Giáo dục Phật giáo: quá khứ và hiện tại

I. Một vài khái niệm về giáo dục

Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra[1].

Giáo dục có thể được định nghĩa như là một tiến trình mà qua đó một xã hội truyền trao kiến thức, các giá trị, những tiêu chuẩn hành xử và tư tưởng cho những thế hệ tiếp nối; trang bị cho lớp trẻ những vai trò của người lớn và trang bị cho người lớn những vai trò mới. Hay nói cách khác đó là sự truyền trao văn hóa xã hội cho thế hệ kế tiếp và bồi dưỡng những kiến thức, giá trị mới cho những người trưởng thành[2].

Giáo dục thường được xem như một công cụ giải quyết những vấn đề xã hội, có thể chuyển đổi những người nhỏ từ những nền tảng xã hội khác nhau trở thành những người trưởng thành, có trách nhiệm và tiến bộ. Plato cho rằng mục đích của giáo dục là để phát triển hoàn thiện cơ thể và tâm hồn của những học sinh. Trong khi theo Aristotle, giáo dục là để phát triển những khả năng của con người, đặc biệt là tâm trí, để người ta có thể thưởng ngoạn được chân lý cuối cùng, cái đẹp và những điều thiện lành. Durkkheim thì quan niệm giáo dục như là sự xã hội hóa thế hệ trẻ hơn[3].

Thông thường người ta hiểu giáo dục có nghĩa là việc truyền trao kiến thức, nhưng thực ra giáo dục có phạm vi rộng hơn nhiều việc truyền thụ kiến thức. Giáo dục là một tiến trình đa dạng mà trong đó việc trao truyền kiến thức chỉ là một bộ phận. Giáo dục bao gồm cả việc huấn luyện những năng lực tư tưởng, cảm xúc, ý chí và hành động; bao gồm việc phát triển những khả năng để nhận thức, phân biệt, chọn lựa, cảm nhận và hành động. Nó chuẩn bị đời sống để sống với người khác; chuẩn bị cái toàn thể cho đời sống, phát triển đời sống tinh thần, khai mở những giá trị tâm linh…

Giáo dục cũng được hiểu là một quá trình làm mới bản thân. Đời sống là một tiến trình tự làm mới thông qua hành động dựa trên môi trường sống. Giáo dục là bộ phận của tiến trình sống. Nó là sự thích nghi của một con người - con người có ý thức với môi trường sống - và là sự phát triển khả năng trong mỗi con người để thay đổi bản thân hay thay đổi môi trường đó.

Vẫn có những quan điểm khác nhau về mục đích của giáo dục, hay nói cách khác là những mục đích của giáo dục học rất rộng rãi và được chọn lựa theo cách này hay cách khác bởi những người khác nhau và bởi những xã hội khác nhau.

Giáo dục có thể được xếp thành ba mục tiêu chính, và ba mục tiêu này được nhấn mạnh khác nhau bởi những xã hội khác nhau: 1. Để đào tạo con người thành những thành viên tốt của xã hội. Những thành viên tốt của xã hội phải hội đủ hai khả năng: tự lao động kiếm sống và thích ứng được với các thành viên khác trong xã hội - tức là biết được các thể thức, thủ tục và phương cách sống có thể chấp nhận được đối với xã hội đó; 2. Để huấn luyện con người thành những con người tiến bộ theo học thuyết và niềm tin mà xã hội đó duy trì; và 3. Một vài nhà xã hội học cho rằng con người sở dĩ khác với muông thú là vì họ biết cách tìm kiếm và nhận biết được một vài sự thật bên trong họ; và giáo dục là cách tìm kiếm những sự thật này[4].

Giáo dục có một vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội. Và trong thời buổi hiện nay, giá trị của giáo dục được coi trọng trong nhiều phương diện, đặc biệt là lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội. Giá trị của giáo dục được nghiên cứu rộng rãi và cho thấy rằng, một nông dân được giáo dục tốt thì có những thuận lợi hơn đối với những cơ hội công nghệ; và rằng một phụ nữ được giáo dục tốt sẽ tạo nên hiệu quả tốt trong việc chi tiêu các khoản trong gia đình, bao gồm khoản nuôi nấng con cái. Lý thuyết về hiện đại hóa cho rằng giáo dục đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, nên đối với những quốc gia đang phát triển giáo dục là phương tiện nhằm rút ngắn khoảng cách giữa những nước có nền công nghiệp cao và những nước đang phát triển.[5] Sự cạnh tranh trong các lãnh vực như chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đã khiến cho các quốc gia nhận ra rằng một trong những phương tiện quan trọng trong sự cạnh tranh này là giáo dục, và vì thế nhiều quốc gia đã tích cực dốc hết tâm trí vào việc tổ chức, quản lý, khuyến khích và điều chỉnh giáo dục.

II. Giáo Dục Phật Giáo: Quá Khứ

Có ý kiến cho rằng khó có thể trình bày về một hệ thống lý thuyết giáo dục Phật giáo, bởi vì việc thiếu vắng những tài liệu và ghi chép liên quan đến hệ thống giáo dục Phật giáo. Không có bằng chứng để xác minh giáo dục Phật giáo đã bắt đầu từ khi nào và các tự viện Phật giáo đã trở thành những trung tâm giáo dục trong những trường hợp nào, với ý nghĩa rằng giáo dục không chỉ là việc huấn luyện những người tu hành mà còn là những phân ngành giáo dục thế tục khác[6].

Nếu hiểu giáo dục trong ý nghĩa thông thường với sự có mặt của trường học, với những nguyên tắc và phương pháp của nó thì thật khó biết được hệ thống giáo dục Phật giáo đã được hình thành từ khi nào. Tuy nhiên, nếu xét giáo dục theo nghĩa rộng đã được trình bày ở trên thì có thể nói rằng giáo dục Phật giáo được bắt đầu từ thời điểm đức Thế Tôn thuyết bài pháp đầu tiên cho năm anh em Tôn giả Kiều Trần Như tại Lộc Uyển, Sarnath, “Này các vị, hãy lắng nghe. Pháp bất tử đã được phát hiện; ta sẽ chỉ dẫn và giảng dạy Pháp ấy”[7].

Sự hóa độ và thu nhận năm anh em Tôn giả Kiều Trần Như là khởi xuất cho sự hình thành Tăng đoàn và cũng là khởi đầu cho mối quan hệ giữa thầy và trò trong cộng đồng Phật giáo. Sự hình thành nên mối quan hệ giữa thầy và trò cũng là sự hình thành nên việc dạy và học. Việc học như vậy đầu tiên là học về những gì đức Phật đã khám phá và tri tường thông qua kinh nghiệm giác ngộ của Ngài. Giáo dục Phật giáo do đó trước hết được hiểu là sự khai mở tâm thức của một người đối với một người khác, khiến cho người ấy thấy được “Pháp bất tử”, hay nói cách khác là thấy được thực tại của các pháp nhờ vào sự khai mở của vị thầy và việc thực hành quán chiếu bằng trí tuệ của chính người ấy. Trong bối cảnh này, giáo dục Phật giáo được hiểu là phương cách vượt qua vô minh (avijjā) để đạt đến trí tuệ (prajñā). Giác ngộ và giải thoát có thể đạt được bằng việc diệt trừ đi vô minh.[8]

Sau khi Tăng đoàn được hình thành và dần phát triển về số lượng người gia nhập, thì nhu cầu về những nơi chốn tương đối ổn định để tăng chúng cùng nhau tu học và làm nơi thuyết giảng cho tất cả mọi hạng người trong xã hội - những người muốn nghe pháp - là điều được tính tới và đó là lý do để các tinh xá bắt đầu được hình thành; và các tinh xá được xem như là những trung tâm giáo dục đầu tiên của Phật giáo, trước hết là để huấn luyện và giáo dục cho cộng đồng tăng lữ về kinh và luật do đức Phật đã dạy và chế định.

