HOA ƯU ĐÀM NỞ

 

Đức Phật vì một nhân duyên trọng đại duy nhất mà thị hiện ở đời. Tính chất trọng đại duy nhất ấy là mở ra, chỉ  cho thấy cái thấy biết chân chính như thật của chư Phật ở cả ba đời; là cho con người thấy được và thực sự bước vào cái thấy biết chân chính, hoàn thiện của chư Phật khắp cả mười phương.

 

Nói một cách chân xác, cụ thể, vắn gọn: Đức Phật thị hiện Đản sanh giữa đời chính là giúp cho chúng sanh, cho con người được thành Phật như Đức Phật là Phật đã thành.

 

Chính vì thế, kỷ niệm ngày sinh của Ngài, ngày Khánh đản đối với con người, thực sự đã trở thành ngày hội lớn, ngày trọng đại trong mọi chiều kích văn hóa nhân bản của thế giới loài người.

Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện., thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.

Với tất cả tấm lòng chí thành, ngưỡng mộ quy kính đối với sự thị hiện của Đức Phật, người làm thơ hầu hết có một độ chín của nguồn cảm xúc, rung động, và họ thể hiện nó lên những dòng thơ. Và thơ của họ trở thành đạo. Từ thơ mà có Đạo và từ Đạo lại có Thơ. Một quá trình chuyển hóa tâm linh trên đường giác ngộ.

Đối với người làm thơ, đa số đã có chung một cách nhìn: sự ra đời của Đức Phật chính là sự chào đời của một đóa hoa thanh khiết, sự bung nở của một đóa hoa Ưu đàm, Umdambara.

 

Vô ưu hoa, Đàm hoa, Umdambara, một loài hoa đã từ linh thoại đi vào thi thoại,,loài hoa cực quý, ba nghìn năm mới nở một lần. Và khi loài hoa quý ấy xoè cánh dưới mặt trời, tỏa hương thơm cho đời, chính là lúc hoa báo tin mừng cho trái tim nhân loại, hoa đem tin vui cho hoa lá, cỏ cây đất trời. Hoa truyền trao sức sống dạt dào cho khắp cả thiên hà vũ trụ. Hoa ưu đàm nở báo tin có một vì thánh ra đời, có bậc cứu tinh cho loài người xuất hiện.

 

1

Ở nơi vườn Lumbini, xứ Kapilavatthu, cách đây hơn 2.600 năm, những đóa hoa Ưu đàm đã lung linh hé nở giữa ban mai, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời dưới bóng mát của loài hoa linh thoại ấy.

Chính vì thế, loài người, trong đó có thi nhân, đồng nhất hóa Đức Phật với Đàm hoa. Và hình tượng Đức Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp uy nghi đã được thi nhân thi hóa thành đóa hoa Ưu đàm, đóa hoa trân quý nhất giữa vườn hoa nhân loại.

 

Hơn hai nghìn năm trước, hoa ưu đàm đã nở. Hoa không vì không gian, quốc độ mà hạn cuộc sắc hương. Hoa không vì riêng ai mà hé nở. Đóa hoa ấy đã nở vì lòng thương yêu cho thế giới muôn loài, và cho cả thiên thu muôn thuở. Với tất cả tấm lòng tôn kính tuyệt đối, niềm tin tưởng vô biên, nhà thơ Trúc Diệp đã viết những vần thơ ca ngợi đóa hoa nhiệm mầu trân quý ấy:

Cũng hôm này, trên hai nghìn năm trước

Khắp vườn trời nhẹ thoảng một mùi hương

Hoa không riêng mà chung cả mười phương

Đã nở với lòng thương đầy nhân loại

Hoa không rụng, thời gian không thể hái

Hoa miên trường rắc mãi nét xinh tươi…

Trúc Diệp  (Bóng Hoa Đàm)

 

Cùng chung dòng cảm xúc, cùng chung một cách nhìn và chung cách thể hiện, nhà thơ Tống Anh Nghị, từng ngưỡng mộ ngày Phật đản sanh, như là ngày nở đóa hoa cho muôn thuở, hoa cho tất cả muôn nơi:

Từ gốc quý đã một lần hoa nở

Hoa vươn cao khỏi cỏ dại sinh sôi

Hoa rực sáng như đất trời rực rỡ

Sắc hương lành tự bản chất tinh khôi

Umdambara hay Ưu đàm tên gọi

Một lần sinh muôn thuở vẫn khai hoa…

Tống Anh Nghị

(Umdambara – từ một đóa hoa)

