CẤT TÚI HƯƠNG TRẦM

LỜI NGỎ

Cuộc sống dưới con mắt thiền quán

Các bạn trẻ và các độc giả quý mến!

Các bạn trẻ đã trực tiếp xin tôi cho phép họ được tập hợp một số bài viết của tôi trên các trang nhà, hay trích ở trong các tác phẩm hoặc những bài pháp thoại mà họ ưa thích để xuất bản, với tên sách "CẤT TÚI HƯƠNG TRẤM”,  nhằm cống hiến cho những độc giả nào đồng cảm và cần đến.

"CẤT TÚI HƯƠNG TRẦM", nghĩa là hương trầm chỉ lặng lẽ cất trong túi áo để xông ướp cho thân và tâm của chính mình.

Tôi thấy đây là một việc làm có lợi ích chung, nên tùy hỷ. Tuy nhiên, các bạn trẻ phải hết lòng tôn trọng độc giả, đừng để những sai sót đáng tiếc sau khi đã in, và nếu sau khi "CẤT TÚI HƯƠNG TRẦM" do các bạn trẻ thực hiện đến được với các độc giả, thì mong quý vị chỉ thưởng thức hương vị của trầm với tất cả tấm lòng.

Xin cảm ơn các bạn trẻ và các độc giả, chúc quý   vị thành tựu những gì tốt đẹp trong đời sống.

Trân trọng.

Huế, Chùa Phước Duyên, ngày 26/9/10

THÍCH THÁI HÒA

Thời gian là một chuỗi dài không biên giới. Không gian thì rộng vô cùng vô tận, sự sống thì thênh thang mầu nhiệm, mang một sắc thái sinh động muôn màu muôn vẻ khác nhau. Nó chuyển mình thay đổi từng giờ từng khắc. Trong mỗi một sát na này kế tiếp sát na khác, thay nhau trấn ngự hạn lượng trải qua biết bao thăng trầm lịch sử để vươn tới sự sống liên tục tiếp diễn.

Đã từ lâu rồi, con người vẫn thường băn khoăn trắc trở đi tìm một phương pháp chân lý thực tiễn, ngỏ hầu đem lại một nguồn tâm an lạc cho nhân sinh. Trong đó cương yếu tình thương vốn dĩ là then chốt, là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu đối với sự hằng sống. Sự sống hễ thiếu tình thương thì sự sống sẽ chết. Chết ngay trên khi còn non dại bồng bột. Nhưng vấn đề chính ở chỗ tìm đâu ra một lợi khí thiết thực, tình thương bây chừ, khi mà công nghệ khoa học tiên tiến đã phủ kín quanh ta, làm cho con người đánh mất đi bản năng tự có chính mình, là thương và  quyền được thương.

Thiết nghĩ không gì quý hơn một ẩn sĩ thu mình ngồi bên ấm trà nhâm nhi từng ngụm, phong cách vẫn bề thế, đỉnh đạc thanh cao thiền vị dáng dấp một con người đang bay tỏ tâm tư toát ra từ trang giấy bình thường ngắn gọn. Nói lên tiếng nói nhân ái, tiếng nói cá nhân trên mặt đất.

Cất túi hương trầm không ngoài ý ấy! Bút pháp không cao siêu huyền bí hay nhẹ nhàng lã lướt như những triết gia chuyên nghiệp. Hương Trầm chính là mùi tinh khiết quyện khắp đó đây, mang đầy trí tưởng ý vị tấm lòng chân thành của thông điệp tình người, tình nhân loại, là lối suy nghĩ chính đáng của lương tri con người, làm sống cội nguồn trong cái chiều hạn hẹp của thế kỷ 21.

Hồng Bối



CẤT TÚI HƯƠNG TRẦM

Tình thương chân thật là một tình thương luôn luôn có sự cảm thông và sự hiểu biết. Chất liệu hiểu biết sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn an lạc. Không có hiểu hẳn nhiên sẽ không có thương, vì hiểu biết và thương yêu thường luôn song hành vào nhau. Giống như cái ly và nước uống, không thể thiếu một trong hai thứ đó. Tình thương đích thực chính là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn. Cuộc sống vốn dĩ bần hàn quạnh quẽ, nhưng khi chúng ta biết cách chọn lựa và tiếp nhận thì tự thân sẽ tạo ra một không gian ngay chính giữa nội tâm của mình. Trên con đường thực nghiệm tâm linh, ta dừng chân lại để thấy được tất cả trời xanh, mây trắng. Đó là những giây phút xảy ra trong đời dù chỉ thoáng qua một lần:

“ Chim hót thông reo hoa nở
Trời xanh mây trắng là đây
Ánh mắt thương yêu sáng tỏ
Nụ cười ý thức đong đầy”.

Nếu ta biết mở lòng ra để chan hòa mình vào cánh cửa thực tại thì sẽ có cơ hội nhìn thấu tận nguồn bản hà, thấu đến siêu nhiên và những âm thanh vi diệu bất biến từng sát na. Chúng ta có may mắn lớn được học hỏi, lắng nghe pháp mầu đó là một nhân duyên để ngày càng thăng hoa trên mỗi sự sống con người và thiên nhiên.

“Chỉ mỗi thoáng tâm này
Sao chim hót đến hay
Sao cỏ xanh đến mượt
Hạt sương mướt như vầy”.

Có một nhà học Phật đã từng lột tả cái thấy chánh niệm qua tác phẩm “Một Thoáng” tuyệt nhiên như trong giấc mơ. “mỗi thoáng chân như thực sự có mặt nơi mỗi người, nhà thơ gọi đúng tên của nó là thoáng tâm. Vì có cái thoáng tâm ấy nên mỗi tiếng chim hót trên mọi cung bực đều nghe thấy là hay. Mọi ngọn cỏ mọc trên mọi ngóc ngách sỏi đá đất cát đều thấy nó mượt. Do đó mọi hạt sương, ngàn ngàn vạn vạn hạt sương có mặt lúc thoáng tâm kia có mặt đều mướt như vậy”.

Giọt nắng hiền

Nắng mới, chút niềm thương nhè nhẹ,
Nhặt cánh hoa vàng vương áo bay.
Lung linh ngọn nến cười trao nhé,
Khuya về hoa rụng tay trong tay.