Theo thời gian, với sự hình thành luận tạng (Abhidhamma), sự phân chia bộ phái, cùng với sự sinh khởi của Phật giáo Đại thừa, giáo dục Phật giáo, triết học kinh viện và những hoạt động học thuật đã nhận lấy một sự thúc đẩy lớn lao và đây là động cơ để hình thành nên những tu viện không chỉ là nơi tu tập mà đã trở thành những trung tâm giáo dục và huấn luyện về nhiều phương diện. Ở đó không chỉ giảng dạy giáo thuyết, giới luật và những vấn đề bộ phái mang bản chất học thuật, mà những bộ môn nghệ thuật và việc nghiên cứu thế tục khác cũng đã được đưa vào. Không chỉ Tăng sĩ, mà ngay cả người thế tục cũng được tham dự vào giáo dục tự viện Phật giáo.[9] Và có những tu viện con số hiện diện lên đến sáu, bảy trăm người, theo như ghi chép của ngài Pháp Hiển khi đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ V.

Có thế nói giáo dục Phật giáo phát triển thành hệ thống hoàn chỉnh về nhiều phương diện bắt đầu vào khoảng từ thế kỷ thứ 5 với sự có mặt của những đại học Phật giáo quy mô như Nālandā, Vikramśīlā, Uddaṇḍapura, Vilabhī… Trong số những đại học này, Nālandā được xem là nơi có hệ thống giáo dục cao, quy mô và hoàn thiện nhất, với rất nhiều sinh viên theo học và giáo sư giảng dạy, con số lên đến mười ngàn người[10]. Cũng có những sinh viên từ các nước khác đến đây theo học. Và các môn học không chỉ thuần túy về triết học Phật giáo mà còn cả những bộ môn khác như toán, thiên văn, y học, luận lý, triết học, ngôn ngữ… Nālandā đã trở thành một trường đại học đúng nghĩa với hệ thống nhập học và thi cử bài bản. Hệ thống thư viện cũng đã phát triển hoàn chỉnh với số lượng kinh sách đồ sộ. Nālandā cũng là nơi đã đào tạo nên những nhà Phật học danh tiếng như Dharmapāla, Dharmakīrti, Śāntideva, Buddhabhadra…[11]

Đại học Nālandā ngoài việc làm nơi giảng dạy, còn là nơi tranh biện của các bậc thức giả trong giới Phật giáo và những tôn giáo khác. Việc nghiên cứu kinh viện và tranh biện đã đưa giáo dục Phật giáo đạt đến một tầm mức cao, nhưng cũng vì quá chú trọng vào mặt này đã khiến cho Phật giáo xa rời và mất điểm tựa nơi tầng lớp bình dân. Và đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân làm cho Phật giáo suy tàn nhanh chóng tại Ấn Độ sau sự tấn công của những người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ XIII.

Với sự tàn phá của những người Hồi giáo nhắm vào những cơ sở Phật giáo, hàng loạt đại học và tự viện bị đốt phá và chôn vùi, Phật giáo đi đến điểm cuối của thời kỳ suy tàn và hệ thống giáo dục Phật giáo mang tính học thuật và hàn lâm nhất cũng đã chấm dứt. Nhưng trong khi Phật giáo bị khai tử trên chính mảnh đất khai sinh ra nó thì nó vẫn tồn tại và phát triển trên những mảnh đất khác trong khu vực. Và theo như truyền thống buổi đầu, được truyền bá đến nơi nào, tịnh xá hay tự viện Phật giáo đều trở thành những trung tâm giáo dục của Phật giáo.

Khi truyền qua Trung Hoa, để tồn tại và phát triển ở một xứ sở có nền văn hóa và tư tưởng triết học lớn mạnh, đặc biệt là Khổng giáo và Lão giáo, giáo dục Phật giáo bên cạnh việc giảng dạy giáo lý, đã phát triển tối đa những môn học về logic để có thể làm phương tiện trong quá trình truyền bá, cũng không loại trừ việc học những môn học như thiên văn, toán và y học mà các Tăng sĩ Đại thừa ở Ấn Độ thường tinh thông. Phật giáo có những thời kỳ phát triển rực rỡ ở Trung Hoa, tuy nhiên vẫn không hề có một trường đại học Phật giáo nào với đầy đủ ý nghĩa của một trường đại học như Nālandā được hình thành ở đây. Dù hình thành nên nhiều tông phái, giáo lý được giải thích theo nhiều khía cạnh khác nhau, vấn đề tranh biện giữa Phật giáo với nhau và giữa Phật giáo với những hệ thống triết học khác diễn ra rất sôi nổi, thì tất cả những hoạt động ấy vẫn chỉ diễn ra trong phạm vi tự viện. Nhưng tuy vậy có những thời kỳ, tự viện không chỉ là những nơi giáo dục dành cho Tu sĩ hay giới Phật giáo, mà còn cho mọi hạng người trong xã hội. Ở Trung Hoa và Việt Nam, ở những thời kỳ khi mà tầng lớp Nho gia nắm quyền thống trị chính trị và tư tưởng, việc học chỉ dành cho một bộ phận người đặc biệt trong xã hội, thì tự viện là nơi giáo dục phổ thông cho quần chúng bình dân. Điều này cũng xảy ra ở Nhật Bản.

Ở Nhật, suốt nhiều thế kỷ, giáo dục đều do Phật giáo kiểm soát. Phật giáo giảng dạy về y học, nghệ thuật, sáng tác kịch nghệ và thi ca, ảnh hưởng đến chính trị và nhiều khía cạnh  khác của xã hội. Phật giáo là một người thầy hướng dẫn mà qua đó quốc gia đã lớn lên!

Ở Hàn Quốc, Phật giáo đã có nhiều thế kỷ hưng thịnh và có ảnh hưởng sâu rộng, ít nhất là từ thế kỷ thứ 10-14. Trong thời kỳ này tăng sĩ được đào tạo và huấn luyện kỹ về nhiều lĩnh vực ở tu viện. Các tu viện Phật giáo bên cạnh giảng dạy cho Tăng sĩ về kinh-luật-luận, còn huấn luyện họ trở thành những người có thể gìn giữ và truyền bá giáo lý và thiết lập một xã hội dựa trên những giá trị Phật giáo[12]. Nhưng trong quá khứ, các tu viện hầu như chỉ dành cho việc huấn luyện Tăng lữ, hàng thế tục không được tham dự vào. Không có tài liệu nào cho thấy rằng giáo dục tự viện được mở rộng cho hàng thế tục ở đây[13].

Các nước theo Phật giáo Theravada trước hết cũng đi theo hệ thống giáo dục tự viện. Tất cả những quốc gia theo Phật giáo Theravada, những tự viện của họ đều đóng chức năng như những trung tâm giáo dục liên quan đến những vấn đề tôn giáo, đạo đức…[14] Tự viện là nơi huấn luyện Tu sĩ, giảng dạy giáo pháp và truyền bá giáo lý. Ở Tích Lan, về sau giáo dục tự viện không chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu và giảng dạy giáo lý Phật giáo, mà còn là nơi giảng dạy văn học, ngôn ngữ cùng nhiều môn học khác. Và một vài tu viện cũng đã phát triển thành những trường đại học quy mô. Tu viện không chỉ dành cho việc cư trú và đào tạo Tăng sĩ mà còn là trường học của nhiều hạng người. Ở những làng quê, tự viện trở thành trường học dành cho con em trong làng, và ngay cả con cái của những người trưởng làng cũng được giáo dục tại đây[15]. Ở Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam-bốt, giáo dục tự viện cũng rất có ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.