Nhà thơ Trụ Vũ thì dường như ông đã trải rộng tư tưởng cảm xúc mình ở độ thể nhập vào đạo, thật mênh mông mà cũng thật sâu lắng. Hình tượng Đức Phật trong thơ ông, không chỉ được thi hóa thành một đóa hoa, mà còn tất cả những gì chung quanh hoa nữa:

2

Nửa khuya, Đức Phật vào đời

Trong đôi cánh hạc tuyệt vời lên trăng

Cành hoa muộn nở ngoài sân

Thoảng hương xa, Phật đến gần trong hương

Phật là hoa, Phật là hương

Là trăng, là hạc, là hồn phương Đông.

Trụ Vũ (Nữa Khuya)

Nhà thơ thiền sư Nhất Hạnh mang đến cho người đọc nguồn cảm xúc ngất ngây, hàm súc, và rất kinh điển. Ông đã viết những câu thơ đầy hình tượng, đầy tính chất triết học, bày tỏ lòng ngưỡng mộ, quy kính trước sự Đản sanh của Đức Từ Phụ. Giờ phút đản sinh của Đức Phật là giờ phút bừng nở một đóa hoa, nụ hoa bất diệt:

Giờ phút linh thiêng

Gió lặng chim ngừng

Trái đất rung động bảy lần

Khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt

Bàn tay chuyển pháp trong hương đêm tinh khiết

Ấn cát tường nở trắng một bông hoa

Thế giới ba ngàn đồng thanh ca ngợi

Văn Phật Thích Ca

Giờ phút linh thiêng

Đóa hoa bất diệt nở ngay giữa vườn hoa sinh diệt

Nhất Hạnh (Đêm Cầu Nguyện)

Các nhà thơ đã chân thành vận dụng tất cả những đường nét thi ảnh, những hình tượng cao quý nhất, thuần khiết nhất, những gì mà ngôn ngữ thi ca biểu cảm được để ngợi ca, để tán thán sự ra đời của Đức Thế Tôn. Biểu tượng Đức Phật như một đóa hoa, Đản sanh Phật như Đản sanh một đóa hoa, là một cách nói. Và cũng không còn cách nói nào hay hơn được nữa, khi thi nhân đang được chiêm ngưỡng một nhân cách toàn thiện, vĩ đại là Đức Phật.

Khác với tất cả những vị giáo chủ các tôn giáo có mặt trên thế giới, Đức Phật đã không bao giờ tự phong thánh cho nhân cách hoàn hảo trác tuyệt của mình. Đức Phật luôn chối bỏ ngôi vị thần quyền mà người khác toan gán lên cuộc đời Ngài. Đức Phật đản sanh giữa cuộc đời, trước hết là vì con người, cho con người Chính vì thế, Đức Phật đã hiện tướng con người mà biểu hiện một nhân cách hoàn hảo, trác tuyệt. Hiện thân thân giáo của Đức Phật chính là hiện thân hình bóng trung thực nhất của con người, và gợi nhắc cho nhân loại biết  rằng đã là con người thì ai cũng có đủ khả năng mô phỏng để trở thành một nhân cách trác tuyệt như Ngài.

3

Vì thế, nhiều nhà thơ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ, thành kính của mình, trong ngày Khánh đản, trước sự ra đời của Đức Phật như sự ra đời của một con người, một con người nhân cách hoàn hảo nhất giữa thế giới loài người :

 

Nghìn xưa Phật đã nghĩa là người

Nghìn sau Phật nghĩa là người mãi

Người thắng đỉnh cao, sống rạng ngời.

Tống Anh Nghị

Rằm tháng tư, ta ăn mừng sinh nhật

Của tâm linh – huyền diệu mãn khai hoa

Ôi HOA NGƯỜI đã nở giữa hồn ta

Nghe con suốt thời gian xuyên sợi chỉ

Dệt nên chiếc áo vàng nhất thể

Thiên Ân ơi! Văn Phật là Người.

