dẫn ra đây một ít Tịnh độ ở phương Đông để làm tỷ lệ cho những Tịnh độ khác ở mười phương.

Kinh Thất Phật Công Đức nói: "Từ đây qua phương Đông cách bốn căn già sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, Phật hiệu Thiện Danh Xưng Kiết Tường Vương Như Lai. Cách năm căn già sa cõi Phật có thế giới tên là Diệu Bảo, Phật hiệu Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai. Cách sáu căn già sa cõi Phật, có thế giới tên là Viên Mãn Hương Tích, Phật hiệu Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Vương Như Lai, cách bảy căn già sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Ưu, Phật hiệu Vô Ưu Tối Thắng Kiết Tường Vương Như Lai. Cách tám căn già sa cõi Phật, có thế giới tên là Pháp Tràng, Phật hiệu Pháp Hải Lôi Âm Vương Như Lai. Cách chín căn già sa cõi Phật có thế giới tên là Thiện Trụ Bảo Hải, Phật hiệu Pháp Hải Thắng Huệ Du Hí Thần Thông Vương Như Lai. Cách mười căn già sa cõi Phật, có thế giới tên là Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Những thế giới trên đây đều do các thứ trân bảo hòa hợp tạo thành, Thánh chúng đều hóa sanh nơi hoa sen, công đức và sự trang nghiêm xinh đẹp, cũng giống như cõi Cực lạc ở phương Tây."

Tiết IV: Cõi Phật Mười Phương

Trong mười phương, mỗi phương, đều có vô biên Tịnh độ và Uế độ. Các cõi đều có Phật ra đời giáo hóa chúng sanh, nên trong kinh thường gọi là Phật độ hay Phật sát. Mỗi cõi Phật hoặc lấy một, mười, trăm, ngàn muôn, ức, triệu cõi Đại Thiên làm một Phật độ; hoặc lấy một hằng hà sa hay nhiều hằng hà sa cõi Đại Thiên làm một Phật độ. Như trong Kinh Pháp Hoa, đức Thích Ca đã thọ ký cho Ngài Phú Lâu Na, sau vô lượng A tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật, hiệu là Pháp Minh Như Lai. Đấng Điều Ngự này lấy một hằng hà sa cõi Đại Thiên làm một Phật độ, cõi nước tên là Thiện Tịnh, cảnh vật ở bản quốc đều do bảy báu hợp thành. Để chứng minh ngoài cõi Ta bà này còn có nhiều thế giới khác, xin trích kinh tạng đơn cử trong mười phương mỗi phương một cõi Phật để hàm chỉ cho vô biên Phật độ.

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Phương Đông cõi Ta bà này, có thế giới tên là Mật Huấn. Phương Nam có thế giới tên là Phong Dật. Phương Tây có thế giới tên là Ly Cấu. Phương Bắc có thế giới tên là Phong Lạc. Phương Đông Bắc có thế giới tên là Nhiếp Thủ, Phương Đông Nam có thế giới tên là Nhiêu Ích. Phương Tây Nam có thế giới tên là Tiên Thiểu. Phương Tây Bắc có thế giới tên là Hoan Hỷ. Hạ phương có thế giới tên là Quan Thược. Thượng phương có thế giới tên là Chấn Âm. Các đấng Như Lai trong mười phương thế giới này, mỗi vị có nhiều danh hiệu, cho đến vô lượng chư Phật ở vô số thế giới cũng đều như thế.”

Tiết V: Thế Giới Sai Biệt.

Trong mười phương hư không có nhiều chủng loại thế giới; có thế giới nhỏ hình tướng chúng sanh và cảnh vật cũng nhỏ; có thế giới lớn, hình tướng chúng sanh và cảnh vật cũng lớn. Như kinh Pháp Hoa nói:

“Bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ nơi tướng đại nhơn là nhục kế và tướng lông trắng giữa đôi mày, phóng ra ánh sáng soi khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Qua khỏi số các cõi đó, có thế giới tên là Nhứt Thế Tịnh Quang Trang Nghiêm. Đấng Chánh giác ở cõi này Thánh danh Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có đủ mười hiệu là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên chúng Bồ tát cung kính vi nhiễu ánh sáng bạch hào của đức Phật Thích Ca Mâu Ni soi khắp quốc độ ấy. Lúc đó, trong cõi Nhứt Thế Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ tát tên là Diệu Âm. Vị Bồ tát này đã gieo trồng các cội công đức từ nhiều kiếp lâu xa, và đã gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật...

Khi ấy, đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Diệu Âm Bồ tát: "Thiện nam tử. Hình thế cõi Ta bà kia nơi cao chỗ thấp không được bằng phẳng, có những núi đất đá và đầy dẩy sự nhơ xấu. Thân Phật và chúng Bồ tát ở cõi ấy đều kém nhỏ, mà thân của ông lại cao đến bốn vạn hai ngàn do tuần, thân ta cao sáu trăm tám mươi vạn do tuần. Sắc tượng của ông do trăm ngàn muôn phước tập hợp hiện thành, sáng rỡ nhiệm mầu, xinh đẹp bậc nhứt. Tuy nhiên, khi qua cõi kia, ông chớ nên vì thế mà đối với Phật, Bồ tát và quốc độ ấy, sanh tư tưởng khinh mạn, cho là hạ liệt...”

Bấy giờ Diệu Âm đại sĩ cùng 84.000 chúng Bồ tát ẩn thân nơi cõi Tịnh Quang, cùng nhau sang Ta bà thế giới. Khi vượt qua các quốc độ, đất đai của những cõi này bỗng rung động sáu cách, trên hư không mưa xuống hoa sen thất bảo trăm ngàn Thiên nhạc tự nhiên hòa tấu. Mắt của Diệu Âm Bồ tát như đôi cánh hoa sen xanh biếc rộng rãi. Khuôn mặt của Ngài còn đoan chánh rực rỡ hơn trăm ngàn muôn mặt trăng sáng hòa hợp. Và thân thể của Ngài do vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm, đầy đủ các tướng, bền chắc như Na la diên, sắc vàng chiếu diệu, hiện vẻ uy đức tôn nghiêm.

Trong kinh Duy Ma Cật cũng có đoạn nói:

"Lúc ấy Trưởng giả Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Nhân giả đã từng du ngoạn khắp vô lượng A tăng kỳ Phật độ, có thấy thứ tòa sư tử nào kỳ xảo và quý đẹp bậc nhứt chăng?" Văn Thù Bồ tát đáp: "Cư sĩ! Về phương Đông cõi này, trải qua ba mươi sáu hằng hà sa quốc độ, có thế giới Tu Di Tướng, vị hóa chủ là đức Phật Tu Di Đăng Vương, Đấng Như Lai ấy thân cao tám muôn bốn ngàn do tuần, tòa sư tử bề cao và rộng cũng như thế. Tòa này do công đức thượng diệu hóa thành, trang nghiêm xinh đẹp bậc nhứt...” Và đoạn:

"Bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật liền vào Tam muội, dùng sức thần thông hiện bày cho đại chúng thấy các thế giới ở phương trên. Từ cõi Ta bà đi lên trải qua bốn mươi hai hằng hà sa Phật độ, có cõi nước tên là Chúng Hương. Nơi ấy có đức Hương Tích Như Lai hiện đang giáo hóa. Mùi thơm tại cõi này thắng diệu hơn các thứ hương của hàng nhơn Thiên trong mười phương thế giới. Ở cõi Chúng Hương không có danh từ Thanh văn, Bích chi Phật, duy có chúng Đại Bồ tát thanh tịnh. Tất cả lầu các và cảnh vật nơi cõi này đều do chất thơm tạo thành, vườn cây ao hoa cũng là chất thơm, Thánh chúng đi kinh hành trên hương địa. Mùi thơm của thức ăn từ cõi Chúng Hương lan rộng đến vô lượng thế giới ở mười phương. Khi ấy, đức Hương Tích Thế Tôn cùng chư Bồ tát đang ngồi thọ trai, các hàng Thiên tử đồng hiệu là Hương Nghiêm, đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cúng dường Phật và chúng hội.”

Trên đây là mấy đoạn kinh chỉ rõ sự trang nghiêm kỳ diệu của các thế giới. Căn cứ vào đó, ta có thể suy hiểu ngoài cõi Ta bà này, có nhiều thế giới khác mà nhân vật và sự cảnh đều phi thường. Lại theo kinh Hoa Nghiêm, Tịnh danh, các Phật độ ở mười phương có nhiều chủng loại, hình thể khác nhau. Có thế giới hình vuông hoặc vuông dài, có thế giới hình tròn, có thế giới hình bán nguyệt, có thế giới hình như dòng nước xoáy, có thế giới hình như con sông, có thế giới hình luân võng, có thế giới hình đàn đài, có thế giới hình như khu rừng cây, có thế giới hình như lầu quán, có thế giới hình như tràng thi la, có thế giới hình như thai tạng, có thế giới hình hoa sen, có thế giới hình khê lặc ca (khataka; hình ấn Toàn vũ), có thế giới hình chúng sanh, có thế giới hình Phật tướng, có thế giới hình như áng mây, có thế giới hình màn lưới, có thế giới hình như đôi cánh cửa gài, có thế giới hình như núi Tu Di, có thế giới hình như các khí cụ nghiêm đẹp... Mỗi thế giới như vậy, có nhiều thế giới đồng chủng loại vi nhiễu.