Giáo dục Phật giáo ở các nước theo Phật giáo Theravada rất chú trọng vào việc huấn luyện đạo đức cho hàng tại gia, và một trong những sáng tạo đặc sắc của truyền thống này là quy định thời hạn xuất gia cho những người trẻ tuổi, tạo một thời gian nhất định để họ có điều kiện học hỏi giáo lý, tu tập thiền định và phát triển đạo đức. Hình thức này không chỉ là vấn đề giáo dục đạo đức, mà còn là phương cách lưu giữ những giá trị văn hóa và tôn giáo một cách hữu hiệu nhất. Và đây cũng có thể là một cách thức giúp cho các nước theo Phật giáo Theravada giữ gìn được truyền thống tôn giáo của mình khá trọn vẹn.

Vài đặc tính và mục đích của giáo dục Phật giáo

Giáo dục Phật giáo thường vẫn được hiểu như là một nền giáo dục tự viện. Các đại học Phật giáo ở Ấn Độ cũng đều được phát triển lên từ nền giáo dục tự viện này, ngay cả đại học Nālandā.

Vào buổi đầu Phật giáo, kinh điển lưu giữ dưới dạng khẩu truyền nên người học cần phải thân cận thầy và hội chúng để nghe giảng dạy cũng như tụng đọc lại những gì đã ghi khắc được trong tâm trí. Hình ảnh người đệ tử ngồi bên thầy để nghe những gì được dạy khiến ta liên tưởng đến việc giáo dục “quỳ bên chân thầy” của Upanishad. Cách thức giảng dạy thông qua hình thức đối thoại, so sánh và đôi khi cả tranh biện.

Giáo dục Phật giáo là một quá trình tiệm tiến. Nghe giảng dạy, ghi nhớ, suy nghiệm và thực tập (văn - tư - tu) được xem như là một tiến trình giáo dục, không phải chỉ xảy ra trong chốc lát mà là một quá trình diễn tiến thứ bậc. Đức Phật dạy, “Này các Tỳ-kheo, ta không nói rằng việc chứng đạt trí tuệ sâu thẳm đến ngay lập tức, mà nó đến bằng một sự tu tập tuần tự.”[16] Dù sau này Thiền tông có xiển dương học thuyết “đốn ngộ” thì đốn ngộ vẫn không phải xảy đến bất chợt đối với người chưa từng tu học Phật pháp (kiếp quá khứ và đời hiện tại). Đốn ngộ chỉ xảy ra với những người tu tập “tiệm tiến” trước đó!

Mục đích chính của giáo dục Phật giáo là để tạo nên một con người tự do, có đạo đức, có trí tuệ. Giáo dục Phật giáo tạo nên một con người sống có lý tưởng, suy nghĩ hợp lý, thích ứng được với bối cảnh xã hội. Giáo dục Phật giáo cũng được hiểu là một quá trình “nuôi lớn Thánh thai”. Việc học như vậy sẽ không có khóa học và không có thời gian hạn định. “Thánh thai” được trưởng thành trong bao lâu điều đó tùy vào sự nỗ lực của mỗi người. Nhưng đó là nói trên mặt lý tưởng, trong thực thế ta có thể xếp mục đích giáo dục Phật giáo theo bốn phần như  Tỳ-kheo Bodhi đã làm:

(1) Giáo dục Phật giáo trước hết là dạy cho người khác biết và hiểu kinh điển Phật. Phật giáo là một tôn giáo có nhiều kinh sách, từ các kinh được đức Phật hay những vị đại đệ tử của Ngài giảng dạy, cho đến những lời dạy của các vị A-la-hán và Bồ-tát, những luận giải của các triết gia Phật giáo. Vì vậy mục đích đầu tiên của giáo dục Phật giáo là học những kinh sách này, và sử dụng chúng như là một thấu kính để hiểu ý nghĩa của lời Phật dạy.

(2) Học kinh như là một phần của tiến trình tu tập. Như vậy mục đích thứ hai của giáo dục Phật giáo là để chuyển đổi bản thân, tức là việc học giáo pháp để làm cho chúng ta trở thành những con người tốt hơn, những con người có phạm hạnh và đạo đức hơn, trở thành những con người tử tế, chân thật, từ bi và biết kính trọng người khác.

(3) Giáo dục là để phát triển trí tuệ, hiểu thấu bản chất thật sự của các pháp, hiểu được những điều luôn chân thật và có giá trị. Cho dù một vị Phật có dạy hay không thì Pháp ấy, những điều ấy vẫn luôn như vậy. Một vị Phật là người phát hiện ra Pháp, những nguyên lý chân thật của thực tại, và tuyên bố chúng với thế gian. Học Phật là đi theo con đường đức Phật đã dạy để nhận chân sự thật, để qua đó loại bỏ những quan điểm sai lầm, đào luyện tâm và có thể nhận ra được sự thật.

(4) Giáo dục Phật giáo đào tạo nên những con người có thể đem giáo pháp của đức Phật truyền trao lại cho những người khác. Nghiên cứu Phật pháp là để làm lợi ích cho cuộc đời này, để cho có nhiều người được hưởng lợi ích từ việc thực hành theo giáo pháp ấy. Giáo dục Phật giáo như vậy là đào tạo nên những con người biết phụng sự người khác[17].

Mối liện hệ giữa thầy và trò trong giáo dục Phật giáo

Trong truyền thống tu viện Ấn Độ cổ đại, mỗi người khi xuất gia sẽ được dẫn dắt và chỉ dạy bởi hai vị thầy: Hòa thượng (Upājjhāya) và A-xà-lê (Ācariya). Hòa thượng là người giảng dạy cho đệ tử những vấn đề quan yếu của giáo pháp đức Phật, trong khi A-xà-lê là người xem xét căn cơ của người đệ tử để thiết lập đệ tử vào con đường chánh đạo[18].

N. Dutt thì cho rằng A-xà-lê hướng dẫn người nhập đạo thực hành thiền định và tu tập. Còn Hòa thượng là người dạy Tam tạng (Tripitaka) và truyền đạt những kiến thức tổng quát, những phương diện phổ thông của Phật giáo.[19]

Như vậy, giáo dục Phật giáo trong buổi đầu đã hình thành nên mối liên hệ hỗ tương giữa thầy và trò. Bổn phận của người đệ tử đối với thầy và nhiệm vụ của thầy đối với đệ tử được trình bày rất chi tiết và rõ ràng trong Đại phẩm. Và mối quan hệ giữa thầy và trò được coi như quan hệ giữa cha và con, rất mật thiết và đầy tình thương yêu, “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép vị thầy tế độ. Này các tỳ-kheo, vị thầy tế độ sẽ gợi lên nơi người ở cùng phòng (đệ tử) thái độ của một người con và người đệ tử sẽ gợi lên ở vị thầy tế độ thái độ của một người cha. Như thế, trong khi sống cùng với nhau, họ có sự kính trọng, tôn trọng, có sự tương kính nhã nhặn với nhau; họ sẽ đạt đến sự lớn mạnh, tăng trưởng, phát triển trong Pháp và Luật này…”[20] Về bổn phận của người đệ tử đối với thầy cũng được trình bày chi tiết trong các luật học dành cho người Sa-di ở trong truyền thống Bắc truyền.