Trụ Vũ

Đóa hoa người ấy chính là vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ từ chín tầng trời Đâu Suất, vì một đại sự nhân duyên mà hóa thân ứng hiện vào đời. Mượn thân con người để dìu dắt muôn loài chúng sanh, cứu vớt chúng sanh vượt thoát khổ đau sanh tử. Ngài đã mượn thân người là để truyền trao cho con người rồi sẽ cũng đạt quả vị đại giác như Ngài. Ngài mượn tất cả mọi hình tướng con người chín là để làm tấm gương cho nhân loại mô phỏng và tự mình thắp đuốc đi đến quả vị tối thượng như Ngài:

Mượn thân Thái tử…vào đời,

Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian

Mượn cung điện ngọc huy hoàng

Hóa con vua lại chẳng màng lợi danh

Mượn thân tráng liệt hùng anh

Nói cho đời biết đấu tranh lẽ thường

Mượn phàm thân nói tam cương

Nói nhân nghĩa lễ… con đường thế gian

Mượn thân nam tử dọc ngang

Mở chân diệu nghĩa huy hoàng tình yêu

Mượn thân cha cuộn hải triều

Ngọt lành cơm sữa trăm chiều cho con

Mượn khuya vó ngựa câu dòn

Nửa khuya băng lướt núi non dặm ngàn

Mượn con dao nhỏ đoạn tràng

Cắt xanh mái tóc lên đàng dặm xa

4

Mượn thăm thẳm ánh sao xa

Mở đường giải thoát trầm kha luân hồi

Mượn đi đứng, mượn nằm ngồi

Rừng sâu khổ hạnh pha phôi tháng ngày

Mượn dòng sông gột bụi này

Chánh thân đoan tọa gốc cây Bồ-đề

Mượn hư không thốt nguyện thề

Quyết thành đạo quả trở về bản lai

Mượn huy hoàng ánh sao mai

Đạo vàng thân chứng hoa khai Phật cười

Mượn thân người hóa độ người

Vườn Nai chuyển Pháp đất trời quang dương

Mượn cỏ hoa, mượn dặm trường

Từ Bi Trí Tuệ muôn phương trao truyền

Mượn rừng sâu, tối thắng duyên

Niết-bàn tịch tịnh bản Nguyên Phật là…

 

Và một nhà thơ khác, đã đưa hình tượng Phật – Người ấy vào những câu thơ lục bát, tưởng chừng như đã được ca dao hóa, đại chúng hóa và trở thành những câu hát ru nôi của những bà mẹ hiền:

Em ơi, Đức Phật là người

Bàn tay nhân ái, nụ cười bao dung

Bây giờ  thanh đạm áo nâu

Thương em, Phật cũng dãi dầu gió sương

Phật giờ là chuối ba hương

Là xôi nếp ngọt, là đường mía lau

Canh tàn bấc lụn dầu hao

Phật ru em tiếng ca dao tuyệt vời.

Biểu hiện Đức Phật là Hoa, là Người; gọi Đức Phật với đầy đủ 10 danh hiệu: Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biên Tri… chỉ là những cách nói nhất diễn đạt cảm xúc của mình trước một nhân cách hoàn hảo, vĩ đại là Đức Phật, trong ngày Khánh Đản của Ngài.

Ngày Khánh đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên đất nước Việt Nam, với bề dày lịch sử du nhập đạo Phật, đã trở thành ngày hội lớn truyền thống. Nguồn cảm xúc của thi nhân đối với ngày trọng đại ấy cũng đã trở thành sức sống hàm tàng nội lực từ tâm linh cốt tủy. Vì thế, cứ đến mùa Phật Đản, chúng ta được đón đọc những vần thơ mới; những bài thơ tràn trào hạnh phúc, những bài thơ đưa hồn người trở về với một hiện tại sáng trong, vươn tới một tương lai an lạc:

5

Ngày Phật Đản tiếng ôi thân thiết

Môi mẹ cười, hoa Bụt long lanh

Trụ Vũ

Bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình trước ngày Khánh đản của Đức Thế Tôn bằng những câu thơ, cũng chính là quá trình biểu cảm hình thành một nhân cách mô phỏng nhân cách hoàn hảo của Phật. Cho nên, thơ của họ là thơ đạo. Trong Thơ có Đạo. Vào Đạo có Thơ.

Thơ ấy, bao giờ cũng tràn trào một hương vị giải thoát, hương của hoa Umdambara, hương của loài hoa bất tử:

Khi đóa hoa bất tử

Một uy nghi nở giữa trần hoàn

Thì cho dù ngũ trược lệ chan

Địa cầu chính là niết bàn, Tịnh độ.




HẠNH PHƯƠNG