Chư Phật ở các thế giới, hoặc dùng sắc tướng làm Phật sự; hoặc dùng âm thanh làm Phật sự; hoặc dùng mùi hương làm Phật sự; hoặc dùng trân vị làm Phật sự; hoặc dùng ánh sáng làm Phật sự; hoặc dùng những động tác làm Phật sự.

Tóm lại, do nghiệp sai biệt của chúng sanh, nên cảm hiện vô số thế giới hình loại sai biệt. Có cõi uế ác, có cõi nghiêm tịnh, có cõi thân người xinh đẹp cao lớn, có cõi thân người thấp nhỏ xấu thô; có cõi thuần là người nam, có cõi thuần là người nữ, có cõi nam nữ ở xen lẫn; có cõi loài người do thai, noãn, thấp, hóa mà sanh ra; có cõi dân chúng toàn là hóa sanh; có cõi các Thánh chúng, loài người cùng những tạp loại khác ở lẫn lộn; có cõi toàn là bậc Tam thừa Thánh nhơn; có cõi chỉ thuần những vị Đại thừa Bồ tát.

Sự kỳ lạ sai biệt của các thế giới thật là vô cùng...


Chương VII: Biển Thế Giới Hoa Tạng.

+ Tiết Mục:

I. Phù tràng Phật sát

II. Các thế giới chủng

III. Thế giới hải Liên Hoa Tạng

IV. Nhân duyên các thế giới hải

+ Kinh sách tham khảo:

Kinh Hoa Nghiêm,

Táo Bá Luận,

Thanh Lương Sớ,

Pháp Uyển Nghĩa Lâm.

+ Đề yếu: Thế giới hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, gọi tắt cõi Hoa Tạng, là cảnh Thật báo vô chướng ngại độ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. "Liên Hoa" là hoa sen, đây chỉ cho hoa sen chúa Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng; hoa sen này đảm trì thế giới hải. "Tạng" chỉ cho chỗ hàm chứa hạt sen; các thế giới chủng nương nơi hương thủy hải như những hạt sen ở trong liên tạng, và chỗ y trụ của các hương thủy hải ví như liên phòng, tức là gương sen. "Trang Nghiêm" là chỉ cho các hình tướng tốt đẹp của thế giới hải, như núi Đại Luân Vi, biển Hương Thủy, bảo địa, lầu các, ao hồ, rừng cây, vườn hoa, lưới báu, câu lơn, bảo tràng; các cảnh sắc này đã điểm tô cho cõi Hoa Tạng thành ra tráng lệ.

Nói tóm lại, cõi Thật báo độ này có đại liên hoa (Nhụy Hương Tràng) bao trùm và duy trì vi trần thế giới chủng như hoa sen hàm chứa hạt sen, nên gọi là Hoa Tạng. Người đọc bản chương cần nên chú ý hai điểm:

1. Thế giới hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm đã là báo độ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, vậy mười phương có vô lượng chư Phật, tức nhiên phải có vô lượng thế giới hải khác.

2. Nghĩa Hoa Tạng về sự là như thế về lý chỉ cho chân tâm tuy đầy khắp thế gian mà không bị thế gian nhiễm ô, ví như hoa sen tuy mọc từ bùn nhơ mà không bị bùn nhơ làm uế trược. Nếu sự, lý không thiên trệ, người học Phật mới đi đến chỗ dung thông.

Tiết I: Phù Tràng Phật Sát.

Phù tràng Phật sát là gì? Ấy là một loại thế giới liên tiếp nổi lên giữa biển thế giới bao la vô hạn, dường như một lá phướn lửng lơ. Cứ nhìn những ánh tinh vân do nhiều ngôi sao nhỏ tiếp cận nhau trên nền trời, ta có thể hình dung đại khái loại thế giới ấy. Mỗi Phù tràng Phật sát là một chủng loại thế giới riêng, nên cũng gọi là thế giới chủng. Dưới đây là một đoạn kinh diễn tả thế giới chủng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh, một Phù tràng Phật sát ở trung ương biển Hoa Tạng.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Có những biển Hương thủy nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi Phật, phân số an trụ như lưới châu của trời Đế Thích, ở trong biển thế giới Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm. Biển Hương Thủy ở trung ương tên Vô Biên Diệu Hoa Quang, do tràng báu Ma Ni vương gọi là Hiện Nhứt Thế Bồ tát Hình làm đáy. Từ nơi biển này, nổi lên hoa sen lớn tên Nhứt Thế Ma Ni Vương Trang Nghiêm. Trên hoa sen, có thế giới chủng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh an trụ. Thế giới chủng này do tất cả vật trang nghiêm làm thể, phạm vi bao gồm những thế giới bằng số bụi nhỏ của nhiều cõi Phật.

Biểu đồ Thế Giới Chủng ($ bieu do)

Các thế giới này chia thành hai mươi tầng, phân bố thứ lớp từ thấp đến cao.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thấp nhứt, tên là Tối Thắng Quang Biến Chiếu. Lấy Nhất Thế Kim Cương Trang Nghiêm Quang Diệu Luân làm giới hạn, và an trụ trên hoa sen Chúng Bảo Ma Ni. Thể tướng của cõi này như hình Ma Ni bảo, trên có mây Nhất Thế Bảo Hoa Trang Nghiêm phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của một cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Tịnh Nhãn Ly Cấu Đăng Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ hai, tên là Chủng Chủng Liên Hoa Diệu Trang Nghiêm, lấy tất cả vật trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên các hoa sen báu dường như mành lưới. Hình trạng của cõi này như toà sư tử, trên có mây Nhất Thế Bảo Sắc Châu Trướng phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của hai cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Sư tử Quang Thắng Chiếu Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ ba tên là Nhất Thế Bảo Trang Nghiêm Phổ Chiếu Quang, lấy Hương phong luân làm giới hạn, an trụ trên các thứ bảo hoa anh lạc. Cõi này hình bát giác, trên có mây Diệu Quang Ma Ni Nhật Luân phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của ba cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Tịnh Quang Trí Thắng Tràng Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ tư tên là Chủng Chủng Quang Minh Hoa Trang Nghiêm, lấy tất cả thứ bảo vương làm giới hạn, an trụ trên hải tràng Chúng Sắc Kim Cương Thi La. Hình trạng của cõi này như Ma Ni liên hoa, trên có mây Kim Cương Ma Ni Bảo Quang phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của bốn cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Kim Cương Quang Minh Vô Lượng Tinh Tiến Lực Thiện Xuất Hiện Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ năm tên là Phổ Phóng Diệu Hoa Quang, lấy tất cả bảo linh và lưới trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển lưới bảo luân Nhất Thế Thọ Lâm Trang Nghiêm. Hình trạng của cõi này bốn bên có nhiều góc, trên có mây Phạm Âm Ma Ni Vương phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của năm cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Hương Quang Hỉ Lực Hải Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ sáu tên Tịnh Diệu Quang Minh, lấy tràng Bảo Vương Trang Nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển cung điện Kim Cang. Cõi này hình vuông vức, trên có mây Ma Ni Kế Tướng phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của sáu cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Phổ Quang Tự Tại Tràng Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ bảy tên là Chúng Hoa Diệm Trang Nghiêm, lấy các thứ hoa trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển ánh sáng đẹp Nhất Thế Bảo Sắc. Hình trạng cõi này như lầu các, trên có mây Nhất Thế Bảo Sắc Y Chơn Châu Lan Thuẩn phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của bảy cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Hoan Hỉ Hải Công Đức Danh Xưng Tự Tại Quang Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ tám tên là Xuất Sanh Oai Lực Địa, lấy chất báu Xuất Nhứt Thế Thanh Ma Ni Vương Trang Nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển liên tòa Chủng Chủng Bảo Sắc. Hình trạng cõi này như lưới Nhân đà la, trên có mây Vô Biên Sắc Hoa Võng phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của tám cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Quảng Đại Danh Xưng Trí Hải Tràng Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ chín tên là Xuất Diệu Âm Thanh lấy Tâm Vương Ma Ni Trang Nghiêm Luân làm giới hạn, an trụ trên biển Ma Ni vương Hằng xuất Nhứt Thế Diệu Âm Thanh Trang Nghiêm Vân. Hình trạng cõi này như thân trời Phạm Thiên, trên có mây Vô Lượng Trang Nghiêm Sư Tử Tòa phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của chín cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Thanh Tịnh Nguyệt Quang Minh Tướng Vô Năng Tồi Phục Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười tên là Kim Cang Tràng, lấy thứ báu Vô Biên Trang Nghiêm Chơn Châu Tạng Bảo Anh Lạc làm giới hạn, an trụ trên biển Ma Ni Nhứt Thế Trang Nghiêm Bảo Sư Tử Tòa. Cõi này hình tròn, trên có mây Nhứt Thế Hương Ma Ni Hoa Tu Di phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Nhất Thế Pháp Hải Tối Thắng Vương Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười một tên là Hằng Xuất Hiện Đế Thanh Bảo Quang Minh, lấy chất kim cang Cực Kiên Lao Bất Hoại Trang Nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển hoa Chủng Chủng Thù Dị. Cõi này hình bán nguyệt, trên có mây Chư Thiên Bảo Trướng phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười một cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Vô Lượng Công Đức Pháp Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười hai tên là Quang Minh Chiếu Diệu, lấy ánh sáng Phổ Quang Trang Nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển Hoa Triền Hương Thủy. Hình trạng cõi này như đóa hoa cánh xoay tròn; trên có mây Chủng Chủng Y phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười hai cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Siêu Thích Phạm Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười ba tên là Ta bà, lấy chất kim cang trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên các sắc phong luân. Thể tướng cõi này trống trải, trên có Thiên cung trang nghiêm hư không và phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười ba cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Tỳ Lô Giá Na Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười bốn tên là Tịch Tịnh Ly Trần Quang, lấy tất cả thứ báu trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển Chủng Chủng Bảo Y. Hình trạng cõi này như tướng thần Chấp Kim Cang, trên có mây Vô Biên Sắc Kim Cương phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bốn cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Biến Pháp Giới Thắng Âm Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười lăm tên là Chúng Diệu Quang Minh Đăng, lấy tất cả tướng trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển lưới tịnh hoa. Cõi này hình chữ Vạn trên có mây Ma Ni Thọ Hương Thủy Hải phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười lăm cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Bất Khả Tồi Phục Lực Phổ Chiếu Tràng Như Lai.