Theo truyền thống giáo dục tự viện, thầy là người chịu trách nhiệm đối với việc phát triển thể chất, đạo đức và tâm linh của đệ tử. Thầy thương yêu đệ tử và giúp họ trong mỗi vấn đề. Thầy cũng quan tâm đệ tử trong khi họ bệnh tật và gặp những vấn đề rắc rối, chịu trách nhiệm cho việc ăn ở và những nhu cầu sống khác của đệ tử, theo dõi sát sao sự phát triển của đệ tử, đặc biệt quan tâm đến việc tuân giữ các giới luật, cũng để tâm đến việc học hành và tu tập của họ. Ngược lại, người đệ tử phải luôn tôn kính thầy, phụ giúp thầy những công việc thường ngày bằng tất cả sự nhiệt tâm, chăm sóc hầu hạ thầy lúc thầy bệnh, gánh vác và chia sẻ những công việc khó nhọc của thầy…[21]

Quan hệ thầy trò trong Phật giáo không chỉ là mối quan hệ trực tiếp giữa hai thế hệ kế tiếp mà còn là một chuỗi tiếp nối dài lâu, trải qua nhiều thế hệ. Điều này thể hiện rõ nét hơn nơi Phật giáo Trung Hoa, Nhật Bản và cả Việt Nam. Phật giáo Trung Hoa là sự kết hợp của nhiều tông phái, và sự truyền thừa của mỗi tông phái là một chuỗi nối tiếp chặt chẽ giữa thầy và trò. Trong Thiền tông, sự truyền thừa này có lẽ dễ thấy nhất. Ở đây sự truyền thừa không chỉ là sự tiếp nối mà còn là sự xiển dương tông phái của mình, làm cho lời dạy của người đi trước được rõ nghĩa và cũng làm thích ứng những lời dạy đó vào từng thời đại. Có những người thầy, có khi tên tuổi của mình được biết đến phải nhờ đến những người về sau.

Trong tự viện, người đệ tử để trở thành nên một con người có đủ tài đức thì sự góp phần của người thầy không nhỏ. Nhưng trong mối quan hệ hỗ tương, người đệ tử cũng có thể góp phần đem lại sự thành công cho thầy mình trong việc xiển dương Phật pháp. Một con người dù tài năng đến đâu, nếu không có được sự giúp sức của người khác thì vẫn gặp nhiều hạn chế trong công việc của mình. Bằng chứng dễ thấy là giữa Lục tổ Huệ Năng và ngài Thần Tú. Ngài Huệ Năng được biết đến như ngày hôm nay tất nhiên là do tư tưởng siêu xuất của ngài, nhưng cũng không thể phủ nhận sự góp công của những vị đệ tử về sau, mà cụ thể là Thần Hội. Pháp Bảo Đàn kinh sẽ không được hình thành nếu không có những vị đệ tử tài giỏi tiếp nối! Ngài Thần Tú xuất hiện trong Pháp Bảo Đàn với một hình ảnh khiêm tốn cũng chỉ vì đệ tử của ngài đã không làm gì nổi để xiển dương đường lối của thầy mình!


 

III. Giáo Dục Phật Giáo: Hiện Tại

Thế kỷ 20 là thế kỷ mà Phật giáo đã đối mặt với rất nhiều vấn đề và có sự biến chuyển lớn lao bởi sự tác động khách quan của những điều kiện lịch sử và xã hội. Sự va chạm mạnh mẽ với nền văn minh Tây phương đã có lúc khiến cho giới Phật giáo cảm thấy chao đảo bởi không ít người là Phật tử hoặc mang truyền thống Phật giáo đã hồ hởi đón nhận nền văn minh mới mẻ đối với họ và quay sang phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống. Cũng trong thế kỷ 20, Phật giáo, phần lớn Phật giáo Đại thừa, lại phải đối mặt với một hệ tư tưởng chống tôn giáo rộng khắp trên những đất nước mà ở đó mình hiện diện. Va đập, đối đầu, bị công kích, thậm chí bị tàn phá và thủ tiêu, thế kỷ 20 có thể nói là một thế kỷ đầy “bi kịch” đối với Phật giáo Đại thừa (gồm cả Mật giáo). Tuy nhiên trong thế kỷ 20, nơi này nơi kia vẫn mở ra những cơ hội đối với Phật giáo, ít nhất là ở Ấn Độ.

Như đã biết, Ấn Độ trở thành thuộc địa của Anh từ giữa thế kỷ 18. Sự cai trị và “khai hóa” của Anh đã đưa nhiều nhà khảo cổ, học giả… đến với mảnh đất này mà sự khảo sát và nghiên cứu của họ đã khai mở lại những giá trị đã bị lãng quên bấy lâu, và Phật giáo là một trong những giá trị đó. Với sự hình thành của Hội Pali Texts Society vào cuối thế kỳ 19 đi kèm theo nghiên cứu và dịch thuật, cùng với các công trình khảo cổ nổi tiếng của Alexander Cunningham, cũng như sự có mặt và góp sức của The Mahabodhi Society do Dharmapala thành lập ở Srilanka nhưng có trụ sở ngay sau đó ở Calcutta (thủ đô cũ của Ấn), đã là những cơ hội đầu tiên cho hình ảnh Phật giáo xuất hiện trở lại ở đất nước này. Những khám phá, nghiên cứu và góp công của những tổ chức này về sau có những tác động nhất định đến giới văn nghệ sĩ Ấn cũng như những nhà lãnh đạo của đất nước này, mà những phát biểu của họ đã có những ảnh hưởng tích cực đối với Phật giáo.

Nhưng sự hồi sinh chính thức của Phật giáo tại Ấn phải kể đến từ sau sự kiện B. R. Ambedkar quy y theo Phật giáo cùng với hàng trăm ngàn người đi theo và ủng hộ ông. Sự kiện này đã trở thành một phong trào tôn giáo xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ, tác động sâu sắc vào tầng lớp giai cấp thấp, đưa đến những cuộc cải đạo tập thể đông đảo, làm trỗi dậy hình ảnh Phật giáo đã bị chôn vùi trong nhiều thế kỷ. Phật giáo được hồi sinh với sự giải thích giáo lý theo B. R. Ambedkar đã khiến nhiều người gọi đó là Phật giáo Mới, hay Phật giáo Ambedkar!

Số người quy ngưỡng theo Phật giáo từ phong trào của B. R. Ambedkar, cộng với số lượng tín đồ ở các vùng giáp ranh với Tây Tạng và Miến Điện như Ladakh, Moziram và Sikkim…  đưa số lượng tín đồ Phật giáo tại Ấn Độ hiện nay lên được con số 6.5 triệu người, chiếm 0.76 % dân số Ấn[22]!

Phật giáo tại Ấn như vậy chính thức được hồi sinh vào giữa thế kỷ 20, và do vì vừa mới hồi sinh chỉ trong vòng vài thập kỷ nên cộng đồng tăng lữ ở đây rất còn “non trẻ”. Những người xuất gia phần lớn xuất thân từ tầng lớp giai cấp thấp nên trình độ học vấn khá hạn chế, trong khi đó những ngôi chùa của Ấn chưa đủ khả năng trở thành những tu viện có thể huấn luyện và đào tạo họ thành những tăng sĩ thông thạo trong lĩnh vực chuyên môn của họ, và giáo dục tự viện nói chung không có gì để nói. Chỉ trừ những tu viện theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng ở Ladakh, Sikkim, Dharamsala và Nam Ấn, cũng như một vài trung tâm tu thiền theo truyền thống Vipassana mà có thể được coi như là những trung tâm giáo dục Phật giáo.

Từ giữa thế kỷ XX, Phật giáo cũng đã trở thành một môn học trong nhiều trường học, và trở thành phân khoa trong một số trường đại học khác ở Ấn Độ. Nhưng việc dạy Phật học tại các đại học không phải là giáo dục Phật giáo, đó chỉ đơn thuần là giảng dạy văn hóa, lịch sử và triết học của một tôn giáo. Giáo dục Phật giáo phải là một nền giáo dục được dựa trên triết học giáo dục Phật giáo, tức là nền giáo dục đó phải hướng đến những mục đích mà Phật giáo nhằm đến (đã nói ở phần một). Giáo dục Phật giáo không chỉ có nghĩa là việc truyền trao kiến thức về văn học, lịch sử và triết học của Phật giáo đến một bộ phận người nào đó, mà còn đào tạo nên những con người ngoài việc có kiến thức Phật học, cần phải tu tập bản thân và cống hiến cho xã hội những giá trị sống của Phật giáo mà mình đã hấp thụ được…

Ở Trung Quốc, với Cách mạng Tân Hợi 1911, đưa đến sự cáo chung của vương triều nhà Thanh, kết thúc thời kỳ phong kiến hàng ngàn năm, dẫn đến những thay đổi xã hội lớn lao từ những thập niên đầu của thế kỷ 20. Sau cách mạng Tân Hợi, giới trí thức Trung Quốc hầu như hướng về văn minh Tây phương. Nhập nhằng giữa tinh thần khoa học và các giá trị văn hóa, họ quay sang coi nhẹ những giá trị truyền thống. Phật giáo Trung Quốc với sự đình trệ trong những thế kỷ trước đó đã không tạo nên được một hình ảnh đẹp đẽ và không còn hấp dẫn đối với tầng lớp trí thức, và rồi trở thành đối tượng bị lên án bởi nhiều người.