Bình minh lên hé sáng trên vách núi, từng áng mây trôi thong dong. Đây là giây phút ta có thể mỉm cười để cảm nhận sự sống bắt đầu vào ngày mới. Từng con đường sờ sờ trước mắt, biết bao giọt nắng miên viễn đều khiến tôi thu mình nơi chốn vắng. Nắng vàng cũng là khoảnh khắc đẹp nhất. Hoa lá Cỏ cây hay viên sỏi đều chứa đựng sự mầu nhiệm tuyệt vời trong ấy.Tuổi thơ tôi chợt hiện về trong nỗi nhớ cô đơn. Ngày thơ bên con đường nỗi lạc lối, Quét nhà, tưới cây hay cắm một cành hoa vào bình trong không gian tĩnh lặng… đều cho ta tìm lại một chút hạnh phúc nhỏ nhoi nào đó. Giọt nắng rơi xuống chan hòa giữa lòng người đón nhận, thẩm thấu qua từng phiến lá để rồi bên nhau trong cõi xa vắng, Hãy để cuộc sống đơn sơ cho ân tình thêm tươi mới mỗi ngày.


Thiền Trà ơi!
Ta về tìm chút hương trà,
Bên cây thông cội bên nhà Cún con.
Ướp thơm vạn loại cỏ non,
Đêm trời hôm ấy mận non thơm lừng.

Cuộc sống biết bao điều ngớ ngẩn vui buồn, bởi tình yêu thương chỉ khỏa lấp một mối tình riêng tư. Tình trong đôi mắt biếc, tình về trên chiếc lá vàng rơi. Chúng ta sẽ chợt gặp mỗi khi biết dừng lại để chiêm nghiệm nét đẹp tự nhiên ấy ở mọi nơi. Vì lúc nào tình đầu tình cũng mộng như thơ, có một bức tranh vẽ con đường đã có dấu chân qua. Buổi trà sáng nay giữa khu vườn bách thảo, lác đác dưới thềm bao hạt sỏi trắng tinh, chùm hoa cúc tỏa hương thơm ngát đó đây. Tôi hiểu ra rằng, tình yêu đang có mặt thực sự bên bờ hạnh phúc cho bạn. Trong khoảnh khắc yên lặng khi nâng chén trà còn thơm mùi đất nhẹ. Với tôi mọi thứ không thể thiếu đi những người bạn tâm giao chí cốt chân tình. Bạn có thể ngồi xuống trong giây lát để nhìn mây bay, sương buông hay nắng sớm về trong chén trà khói. Mỗi khi mệt nhoài, chúng ta tập ngồi cho thật bình yên rồi trở về hơi thở ý thức để tiếp xúc mọi khó khăn xung quanh. Tôi thường nghỉ rằng Khổ đau và Hạnh phúc luôn hiện hữu ở nơi mỗi người, nhưng chỉ cần ta nhận diện khổ đau và biết chuyển hóa nỗi buồn phiền thành nguồn an lạc có ích. “ vì không đau khổ lấy chi làm chất liệu, không buồn thương đâu biết chuyện con người”, như thế chúng ta có trong nhau tự bao giờ.

Cười lại đi em!
Ngắm em dưới ánh trăng vàng
Mà anh cứ ngỡ duyên thầm đã qua
Đêm mơ một nụ hôn già
Đôi ta giờ đã mặn mà hơn xưa.

Trong thân tâm chúng ta, ai cũng có lần gặp gỡ người tri âm. Chút gió, chút nắng và chút hương trầm luôn đem lại niềm vui vô biên. Có lẽ ánh mắt là sự sống hiện tồn xưa nay. Chúng ta nên trải lòng gìn giữ là điều giá trị chân thật cho nhau phải không? Vào một ngày ta đang bơ vơ chốn bụi hồng, mãi tìm một chút nắng sưởi ấm tâm hồn yêu thương.Tôi đã gặp em qua ánh mắt đầy thiện cảm, chúng ta đi bên nhau từ dạo đó. Thật sự tôi chưa bao giờ ích kỷ cho em nụ cười thân yêu. Vì tôi luôn nghĩ ra mọi cái điều vô thường trong ánh hào quang. Như đám cải ven đường bên kia, khi thoáng mắt nhìn thì em đã ở phía chân trời xa vời.

Chiều nay  nay tóc mẹ phủ bóng tuyết
Nụ cười mẹ còn trong gương nguyệt
Cánh hoa thuỷ triều dâng đâu đó
Mẹ mãi dòng Hậu Giang trôi êm.

Nói về mẹ là cả tiếng nói thiêng liêng, là nguồn sống trải dài trên mỗi bước chân. Tình yêu của mẹ là cả bầu trời đầy ánh sao. Nếu ai vẫn còn bên mẹ là một may mắn lớn trong đời, cả cuộc đời mẹ luôn lặn lội hao mòn để tìm ra ánh nắng mùa xuân và hãy nhìn lại mẹ thật kỹ để biết rằng mình đang diễm phúc trên vòng tay che chở ấy. Ánh mắt xanh, mái tóc non, bàn tay hồng mà mẹ đã cho con tất cả. Biết mấy núi trăng luôn ôm ấp vùng trời bình yên vào cõi lòng của mẹ đã chất chứa những tình thương chan chứa như biển khơi mênh mông. Một lần nữa hãy lắng nghe tiếng gió thì thầm bên tai, vang dậy điệp khúc không đi đâu và không cần tới, vì nụ cười tinh khôi đã ẩn trong mỗi tế bào của em rồi đấy. Có lần tôi đã nhắc thầm, giây phút đẹp nhất là mẹ vẫn đang hiện hữu như cánh sen thơm giữa đồng nội quê nhà.

Về đây tự khúc yêu thương
Về đây nghe tiếng vô thường trong mơ
Về đây dự khải hoàn ca
Về trong giây phút bao la mây trời.

Yêu thương là một nghệ thuật sống đầy đủ của một con người. Nếu ta chú tâm vào lớp vỏ ngoài của thân cây, thì ta dễ nhận ra một điều là cái vỏ đó đang nhiệm vụ bảo vệ cho toàn thân cây không bị kí sinh gây hại. Cũng như khi ai đó đã làm chúng ta tức giận buồn phiền thì ta hãy nhìn đối tượng ấy như một cơ hội thực tập soi sáng nội tâm mình. Trở về với hơi thở nhiệm mầu để chăm sóc cơn giận là lúc ta có mặt đầu tiên của giây phút hiện tại, biểu hiện ra sự tươi mát bình thản và im lặng, từ đó cánh cửa bình an sẽ mở dần, niềm vui mà ta từng mơ ước sẽ bắt đầu một cuộc sống hiền hòa. Hằng ngày chúng ta nên trân trọng thời gian cho nhau. Và ta cần phải nuôi dưỡng chiều sâu tâm hồn cho tình thương luôn có mặt. Thức dậy ta nên làm mới thân tâm, chế tác hạnh phúc để con đường ái ngữ thêm rộng lớn. “Lắng lòng nghe lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm”. Mỗi hạt giống từ bi sẽ làm nơi nương tựa “ khi nghĩ về đời người, tôi thường nhớ về một rừng cây”. Bạn sẽ cảm thấy cuộc sống bao la như mây trời thảnh thơi không có một khó khăn đến từ sự biến họa tâm thức.