Cõi Phật trung ương tầng thế giới thứ mười sáu tên là Thanh Tịnh Quang Biến Chiếu, lấy thứ báu Ma Ni vương Vô Tận Bảo Vân làm giới hạn, an trụ trên biển hoa sen Chủng Chủng Hương Diệm. Cõi này hình như mai rùa trên có mây Ma Ni Luân Chiên Đàn phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười sáu cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Thanh Tịnh Nhật Công Đức Nhãn Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười bảy tên là Bảo Trang Nghiêm Tạng, lấy các thứ báu Ma Ni vương giống hình của tất cả chúng sanh làm giới hạn, an trụ trên biển Ma Ni vương Quang Minh Tạng. Cõi này hình bát giác, trên có lưới Nhứt Thế Luân Vi Sơn Bảo Trang Nghiêm Hoa Thọ phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bảy cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Vô Ngại Trí Quang Minh Biến Chiếu Thập Phương Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười tám tên là Ly Trần, lấy tất cả tướng thù diệu trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên biển sư tử tòa Chúng Diệu Hoa. Cõi này hình như xâu chuỗi anh lạc, trên có mây Nhất Thế Bảo Hương Ma Ni Vương Viên Quang phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười tám cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Vô Lượng Phương Tiện Tối Thắng Tràng Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười chín tên là Thanh Tịnh Quang Phổ Chiếu, lấy thứ báu Ma Ni vương Xuất Vô Tận Bảo Vân làm giới hạn, an trụ trên biển Tu di sơn Vô Lượng Sắc Hương Diệm. Hình trạng cõi này như các đóa hoa báu đoanh xây, trên có mây Vô Biên Sắc Quang Minh Ma Ni Vương Đế Thanh phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi của mười chín cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quang Như Lai.

Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ hai mươi tên là Diệu Bảo Diệm, lấy thứ báu Phổ Quang Minh Nhật Nguyệt làm giới hạn, an trụ trên biển Ma Ni vương Nhứt Thế Chư Thiên Hình. Tướng trạng cõi này như một khí cụ báu trang nghiêm, trên có mây Nhứt Thế Bảo Y Tràng và lưới Ma Ni Đăng Tạng phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của hai mươi cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Phước Đức Tướng Quang Minh Như Lai.

Theo kinh Hoa Nghiêm thì một Phù tràng Phật sát có hai mươi tầng thế giới liên tiếp nhau kết thành dãy dọc từ thấp đến cao. Từ cõi Phật trung ương này lên cõi Phật trung ương kia cách nhau có hằng vi trần số sát độ. Mỗi từng lớp có nhiều loại thế giới khác nhau. Mỗi loại thế giới từ chỗ an trụ, hình trạng, thể tánh, sự trang nghiêm, giới hạn, hàng lối, sức gia trì, thảy đều sai biệt. Cõi Ta bà và Cực lạc đều ở vào từng thứ mười ba của thế giới chủng này.

Tiết II: Các Thế Giới Chủng.

Như trên đã nói thế giới chủng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh, an trụ trên hoa sen Nhất Thế Hương Ma Ni Vương Trang Nghiêm, ở trong biển hương thủy Vô Biên Diệu Hoa Quang. Vi nhiễu Phù tràng Phật sát này, lại có nhiều thế giới chủng khác. Xin y theo kinh, lược kể ra mười thế giới chủng tiếp cận xung quanh.

Quanh vòng thế giới chủng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh, kể theo chiều xoay bên hữu, từ phương Đông đến các phương Nam, Tây, Bắc, có mười thế giới chủng an trụ.

1. Trước tiên, về phương Đông có biển hương thủy tên Ly Cấu Diệm Tạng. Từ nơi biển này nổi lên hoa sen lớn tên Nhứt Thế Hương Ma Ni Diệu Trang Nghiêm. Trên hoa sen có thế giới chủng Biến Chiếu Sát Triền, gồm hai mươi tầng an trụ. Thế giới này lấy Bồ tát hạnh hẩu âm làm thể.

2. Theo vòng bên hữu, kế đó lại có biển hương thủy Vô Tận Quang Minh Luận, thế giới chủng tên Phật Tràng Trang Nghiêm, lấy tất cả biển âm thanh công đức của Phật làm thể.

3. Kế đó, lại có biển hương thủy Kim Cang Bảo Diệm Quang, thế giới chủng tên Phật Quang Trang Nghiêm Tạng, lấy âm thanh xưng nói danh hiệu của tất cả Như Lai làm thể.

4. Kế đó, lại có biển hương thủy Đế Thanh Bảo Trang Nghiêm, thế giới chủng tên Quang Chiếu Thập Phương, lấy vô biên âm thanh của Phật làm thể.

5. Kế đó, lại có biển hương thủy Kim Cang Luân Trang Nghiêm Để, thế giới chủng tên Diệu Bảo Gián Thác Nhân Đà La Võng, lấy âm thanh do trí Phổ Hiền sanh ra làm thể.

6. Kế đó, lại có biển hương thủy Liên Hoa Nhân Đà La Võng, thế giới chủng tên Phổ Hiện Thập Phương Ảnh, lấy âm thanh từ nơi ánh sáng Trí tuệ của tất cả chư Phật làm thể.

7. Kế đó, lại có biển hương thủy Tích Tập Bảo Hương Tạng, thế giới chủng tên Nhứt Thế Oai Đức Trang Nghiêm, lấy âm thanh pháp luân của tất cả chư Phật làm thể.

8. Kế đó, lại có biển hương thủy Bảo Trang Nghiêm, thế giới chủng tên Phổ Vô Cấu, lấy tiếng thần biến của tất cả vi trần cõi Phật làm thể.

9. Kế đó, lại có biển hương thủy Kim Cang Bảo Tụ, thế giới chủng tên Pháp Giới Hạnh, lấy phương tiện pháp âm của tất cả Bồ tát địa làm thể.

10. Kế đó, lại có biển hương thủy Thiên Thành Bảo Diệp, thế giới chủng tên Đăng Diệm Quang Minh, lấy tiếng pháp luân bình đẳng khai thị cho tất cả chúng sanh của chư Phật làm thể.

Như thế, theo vòng bên hữu, có mười biển hương thủy trên có mười thế giới chủng, vây quanh biển hương thủy Vô Biên Diệu Hoa Quang thuộc thế giới chủng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh. Mỗi thế giới chủng đều có hai mươi tầng lớp thế giới an trụ. Mỗi tầng lớp có từ 1 đến hai mươi Phật sát vi trần thế giới; mỗi thế giới từ hình tướng đến sự trang nghiêm có vô lượng sai biệt. Ngoài mười thế giới chủng ấy, còn có vô lượng hương thủy hải là thế giới chủng khác, mỗi mỗi lại có vô lượng sự sai biệt nhiệm mầu.

Tiết III: Thế Giới Hải Liên Hoa Tạng.

