TRÁCH NHIỆM NGƯỜI HOẰNG PHÁP ĐỨNG TRÊN BỤC GIẢNG

Nói đến con người là chúng ta nói đến những thành tựu về các mặt văn hoá, khoa học, lịch sử, … nhưng bên cạnh đó còn một thành tựu vô cùng to lớn khác đó là giá trị của đạo lý làm người. Chính nhờ chân giá trị này mà loài người đã biết xây dựng, yêu thương và không ngừng phát triển để tạo thành một thế giới tốt đẹp. Để có được những giá trị to lớn như vậy, con người đã không ngừng nỗ lực phấn đấu và phải trả một cái giá rất cao, trong đó phải kể đến vai trò vô cùng to lớn của nghành hoằng pháp, mà Phật giáo là một tôn giáo đặt căn bản lợi ích ở con người, do con người và vì con người. Cho nên Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì lợi ích và an lạc cho cả chư thiên và loài người”.

Là những người đang đứng trước thế hệ Tăng – Ni trẻ, mọi việc dường như quá dễ dàng bởi tất cả đang trên đường học hỏi tri thức, mở mang kiến thức. Sức ép từ các phía: gia đình, thầy tổ, huynh đệ, học đường, nhu cầu xã hội v.v…, khiến giới thanh thiếu niên nói chung, Tăng Ni sinh trẻ nói riêng chỉ còn con đường duy nhất là, nếu muốn theo kịp trào lưu phát triển của thời đại thì tất cả phải dồn tâm trí vào việc học. Nhưng tiếc thay, mọi điều không đơn giản như thế! Khả năng chắt lọc, xử lý thông tin và tiếp thụ kiến thức của Tăng –Ni trẻ ngày nay vẫn là điều đáng quan ngại vô cùng.

alt

Với tất cả nhiệt tình vì sự hiển hưng Đạo Pháp, thiết tưởng, trong chúng ta, ai cũng đều ước muốn cùng nhau ươm mầm, đào tạo thế hệ Tăng – Ni trẻ cả tài lẫn đức. Nhưng khi thực sự bắt tay vào việc, chúng ta thấy không biết bắt đầu từ đâu? Bởi vì môi trường ta đang tiếp xúc không có từ ngữ “trở về”, do xu thế phóng ngoại của thời đại. Bao nhiêu tâm lực của tuổi trẻ đổ hết vào học tập với những khát vọng ngày mai. Một hướng đi khó minh định. Vì vậy “Một người xuất gia trẻ cần phải xác định mục tiêu và lập trường tu học của mình là giác ngộ, giải thoát, lợi sanh. Trong đó Giới, Định, Tuệ là định hướng, tiêu điểm để phấn đấu hướng đến thành tựu đạo nghiệp.”

Mỗi vị giảng sư trong Ban Hoằng pháp phải luôn tâm niệm: Quyết tâm làm Phật pháp xương minh, giúp mọi người thâm hiểu giáo lý của Đức Phật để đạt được sự an lạc, giải thoát và hoàn thiện đạo đức cá nhân nhằm xây dựng một Tịnh độ nhân gian, khẳng định giá trị Chân-Thiện-Mỹ của người đệ tử Phật trong việc đem đạo vào đời, xây dựng con người có tình thương, có ý thức, có trách nhiệm với cộng đồng, đúng với phương châm: “Đạo Pháp gắn liền với Dân Tộc”.

Phật giáo tuy có lợi thế về văn hóa truyền thống, về giáo lý sinh động và thực tiển, nhưng về mặt tổ chức, đào tạo cán bộ truyền đạo thì chưa được quan tâm đúng mức. Trên thực tế Phật giáo thua sút rất xa so với các tôn giáo bạn. Điều làm chúng ta băn khoăn ở chỗ, khẩu hiểu của Phật giáo là “Hoằng pháp vi gia vụ”, có vẻ như nó được coi là việc nhà của quý Thầy hơn là của tín đồ Phật giáo.

Nhưng ở trong chùa lại có một câu khẩu hiệu thường được treo ở các chùa: “Phật pháp xương minh do Tăng già hoằng hóa, thiền môn hưng thịnh bởi Đàn việt phát tâm”, khẳng định vai trò của chư Tăng là hoằng dương Phật pháp còn người cư sĩ thì lo ủng hộ (vật chất) chùa chiền. Sự phân công rạch ròi như vậy, vô tình làm giới hạn sứ mệnh của người cư sĩ và làm giảm tác dụng Hoằng pháp. Trong thời hiện đại đạo Phật không thể co mình trong khuôn viên của ngôi chùa, và bị hạn chế trong sắc phục của người tu sĩ, trong khi các tôn giáo bạn đang vận động tích cực mang tầm quốc tế vừa vĩ mô vừa vi mô mà trọng trách phải gánh là các tín đồ. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn và trong cách hành động, nên làm như ngày xưa Phật đã dạy: “Tứ chúng đồng tu”.