· Đường tình ta đi
Chiều nay bạn đến thất chơi
Uống chung trà nóng tinh khôi chốn này.
Vườn xưa ươm hạt giống đầy
Bây chừ tươi tốt đất trời đẹp thay.

Có duyên may gieo xuống mặt đất những hạt giống còn nguyên vẹn, tình yêu sẽ nở ra như những mầm con vươn mình trong nắng mới. Biết gìn giữ con đường có rác, có hoa thì chắc chắn bên trong lẫn bên ngoài cũng sẽ hòa quyện lại với nhau. Vì rác và hoa chẳng khác gì nhau. Đó chính là bản chất của sự sống thiên nhiên tạo hóa. Cũng như rác kia tuy xấu xí nhưng thành phần không thể thiếu chất liệu cấu thành hoa. Vì thế rác và hoa hình tướng tuy khác nhau nhưng đều trên đường chuyển hóa. Cho nên trên con đường ta đi thì chắc rằng không thiếu những khúc đường gồ ghề. Lúc đó ta thật bình tĩnh dừng lại để tiếp tục theo dõi màu trời trong, ngắm một vài đóa hoa dại ven đường, lắng đọng mình lại để nghe giọt nước róc rách đâu đó và thoang thoảng mùi hương từ cây cỏ.

Đâu đó con đường tình vẫn lơ lửng những hạt bụi mờ bám theo sau lối tình cũ. Đừng vội vàng thốt lên lời yêu thương hay sợ hãi quá sớm vì ngày tháng con đường tình còn dài, màu áo chưa bạc màu phong trần. Hiển nhiên trong bạn vẫn có thể tự làm mới con đường hay thay đổi hướng đi cho hạnh phúc luôn là một ngọn lửa hồng. Bóng tối đang chìm ẩn, ở phía trước một màu xanh yêu thương đang về. Nơi ấy vẫn mãi còn vùng đất rộng thêng thang trong đôi mắt kinh chiều cho người sau.

· Bờ cỏ lau
Từ vô thỉ kiếp ta có em,
Sóng vỗ ngoài khơi chút êm đềm.
Trong lặng thầm tình em mãi đẹp,
Gió xôn xao Cất Túi Hương Trầm.

Mỗi khi đi đến nơi ở mới hay bàn chân chạm phải vùng đất lạ, ta luôn có cảm nhận bầu trời này, sợi nắng mơ và cây cối nơi đây chưa thật gần. Khi tiếp xúc những ảo ảnh bên ngoài ta có thể nhìn được sự đổi thay của chúng. Vì vậy khi tình yêu bắt đầu, như một làn hương thoáng nhẹ lắng xuống, chúng có thể tồn tại hay vụt tắt và làm thế nào để không đánh mất tình yêu lý tưởng nơi bản ngã mỗi người. Chúng ta thử một lần nhìn lại cuộc đời, nhìn lại chính mình và hướng ra biển khơi để chiêm nghiệm về những điều ấy.

Bạn thử dùng tâm theo dõi một cơn gió mạnh qua thân cỏ lau thì bạn sẽ thấy chúng mềm mại dễ chịu, thả mình đong đưa trong gió.Từng nhánh nhịp nhàng, uốn lượn theo chiều gió, như chưa bao giờ ta thấy chúng đổ xuống do những cơn bão táp đi qua. Bờ cỏ lau đồng điệu như bản hợp xướng trường ca trước mùa gió chướng, chúng chưa bao giờ tách biệt đơn côi. Bởi cội rễ luôn có sự sống tồn tại, vững chải trong trùng điệp thâm sơn. Cứ như thế đất có khả năng chăm sóc, tưới tẩm cất mình vào sâu giữa lòng cho chúng qua ngàn năm tuổi, không một tiếng thở dài.

· Một dòng lặng
Từ thuở nào ta có em hiện hữu
Như ngàn mây lặng thầm em bước đi
Tình trong nắng trên đôi mắt xanh biếc
Bến Quỳnh Hương còn mãi chút thân thương

Cố đô Huế, dòng Hương Giang bốn mùa nước trong thơm mùi sữa mẹ. Từ khi nào Sông Hương luôn ẩn mình trong giếng ngọc, với cái tâm, nét diễm kiều hằng xuôi mái bao con thuyền cập bến trên những con nước êm đềm sâu lắng ấy. Khi nghĩ về hồn thiêng là lúc chúng ta nhớ đến cội nguồn và khi nghĩ về một dòng nước ngày đêm tuôn chảy là dịp chúng ta nghĩ về vùng đất mẹ mỗi ngày nuôi lớn. Suối nguồn chưa từng có tiếng than thở mà con người cũng chưa một lần hay biết. Chỉ cần còn biết ơn cuộc đời đã là còn chút sâu kín hơn. Cho nên khi ta có cơ hội ngồi yên thì tự thân sẽ là những bông hoa đẹp tươi đẹp cho cả vườn hoa. Khi đi ta biết ta đi đâu, khi ăn ta biết ta đang ăn gì. Đó chính là lúc chúng ta trở về với những giây phút hiện tại, cuộc sống có giá trị ở đây.

Từ bao đời dòng Hương đã trở nên mạch sống gần gũi như dòng suối trong lòng cố đô. Cho dù mưa sa, giông tố thì Hương Giang vẫn phẳng lặng ngàn năm. Đến với Sông Hương ta mới thấu hết tình quê đậm đà, với tiếng chuông chùa sớm chiều ngân vang thức tỉnh lòng người.