Thế giới hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm tức biển Hoa Tạng, có vô biên hương thủy hải và thế giới chủng nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi Phật, phân bố an trụ như những hạt châu nơi các mắc lưới báu của trời Đế Thích, rất vi diệu trang nghiêm. Mỗi thế giới chủng trong cõi Hoa Tạng, lại có vô lượng thế giới tịnh uế khác trùng trùng an lập. Bao vòng các thế giới chủng của cõi Hoa Tạng, có núi Đại Luân Vi. Đại Luân Vi sơn do bốn chất báu: Chiên đàn Ma Ni, Oai đức bảo vương, Diệu hương Ma Ni và Diệm tạng kim cương kết hợp, an trụ trên tòa sen chúa là Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng. Hoa sen này do chất báu Nhật châu vương tạo thành, nổi trên biển đại hương thủy Phổ Quang Ma Ni Trang Nghiêm. Ngoài biển Phổ Quang Ma Ni, có luồng phong luân cực thâm hậu mạnh mẽ tên là Thù Thắng Oai Quang Tạng duy trì, khiến cho hương thủy không lưu tán.

Thế giới chủng ở trung tâm cõi Hoa Tạng là Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh. Xung quang thế giới chủng này, có mười thế giới chủng khác như Biến Chiếu Sát Triền cho đến Đăng Diệm Quang Minh, như trên đã nói.

Từ thế giới chủng Biến Chiếu Sát Triền thuộc biển hương thủy Ly Cấu Diệm Tạng ở phương Đông, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Thường Phóng Quang Minh, thuộc biển hương thủy Pha Lê Địa.

Thiết Vi Sơn

($ bieu do)

Từ thế giới chủng Phật Tràng Trang Nghiêm thuộc biển hương thủy Vô Tận Quang Minh Luân, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Diệm Hoa Thọ, thuộc biển hương thủy Xuất Sanh Chư Phương Đại Sát.

Từ thế giới chủng Phật Quang Trang Nghiêm Tạng thuộc biển hương thủy Kim Cang Bảo Diệm Quang, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Vô Lượng Phương Sai Biệt, thuộc biển hương thủy Vô Biên Luân Trang Nghiêm Để.

Từ thế giới chủng Quang Chiếu Thập Phương thuộc hương thủy Đế Thanh Bảo Trang Nghiêm, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là An Trụ Đế Võng thuộc biển hương thủy Thọ Trang Nghiêm Tràng.

Từ thế giới chủng Diệu Bảo Gián Thác Nhân Đà La Võng thuộc biển hương thủy Kim Cang Luân Trang Nghiêm Để, trải qua nhiều thế giới chủng đến cõi phù tràng Phổ Hiện Quang Minh Lực thuộc biển hương thủy Diệu Hương Bảo Vương Quang Trang Nghiêm. (Trong kinh thiếu đoạn nói về thế giới chủng và hương thủy hải gần núi Đại Luân Vi).

Từ thế giới chủng Phổ Hiện Thập Phương Ảnh thuộc biển hương thủy Liên Hoa Nhân Đà La Võng, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Nhứt Thế Quang Trang Nghiêm, thuộc biển hương thủy Mật Diệm Vân Tràng.

Từ thế giới chủng Nhứt Thế Oai Đức Trang Nghiêm thuộc biển hương thủy Tích Tập Bảo Hương Tạng, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Phổ Âm Tràng, thuộc biển hương thủy Diêm Phù Đàn Bảo Tạng Luân.

Từ thế giới chủng Phổ Vô Cấu thuộc biển hương thủy Bảo Trang Nghiêm, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi, cõi phù tràng này tên là Châu Biến Vô Sai Biệt, thuộc biển hương thủy Xuất Đế Thanh Bảo.

Từ thế giới chủng Pháp Giới Hạnh thuộc biển hương thủy Kim Cang Bảo Tụ, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Diệu Luân Gián Thác Liên Hoa Tràng, thuộc biển hương thủy Bất Khả Hoại.

Từ thế giới chủng Đăng Diệu Quang Minh thuộc biển hương thủy Thiên Thành Bảo Diệp, trải qua số bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng khác, cuối cùng đến một thế giới chủng ở kế cận núi Đại Luân Vi. Cõi phù tràng này tên là Hóa Hiện Diệu Y, thuộc biển hương thủy Tích Tập Anh Lạc Y.

Như thế, từ mươi thế giới chủng xung quanh cõi phù tràng Phổ Chiếu Thập Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh đến vòng núi Đại Luân Vi, mỗi phương có một bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chủng, hợp chung lại cõi Hoa Tạng gồm có những biển hương thủy kiêm thế giới chủng nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi Phật. Các thế giới chủng đều y trụ trên hoa sen trang nghiêm bằng chất báu Ma Ni vương đều phóng ánh sáng bảo sắc; đều có mây quang minh che ở trên; đều có các trang nghiêm cụ, đều có thời kiếp sai biệt; đều có chư Phật xuất hiện nói pháp; đều có Pháp hải khác nhau; đều có chúng sanh sung mãn; đều có sự thú nhập của mười phương; đều được thần lực của tất cả chư Phật gia trì. Tất cả thế giới trong mỗi thế giới chủng đều y trụ trên các thứ trang nghiêm, liên tiếp kết thành thế giới võng an lập khắp cõi Liên Hoa Tạng.

Trong kinh có dẫn ra các pháp số, như "Bất khả thuyết" là một số lớn, duy có Phật mới biết rõ. Theo sự khảo cứu của Uyển Pháp sư và Táo Bá cư sĩ, thì một trăm Lạc xoa (số Lạc xoa bậc trung là 100.000) là một Câu đê, một trăm Câu đê là một A do đa; một trăm A do đa là một Na do tha. Từ số Na do tha cứ như thế kể xấp bội lên là các số: tần bàn la, Căn yết la, A dà la, Tối thắng, Ma bàn la, A bàn la, Đa bàn la, Giới phần, Phổ ma... Và cứ như thế kể xấp bội đến lần thứ một trăm hai mươi mới đến số Bất khả thuyết. Phật sát vi trần số thế giới chủng, là đem cả cõi Đại Thiên (một Phật sát) từ núi non cho đến đất liền đều nghiền ra thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi kể là một thế giới chủng. Vì sát độ trong mười phương vô biên, không thể dùng con số thường tính kể được, nên đức Phật thường đem số hạt cát của một sông Hằng cho đến nhiều sông Hằng, hoặc số hạt bụi của một cõi Phật cho đến nhiều cõi Phật, để ước lượng về thế giới hay cõi phù tràng hoặc các biển hương thủy.

Biển thế giới Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, là báo độ của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ tát bảo đại chúng: "Đức Tỳ Lô Giá Na đây, thuở đời quá khứ đã tu Bồ tát hạnh trong số kiếp nhiều như bụi nhỏ của thế giới hải. Trong mỗi kiếp Ngài đều gần gũi cúng dường Phật, và đã cúng dường cho đến số thế giới hải vi trần các đức Thế Tôn. Trong mỗi đời Phật, Ngài lại tịnh tu những đại nguyện nhiều như số bụi nhỏ của thế giới hải. Do các công đức hạnh nguyện đó, Ngài mới thật hiện được cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm này.”

Trên đây đoạn kinh chỉ dẫn chánh nhân của cõi Hoa Tạng. Về trợ nhân, lại còn công đức của chư Phật, chư Bồ tát chư Hiền Thánh và nghiệp duyên của các loại chúng sanh. Thanh Lương Sớ nói: "Hoa sen và hương hải, về sự là như thế, lý lại có hai nguyên nhân:

1. Ước về chúng sanh thì tạng thức tức là hương hải, vọng tưởng là phong luân, tánh đức sẵn có nơi tâm là liên hoa, tâm tánh bao hàm quả pháp thế gian và xuất thế gian là liên tạng.

2. Ước về chư Phật thì đại bi là hương hải, đại nguyện là phong luân, vô biên hạnh lành là liên hoa, chân như tâm dung nhiếp các quả pháp nhiễm tịnh là liên tạng. Do hạnh nghiệp chúng sanh và chư Phật như thế, nên cảm hiện ra tướng trạng của các cõi cũng như vậy.”

Đây là lối lập luận dẫn sự để chứng lý đem lý giải thích sự. Người học Phật nếu chỉ theo sự không suốt lý là trệ, trái lại chấp lý bỏ sự là mê.

Tiết IV: Nhân Duyên Các Thế Giới Hải.

Thế giới hải Hoa Tạng đã là báo độ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thì mỗi vị Phật đều có một báo độ, nghĩa là một thế giới hải riêng. Mỗi thế giới hải tuy do một đức Phật chủ trì, song cũng thông tất cả chư Phật khác. Như thế giới hải Liên Hoa Tạng này tuy do đức Tỳ Lô Giá Na làm chủ, vì sự thành lập báo độ phần lớn đều do công đức hạnh nguyện của Ngài, nhưng cũng có chư Bồ tát ở bản độ tiến lên thành Phật, cùng chư Phật mười phương phân thân đến giáo hóa, và mỗi vị đều dùng công đức hạnh nguyện của mình giúp thêm cho sự trang nghiêm.