Nhân đây Ban Hoằng pháp tỉnh Bắc Ninh chúng tôi mạo muội đóng góp 2 ý kiến như sau:

Thứ nhất: Kết hợp giữa Từ thiện xã hội và Hoằng pháp ðể thực hiện chýõng trình Hoằng hóa, nhận thấy rằng ða số ngýời dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp là chính, ðời sống của ngýời dân tại các vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khãn. Thế nên, phải là một ngýời Phật tử có tín tâm kiên cố mới có thể ðến chùa lễ Phật, nghe pháp.

Trong hoàn cảnh nầy, mong Ban Hoằng pháp các tỉnh thành kết hợp cùng từ thiện xã hội, kêu gọi các nhà hảo tâm, ðúng lúc kịp thời truyền bá tinh thần Từ bi - Trí tuệ của ðạo Phật ðể góp phần xây dựng Chân - Thiện - Mỹ cho cuộc ðời, kêu gọi các nhà hảo tâm hỗ trợ các nhu cầu cõ bản về ðời sống ðể họ có thể an tâm chãm lo ðời sống tín ngýỡng của mình.

Thời gian gần đây, vấn đề giáo dục người cư sĩ được quan tâm, dù hơi muộn, nhưng chỉ có tính đối phó các thách thức trước mắt hơn là kế lâu dài và bền vững. Trên sách lược vĩ mô vẫn chưa thấy bóng dáng và lối đi cho hàng ngũ cư sĩ. Đã đến lúc chúng ta phải tập trung vào kế hoạch trồng người.

Hoằng pháp luôn cần có cơ sở, có nhiều loại cơ sở, ở đây chỉ nói hạn hẹp là ngôi chùa. Chùa được coi là “Cơ quan truyền bá chánh pháp Phật đà”, với vai trò như vậy, ngôi chùa là nơi đáp ứng mọi yêu cầu của tín đồ về mặt tinh thần, tâm linh. Đồng thời, là nơi triển khai, điều chỉnh và định hướng tu học, tư tưởng, đường lối của Giáo hội. Vì vậy, một ngôi chùa cần có đủ nhân sự để cung ứng cho các Phật sự được thành công. Chư tôn đức Tăng Ni chỉ là một phần của lực lượng nhân sự, cần có đội ngũ cư sĩ hổ trợ, càng mạnh càng tốt. Các tôn giáo bạn, đội ngũ cán bộ tín đồ rất lớn bao gồm cả hai thành phần chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp. Ngoài việc giáo dục đạo lý và lối sống hiền thiện, ta cần chọn lọc những thành phần Phật tử có tâm huyết, có khả năng và điều kiện để đào tạo, huấn luyện các kỷ năng hoằng pháp một cách có hệ thống. Chuẩn bị cho họ vị trí và tâm thế hành Bồ tát hạnh, đi vào xã hội truyền bá chánh pháp. Chương trình đào tạo cần thiết thực và chuyên môn hóa.

Mục tiêu của chúng ta là đào tạo, huấn luyện những người cư sĩ nòng cốt trở thành một tác viên hoằng pháp tương đương như đào tạo một người tu sĩ mà trong Phật giáo đại thừa gọi là Bồ tát tại gia. Điều nầy có ý nghĩa rằng, sau khi họ được đào tạo, họ có thể tự thân vận động giữa dòng đời đầy biến động mà không cần một vị Thầy đi kèm. Một ngôi chùa, nếu chỉ hưng thịnh khi có một vị Thầy giỏi thì sự phát triển của ngôi chùa ấy chỉ là giai đoạn, không có sự bền vững, lâu dài. Một đội ngũ cư sĩ có phẩm chất sẽ làm cho ngôi chùa đứng vững và phát triển được dù có Thầy hay không.Có người cho rằng, người cư sĩ giỏi thường lấn lướt quý Tăng Ni hoặc có thể trở thành người tự cao tự đại khó điều khiển... Tôi cho rằng đó không phải là vấn đề , vấn đề là chương trình giáo dục và phương pháp đào tạo có đúng hướng hay không. Người cư sĩ là một Cận sự nam (nữ), vai trò rất rõ là thân cận hộ trì Phật pháp , trợ giúp cho quý Thầy truyền bá chánh pháp, nghĩa là luôn đứng sau và dưới sự chỉ đạo của quý Thầy. Khi được đào tạo đúng hướng họ sẽ là người hộ trì chánh pháp đúng nghĩa, chia sẻ gánh nặng cho quý Thầy và gánh vác nhiều lãnh vực Phật sự quan trọng.