Ngày cho em
Đến bên em một chiều đông sập tối
Sẵn trong tay chén cà phê thơm mới
Ta cứ ngỡ tình em ở đâu xa
Cánh tường vi mỉm nhẹ lên đôi má
Một dấu hỏi làm tan biến cuộc chơi
Còn để lại một tình yêu lên ngôi
Tình mận trắng của buổi đầu mới lạ
Chừ gặp nhau trong tình sâu bất diệt.

Hai bạn trẻ, tôi muốn nói riêng đôi điều với hai bạn về một cuộc sống giản đơn mà hạnh phúc thật nhiều. Khi chúng ta hiểu được đôi chút tâm tư thì ta có thể lắng nghe được tất cả những thứ trên đời này qua con mắt yêu thương và tha thứ. Thời gian để bước chân quay về im lặng, không nói gì hơn thua, là để cho ta trở về nhận diện đơn thuần với bao nỗi niềm buồn vui, cồn cào giận ghét. Dành những giây phút cho nhau là một nhu yếu cần mở lời yêu thương. Trong ai cũng có hạt giống riêng tư, tâm hành lăng xăng chẳng biết nói thế nào cho phải với lòng và chấp nhận đơn lẻ những điều xa xôi. Thế nên: Hạnh phúc là con đường đưa ta đi từng bước, mỗi bước đi có những khó khăn, có điều dễ chịu. Khi nào bọt nước hiện hữu là nước thì lúc đó mới thực chất là một hạnh phúc mà ta cần tìm kiếm. Chẳng hạn chiều nay hai bạn mang tới cho tôi một cái kệ được đóng từ những thanh gỗ, tôi rất hài lòng. Không chỉ vẻ đẹp về kiểu dáng, qua bàn tay tài hoa của người thợ. Mà có lẽ vì tôi đã nhận ra sự đồng cảm của một sự quý mến nho nhỏ. Chỉ đơn giản là tôi biết cách làm chủ cảm xúc để đón nhận trận mưa rào từ đâu đến, chính vì điều đó đã hòa quyện vào dòng suy tưởng: ngày hôm nay chưa phải là bắt đầu. Tôi nghĩ mình cần phải tập khép kín giống như sự biểu hiện đầu tiên của cái tủ kia. Cho nên mọi vật chất bằng những tố chất đất nước gió lửa, những ấm trà đồ gốm tôi đã tự tay xếp vào bên trong từng ngăn và ngẫu nhiên tôi đã đặt cho nó một cái tên: Trăng Non. Và người ta cũng nên như vậy, phải thiết lập cho mình một góc không gian của tâm hồn. Ngày tới ta sẽ không nói gì nhiều, ít ra đường cũng như ít tiếp xúc với mọi người để có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn được người mình thương trong tinh thần biết ơn cuộc đời sâu sắc.

· Chiều nhớ
Trăng về dòng nước thơm lừng,
Người về thổi lửa trong từng phút giây.
Tình ta biển rộng sum vầy
Mênh mông thuyền nhỏ chở đầy tình duyên.

Từ buổi chiều ban sơ ấy, tôi đã gặp hai bạn trong túp lều tranh, có đầy hương cỏ và ánh nến lung linh trong đêm. Với nét mặt hiền thục, lời nói khiêm tốn chứa đầy tình xót thương trổi dậy tâm tư toát lên tôi cảm thấy hai bạn sớm biết trở về tạo dựng hạnh phúc, sống thật cho chính mình trước một cuộc sống hiện tại gian nan bể dâu. Thấy Nguyên Khang có vẻ như là chàng trai hiền từ mộ đạo còn Diệu Thư chẳng những một thiếu nữ nhỏ nhắn kiều diễm mà còn có tâm hồn thấu hiểu sự đời. Có một lần hoài nhớ từng bước em đưa tôi sang… Cún, Lang như đang tiếp thêm nguồn lửa sống trong bề dày của đoạn đường tôi đang đi tới. Căn nhà nhỏ hôm ấy tôi đến chơi thật bình dị, như trong giấc mơ lạc vào rừng bách thảo. Nhưng cuộc đời có gì mà hoàn hảo lắm đâu, mọi thời gian sẽ cho ta nhận thức ra lẽ sống đơn thuần để cứu rỗi một linh hồn vô vọng.

Mơ tình người
Em đến bên tôi mà ngủ say
Lá rơi rơi nhẹ chén trà đầy
Nhạc tình vừa trỗi bay đi mất
Lặng gót nhìn nhau rồi ngây ngô.

Mùa vu lan đang về trên từng lối đi và trong lòng những người con. Từ hoa cỏ cho tới rừng già hoang vu, tất cả điều nhớ về cội nguồn một thời nuôi ta lớn khôn. Trong một khoảng lặng, giây phút thiêng liêng của tình mẹ ân cha lại vọng về dưới mỗi cái nhìn, bước đi giữa dòng đời. Biết bao ân tình sâu nặng khiến cho ta luôn nhớ về ngày được cất lên tiếng khóc chào đời. Cha và Mẹ là nguồn hạnh phúc lớn lao, tựa như mây trời lồng lộng như sông ngàn biển lớn. Dù bất cứ nơi đâu hay những khi bơ vơ giữa đường đời, Cha Mẹ luôn luôn hiện diện trong tấm lòng hiếu thảo của người con tha phương. Dưới mọi hiên nhà, hương trầm thơm ngát lúc mỗi trái tim tìm về hai đấng sinh thành để tỏ bày niềm tri ân báo ân cõi hồng trần hiện tại.

Dấu chấm buồn
Lên chùa lễ phật nguyện cầu,
Bỏ quên chiếc áo nâu nâu nhiệm mầu.
Hỏi Thầy manh áo ở đâu,

Thầy rằng hai áo đầu cầu bên kia.

Những ngày rằm tháng bảy tiết trời se lạnh, mây trắng bồng bềnh trên những tản núi màu xanh và dưới bàn chân mẹ đi. Buổi sáng, tiếng chuông được sư trụ trì thỉnh lên như một âm thanh trầm hùng làm dịu bớt bao suy nghĩ lo toan. Cái ngày hôm ấy làm sao tôi quên được, vì hai tiểu đệ của nhà chùa đã hăng hái thành tâm trong dịp vu lan về. Trời ơi ! mùi hương trầm quyện tỏa khắp căn phòng bé nhỏ, hai em đã đến bên tôi và đem ra một ít hạt sen. Tôi và Thầy Quảng Chơn lấy cái ấm và mấy cái chén trong ngăn tủ ra, rồi pha trà cho hai em uống. Tôi dặn hai em rất kĩ về cách chế trà và uống trà trong tĩnh lặng. Thế là Cún và K.Lang đã học được cốt cách điềm tĩnh đó. Buổi tối qua đi thật nhẹ nhàng và buồn cười hơn là một đêm đáng nhớ cho mấy cùng tử này. Ngoài kia trăng sáng trong, đâu đó mùi hoa trái kết hương diệu huyền, ánh nến trong không phòng như đang lôi về câu chuyện chưa ai kể hết….