Theo kinh Hoa Nghiêm, ngoài thế giới hải Hoa Tạng này, còn có nhiều thế giới hải khác. Như lấy cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm làm trung ương, xung quang báo độ này có mười thế giới hải khác bao bọc. Phương Đông thế giới hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, có thế giới hải tên là Thanh Tịnh Quang Liên Hoa Trang Nghiêm. Phương Đông Nam có thế giới hải Kim Trang Nghiêm Lưu Ly Quang Phổ Chiếu. Phương Nam có thế giới hải Nhất Thế Bảo Nguyệt Quang Minh Trang Nghiêm. Phương Tây Nam có thế giới hải Nhật Quang Biến Chiếu. Phương Tây có thế giới hải Khả Ái Nhạo Bảo Quang Minh. Phương Tây Bắc có thế giới hải Bảo Quang Chiếu Diệu. Phương Bắc có thế giới hải Tỳ Lưu Ly Hoa Quang Viên Mãn Tạng. Phương Đông Bắc có thế giới hải Diêm Phù Đàn Kim Pha Lê Sắc Tràng. Phương trên có thế giới hải Ma Ni Bảo Chiếu Diệm Trang Nghiêm. Phương dưới có thế giới hải Liên Hoa Hương Diệu Đức Tạng.

Ngoài mười thế giới hải bao quanh cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, còn có vô số thế giới hải khác nữa. Như kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới nói: "Bấy giờ ngoài số thế giới hải nhiều như bụi nhỏ của bất khả thuyết cõi Phật ở phương Đông, có thế giới tên Kim Đăng Vân Tràng. Vị giáo chủ của quốc độ này là đức Phật Tỳ Lô Giá Na Thắng Đức Vương. Trong pháp hội của đức Thế Tôn đây, có vị Bồ tát ma ha tát tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, cùng với số bất khả thuyết Phật sát vi trần chúng Bồ tát đến chỗ Phật, nổi lên mây cúng dường.” Qua mấy lời này, ta có thể thấy biển pháp giới thật là rộng rãi mênh mông vô cùng vô tận!

Về nhân duyên của thế giới hải, trong Táo Bá Luận đã nói: "Do sức đại nguyện của chư Phật; nên cảm hiện ra phong luân nhiệm trì tất cả thế giới. Do tâm Từ bi sâu rộng của các đấng Như Lai nên cảm hiện ra biển hương thủy; và do vô biên đại hạnh, nên kết thành diệu báo hoa sen. Lại hoa sen cũng do ảnh hưởng của trí thể vô y, cung điện do ảnh hưởng của lòng đại bi hàm dục, lầu các do ảnh hưởng của trí phương tiện độ sanh mà hiện thành. Tâm thanh tịnh hiện ra báu Ma Ni; giới trang nghiêm hiện ra núi Đại Luân Vi bao bọc; muôn hạnh lợi sanh làm nở các thứ hoa quí đẹp và cảm thành cây báu mát tươi. Tâm độ sanh không chán mỏi hóa ra bảo địa, đức phá tà, lập chánh cảm hiện bảo tràng, tiếng pháp âm kết quả bảo linh, trí nhiệm mầu hoá hiện bảo võng. Lòng tinh tấn nổi lên mây gấm, pháp phá mê hiện ánh quang minh, khuôn hương lâm bởi thất giác chi, chuỗi anh lạc do tâm tàm quý. Sức Tam muội du hí hóa thành vườn hoa tươi đẹp, hạnh vô trước vô ngại cảm nên dòng nước trong thơm. Tất cả hiện cảnh đều có nhân duyên không thể kể ra hết được.

Kết luận lại, ta thấy các thế giới hải trong mười phương, sự và lý đều tương quan; các báo cảnh đều do hạnh nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát, hoặc các loài chúng sanh cảm hiện.

Chương VIII: Pháp Giới Tổng Luận

+ Tiết Mục:

I. Luận về bốn pháp giới

II. Luận về y chánh

III. Luận về đồng biệt dị kiến

IV. Luận về cộng bất cộng biến

+ Kinh sách tham khảo:

Kinh Hoa Nghiêm,

Thập Lục Quán Kinh Sớ,

Kinh Pháp Hoa,

Kinh Duy Ma Cật,

Kinh Anh Lạc Bản Nghiệp,

Kinh Nhân Vương,

Thành Duy Thức Luận,

Kinh A Hàm,

Tổng Cảnh Lục.

+ Đề yếu: Thật ra, khi nói: Luận về pháp giới, trong ấy tất phải có nhiều vấn đề. Nhưng ở đây, bút giả đã gom góp những điểm chính yếu chia thành bốn tiết để trình bày, nên xin tạm gọi là tổng luận.

Hai tiết đầu thuyết minh chung về tánh tướng của pháp giới. Tánh tướng này nếu tế phân thì vô cùng, nhưng gom lại không ngoài bốn pháp giới và hai phần y chánh. Hai tiết sau tuy không minh luận Duyên khởi của pháp giới, song kỳ thật trong ấy đã ẩn thuyết về lý này. Như tiết Đồng biệt dị kiến tuy nói về Tương vi thức tướng của hữu tình, nhưng nội dung đã ẩn lý Nghiệp cảm Duyên khởi. Và đoạn Cộng bất cộng biến thì ẩn lý A lại da Duyên khởi.

Xem qua bản chương, đọc giả nên chú ý: thuyết duy tâm của Phật giáo không phải cực đoan như duy tâm hay duy vật của các môn triết học khác. Theo quan niệm Phật giáo, tâm tức vật, vật tức tâm, tâm vật chỉ là bản thể duy nhất, mà tánh tông gọi đó là duy tâm và tướng tông lại gọi đó là duy thức.

Pháp giới duy tâm hay duy thức chính là lý này.

Tiết I: Luận Về Bốn Pháp Giới.

Nếu so sánh phạm vi lớn nhỏ, thì một Tiểu thế giới không bằng một Tiểu Thiên thế giới, một Tiểu Thiên thế giới không bằng một Trung Thiên thế giới, một Trung Thiên thế giới không bằng một Đại Thiên thế giới. Đại Thiên thế giới tức là một Phật độ; nhưng chư Phật có vị lấy một cõi Đại Thiên làm một Phật độ. Đem một Phật độ so sánh với một Thế giới chủng thì thật cách biệt vô cùng! Một thế giới chủng gồm hai mươi tầng từ thấp đến cao, mỗi tầng có từ một Phật sát vi trần Phật độ, cho đến hai mươi Phật sát vi trần Phật độ. Thế giới chủng sánh với Thế giới hải lại còn kém xa. Như riêng về Thế giới hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, có đến mười bất khả thuyết Phật sát vi trần thế giới chủng.

Bàn đến Thế giới hải, thì thật là cảnh giới tuyệt rộng rãi mênh mang, không lường không nằn, tợ hồ thế giới đến đây là cùng cực. Nhưng mà chưa bao quát Thế giới hải còn có pháp giới an lập hải. Theo kinh, một An lập hải đại khái gồm có những Thế giới hải nhiều bằng số bụi nhỏ của tám bất khả thuyết cõi Phật. Như trong kinh Hoa Nghiêm, bậc đại thiện tri thức hiện thân làm Chủ dạ thần, tên là Tịch Tịnh Âm Hải nói: "Khi đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở nơi đạo tràng này thành quả Chánh giác, mỗi niệm thị hiện sức đại thần thông bấy giờ tôi được thân cận, liền chứng vào môn Tam muội Niệm Niệm Xuất Sanh Quảng Đại Hỉ Trang Nghiêm Giải thoát. Lúc chứng được môn Giải thoát này rồi, tôi có thể hiện thân vào những Pháp giới an lập hải nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Trong vô lượng vô biên Phật sát vi trần số cõi Phật của tất cả An lập hải, tôi thấy mỗi mỗi Phật độ đều có đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong mỗi niệm thành Chánh giác và hiện các phép thần biến. Và cũng lại thấy mình ở nơi chỗ các đức Như Lai ấy thừa sự cúng dường, nghe nói diệu pháp" (Lược thuật).

Theo đoạn kinh trên, ta thấy cảnh giới của chư Phật rộng rãi vô biên, nếu không vào môn đại Giải thoát, không chứng đuợc đại Tam muội, thì không thể nào thấy hiểu nổi. Đạt đến cảnh này thì quên tình tuyệt lự, tâm địa rỗng rang không còn sự suy nghĩ nữa. Nhìn lại chúng ta, chút thân trần mạt, một điểm thức linh, sánh với pháp hải bao la, còn nhỏ hơn hạt cát nơi bãi sa mạc, bóng bọt giữa trùng duơng, hoảng hốt như huyễn như hóa, dường mộng dường mê, thật không đáng chi cả!

Trên đây, sở dĩ gọi Pháp giới an lập hải, bởi pháp giới là danh mục của chân tâm; thể dụng chân tâm rất sâu rộng, tánh và tướng vô ngại, lấy tâm làm pháp, lấy tâm làm giới, nên xưng là "Pháp giới.” Trong pháp giới có những diệu tướng sai biệt trang nghiêm, tập hợp thành từng khu vực riêng không lẫn lộn nhau, nên gọi là "An lập.” Mỗi cõi An lập bao trùm vô lượng vô biên Phật sát, Thế giới chủng, Thế giới hải; vì nó có tánh cách rộng rãi mênh mang như biển cả bao hàm muôn tượng, nên gọi là "hải.” Sánh với An lập hải, Thế giới hải tuy cũng gọi là biển thế giới, nhưng chỉ là vùng biển nhỏ, thua kém hẳn trùng dương rộng rãi bao la. Chân tâm đã có vô biên An lập hải, nên tánh và tướng giao nhiếp, sự cùng lý viên dung, gọi là Nhứt chơn pháp giới. Từ Nhứt chơn pháp giới phân xuất ra bốn pháp giới như sau:

1. Lý pháp giới: Đây là chỉ cho phần chân như môn của Như Lai tạng. Thể chân như này linh hư vắng lặng, sáng suốt một mầu, đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh.