Thứ hai: Tăng –Ni trẻ bằng cách hướng dẫn cho họ biết, nền tảng xây dựng đạo nghiệp giải thoát khổ đau là từ bước chân chập chững giẫm trên miền đất tri thức. Tri thức vốn không thoát ly cuộc sống. Nó chính là cuộc sống mà chúng ta đang sống, đang truyền thụ, và là những gì hàng ngày các em đang ghi chép, đang học hỏi, để sau mỗi buổi học, các em có đôi phút thấy rằng, những gì nghe như xa rời hiện thực, lại rất gần gũi trong tầm tay của mình. Như những hạnh phúc chân thật của tâm an bình, tuy chỉ là những sát-na ngắn ngủi cũng đủ gây niềm tin yêu cho những người đang gặp muôn vàn khốn khổ và cay đắng khi giáp mặt với cuộc sống đời thường.

Người đang đứng trên bục giảng với tư cách một giáo thọ, một giảng sư phải tự tìm thấy một lối vào cho chính mình qua từng bài giảng. Nếu không, chúng ta chỉ là người đứng bên ngoài mô tả một khu vườn đầy hoa trái. Đừng qui trách nhiệm là Tăng Ni sinh trẻ hiện nay không có định hướng tu học, trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ đầy thách thức của người đang đứng trên bục giảng, không chỉ bởi sự hạn chế tự thân của ngành hoằng pháp, mà còn đến từ xã hội ngày càng phát triển nhanh chóng với nhiều xu hướng văn hóa, giải trí và tâm linh khác nhau, và đang bị lún vào trào lưu mới của những luồng thông tin đa chiều. Đây chẳng qua là vì lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn tầm cầu khám phá cái mới. Trong khi đó, do chưa đủ bản lĩnh tri thức nên khi dấn thân vào con đường học tu, họ dễ chao đảo lúc nghiêng bờ bên này, lúc nghiêng bờ bên kia. Trách nhiệm thuộc về chúng ta những người đang đứng trước giới Tăng – Ni trẻ.

Thử hỏi Tăng - Ni trẻ mỗi ngày tự nhớ về mình bao nhiêu lâu? nhớ những lời Phật dạy lúc nào? dù rằng cả ngày họ được tiếp cận với lời Phật dạy. Nghịch lý là chỗ đó. Do không có thời gian hành trì, tu tập, thể nghiệm những gì đã học nên bản lĩnh và nội lực chưa vững chải. Cả ngày bị ngoại cảnh chi phối như thế, đêm đến, mệt mỏi rã rời thì lấy sức đâu để tĩnh tâm mình? Vậy thì còn lối nào đi về trong tình trạng tâm thức như thế! Nhiều vị không còn thời giờ nói chuyện chánh niệm, thiền định, niệm Phật, kinh hành, nói gì tới chuyện hiểu được nội tâm nhiều biến động của chính bản thân mình. Chính vì thế, khi đối diện thực tế cuộc sống, Tăng – Ni trẻ cũng còn gặp nhiều khó khăn, bối rối. Bản thân họ còn như thế, thì làm sao có an lạc và tỉnh táo lắng nghe và cứu giúp tha nhân giữa biển đời đau khổ này? Trách nhiệm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” cũng phai nhạt dần theo năm tháng.

Bên cạnh tri thức những hiểu biết về thế giới bên ngoài cái cần vẫn là sự am hiểu về nội tâm sâu xa của chính mình. Nhưng thử hỏi làm thế nào “quay về nhìn lại mình” trong thời đại mà mọi thời gian nhàn rỗi đều bị những chương trình đặc biệt của truyền hình, những thông tin đa dạng trên mạng internet luôn sẵn sàng “ngốn mất” thời giờ quí báu ấy, rồi điện thoại di động cũng liên tục réo vang, cùng với biết bao việc cần giải quyết sau buổi học? Tăng-ni trẻ chỉ có thể ngồi im thư giãn khi đã kiệt sức bởi công việc và một chương trình học tập nghiên cứu nội điển lẫn ngoại điển.