Trăng thơm lên
Ngàn hương tưởng nhớ mẹ cha,
Câu kinh tháng bảy màu da thạch huyền.
Nguyện thề năm tháng đáp đền,
Ân sâu nghĩa mẫu bước thiền thong dong.

Trong chúng ta, ai cũng biết rằng sự hy sinh nuôi dưỡng tần tảo của hai đấng sinh thành là không thể nào đong đếm được. Cứ mỗi độ thu về, hương trầm tháng bảy lại phảng phất trên hương áng và tận trong lòng những người con chí hiếu. Hình ảnh Tôn Giả Mục Liên và bài ca Vu Lan đã gợi cho chúng ta hoài niệm về bốn trọng ân. Đóa hồng báo hiếu trên mỗi trang kinh thấm thía tình người, tình đạo vị của đạo đức học Phật Giáo. Bởi vậy, màu đá thạch huyền tượng trưng cho núi thái sơn cao vời và tình của mẹ gắn liền vào dấu chân của đời con. Năm nay Chùa có hai phật tử Nguyên Khang cùng Diệu Thư đến chùa dâng hương lễ Phật từ rất sớm. Trong lúc các nhà sư đang sắp tọa cụ, trưng hoa quả. Tôi biết rằng trong tâm tư của hai bạn hơi buồn, vì ba mẹ mình chưa có mặt với tam bảo. Lòng thành và niềm tin chốn già lam của hai bạn, sẽ có một ngày không xa cảm động được mọi người. Nếu được như vậy thì trong muôn một các bạn cũng đã có thể đáp đền được chút ơn nặng của tình phụ mẫu. Dù dòng đời còn nhiều đau thương, nhưng chỉ cần trong trái tim ta còn chút hiếu hạnh thì vạn vật chung quanh sẽ trở nên thân thương gần gũi, nguồn tiếp nối hạnh phúc bắt đầu từ đó.

Duyên kết:

Những ngày kỳ ngộ Cất Túi Hương Trầm, ta lại có duyên nợ từ vô thỉ. Trong ký ức và thực tại đã là một con người phong trần. Ấm trà nóng, một vài bông hoa nở rộ sáng nay bên góc phố Sài Gòn. Nguồn tình thi vị là sức sống thiên hà không vô biên xứ. Qua thanh lửa củi bốc khói, tôi đã nhìn rõ quê mẹ chan chứa, ấp ủ lớn lên từng hơi thở. Viết tập bút Hương Trầm không phải chỉ qua bàn tay mà còn qua nhiều tâm tánh cuộc đời tạo hóa. Tất cả những thời gian để hoàn thiện cho từng đoạn viết tôi đã uống trà, ngắm mây bay, sương chiều, hoa nở, hương trầm, ánh mắt của trẻ thơ, đi dạo trên từng con phố xưa của Sài Gòn hay nghe lại các bản nhạc Trịnh, độc tấu các loại nhạc cụ dân tộc và tiếng kinh cầu đêm đêm vang vọng chuông đại hùng. Một thoáng trụ vũ, tri âm trăng non và có từng nhịp của trái tim mẹ hiền. Tình hoa mận đã du dương sâu lắng, hương ngọc lan đã hòa quyện hồn tôi. Ngay trong hiện tại hương trà tỏa ngát và nguồn tâm xây dựng, tình huynh đệ có mặt cho nhau. Những bước đi thảnh thơi, cảm xúc từ những con đường đi vào huyền thoại của chúng tôi. Tuy lời văn chân tình ngăn ngủi nhưng đó là cơ hội ngồi xuống lắng nghe chánh niệm.

Vũ trụ một thoáng tri âm mãi
Con đường tình đạo thong dong mãi
Một sớm du dương tiếng kinh chiều
Ta về tắm lại tình trong ta.

TẠ ƠN XUÂN TRI KỶ

Là thế gian, giấc mơ cõi mộng thực như giọt sương huyễn hóa, rồi nhạt dần theo năm tháng. Điều thành công, cái thất vọng luôn đổi thay như vỏ sò ngả nghiêng trước bọt sóng biển khơi hay ngọn gió đã cuốn làn hương bay xa. Cuộc đời vốn là cõi dừng chân, đôi lần thực tại biến động vào những lăng kính ảo tưởng hư vô. Ví như gương soi bóng thệ nhật qua một tâm hồn nguyên thỉ:

“Ta tìm ta giữa có không
Nào hay ta ở chốn hồng hoang
Vung tay đập nát hài nhi ngã
Ta lại gặp ta giữa có không”

Biển đời vô thường, duyên sinh. Sự sống diệt sinh theo thời gian biến hóa. Nếu tâm bất động, bóng tối sẽ không còn hiện hữu như một bản trường ca du miên trầm lắng suốt mùa đông. Ngay trong cuộc sống thường ngày giữa người với người có khi phải đối diện tâm tư phiền muộn, có thể do chúng ta thường hay lạc mất giá trị hạnh phúc hiện tại đang có.

“… Như cuộc sống vô thường
tuôn dòng đời bất tận
khứ lai sinh tử bóng người mê
khổ đau lai đáo thành miên viễn
xuân đến rồi đi lặng lẽ trông”.

“Bạn đường ơi, nắng lên rồi gieo sáng ngời, nhạc ngày xanh như chim lành tung đôi cánh!” Chỉ một câu nói thì thầm của ngõ xuân bấy nhiêu thôi mà còn để lại nguồn ánh sáng tuệ giác và nền tảng đạo đức bên cạnh trái tim thuần khiết. Có những thứ gia tài mà ta không thể nào chớp mắt ngủ quên, trong chiều sâu nỗi lòng tự kỉ. Dù rằng con đường tâm linh mãi rọi sáng và vũ trụ nhân sinh bắt đầu bước tới bên cánh cửa của tương lai.

Hương trời, sỏi đá, đại dương sẽ cho ta chạm vào nụ cười hồn nhiên thảnh thơi, từng giây phút ta có thể chốc lát lặng yên. Đó là cách thiết lập làm mới chính mình luôn tạo nên những đóa hoa tinh túy có chất liệu thiện duyên của buổi đầu thiên hà ban tặng.