Từ sau 1949, Phật giáo Trung Quốc lại phải đối mặt với một làn sóng chống tôn giáo mới. Tuy nhiên cao trào chống Phật giáo ở đây phải kể từ 1966-1976, trong cái gọi là Đại cách mạng văn hóa. Trong thời kỳ này, nhiều chùa chiền bị đập phá, tăng sĩ bị buộc hoàn tục, nhục thân xá lợi của các thiền sư bị đem đi thiêu đốt, đất đai bị chiếm dụng…[23] Nhưng tất cả những điều đó chưa phải là “pháp nạn” chính của Phật giáo Trung Quốc thời kỳ này, mà pháp nạn chính là từ sau đó các thế hệ học sinh bị giáo dục để nhìn tôn giáo, cụ thể là Phật giáo, bằng cặp mắt khinh bỉ, cần phải tẩy chay và xa lánh như một thứ bệnh hủi. Một thời kỳ thê thảm nhất của Phật giáo Trung Quốc mà bốn thời kỳ pháp nạn của Phật giáo trước đó ở xứ này so ra không có gì đáng kể[24]. Có thể so sánh thời kỳ này với thế kỷ 13 của Phật giáo Ấn Độ, nếu nói nó nhẹ hơn là bởi tăng sĩ không bị sát hại, tuy thế họ lại bị ám hại theo một thể thức khác, cũng không kém phần tệ hại!

Trong khi hàng loạt tăng sĩ bị buộc phải hoàn tục, thì một số khác vẫn được giữ lại, rồi cùng với những người mới được tuyển chọn đào tạo sung vào làm tăng, họ trở thành những người giám sát và đếm tiền ở những ngôi chùa bị biến thành những địa điểm du lịch hoành tráng, hay trở thành những con rối trong các vấn đề đối ngoại. Phật giáo hầu như không còn mấy ảnh hưởng và không có chút uy tín nào trong cộng đồng xã hội, nhất là đối với tầng lớp học thức!

Sau thời kỳ Đại cách mạng văn hóa, với sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục ngoài mức mong đợi, xã hội Trung Quốc đã hình thành nên một lớp người giàu có rất mực, nhưng cũng đã hình thành nên một sự chông chênh lớn lao giữa tầng lớp giàu và tầng lớp nghèo, cũng hình thành nên nỗi “trống trải cô đơn” sâu đậm trong tầng lớp thị dân, sự mất niềm tin trong lớp trẻ, sự đói khổ và cảm thấy như bị bỏ rơi trong tầng lớp những người nghèo bởi bất lực không đuổi theo kịp sự phát triển của xã hội. Những nhà truyền đạo Tin Lành là những người đã “lắng nghe và thấu hiểu” rõ thực trạng của xã hội Trung Quốc. Với phương thức khéo léo và được sự trợ giúp của các tổ chức từ Mỹ và Anh, họ đã len lỏi có mặt kịp thời khắp nơi, an ủi và mang “tin lành” đến với quảng đại quần chúng. Với một kết quả thật ngoạn mục, theo thống kê của CCRC (Chinese Church Research Centre) có trụ sở tại Hồng Kông, con số tín đồ của Tin Lành hiện nay đã lên đến 80 triệu, cho dù nhà nước Trung Quốc có thông báo rằng chỉ có 10 triệu tín đồ Tin Lành tại đây. Trong khi Thiên Chúa giáo La Mã có khoảng 12 triệu (thông báo của chính phủ TQ là 4 triệu)[25]. Vào các ngày chủ nhật, các nhà thờ Tin Lành được cho là có đông tín đồ đi lễ hơn so với các nhà thờ ở châu Âu hiện nay[26].

Sau 1979, chính sách về tôn giáo của Trung Quốc thay đổi, các tôn giáo được hành hoạt tự do hơn, do đó các tự viện Phật giáo đã bắt đầu được mở cửa trở lại. Theo thông báo vào năm 2003 của Hội Phật giáo Trung Quốc (Hội này được thành lập vào năm 1953), có 13,000 tự viện đã được mở cửa vào thời điểm đó, và có 180,000 tăng sĩ trên toàn lãnh thổ. Trong số này hết 120,000 tăng ni thuộc Tây Tạng, 60,000 người còn lại phân bố rải rác ở các tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải cùng một số tỉnh khác. Số lượng tăng sĩ theo Phật giáo Theravada là 8000 người, chủ yếu sống ở tỉnh Vân Nam. Hiện tại có 34 trường Phật học tại Trung Quốc, trong đó sáu trường thuộc về Tây Tạng. Tín đồ Phật giáo theo thống kê của chính phủ là 100 triệu, nhưng Eric O. Hanson trong cuốn “Religion and Politics in the International System Today” thì đưa ra con số 10 triệu cho cả ba tôn giáo truyền thống là Lão, Khổng và Phật (!?)[27]. Tổ chức RISR (Real International Statistics on Religion) thì cho rằng có từ 6 - 9% dân số Trung Quốc theo Phật giáo.

Mặc dù Phật giáo Trung Quốc đã thoát khỏi “nạn” Cách mạng văn hoá gần 30 năm và được xem là phát triển mạnh lại ở đây, nhất là tại các thị thành, tuy thế giáo dục Phật giáo tại đây vẫn chưa được phát triển. Tăng sĩ sau nhiều thập niên bị xã hội tẩy chay, không được tham dự vào các trường công, trong khi hệ thống giáo dục tự viện gần như bị xoá sổ, đã không có đủ khả năng để phát triển giáo dục Phật giáo trở lại khi chính sách thay đổi. Và thay vì cố gắng phát triển văn hóa, hoằng pháp và giáo dục, nhiều tăng sĩ Trung Hoa đã hồ hởi chạy theo kinh tế thị trường, lo phát triển của cải vật chất để trở thành những phú tăng thời đại.

Các trường Phật học dù hiện diện vẫn không đủ khả năng đào tạo nên những tăng sĩ có tâm huyết với tôn giáo của mình, không đủ khả năng đào tạo nên những con người nhạy bén bắt kịp thời cuộc; và các tăng sĩ vẫn không cất được tiếng nói có giá trị và hành động tích cực để cho xã hội nhìn mình khác đi. Dù có sự hiện diện của 34 trường Phật học, rất nhiều tu sĩ Trung Quốc hiện nay, nhất là nữ tu, vẫn chịu cảnh thất học, cả về nội điển lẫn ngoại điển!

Các tự viện quá chú trọng vào đầu tư và kinh doanh, từ mở công ty đến biến chùa thành khu du lịch, để rồi bị xem như là “những cổ máy sản xuất tiền”[28]. Ngay như Thiếu Lâm tự, một cơ sở văn hóa nổi tiếng của Phật giáo giờ đây cũng đã trở thành một “trụ sở thương mại”. Các sư đã biến môn võ truyền thống thành một thứ “mãi võ” đem rao bán khắp nơi dưới cái mỹ danh giới thiệu văn hóa.