Cho nên bắt đầu là phải bắt đầu từ người đang đứng trên bục giảng hướng dẫn cho những tâm hồn trẻ trung kia có một lối đi rõ ràng vững chắc. Tri thức không làm cho người ta hiểu rõ chính mình. Nhưng qua phương tiện đó, người ta có thể rõ được lối “trở về”. Bao giờ cũng vậy, tất cả khởi điểm của sự lên đường xuất phát từ nhận thức của chính bản thân mình. Theo đuổi hay buông xả một vấn đề, tùy vào nhận định của chính mình về vấn đề đó. Vậy ai là người dẫn lối cho Tăng - Ni trẻ có nhận thức rõ ràng đúng đắn, nếu không là sự hoàn thiện tri thức và tiến bộ tâm linh một cách hờ hững.

Chúng ta thường hay “rao giảng” những gì vốn tiếp thụ từ bên ngoài nhiều hơn là diễn thuyết những gì đã được khai phát, nghiệm chứng từ nội tâm chúng ta. Đức Phật giáo hóa các tỳ kheo về bốn hạng thuyết trình như sau: “Một người thành tựu bốn vô ngại giải phải thông suốt về nghĩa cũng như về văn”. Nghĩa là vị Tỳ kheo phải am tường, thẩm thấu và chứng đạt về giáo pháp, nghĩa lý, ngôn từ, mới đi đến biện giải vô ngại. Nói cách khác, vị Tỷ kheo cần phải tri hành hợp nhất, lời nói tương ứng việc làm, việc làm tương ứng lời nói. Khổng giáo có câu: “Thái thượng hữu lập đức, kỳ thứ hữu lập công, kỳ thứ hữu lập ngôn, tuy cửu bất phế, thử chi vị bất hủ” (Tả Truyện). Nghĩa là, các bậc Thánh vương xưa lập đức, kế đó lập công, kế đó lập ngôn, tuy lâu dài mà không bị phế; ấy gọi là bất hủ.

Như vậy, lập đức là giai đoạn đầu tiên tối quan trọng rèn luyện nhân cách thể hiện qua việc thực hành oai nghi tế hạnh, đạo đức mô phạm; lập công là giai đoạn ứng dụng tri thức đã được trau dồi vào cuộc sống để tư duy thể nghiệm; và lập ngôn là giai đoạn cuối cùng, diễn giảng lại những kinh nghiệm sống động đã được suy tư, chiêm nghiệm và chứng thực. Chính vì lẽ đó mà lời dạy của các bậc Thánh nhân xưa khi đã đi qua các trình tự ấy rồi thì đều là “ngôn giản tận ý”. Nói ít, lời đơn giản mà tác dụng sâu xa đến tâm thức con người. Lão Tử từng chủ trương: “Hành bất ngôn chi giáo”. Nghĩa là chỉ cần làm gương cho người mà chẳng cần lời. Còn thời nay chưa kịp lập đức, lập công đã vội lập ngôn, do vậy mà lời thuyết giảng nghe chừng lưu loát, bóng bẩy mà sao sáo ngữ và trống rỗng, thiếu sức thuyết phục.

Hiện nay có nhiều cuộn băng giảng với nhiều câu chuyện rất hấp dẫn. Nghe xong, thính giả chỉ biết khen hay và nhận xét vội vàng: một vị giảng sư tuyệt vời. Nhưng nếu hỏi vị thính giả ấy hay như thế nào thì lập tức nhận được câu trả lời, giọng nói của vị giảng sư ấy ấm áp, nhẹ nhàng, truyền cảm hoặc hùng hồn. Ngoài sự cảm nhận có tính cảm quan ấy, thính giả cũng chẳng rút ra điều gì bổ ích để ứng dụng trong thực tế cuộc sống của chính mình. Đó là chưa nói đến những sai lạc nghiêm trọng do không thông đạt nghĩa lý kinh luận. Chính những tình trạng đáng tiếc ấy đã góp phần thúc đẩy thế hệ Tăng-ni trẻ sa đà vào việc ham thích tranh luận, triết lý suông mà quên rằng, tri hành hợp nhất mới trở nên minh triết, hiền nhân. Đức Phật cảnh tỉnh người đang mắc nạn lý thuyết suông: “Dù tụng nhiều kinh mà buông lung không thực hành thì chẳng hưởng được phần ích lợi của Sa môn, khác nào kẻ chăn bò thuê, chỉ lo đếm bò người” (Kinh Pháp Cú, câu 19) và nhất là chúng ta, để có thể thông suốt về nghĩa cũng như về văn, cần cố gắng tránh đi ngược lại trình tự giáo nhân của các Thánh vương xưa đã xác lập là đầu tiên lập đức, thứ đến lập công, rồi mới lập ngôn trong “sứ mệnh hoằng pháp thời hiện đại”./.


Ban Hoằng Pháp Tỉnh Bắc Ninh

(Trích tham luận Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc năm 2010 tại Kiên Giang )