“Bãi nắng
Mưa xóa dấu chân người
Trên cát mịn
Não phiền từ đâu lại
Chân còn chưa chấm đất
Lắng nghe phản phất gió xuân về”

Trong hoang mạc không lời đã in dấu chân trên cát phù sa, hóa thành tảng kim cương dưới cái nhìn thiền quán, cho đời một ấn tích cát bụi và đâu đó hơi thở con tim cũng thay lời nói lên điều muôn thuở của vạn vật.

“Một đóa sen muôn đời
Sắc hương tỏa muôn nơi
vườn tâm trong bản thể
góp nhặt hiến tặng đời”

Với tấm lòng chân tình, tình yêu thương vô bờ bến sẽ hòa cảm niềm biết ơn sâu sắc này trong cuộc sống giao thời trước thềm xuân mới. Nếu nơi chốn nào đó đang ôm ấp nỗi lòng sầu bi, thì lời cuối cho mùa xuân được xin lại bao điều đã làm cho thế gian này say cuồng. Khi ấy chúng ta cũng nên mở lòng mình ra để dễ dàng thấy núi xanh và càng có nhiều cơ hội tiếp xúc với mây trắng, nắng vàng như một lời cám ơn xuân sang vậy.

“núi là núi, sông là sông
thiền là tách trà trên tay”

VÌ CÓ PHẬT

Một khi trái đất còn nguyên vẹn

Thì chúng ta còn nở một tim sen

Mỗi năm trái đất trên hành tinh càng ấm dần lên vì môi trường chưa thật sự hoàn thiện với những gì cuộc đời ban tặng. Từ các nguyên nhân cận và viễn, con người chưa nhận biết ra khối nhân duyên tồn tại ở từng cá thể.   Đó cũng là nguy cơ lây nhiễm tâm hành thạch nham tạo ra một nguồn khí thải thương tích bất hòa, chia rẽ lẫn nhau.

“Mê cố tam giới thành

Ngộ cố thập phương không
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ hữu Nam Bắc.”


(Mê nên thành ba cõi
Ngộ nên mười phương không
Xưa nay không có vật
Chỗ nào có Bắc Nam.)

Sau những lần hiểu thêm về những nghiên cứu vận hành của vụ trụ, có một nhà ảo thuyết cho rằng vòng quĩ đạo đất xanh sẽ biến hoại vào năm 2012 tạo thêm luồng ý thức giật dây khiến khoa học ngoài không gian phải đánh tiếng lời đồn đoán ấy. Nhà học Phật cần đắm mình chiêm nghiệm về thế giới vô thường vô ngã bất nhị trong buổi đầu của thiên niên kỷ thứ 21 này. Ở đây không có tính bàn sâu vào cái lõi vật chất Có - Không nhưng chúng ta cùng nhìn nhận rằng các nguyên nhân việc trì hoãn bây giờ là từ ý bất tương đồng mà tự con người đã tạo hóa thành mối lạc quan phiền não (vui trong phiền não) qua lớp nhãn quan gốc rễ sinh diệt cho từng mỗi tế bào nhiễm ô.

Từ bản chất hệ quả thâm căn cố đế về một đấng tối cao, về một hướng đi trước khoa học, làm cho những nguồn sống tương quan tương duyên đơn điệu bi lụy, đẩy lùi sự nhận thức không hơn không kém. Cái hí luận Trái đất đổ nát vào giữa tháng 12 năm 2012, dẫn tới tính thuyết phục bị suy yếu nhân cách, về nguyên lý hiểu biết thương yêu và rồi người ta làm lu mờ thái độ bảo thủ, thi nhau chạy đua vào một không gian ảo, không biết ngày mai là gì? Nếu nhà nghiên cứu Đạo Học Phật Giáo thì dễ chấp nhận đối diện câu chuyện viễn ly xuất thế gian, cũng như những nhân tố hoan náo về mặt tâm lý lên cả cộng động người tu tập, ví như một hạt cát đâu thể làm nên đống cát được?

“Có đời có đạo phương tiện cứu cánh

Tục đế chơn đế , sắc sắc không không”

Trong khi hiện nay các tổ chức tôn giáo, các hội đoàn tâm linh thường có cử chỉ vừa thụ động vừa chủ quan, cứ bám đuổi theo một nhân tánh có khoảng cách, tách hẳn ra ngoài đời sống thực tại. Song cùng Đạo Phật lại đáp ứng tuyệt diệu vào tính khế cơ, thời vận của một xã hội khoa học đi trên mặt trái đất. Con Người Thế Tôn, cuộc sống đức Phật luôn luôn đề cao giá trị hàn gắn khổ đau và giúp chúng ta thiết lập cái nhìn đúng đắn chân thật phản quang tự kỉ “nhìn lại để hỗ thẹn” Từ xưa tới nay Đạo Phật chưa bao giờ biệt lập ngoài cuộc đời và cho phép cá nhân hành hoạt theo phép tính trừ cộng. Bởi vậy một tổ chức nào ra đời trong lòng xưng danh đó trước tiên cần tháo gỡ tâm hành riêng tư, suy tưởng đố kị và lạm dụng ngôn ngữ, hầu mong cởi trói con đường Cư Trần Lạc Đạo già cỗi. Vì sao có thời gian , vì sao có Bụt, vì Bụt xuất hiện với lẽ đương nhiên ấy.

Ở lá thư số 1 năm 2005 viết cho cánh cửa tuổi thơ quê hương, tôi tha thiết mong mỏi dựng lại mái trường nuôi dưỡng tâm đạo cho các bạn trẻ, vì tình thương không chỉ bằng vôi với gạch, mà là bằng cả trái tim, của sự sống tinh thần hướng đạo.

Ở đầu lá thư số 2 năm 2007, tôi viết tại Hà Nội thêm một lần nữa xin khoanh tay trước thảm đen, lâu đài tiêu điều trên những nấm mồ. Tôi luôn hoài bão ở tương lai những người trẻ quê hương có đời sống lành mạnh, được chuyển hóa bằng việc kêu gọi giáo dục tính Phật ngay từ nhỏ.