Hòa Thượng Chin Kung trong cuốn “Phật giáo là giáo dục” đã xếp Phật giáo thành bốn nhóm: 1. Phật giáo là một tôn giáo, và ngài đã đưa Phật giáo ở Đài Loan vào nhóm này; 2. Phật giáo học thuật mang tính hàn lâm, và Phật giáo Nhật Bản được ngài xếp vào đây; 3. Phật giáo bị biến thành một thứ nghi lễ dành cho ma chay; và 4. Phật giáo thuần túy là Phật giáo[29]. Trong bốn nhóm này, nếu phải xếp Phật giáo Trung Quốc hiện nay vào trong một nhóm, thì nó hẳn thuộc nhóm thứ ba. Và nếu phải phân thêm một nhóm khác nữa, thì đó phải là “Phật giáo du lịch”, và Phật giáo Trung Quốc hiện nay cũng được xếp vào nhóm này! Giáo dục Phật giáo ở Trung Hoa lục địa hiện là một thực trạng. Và khi giáo dục Phật giáo đã là như vậy thì khó mong Phật giáo phát triển tốt ở đây, dù cho hiện nay ngày càng có nhiều người đến chùa lễ bái. Tuy nhiên, với sự giúp sức hiện nay của các tổ chức Phật giáo đến từ Đài Loan, hy vọng Phật giáo Trung Quốc sẽ thoát ra khỏi sự bế tắc này để phát triển trở lại.

Quay sang Nhật. Ngài Chin Kung xem Phật giáo Nhật nghiêng về học thuật và mang tính hàn lâm. Từ thời kỳ mới du nhập cho đến khi phát triển mạnh mẽ, Phật giáo Nhật luôn coi trọng việc giáo dục và sự đóng góp của giới Phật giáo cho lĩnh vực này phải nói là rất đáng kể. Trong quá khứ, giáo dục Phật giáo Nhật đã chi phối rất lớn đời sống xã hội, ảnh hưởng đến các môn nghệ thuật, và nhất là đã tạo nên được một “tâm thức Phật giáo” trong đời sống cộng đồng.

Vào thời Minh Trị, mặc dù Nhật Hoàng Minh Trị (Meiji) đã tách Thần đạo ra khỏi sự ảnh hưởng của Phật giáo và nâng Thần Đạo lên làm quốc giáo, thì với những ảnh hưởng vốn có, lại không phải đối đầu với những trào lưu chống tôn giáo nào, Phật giáo Nhật vẫn có những cơ hội để phát triển và truyền bá tư tưởng học thuật của mình ra thế giới bên ngoài, đặc biệt là phương Tây. Trong quá khứ, các chùa của Nhật thường có các trường học đi kèm theo, và hiện nay một số nơi vẫn còn giữ được truyền thống này.

Trong các nước theo Phật giáo Đại thừa thì Nhật là nơi có nền giáo dục Phật giáo phát triển nhất ở thời điểm hiện tại, tất nhiên là về mảng nghiên cứu học thuật. Các sách viết về Phật học được cho là rất phong phú và xếp đầy các nhà sách ở Tokyo. Có khá nhiều trường đại học Phật giáo ở Nhật, ngay cả trường đại học Phật giáo quốc tế. Tuy nhiên, các tăng sĩ Phật giáo và giới học giả Nhật quá chú trọng vào việc nghiên cứu và chú giải kinh điển mà ít chú trọng vào việc diễn giải giáo lý ấy thành những điều thực tiễn thích ứng với bối cảnh hiện đại[30]. Dù có nhiều phát triển trong lĩnh vực học thuật, Phật giáo Nhật cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề của xã hội hiện đại, nhất là chủ nghĩa tiêu thụ mà nó đã len lỏi khắp mọi ngõ ngách xã hội. Và một bộ phận lớn tăng sĩ Nhật cũng quá thiên về dịch vụ tang ma, điều bị phê bình rất nhiều vì đã khiến cho Phật giáo trở thành một tôn giáo dành cho người chết.

Phật giáo Hàn Quốc gần đây được chú ý bởi những cuộc biểu tình chống chính phủ về vấn đề kỳ thị tôn giáo. Và vẫn có những ý kiến trái ngược nhau về hiện tình Phật giáo tại đất nước này.

Như đã nói ở trước, Phật giáo từng có những thời kỳ rất hưng thịnh ở Hàn Quốc, nhưng từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20 Phật giáo bị suy yếu ở đây khi Nho giáo nắm quyền thống trị về tư tưởng và chính trị. Từ đầu thế kỷ 20, với sự thôn tính của Nhật Bản, Phật giáo được phát triển trở lại với sự góp sức của các tăng sĩ Nhật. Nhưng trong sự góp sức đó, những tăng sĩ Nhật (những người theo phái Tân tăng) cũng đã tạo nên một điều dẫn đến sự chống đối của một bộ phận Phật tử Hàn Quốc là cho phép các tăng sĩ ở đây được kết hôn[31]. Chính vấn đề này đã dẫn đến một sự chia rẽ sâu sắc và làm suy yếu đi Phật giáo Hàn, một điều đã khiến cho Tin Lành có nhiều ưu thế khi bành trướng thế lực ở đây vào những năm giữa cuối thế kỷ XX.

Thường khi nói đến Phật giáo Hàn Quốc chúng ta chỉ nghĩ đến Phật giáo Nam Hàn. Bắc Hàn, một đất nước “bí ẩn”, khó có thể biết được tín đồ Phật giáo ở đấy là bao nhiêu. Mọi con số đưa ra chỉ mang tính ước đoán, xê dịch từ 2 % cho đến 60 %. Nếu con số 2 % là chính xác, thì điều đó vẫn không khiến ta ngạc nhiên khi biết rằng phần lớn dân chúng Bắc Hàn hiện nay đều là “tín đồ” của ông Kim Chính Nhất (và trước đó là ông Kim Nhật Thành). Và nếu con số 60 % là có thực, thì không phải vì Phật giáo ở Bắc Hàn được khuyến khích phát triển, mà bởi vì nó không bị cạnh tranh và bị giành giật tín đố gay gắt bởi Tin Lành như ở Nam Hàn.

Quay trở lại Phật giáo ở Nam Hàn. Với việc đổ bộ của các nghiệp đoàn của Mỹ từ sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), dân chúng của đất nước này đã choáng ngợp trước một nền văn minh mới được truyền vào. Lại không phân tách được đâu là văn minh vật chất nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật và đâu là những giá trị văn hóa thực sự, rất nhiều người Hàn đã quay sang với Tin Lành, bởi nhầm lẫn rằng tôn giáo này có thể giúp họ trở nên văn minh và giàu có[32]. Trong khi đó các tổ chức Tin Lành thì có những chiêu bài cải đạo rất “độc chiêu”. Họ lôi kéo những nhân vật có tên tuổi trong xã hội, rồi tổ chức những buổi rửa tội quy mô tại những hội trường và sân vận động lớn; trong buổi lễ họ cho những nhân vật đó phát biểu, đại loại rằng Tin Lành là tôn giáo văn minh, nên theo; còn Phật giáo là tôn giáo mê tín, làm nghèo xã hội và nên loại bỏ. Đó là chưa kể đến việc họ công khai viết những khẩu hiệu đả đảo và sĩ nhục Phật giáo lên các tường chùa.  Bên cạnh việc trợ giúp vật chất và giáo dục, những sự kiện cải đạo như thế này đã lôi kéo rất đông dân chúng đi theo.

Nhưng Tin Lành phát triển mạnh ở đây từ giữa thế kỷ 20 đến những năm cuối của thế kỷ này và sau đó thì chững lại. Sau một vài thập kỷ, có lẽ dân chúng đã đủ “độ lùi” để nhìn lại và cũng đã đủ giàu để không còn chạy theo bánh mì và gạo.

