Sử tích Ngài Kim Địa Tạng

Ngài Địa Tạng trong lịch sử (Kim Địa Tạng, còn có tên Kim Kiều Giác), sanh vào năm 696 TL, tại nước Tân La, hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn. Ngài vốn là một hoàng tử, hưởng thụ cuộc sống vàng son nhung lụa, thế nhưng, tính ngài đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống hào nhoáng, mà chỉ chăm lo học hỏi sách vở thánh hiền. Mặc dù tướng mạo không quá phi phàm, nhưng lòng từ bi thuần hậu của ngài thì khó có ai sánh kịp.

alt

Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, một hôm, ngài đọc hoàn tất kinh điển của bách gia chư tử, bèn buông lời cảm thán: “So với lục kinh của Nho gia, đạo thuật của Tiên gia, thì lý đệ nhất nghĩa đế của nhà Phật là thù thắng hơn hết, hợp với chí nguyện của ta nhất.” Sau đó lập chí xuất gia, năm đó ngài mới hai mươi bốn tuổi.

Sau khi xuất gia, ngài ưa đến chỗ vắng tu tập thiền định, nhân đây bèn nghĩ đến việc lữ hành, tìm một nơi thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực, đồng thời dắt theo con chó trắng tên Thiện Thính, đã theo ngài từ lúc xuất gia. Một mình ngài lái thuyền rời bến Nhân Xuyên, trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, ngài đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa). Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy. Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao dọ thám, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, quang đãng, vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước trong vắt ngồi tĩnh tọa.

Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bỗng có một con rắn độc con đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người đàn tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền bù lỗi lầm của cháu nhỏ.”

Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa).

Tương truyền, dưới chân núi có vị trưởng giả tên Mẫn Công, là người ưa thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên thành.

Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.” Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm cà sa lên không. Tấm cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường. Mẫn Công có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công, vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn thiền môn. Hiện nay, trong các chùa thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.

Ngài Địa Tạng ưa thích tu tập thiền định. Ngoài việc giảng kình thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa, đem đi bố thí khắp nơi. Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hưóng dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy mây trôi bàng bạc, ánh nắng chan hòa, tiếng suối từ khe núi chảy ra nghe róc rách. Mọi người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị thiền sư ngồi trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt tĩnh tọa. Bên cạnh là một cái đảnh cổ gẫy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng. Một lát sau, vị thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa ngài! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!” Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi thiền đường rộng lớn, hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn.

Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), ông Quận thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh sùng cao, cùng công nghiệp hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Hoàng Đế Đức Tông, ban sắc dụ chính thức kiến tạo tự viện. Bấy giờ, đạo trường của ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm.

Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự dịnh bổ túc vào phần ăn. Mọi người trong chùa, cảm hóa bởi đức hạnh của ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháp thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”. Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”.

Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL.795), ngài triệu tập tăng chúng vào chánh điện để từ giã. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng gào thét, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, mặt trời mặt trăng đều biến đổi màu sắc, nhưng ngài vẫn an tường ngồi kiết già thị tịch. Năm đó ngài vừa đúng chín mươi chín tuổi.

Sau khi viên tịch, nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền. Đại chúng đem nhục thân đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài Bồ Tát Địa Tạng. Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói.

Mấy trăm năm nay, tín đồ Phật giáo, không ngại gian lao, lũ lượt không dứt, phát tâm đến núi Cửu Hoa, triều bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng. Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của ngài (ba mươi tháng bảy AL), tại thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những tín đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên rộng rãi, sức cảm hóa sâu dày!

Tâm Nhiên


*        *        *


Tài liệu đọc thêm

ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT (Ksitigartha, Kshigarbha)

alt

Địa Tạng Vương Bồ Tát, một đức Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài là giáo chủ của cõi U Minh. Địa: đất. Tạng: trùm chứa

Bồ Tát có lập đại nguyện tế độ tất cả chúng sinh cũng như đất chở muôn sự muôn vật nên gọi là Địa.

Tuy ngài hiện thân ở Hằng Hà sa số thế giới, độ vô số chúng sinh, mà không một thế giới nào, một chúng sinh nào ra ngoài tự tâm của ngài nên gọi là Tạng.

Trong khi phát tâm ngài có nguyện rằng: "Địa Ngục mà còn chúng sinh thì ngài chẳng thành Phật". Vậy nên ngài hóa thân trong Lục Đạo mà độ chúng sinh:

- Diệm Ma Sứ Giả mà hóa độ ở Địa Ngục
- Trì Bảo Sứ Giả mà hóa độ loài ngạ quỷ
- Đại Lực Sứ Giả mà hóa độ loài súc sinh
- Đại Từ Thiên Nữ mà hóa độ loài A-tu-la
- Bảo Tạng Thiên Nữ mà hóa độ loài người
- Nhiếp Thiên Sứ Giả mà hóa độ cõi trời

Chịu lời phú chúc của đức Phật Thích Ca, mỗi ngày, mỗi buổi sáng ngài nhập định đặng quan sát các cơ cảm trong Thập Phương thế giới mà giác độ chúng sinh. 1,500 năm sau khi đức Thích Ca diệt độ, năm thứ tư hiệu Vĩnh Huy, Địa Tạng Vương Bồ Tát có giáng sinh ở nước Tân La, trong nhà họ Kim, lấy tên là Kim Kiều Giác. Hai mươi bốn tuổi, nhập định 75 năm, đến năm 99 tuổi thì tịch.

Trong kinh Địa Tạng, ngài Kiên lao địa thần có nói rằng: Hễ ai làm miếu, cất khánh, tô vẽ hình ngài Địa Tạng và cúng dường lễ bái ngài thì được mười điều lợi ích dưới đây:

- Đất cát chỗ mình ở trở nên thạnh mậu
- Nhà cửa bình yên
- Người thác được sinh lên cõi trời
- Người hiện còn thêm tuổi thọ
- Cầu gì cũng được toại ý
- Không có tai nạn nước lửa
- Mọi sự hư hao đều được trừ hết
- Các điềm dữ trong lúc chiêm bao đều dứt
- Những khi ra vô đều có thần ủng hộ
- Gặp nhiều nhân duyên thánh đạo

Trích trong "Phật Học Từ Điển" của Đoàn Trung Còn