Ở năm 2009, lá thư số ba tôi có may mắn viết tại Sài Gòn, sau các biến cố Phật Giáo- Bát Nhã. Tôi cũng hy vọng Hội Phật tử, người trẻ An Bằng đồng lòng hiệp thông cùng chung một bước đường phụng sự và cống hiến để góp phần vào sự nghiệp giải thoát của Đức Phật trong ngôi nhà Phạm vũ hòa bình. Để cộng trú vào cuộc xây dựng tín tâm cho thế hệ ngày nay.

Người xuất gia, không ngoài vấn đề tự độ và lợi tha nên tôi cũng hiểu rằng tùy cơ ứng phó, nhưng nếu chúng ta phụ thuộc vào sự áp đặt quá thì trở nên tha hóa nhàn rỗi, cho nên mỗi lúc chúng ta cần phải cẩn trọng việc ứng xử thân hành, ái ngữ hành. Có thể do cách làm việc, sinh hoạt của chúng ta hơi nghiêng “bên kia, bên này” như một chiếc cầu không người đi, dòng sông trở nên buồn tối. Chính Phật đã dạy mỗi người hãy thắp sáng lên ngọn tâm đăng sẵn có.

Tỉnh thức vì có Phật, với những hành động, diễn biến xấu đi thì chúng ta cần biểu hiện tâm phận cởi mở bao dung để tạo ra cơ hội bàn bạc thân ái cặn kẽ như anh em một nhà có Phật, hãy cùng bỏ qua những thị hiềm lỗi lầm của nhau, mở lòng tha thứ và nuôi lớn trách nhiệm có mặt của mình nơi Tăng Thân Hội Phật Tử, để làm lớn mạnh chí hướng cao thượng bề dày vững chãi.

Thưa các bạn là người con Phật ! chúng ta cần có năng lượng xích lại gần nhau giữa hai thế hệ: ”lão thành uy nhiệm” và ”trẻ trung hành sự”, đem lại cho quê hương đạo pháp thêm nguồn sinh khí mới ở phương trời từ bi cao rộng. Theo như đó, chúng ta cùng chọn lựa ra những lối áp dùng Đạo Phật vào đời , những nhân sự đặc trách cho việc tổ chức sinh hoạt tu tập. Nguồn Suối tươi mát đó sẽ thấm dần vào mỗi nhịp đập con tim lục hòa, lý tưởng đẹp của người Phật tử chân chánh. Năm 2012 chúng ta không còn ngại bởi thiên tai, bởi có chánh niệm trước thảm họa sợ hãi kì thị, vì hôm nay chúng ta đã có cách suy nghĩ trước vấn đề phương thức làm việc. Như vậy, một lần nữa tôi mong thấy tương lai nơi các bậc tư tưởng lớn, những người có khả năng thấu tình đạt lý sẽ lái con thuyền đang trong vòm trời mưa bão và sớm thoát khỏi con đường lầy lội.

GIẤC MƠ NGƯỜI TÌNH TRẺ

Mùa này ở Việt Nam đang vào thu, lá vàng rơi khắp nẻo đường, những bông hoa cũng thu mình nhỏ bé vào hồn đất lúc nào không ai hay. Khi gió chiều thoáng nhẹ, vầng mây trắng chợt bồng bềnh như một điệu múa hát ca. Bắt đầu con người có cuộc sống hiền hòa chảy dài từ vô tận. Thu, mỗi đất nước đều đón lấy hơi ấm mùa xuân của những năm trước đó và gặp gỡ nhau trong tự tình vô thỉ. Nếu là nhà xã hội học, bác học cảm nhận các mùa qua đôi mắt tình tứ, dấu yêu, còn đối với nhà viết văn, làm thơ và nhà triết học hay nhà sư  thì cũng nhìn thấu cội nguồn của bản chất vô sinh bất diệt.

Như có một Thiền sư khẳng khái diễn bày cái tâm thức thực tại qua một cái nhìn mới tự do là “ tiếp nối”. Cho nên giấc mơ chính là sự nối tiếp sự sống của những giây phút đi qua trong tiềm thức. Giống như mùa đông và mùa xuân vậy, nó chỉ là biểu hiện từ trạng thái này rồi bước tới chân trời khác mà thôi. Ví như người thợ săn đi vào rừng, trên lưng mang theo các dụng khí, sau đó họ tìm cách đặt tất cả khí cụ ấy xuống mặt đất rồi lẩn trốn một bên lùm cây lớn chờ cho có các động vật hoang dã đi ngang bẫy bắt được như ý muốn của ông thợ săn. Và cứ tiếp tục vào ngày hôm sau người ta lại có thói quen muốn sở hữu một vật thể, một vài con thú, dù cái đó đã có bảng cấm, có rào cản nhưng một khi tâm ý buông lung, suy đoán ngoài cái tưởng thì khó lòng mà nhận diện rà soát, nắm bắt được những gì mà chúng ta thường đánh mất trong từng chốc lát. Mỗi khi biết mình đang rong ruổi chạy kiếm những cái ở ngoài tâm, gần với điều mà giấc mơ biểu hiện, tạm gọi là vọng tưởng. Trong lúc đó người làm chủ được phiền não, ý căn thì sẽ tìm cách dừng lại, cột mình an trú vào chánh niệm vào hơi thở có ý thức. Biết rằng phương pháp đối trị giấc mơ đó, chẳng khác gì chúng ta cầm chắc sợi dây và thả neo xuống đại dương trong cơn sóng lặng chìm. Có được cái thức tỉnh táo trong lúc thiếp ngủ ngả về phải, về trái là chúng ta đã thực tập thuần phục các thiện căn và qua lớp ánh sáng của sáu giác quan làm việc. Để mỗi người trong chúng ta trải nghiệm sự sống trong gió xuân, gió hạ, gió thu chính là cơ hội gieo xuống trái đất những mầm mống yêu thương và những hạt giống biết ơn.

Qua một chuỗi thời gian bốn mùa, chúng ta cũng đừng nên bồn chồn mong đợi. Vì buổi đêm sẽ từ từ biến đổi thành ban ngày, do đó không có một điều chi làm tâm thức chúng ta phải trăn trở âu lo. Cứ để vũ trụ vận hành một cách tự nhiên thấu suốt. Miễn sao khi mỗi giây phút qua đi, bạn có khả năng ôm ấp được cơn giận và thưởng thức được sự có mặt ở trong giây phút hiện tại, như một vài giọt sương còn đọng lại trên chồi non, chiếc lá vàng đang từ từ rơi nhẹ hoặc người mẹ của mình đang lom khom thổi bếp cơm mai hay một buổi thiền nhắm mắt làm thơ. Đó thực sự chính là hạnh phúc của một người trẻ có may mắn là mình đang được sống yên trong tinh thần hiểu biết và nhiều chất liệu từ bi.Vì mỗi khi ta biết thương cái hình hài và hơi thở này rồi thì chúng ta rất dễ nghĩ đến mọi hiện tượng, vật chất bên trong và nằm ở bên ngoài tâm hồn của bản tâm. Bạn thử nhìn sâu vào gáo nước trong vắt thì bạn sẽ thấy ngay được bầu trời trong và đám mây thong dong khi mỗi độ thu về.