2. Sự pháp giới: Đây là phần sanh diệt môn của Như Lai tạng, gồm vô lượng sự tướng sai biệt. Sự tướng này sanh diệt thay đổi, như sóng bọt nổi tan ngoài biển cả, ráng mây biến huyễn nơi trời cao, tùy hạnh nghiệp thiện ác mà hóa hiện.

3. Lý sự vô ngại pháp giới: Vì muôn pháp như huyễn, không có tự tánh và thật thể, nên toàn sự là lý. Bởi chân như cũng không tự tánh và thật thể tùy duyên mà biến hiện, nên toàn lý và sự. Lý và sự đây ví như nước với sóng, ngõa khí cùng vi trần; sóng tan thành nước, nước nổi thành sóng, vi trần kết hợp thành ngõa khí, ngõa khí tiêu hoại thành vi trần, không thể phân biệt ngoài sóng có nước, ngoài ngõa khí có vi trần. Cho nên chân không chẳng ngoài diệu hữu, chân lý không ngoài huyễn sự, vì lý tức sự, sắc tức không, nên gọi là vô ngại.

4. Sự sự vô ngại pháp giới: Lý đã tức là sự, nên lý không ngại sự, sự không ngại lý, lý không ngại lý, sự không ngại sự, mỗi trần không ngại, mỗi pháp dung thông. Vì lẽ sự sự vô ngại, nên bậc Bồ tát chứng vào cảnh giới Bất tư nghì Giải thoát, có thể xem tường vách núi non hư không, lại qua tự tại; có thể kéo dài sát na thành muôn kiếp, thâu gọn muôn kiếp trong sát na; lại có thể để núi Tu Di vào hạt cải, dùng hạt cải bao chứa núi Tu Di, mà cảnh giới và loài hữu tình trong ấy không bị tăng tổn.

Về ý chí "pháp giới" trên đây, thì "pháp" lấy quỷ tắc làm nghĩa, "giới" lấy tánh phần làm nghĩa. Quỷ tắc và tánh phần này, ở nơi lý là Lý pháp giới ở nơi sự là Sự pháp giới; cho đến Lý sự và Sự sự cũng như vậy. Bởi lý không chừng hạn, sự có muôn sai, nên cổ đức đã bảo: "Hòa ấm hơi xuân đồng một tiết. Thấp cao hoa cỏ khác muôn màu.”

Tóm lại, trong tánh tạng, thế giới trùng trùng, tịch quang lặng lặng, không và sắc bao la, nhưng chẳng ngoài lý cùng sự. Lý, sự này diễn ra thành bốn pháp giới, thâu lại về cõi Nhất chơn.

Tiết II: Luận Về Y Chánh.

Khắp mười phương thế giới đã vô lượng vô biên, mà loài hàm linh cũng vô cùng vô tận. Nhưng tóm lại, tất cả không ngoài y báo và chánh báo.

Y, Chánh là gì? Kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói: "Sắc thân của tất cả hữu tình thuộc về phần chủ thể của nghiệp quả, nên gọi là chánh báo. Cảnh giới của loài hữu tình nương tựa và thọ dụng như y phục, thức uống ăn, vật dụng, phòng nhà, ruộng vườn, cho đến núi, rừng, sông, biển, đất đai, gọi là y báo.” Với lập nghĩa bao quát hơn, Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao nói: "Quốc độ sở y hoặc tịnh hoặc uế của phàm thánh là y báo. Thân năng y của trời, người, nam, nữ, tại gia, ngoại đạo, chư thần cho đến Bồ tát, Phật gọi là chánh báo.” Thế thì nói cho đủ, y báo gồm có bốn độ, chánh báo gồm có mười giới.

1. Chánh báo: Mười giới của chánh báo là gì? Ấy là thân thể của sáu phàm, bốn Thánh. Sáu phàm là Địa ngục, Bàng sanh, Quỉ thần, A tu la, Người và Trời. Bốn Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Thân thể của lục phàm tùy nghiệp nhân thiện ác mà có xấu đẹp. Bậc Thanh văn, Duyên giác về phần tâm thì thanh tịnh, nhưng phần thân vì còn chịu ảnh hưởng của nghiệp nhân nên cũng có hơn kém khác nhau. Chư Bồ tát và Phật do phước huệ đều thắng, nên cả thân tâm đều trang nghiêm thanh tịnh. Chư Thanh văn, Duyên giác ngoài thật tâm có biến hóa thân, và báo thân. Chư Phật có đủ ba thân là biến hóa thân, báo thân và pháp thân. Về nghĩa Tam thân của Phật, vì xưa nay các kinh luận hoặc nói riêng về một phương diện, nên những nhà học Phật kém công phu nghiên cứu dễ bị mê mờ. Tam thân theo Tiểu thừa và Đại thừa có chỗ sai biệt; riêng về Đại thừa lại có thông nghĩa và biệt nghĩa. Về biệt nghĩa chẳng hạn như Thiên Thai tông và Mật tông, mỗi bên có lập thuyết riêng về Tam thân. Nay xin y theo nghĩa Tiểu thừa và thông nghĩa Đại thừa mà giải thích về ba thân của Phật.

Theo Tiểu thừa, Phật có ba thân: Pháp thân là thật thể trong sạch, gồm có năm công đức: giới, định, huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Báo thân là thân cao một trượng sáu có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, do những phước nghiệp kết thành. Hóa thân là Phật do lòng Từ bi hóa ra thân các dị loại như sư tử, nai, chim hóa độ các loài ấy.

Theo Đại thừa, nghĩa Tam thân có phần rộng rãi và phiền toái hơn. Kể từ thấp đến cao, trước tiên Biến hóa thân cũng gọi Ứng hóa thân nghĩa là chư Phật do lòng Từ bi muốn hóa độ chúng sanh nên ứng hiện ra nhiều thân. Ứng hóa thân có hai: thắng ứng thân và liệt ứng thân. Liệt ứng thân là thân Phật một trượng sáu, là hóa thân thuộc chín giới. Có chỗ gọi là kim thân một trượng sáu là Ứng thân, còn các dị loại do Phật hóa hiện là Hóa thân. Thắng ứng thân là thân Phật nơi Tịnh độ như kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Đức Phật A Di Đà thân cao sáu mươi muôn ức na do tha hằng hà sa do tuần, viên quang như trăm ức cõi Đại Thiên. Phật có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp.”

Báo thân của Phật cũng có hai: Tự thọ dụng và Tha thọ dụng thân. Tha thọ dụng thân là như đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra thân Lô Xá Na cao một ngàn trượng, có vô lượng tướng hảo, ngồi trên hoa sen ngàn cánh, vì hàng Thập địa Bồ tát mà thuyết pháp. Bởi Phật hiện ra thân này với mục đích làm lợi lạc cho các bậc đại sĩ, nên gọi là Tha thọ dụng. Có chỗ nói Tha thọ dụng thân và Thắng ứng thân danh khác nhưng thể đồng, vì hai thân này có vi trần tướng hảo và đó mới chính thật là thân quả báo của Phật do vô lượng phước lành kết hợp. Tự thọ dụng thân chính là cõi Thật báo trang nghiêm rộng rãi vô biên bao hàm vi trần quốc độ. Chư Phật chứng được cảnh giới này, tự mình thọ dụng pháp lạc nhiệm mầu, nên gọi là Tự thọ dụng. Đây là lấy độ làm thân; và vì Báo thân có hai nghĩa thọ dụng ấy, nên cũng gọi là Thọ dụng thân.

Pháp thân chính là cõi Thường tịch quang. Đây là thể Nhứt chơn pháp giới bao hàm tánh tướng rộng rãi vô biên; vì Phật lấy pháp tánh pháp tướng làm thân, nên gọi là Pháp thân. Pháp thân với Tự thọ dụng thân cũng danh khác thể đồng; Tự thọ dụng thân hiển phần tướng ẩn phần tánh. Pháp thân hiển phần tánh ẩn phần tướng. Pháp thân đây vì lấy chân như bản tánh làm thân, nên cũng gọi là Tự tánh thân hay Pháp tánh thân.