Phật giáo trong những thập niên bị Tin Lành lấn lướt cũng đã phải nhìn lại mình để rồi có những thay đổi và điều chỉnh thích hợp. Trong cái rủi vẫn có cái may! Phật giáo trong thời kỳ này đã có những cải cách nhất định. Các tăng sĩ đã trở nên đoàn kết hơn, cố gắng phát triển văn hóa, hoằng pháp và giáo dục. Từ những năm đầu của thế kỷ 21, Phật giáo Nam Hàn được cho là phát triển nhanh hơn Tin Lành. Nhiều trường Phật học đủ các cấp được mở ra, các lễ hội, như lễ Phật đản được tổ chức rất quy mô và rất có ảnh hưởng vào đời sống văn hoá. Các tăng sĩ ở đây cũng học theo cách làm của Phật giáo Theravada, tổ chức những khóa xuất gia ngắn hạn cho những người nhỏ tuổi.

Tuy nhiên, dù số lượng tín đồ Phật giáo Nam Hàn hiện nay đông hơn Tin Lành và Thiên Chúa giáo La Mã, thì cơ sở sinh hoạt tâm linh, cơ sở giáo dục và các nhóm truyền giáo lại không nhiều bằng: Phật giáo có 846 ngôi chùa; Tin Lành có 63,275 nhà thờ; Thiên Chúa giáo La Mã có 1,152. Phật giáo có 69 hội đoàn; Tin lành có 162; Thiên Chúa giáo La Mã có 1. Phật giáo có 3 trường đại học; Tin Lành có 38; Thiên Chúa giáo La Mã có 9. Bên cạnh đó Tin Lành còn có thêm 9 cơ sở giáo dục sau đại học, trong khi Phật giáo không có được một cơ sở nào[33]. Với giáo dục được đẩy mạnh và phát triển như vậy, Tin Lành rõ ràng có rất nhiều ưu thế để phát triển về sau.

Trong các nước theo Phật giáo Theravada thì Sri Lanka được xem là nơi có nền Phật học phát triển nhất, trong quá khứ cũng như hiện tại. Phật giáo với sự trợ giúp của chính phủ đã có những công trình nghiên cứu Phật học có giá trị. Tăng sĩ được đào tạo và huấn luyện kỹ về nhiều phương diện để có thể truyền bá Phật pháp cũng như đảm nhận những công tác xã hội, trong đó gồm cả dạy học cho người thế tục cũng như hướng dẫn đạo đức cho họ. Nhiều tự viện trở thành nơi dạy học cho mọi thành phần xã hội và Phật giáo cũng được giảng dạy và thực hành trong các trường học. Dù có một thời gian là thuộc địa của Anh, một bộ phận dân chúng đã theo Anh giáo, thì Phật giáo hiện nay vẫn chiếm ưu thế và cũng được xem như là quốc giáo.

Ở Sri Lanka, những hoạt động xã hội của Phật giáo phát triển rất mạnh mẽ. Điều này có cơ sở từ thời nước này còn là thuộc địa của Anh khi những tổ chức Phật giáo được hình thành để chống lại sự cai trị của Anh và sự bành trướng đầy kỳ thị của Anh giáo, và những tổ chức này cũng đã hình thành nên Chủ nghĩa dân tộc Phật giáo về sau trong việc đấu tranh giành độc lập cho Sri Lanka. Hiện nay, những tổ chức Phật giáo ở đây có những đề án phát triển xã hội rất tích cực, mà tất cả đường hướng phát triển đều được dựa trên triết học xã hội và giáo dục của Phật giáo[34].

Ở Miến Điện, Phật giáo về phương diện học thuật có thể không được tiến bộ như Srilanka, nhưng về khía cạnh huấn luyện tâm linh thì ở đây rất phát triển (huấn luyện tâm linh cũng là một khía cạnh của giáo dục Phật giáo). Rất nhiều trung tâm tu thiền truyền thống được duy trì ở đây và dành cho mọi hạng người. Các tịnh xá ở Miến Điện cũng trở thành những trung tâm giáo dục cho dân chúng. Tăng sĩ đảm nhận vai trò giáo dục đạo đức cho xã hội, và họ cũng đảm trách những môn học khác ở các trường học công.

Trước khi người Anh cai trị, ngoài việc giảng dạy kinh-luật-luận, các tự viện ở đây còn giảng dạy một số môn học khác như thiên văn, y học, ngôn ngữ…; và các tự viện cũng đóng chức năng như là những trung tâm giáo dục chính dành cho công chúng. Dưới thời thuộc địa, chính phủ Anh yêu cầu các tự viện phải đưa các môn khoa học của phương Tây vào trong giáo dục, và điều này đã gặp phải sự phản kháng của giới tăng sĩ. Và vì có những bất đồng giữa chính quyền cai trị và giới Phật giáo đã dẫn đến việc hình thành nên những phong trào xã hội Phật giáo nêu cao chủ nghĩa dân tộc, đấu tranh giành độc lập cho Miến Điện về sau.

Sau thời kỳ thuộc địa, chính quyền đã ủng hộ để phát triển giáo dục Phật giáo. Vào những năm cuối thế kỷ 20, chính phủ tại đây lại gia tăng vai trò của các tự viện trong việc giáo dục cơ bản cho mọi hạng người trong xã hội, đặc biệt cho thiểu số không phải là Phật tử[35].

Thái Lan là nước may mắn thoát khỏi nạn thuộc địa. Và Phật giáo từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã có nhiều cải cách để phát triển tại đất nước này. Có những phong trào cải cách do chính nhà vua khởi xướng. Dân chúng Thái phần lớn đều là Phật tử, và Phật giáo được xem như là quốc giáo ở đây. Về phương diện học thuật, Phật giáo Thái có thể không phát triển được như Phật giáo Sri Lanka, tuy nhiên cơ hội để cho các tăng sĩ học tập và dấn thân thì rất dễ dàng. Bên cạnh các chùa viện là nơi huấn luyện và giảng dạy kinh luật, cũng có các trường đại học Phật giáo có mặt. Các tăng sĩ Thái ngoài việc tu hành, vẫn có thể đảm trách công việc giảng dạy tại các ngôi trường công của nhà nước, từ giảng dạy Phật học, đạo đức, cho đến văn chương, toán và những môn học khác. Họ cũng tham gia vào những hoạt động xã hội khác.

Trong quá khứ, các chùa viện ở Thái đóng chức năng của các cơ sở giáo dục và huấn luyện, cho cả tăng sĩ lẫn cư sĩ. Về sau, vì đặt mục tiêu phát triển kinh tế và đi theo nền giáo dục phương Tây, nhà nước Thái đã kiểm soát và quản lý giáo dục, tách giáo dục ra khỏi các chùa viện; và hiện nay các chùa viện không còn là cơ sở giáo dục cho đa số quần chúng. Nhưng chính phủ Thái đã không thành công trong việc này, không đem lại được cơ hội bình đẳng trong giáo dục cho mọi tầng lớp như trước đây giáo dục còn do Tăng già đảm trách.

Bên cạnh đó Phật giáo Thái cũng gặp phải những khó khăn trong việc phân bổ nhân sự. Khi các trường đại học đều nằm ở những thành phố lớn, tăng sĩ Thái từ các vùng quê đều tập trung về thành thị để học, và rồi không ai chịu trở lại miền quê để phục vụ sau khi học xong (hình như giống Việt Nam!). Dù được giáo dục tốt về thế học, họ vẫn không đủ khả năng để hành đạo ở thị thành, trong khi họ có thể trở thành người lãnh đạo tinh thần ở các ngôi chùa quê và dân chúng đang mong đợi điều đó thì họ vẫn cứ ở lại thành thị, và các ngôi chùa làng ở Thái hiện nay vẫn thiếu tăng sĩ. Và đây là một trong những cái lỗi mà giáo dục Phật giáo ở đây phải chịu trách nhiệm. Điều này khiến những tăng sĩ có tâm huyết ở Thái hết sức lo ngại[36].