Vì nghĩa Thắng ứng thân thông với Tha thọ dụng thân, Pháp thân thông với Tự thọ dụng thân; nên trong kinh luận có chỗ gọi Thắng ứng thân là Báo thân hoặc Tự thọ dụng thân là Pháp thân, làm cho người học Phật dễ bị mê mờ lầm lạc. Nơi đây xin nói rõ hơn, đối với ba thân của Phật, các hàng phàm phu Nhị thừa chỉ thấy được Ứng hóa thân; chư Bồ tát thấy được Báo thân, Báo thân này về sắc thân có vô lượng trang nghiêm; còn Pháp thân duy chư Phật mới chứng kiến một cách viên mãn. Mỗi vị Phật đều có đủ ba thân, riêng về đấng giáo chủ cõi Ta bà, thì Pháp thân Như Lai là đức Tỳ Lô Giá Na, Báo thân Như Lai là đức Lô Xá Na, Ứng thân Như Lai là đức Thích Ca Mâu Ni. Ba Đấng Như Lai này một có đủ ba, ba chính là một, chỉ vì tùy thuận thế gian mà luận ba thân thế thôi. Để giải thích thêm, đoạn trước tuy nói hàng Nhị thừa có Biến hóa thân, Chư Bồ tát có Biến Hóa thân và Báo thân nhưng thân của Nhị thừa, Bồ tát chưa được tự tại viên mãn bằng Phật.

2. Y báo: Bốn bộ của y báo là gì? Ấy là Phàm thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độ và Thường tịch quang độ.

Phàm thánh đồng cư độ là cõi có bậc Tam thừa Thánh nhơn và phàm phu ở chung. Cõi này chia ra làm hai loại: Phàm thánh đồng cư Tịnh độ và Phàm thánh đồng cư Uế độ. Uế độ như cõi Ta bà dẩy đầy non cao vực thẳm, các tướng nhơ ác, ngoài Tam thừa Thánh nhơn ở còn có vô lượng chúng sanh thuộc sáu đạo cư trú. Tịnh độ như cõi Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm, nơi đây duy có các bậc Đại thừa Thánh nhơn và những người niệm Phật vãng sanh ở.

Phương tiện hữu dư độ là tâm độ của bậc Thanh văn, Duyên giác. Nói "Phương tiện" là bởi các vị này do tu phương tiện đạo như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, phá kiến tư hoặc, chứng quả nhơn không. Gọi "hữu dư", vì hàng Thanh văn, Duyên giác còn chưa phá được trần sa và vô minh hoặc. Trí chứng của hàng Nhị thừa trên đây, thuộc về Nhứt thế trí.

Thật báo vô chướng ngại độ là báo độ của hàng Đại thừa Bồ tát. Nói "Thật báo" là bởi các bậc này do viên tu tam quán, phá hết trần sa hoặc và một phần vô minh hoặc, chứng vào báo độ chân thật của cảnh giới nhị không. Gọi "vô chướng ngại", vì trong cảnh giới này không tức sắc, sắc tức không, tâm và sắc không ngăn ngại lẫn nhau. Trí chứng của hàng Bồ tát trên đây thuộc về Đạo chủng trí.

Thường tịch quang độ là Tịnh độ của chư Phật. "Thường" tức là đức Pháp thân, "Tịch" tức là đức Giải thoát, "Quang" tức là đức Bát nhã. Đây là cảnh giới nhứt nhơn, dung thông cả tánh tướng bao la. Ba cõi trên nếu có gọi Tịnh độ là chỉ căn cứ ở ít nhiều phần thanh tịnh, riêng cõi Thường tịnh quang mới thật là Tịnh độ viên mãn cứu cánh. Cho nên kinh Nhân Vương nói: "Tam Hiền thập Thánh ở quả báo duy Phật mới trụ nơi Tịnh độ.” Và trí chứng này thuộc về Nhứt thế chủng trí.

Về chánh báo và y báo trên đây, hàng phàm phu vì mê mờ, bậc Nhị thừa còn pháp chấp, nên thấy có y, chánh riêng biệt, thân, độ khác nhau. Chư Phật và Bồ tát đã chứng lý nhị không, nên thấy y báo tức là chánh báo, quốc độ nguyên chính tự thân. Đây là những sở kiến biệt và đồng về y chánh.

Tiết III: Luận Về Đồng Biệt Di Kiến.

Đồng biệt dị kiến tức là đồng nghiệp kiến; và biệt nghiệp kiến vì chỗ thấy thuộc về đồng nghiệp và biệt nghiệp khác nhau nên gọi là dị kiến. Đồng nghiệp kiến là ví như trong một đám tiệc, những người không uống rượu, tâm trí tươi tỉnh, đồng thấy nhà cửa vẫn bình tịnh yên lặng. Biệt nghiệp kiến là như cũng chính cảnh đó, mà người say rượu riêng thấy nhà cửa bàn ghế đảo lộn, đất đai nghiêng đổ gập ghềnh. Lại như cũng đồng một thời khắc, mà người say mê công việc thấy giờ phút trôi qua rất mau, kẻ khoắc khoải trông chờ lại cảm thấy ngày dài vô tận. Và như cũng đồng một cảnh mà người có hỉ sự thấy cây cỏ vui tươi, chim hót như chào, hoa cười như đón; còn kẻ mang nặng mối sầu, lại thấy trời mây áo não, cây cỏ ưu tư, vật chi cũng đượm một vẻ u buồn. Đây cũng chỉ tạm mượn việc người để giải thích, thật ra sở kiến của các loài còn có rất nhiều sai biệt. Cảnh đồng biệt dị kiến này đối với chúng sanh toàn là vọng, với chư Phật thuần là chơn.

Luận về vọng kiến sai biệt của chúng sanh, như lửa của Ngạ quỷ, loài người thấy là nước; nước của người, Ngạ quỷ thấy là lửa hay một dòng sông máu mủ. Như một con sông, loài người thấy là sông, chư Thiên thấy là lưu ly hay bảo địa, loài thủy tộc thấy đó là nhà cửa của chúng. Như một khúc gỗ, loài người thấy là gỗ, mọt mối thấy đó là thức ăn. Lại như phẫn uế loài người thấy là chất hôi nhơ, Bàng sanh thấy là thức ăn thơm ngon; một cổ tiệc đầy đủ các món nấu nướng chiên xào, người thấy đó là trân hào mỹ vị, chư Thiên thấy là chất nhơ nhớp. Và như cung điện của người cùng quỉ thần đồng ở một chỗ, song người không thấy cung điện của quỉ, quỉ không thấy cung điện của người; quỉ đối với tường vách của người thì không ngại, với tường vách của mình thấy bị ngăn cách, trái lại với người cũng vậy. Nói chung, chúng sanh vì tùy nơi nghiệp duyên, nên đều ở trong vòng vọng kiến, đồng nghiệp thì thấy đồng, biệt nghiệp lại thấy khác.

Còn chư Phật thì vọng nghiệp tiêu trừ nên không còn sở kiến sai biệt như chúng sanh, chỉ thấy muôn cảnh đều hư huyễn toàn là một màu vắng lặng, không thật, không hư, không đồng, không khác (Phi thật phi hư, phi như phi dị, bất như Tam giới kiến ư Tam giới chi tướng. (Kinh Pháp Hoa). Cho nên cõi Phật cùng cõi chúng sanh đồng ở một chỗ, nhưng kiếp lửa chỉ làm hoại cảnh thế gian. Phật độ vẫn là bất hoại. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: "Trong mỗi mỗi sát chủng. Kiếp lửa không nghĩ bàn. Hiện cảnh tuy đại ác. Nơi ấy thường kiên cố.” Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Chúng sanh thấy kiếp hết. Lửa lớn đốt tiêu tan. Cõi ta đây yên ổn. Thiên nhơn hằng đông luôn.” Về điểm này, các nhà chú sớ cho cõi hư hoại thuộc về biến hóa độ, cõi không hư hoại chẳng phải chỉ riêng cho pháp tánh độ, mà chỉ cho tha thọ dụng độ; vì pháp tánh độ cố nhiên vẫn là như như bất hoại. Cho nên kiếp lửa chỉ thiêu hoại cảnh thế gian, không thể làm hoại báo độ của chư Phật, dù rằng hai cõi này đồng ở một nơi. Hai cõi tuy đồng, một trụ xứ mà chúng ta không thấy được Phật độ, là bởi nghiệp báo không đồng.

Như trong kinh Duy Ma, Ngài Xá Lợi Phất thấy cảnh Ta bà này đầy dẫy núi rừng hầm hố và các tướng uế ác, liền nghĩ rằng: "Đức Thế Tôn đã nói nếu tâm Bồ tát tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, mà cõi này đầy dẫy sự nhơ ác như thế, chẳng hóa ra tâm của Ngài chưa được thanh tịnh hay sao? Loa Kế Phạm vương biết ý niệm ấy liền bảo Xá Lợi Phất: "Ngài chớ nên nghĩ như thế. Chính tôi thấy quốc độ của Phật Thích Ca thanh tịnh như Tự Tại Thiên cung.” Khi ấy, Phật bảo: "Thế nào, Xá Lợi Phất! Nhật nguyệt trong sáng mà người mù chẳng thấy, đó là lỗi tại họ hay lỗi bởi đôi vầng nhật nguyệt?” Liền đó, Phật bấm ngón chân xuống đất, tức thời ba ngàn thế giới của cõi Ta bà biến thành thanh tịnh, có đủ trăm ngàn thứ kỳ trân dị bảo trang nghiêm, ví như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm Như Lai. Đại chúng thấy thế đều than thở khen ngợi cho là việc chưa từng có. Đức Thế Tôn lại bảo Xá Lợi Phất: "Phật độ của ta thường nghiêm tịnh như thế, nhưng vì muốn độ chúng sanh hạ liệt, nên thị hiện ra cõi bất tịnh uế ác này. Ví như chư Thiên ăn chung trong một bảo khí, tùy nơi phước đức hơn kém mà mỗi kẻ thấy màu sắc thức ăn khác nhau. Nếu người nào thanh tịnh, sẽ thấy cõi này có đủ công đức trang nghiêm.