Thay Kết Luận

Tôi đã đi hơi xa trong bài viết của mình nhưng rồi nhận thấy vẫn chưa đi đến nơi. Cuối cùng tôi vẫn không đề cập đến giáo dục Phật giáo ở Việt Nam. Giáo dục Phật giáo hiện nay ở Việt Nam như thế nào chắc nhiều người đã biết. Và nếu để trình bày về điều này cho đầy đủ hẳn phải cần đến một bài viết khác. Vì vậy tôi xin tạm dừng bài viết lại ngang đây, với hy vọng đã nói lên được một vài điểm sơ lược về giáo dục Phật giáo nói chung.

 

Thích Nguyên Hiệp



[1]. Rorbet Nola & Gulro Irzik, Philosophy, Science, Education and Culture, The Netherlands: Published by Springer, 2005, p.4

[2]. W. Kornblum, Sociology in a changing world, Orlando, 1988, p. 536

[3]. Dẫn lại từ  An introduction to Sociology của Vidya Bhushan & D.R. Sachdeva, New Delhi: Kitab Mahal, 2004, p.714-715

[4]. Wit Wisadavet, “The Buddhist philosophy of education: Approaches and Problems” trong The Chulalongkorn Journal of Buddhist Studies, Vol. 2, No. 2, 2003, p. 159

[5]. Encyclopedia of sociology, Vol 2, edited by Edga. F. Borgatta & Rhonda J. V. Montgomery,  New York, 2000, p. 741-754

[6]. Xem mục “Education” trong  Encyclopedia of Buddhism, Vol 2, compliled & edited by Subodh Kapoor, New Delhi:  Cosmo Publications, 2001, tr.501

[7]. The Book of the Disciplines, Vol IV (Mahāvagga), Translated by I. B. Horner, London: Cambridge, 1971, p.15

[8]. Rekka Daswani, Buddhist Monasteries and Monastic Life In Ancient India, New Delhi:  Munshiram Manoharla, 2006, p.161

[9]. Lal Mani Joshi, Studies in The Buddhistic Culture of India, New Delhi: Motilal Banarsidass, 2002, p. 123

[10]. Con số này vẫn không thống nhất: ngài Nghĩa Tịnh cho rằng có hơn 3 ngàn tăng sĩ ở Nālandā; Ngài Huyền Trang thì nói con số lên đến 10.000 người (có lẽ do sự khác biệt về thời điểm đến giữa hai ngài); R. K. Mokerjee trong Universities In Ancient India thì viết rằng có 1.500 thầy giáo và 8.500 sinh viên tại Nālandā.

[11]. Lal Mani Joshi, Studies in The Buddhistic Culture of India, New Delhi: Motilal Banarsidass, 2002, p.134-141

[12]. Jeong-Kyu Lee, The Role of Religion in Korean Higher Education, Journal of Religion & Education, Vol. 29, No. 1, University of Northern Iowa, p.52-53

[13]. Encyclopedia of Buddhism, Vol 2, compliled and edited by Subodh Kapoor, New Delhi: Cosmo Publications, 2001, p.510

[14]. Encyclopedia of Buddhism, Vol 2, edited by  Robert E. Buswell, Jr. , p 247

[15]. A. K. Coomaraswamy, Buddha and the Gospel of Buddhism, New Delhi: Munshiram Manoharla, 2003, p.146

[16]. Dẫn lại từ Buddhist Sociology, của Nadasena Ratnapala,  Delhi:  Sri Satguru, 1993, tr.129

[17]. Bhikkhu Bodhi, Bikkhuni education today: Seeing challenges as opportunities, Paper presented at 2009 International Conference for Buddhist Sangha Education, Taiwan, 2009

[18]. Rekka Daswani, Buddhist Monasteries and Monastic Life In Ancient India, New Delhi: Munshiram Manoharla, 2006, p. 166-167. Rekka Daswani đã dẫn lại vấn đề này từ Samantapāsādikā của Buddhaghosa.

[19]. Dẫn theo Rekka Daswani, tr. 167

[20]. The Book of the Disciplines, Vol IV (Mahāvagga),  translated by I. B. Horner, London: Cambridge, 1971, p. 58-58; để biết chi tiết các bổn phận giữa thầy và trò trong đời sống tự viện xin xem thêm từ trang 59-67.

[21]. Về bổn phận giữa thầy và trò, xin xem thêm kinh Thiện Sanh (Sigālovāda), bài kinh số 31, Trường bộ kinh III.

[22]. Thom Wolf, “Buddhism in the 21st Century: Three Challenges”, trong Buddhism and the Contemporary World, edited by B. Mungekar & A. S. Rathore, New Delhi:  Bookwell, 2007, tr. 41.

[23]. Ven Jing Yin, “Buddhism and Economic Reform in Mainland China”, trong Chinese Religions in Contemporory Societies, edited by James Miller, UK: Oxford, 2006, tr. 85.

[24]. Bốn kỳ pháp nạn trước đó xảy ra dười các triều vua: Thái Võ Ðế (423 – 451); Võ Ðế (560-578); Ðường Võ Tông (840-846); và  Châu Thế Tông (954-959).

[25]. Trong bài “Christianity in China: Sons of heaven” trên tạp chí The Economist ở Anh đã nêu con số tín đồ Ky-tô giáo từ 70-130 triệu.

[26]. Francis Ching-Wah Yip, “Protestant Christianity in Contemporary China”, trong Religions in Contemporory Societies, edited by James Miller, UK: Oxford, 2006, tr. 175. Trong bài này tác giả đưa ra số lượng tín đồ Tin Lành hiện nay là 30 triệu.

[27]. Eric O. Hanson, Religion and Politics in the International System Today, UK: Cambridge University Press, 2006, tr. 165-176.

[28]. Ven Jing Yin, “Buddhism and Economic Reform in Mainland China”, trong Chinese Religions in Contemporory Societies, edited by James Miller, UK: Oxford, 2006, tr. 86.

[29]. Hòa thượng Chin Kung, Buddhism as an Education, ấn bản điện tử của Buddhanet,  tr. 7

[30]. Stephen G. Covell, “Buddhism in Japan: The creation of traditions”, trong Buddhism in World Cultures, edited by Stephen C. Berkwitz, Carlifornia: ABC-CLIO 2006, tr. 219 - 222.

[31]. Pori Park, “Buddhism in Korea: Decolonization, Nationalism, and Modernization”, trong  Buddhism in World Cultures, edited by Stephen C. Berkwitz, Carlifornia: ABC-CLIO 2006, tr. 195

[32]. Max Weber, giáo sư người Đức, một trong 4 nhà xã hội học nổi tiếng nhất thời hiện đại, cho rằng tôn giáo có ảnh hướng lớn đến sự phát triển kinh tế, và ông dẫn chứng rằng sự ảnh hưởng của Tin Lành đối với Hoa Kỳ, Hà Lan, Anh, đã giúp cho các nước này có nền kinh tế phát triển. Quan niệm của ông đã ảnh hưởng đến không ít người châu Á, nhất là những nơi chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quan niệm đó đã được chứng minh là có nhiều hạn chế (trường hợp Nhật Bản, Singapore?). Xem phê bình của Richard F. Gombrich trong cuốn “Theravāda Buddhism”, tr. 11-15.

[33]. Jeong-Kyu Lee, The Role of Religion in Korean Higher Education, Journal of Religion & Education, Vol. 29, No. 1, University of Northern Iowa, tr. 58-59.

[34]. Stephen C. Berkwitz, “Buddhism in Sri Lanka: Practice, Protest, and Preservation”  trong Buddhism in World Cultures, edited by Stephen C. Berkwitz, Carlifornia: ABC-CLIO, 2006, tr. 45-70.

[35]. Juliane Schober, “Colonial Knowledge and Buddhist education in Burma”, trong Buddhism, power and political order, edited by Ian Harris, New Yord: Routledge, 2007, tr. 66-67.

[36]. Phra Dhammapitaka (Prayudh Payutto), Buddhism and Education, www.buddhist-monk-notebook.info/2009/03/buddhism-and-education.html