Về đoạn kinh trên, Ngài Cưu Ma La Thập đã giải thích: "Chư Phật vì muốn xứng hợp với tâm chúng sanh, nên hiện ra quốc độ không đồng. Chỗ thấy của Loa Kế Phạm vương là chỉ tùy sở kiến riêng, thật ra ông cũng chưa thấy hết sự nghiêm tịnh của Phật độ đức Thích Ca. Đoạn sau so sánh Phật quốc của Đức Bổn sư như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm, thế thì biết báo độ của đức Mâu Ni Thế Tôn thật rất nghiêm tịnh và ở ngay cõi này. Đây là cảnh tịnh và uế đồng một trụ xứ song không chướng ngại và lẫn lộn nhau; ví như đồng trong một bảo khí mà hai vị Thiên tử vì phước đức hơn kém, nên thấy có hai thức ăn sai biệt.”

Tóm lại, pháp thân nguyên vô tướng, ứng vật mà hiện hình; chân độ vẫn vô phương, tùy cơ mà hiển lộ. Đây là do nghiệp thiện ác của chúng sanh và bản nguyện của chư Phật, nên trong đồng có biệt, trong biệt có đồng, trong tịnh có uế, trong uế có tịnh vậy.

Tiết IV: Luận Về Cộng, Bất Cộng Biến.

Tất cả thế giới do đâu mà có, và ai là tác giả? Đó đều do tâm mà có, và duy tâm tạo ra. Từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng sanh bởi mê chân hợp vọng, nên cấu thành A lại da thức; do thức này mà biến ra các loại căn thân và khí thế giới. A lại da tức là thức thứ tám, thức này chia làm hai phần: Kiến và Tướng. Kiến phần biến thành bảy thức trước, Tướng phần biến thành căn thân và khí giới; nội lục căn vì có chấp thọ nên thuộc về thân tướng phần, ngoại khí giới vì không chấp thọ nên thuộc về sơ tướng phần. Hai món tướng phần này đều do tứ đại hợp thành, tứ đại là năng tạo, y chánh là sở tạo, và tám thức là chủ thể của năng biến. Tám thức này chia thành tam năng biến, mà A lại da thức lại là động lực căn bản. Vì thế, Duy thức nói: "Từ vô thỉ làm nhân. Và sở y các pháp. Do đây có các nẻo. Cùng sự chứng Niết bàn.” Lại nói: "Ba cõi không có pháp chi khác, chỉ là một tâm tạo ra. Tất cả Nhân quả, thế giới, vi trần đều nhân tâm mà thành thể.”

Theo như trên, nếu thức biến tợ ra thế giới, là mỗi thức riêng biến, hay là các thức chung biến?

Lý này rất uẩn khúc, xin chia làm bốn nghĩa để giải thích:

1. Cộng trung cộng biến: Đây là do sức thành thục của bát thức cộng tướng chủng, biến ra các tướng thế gian. Trong đây, tuy sở biến của các hữu tình đều riêng, mà tướng tương tợ không khác. Ví như một vùng đèn đuốc sáng tuy sự sáng ấy do từ cá biệt của các ngọn đèn hợp lại, nhưng tánh cách sáng của mỗi ngọn đèn đại để đều giống nhau, nên chúng mới tương hợp được. Như núi non do sức nghiệp Kiến chấp của những cá biệt chúng sanh hợp lại biến thành, sông ngòi do sức nghiệp Tham ái của những cá biệt chúng sanh họp lại mà huyễn hiện. Đây gọi là cộng biến (cộng trung). Trong tướng non sông vô chủ tất cả cảnh giới đều tiêu tan, lẽ ấy không còn nghi ngờ chi nữa!

Biểu đồ Mười Thế Giới Chủng ($ bieu do)

Thế Giới Hải Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm

2. Cộng trung bất cộng biến:

Đây là cảnh tự biến và riêng mình được thọ dụng trong tướng cộng biến. Như một dãy núi non hay một vùng ruộng nương rộng rãi, tuy do nghiệp thức của nhiều chúng sanh biến hiện; nhưng có một khoảnh núi hay ruộng do tự thức mình biến tạo và riêng mình được thọ dụng. Lại như một khu đô thị do nhiều lầu đài nhà cửa của nhiều người hợp lại mà thành, nhưng trong ấy có một ngôi nhà do mình kiến tạo và chỉ riêng mình được làm chủ; cảnh tự biến trong cộng biến là như vậy.

3. Bất cộng trung cộng biến:

Đây là cảnh sở hữu của một người mà kẻ khác có thể tạo tác và thọ dụng. Như một khu vườn đất rộng, trước tiên do một người khai khẩn và làm chủ. Sau người này lại cho nhiều kẻ khác mướn; những kẻ ấy có thể cất nhà cửa, trồng cây cối nơi những vuông đất mình mướn, và đều có thể thọ dụng phần tạo tác của mình. Vì cảnh tướng trong khu đất rộng ấy tuy do một người tạo lập và làm chủ, nhưng thật ra cũng do nhiều kẻ khác kiến thiết và được thọ dụng, nên gọi là cảnh bất cộng trung cộng biến.

4. Bất cộng trung bất cộng biến:

Đây là cảnh riêng mình tạo lập và riêng mình làm chủ. Như anh thợ mộc cất một ngôi nhà, đóng những giường tủ bàn ghế tùy tự ý để cho mình thọ dụng. Những thứ này do anh tạo ra và chính anh làm chủ, nên thuộc về cảnh bất cộng trung bất cộng biến.

Bốn nghĩa thế gian tướng trên đây tuy có uẩn khúc, nhưng đều không ngoài những điểm: tự biến, cộng biến, tự thọ dụng, cộng thọ dụng.

Đến đây có một điểm nghi cần giải thích. Theo như trên đã nói thì sắc do thức biến, nhưng tại sao chư Thiên ở cõi Tứ không còn tâm thức, mà cõi ấy lại gọi là Vô sắc? Vô sắc giới chẳng phải không có hình tướng, nhưng vì sắc chất ấy quá vi tế con mắt tầm thường không thể thấy được, nên gọi là Vô sắc. Như Kinh Hoa Nghiêm đã nói: "Tỷ căn của Bồ tát ngửi biết được mùi thơm nơi cung điện của cõi Vô sắc.” Kinh A Hàm cũng nói: "Khi Tôn giả Xá Lợi Phất nhập Niết bàn, chư Thiên ở cung trời Vô sắc rơi nước mắt như mưa!” Cho nên chỗ thấy của chúng sanh ở hạ giới thuộc về nghiệp quả sắc, hiện cảnh của Vô sắc giới về thuộc định quả sắc.

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Nếu người muốn biết rõ. Chư Phật trong ba đời. Nên quán tánh pháp giới. Tất cả do tâm tạo.” Trong lý tâm tạo này lại có nghĩa Tự tại biến và Bất tự tại biến. Bất tự tại biến là chúng sanh do biệt nghiệp mà có những cảnh tướng biến hiện riêng, và bị cảnh giới ấy chi phối nên không được tự tại. Như loài Ngạ quỷ do nghiệp tham lam bỏn sẻn, nên thấy đâu cũng là cảnh sông máu, biển lửa hay sa mạc khô khan, rồi bị khổ trong đó không được tự do. Bởi chúng sanh do biệt nghiệp khiến mỗi loài có những cảnh tướng riêng như thế, nên cảnh ấy cũng gọi là Tương vi thức tướng. Tự tại biến là bậc đắc đạo, đã phá tan hoặc nghiệp chứng lý duy tâm, nên có thể biến hiện cảnh tướng một cách tự tại, như chỉ cõi đất hoá vàng ròng, khuấy sông dài thành tô lạc. Đây là cảnh tùy theo chân trí mà biến chuyển, cảnh này gọi là Sắc tự tại tướng.

Tóm lại, trong pháp giới tất cả đều do tâm tạo, mà tâm là vật, vật là tâm, nên đức Phật đã bảo: "Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức.” Đáng lẽ trong đây nên minh luận về các lý Duyên khởi của Pháp giới, nhưng vì chương này có hạn, và bản ý của bút giả cũng muốn lưu lại mục ấy để phân biệt giữa thuyết Duy tâm và Duy thần trên phương diện tìm đường Giải thoát, nên xin hẹn lại ở Thiên sau.

(Hết quyển thứ hai)


Phật Học Tinh Yếu Thiên 1" />

Phật học Tinh Yếu Thiên 3" />