Mùa thu cũng như bao mùa khác, nó vẫn tiếp nối và có trong nhau từng tế bào. Chưa bao giờ tách biệt, chỉ có hiện sinh tương tức. Tâm chúng ta thường thiếu tỉnh giác để thấy được cái lý duyên sinh đó. Xin các bạn trẻ hãy tận hưởng mùa thu như mùa xuân hoa nở vậy. Đừng có bỏ qua một mảy may hiếm có nào chỉ một lần xảy  ra trong đời. Cho dù là năm đó mùa thu nắng hạn, trăng cháy vàng, từ lúc bắt đầu ra đời các bạn luôn có khả năng tập sống kiên nhẫn, buông bỏ mọi ý niệm tốt xấu, vui buồn, thương ghét cơ mà?. Ta nên cân nhắc cuộc sống rằng: “ khổ đau và hạnh phúc là chỉ một con đường”. Con đường lý tưởng và niềm tin giấc mơ chính là hạt mầm nuôi dưỡng bồ đề tâm rộng lớn ấy.

NỤ CƯỜI HẠO NHIÊN

“Xa xa in bóng nắng,

nhẹ nhàng biển mây trôi

Một ngày đã đi tới

một ngày nữa qua rồi”

Chiều nay, bước ra sân nhìn thảm cỏ xanh non, từng chùm hoa hoàng hậu Nhật Vàng - màu hoa của sự tỉnh thức và tinh khôi - đang nở rực một góc trời và đong đưa trước những ngọn thu phai. Xung quanh mái hiên Chùa, những chiếc lá vàng cứ theo gió cuốn trôi về vô định, có chú chim én vừa làm tổ vừa hót vang khúc nhạc trong tán cây cổ thụ. Con người ngoài kia thấp thoáng bước chân vội vã, khe khẽ qua loa một vài câu hỏi han rồi cũng heo hút sau bờ dậu. Chợ chùa vẫn xôn xao tán gẫu vài chén xì dầu, tức tưởi sỉ vả vào nhau mấy chuyện đời hôm qua. Đâu đó cụ già ngây thơ hỏi lũ trẻ, chiều nay “mồng mấy tháng chín tây”. Thế mà Cụ gặng cho ra bọn chúng có nhớ nhầm ngày giỗ người trưởng làng không? Trong chiếc bóng chiều, lưng tôi cúi xuống nhặt một ít bông hoa Nhật vàng rơi thẫn thờ như còn luyến tiếc một chút dư âm của chiều thu. Hoa rất duyên dáng, cánh hoa xòe rộng như đôi bướm lả lướt rộn ràng. Tôi giật mình mùa đông đang đến gần bên người mẹ có tuổi. Cánh cửa ô gió bật khép lại lặng thinh.

Bắt đầu bước về chốn hạo nhiên, tôi đang dạo chơi và ngắm các bông hoa vàng óng ả ở sân Chùa thu nhỏ thì đâu đó có tiếng kêu gào mưa tới…mưa rồi. Thoáng nghe tiếng gọi mưa, tưởng chừng như bao mùa mưa khác thôi. Đôi mắt tôi vội nhắm khép để dễ nhìn hạt mưa bất tận của trần gian lắm chuyện vui buồn này. Được biết đến mưa từ lâu, qua bức thư mưa buồn, mưa chiều, mưa thầm của những áng thi hào, đồng dao nhưng với tôi “chiều mưa biên giới” đã ăn sâu vào nỗi nhớ khi một buổi chiều đông Đamb’Ri. Cái hồi đó còn thơ dại hoang vu, các anh em Phương Bối đã tự thắp lên ánh lửa bập bùng rồi lặng lẽ ngồi quây quần bên nhau bên bếp than hồng và thêm một vài củ khoai nướng, mùi khoai chín bốc lên thơm lừng cả một khung trời núi đồi hiu quạnh. Sau đó chúng tôi chia nhau mỗi đứa một miếng, một chút chỉ cho cái bụng ấm hơn trong đêm sương lạnh. Ô kìa… cái tâm mông lung lại để lòng tới con đường viễn xứ xa xôi ấy rồi ! Lời nói mới chấm dứt, bàn chân đã chạm xuống sân sỏi một cái làm nổ tung hoa lá ngoại viên. Ánh mắt viễn du đã tự nhìn lên bầu trời mây xám đang bay vào cõi tâm bất động. Ao rau muống, giếng nước Đất Việt sắp đón lấy một trận giông gào. Có lẽ hôm nay mưa vẫn không rơi nhưng người ta vội chạy hối hả lo toan. Tất cả vì mùa đông về; bếp củi đống thóc đã hanh khô chưa? và vạt áo lạnh các con chiều nay mới đem ra khâu lại hai ba múi chỉ!...Đấy là bao tiếng thở dài của người mẹ đồng quê heo hút mà đêm từng đêm qua tôi cùng với mẹ lót rơm cho bầy gà, như mẹ đã trông nom bảy đứa trước khi mùa thu tàn. Đi xa Huế mấy năm, vào tận Đà Lạt và giờ đứng cô quạnh ở vùng Gia Định nhưng lòng vẫn còn mơ lại nụ cười và khúc ruột của bà mẹ chân quê. Bánh xe thời gian khó quên ấy đã nuôi tôi lớn dần với năm tháng bây chừ. Cuộc đời hồng trần và thiên quốc nhỏ bé là trục đường rêu rao chân lý, một nguồn sống đơn điệu ”có thuốc mà không chất vị”, làm đàn chiên o bế đến nỗi hiện thân ra một ông gù trong con mắt tích môn ”đâu đó tiếng ai cười”.

Mùa đông ở núi rừng Đại lão, các cánh rừng muôn thú điều gầm lên tiếng âm vang hùng hổ. Mưa cũng bắt đầu dội trên những tán cây lộc vừng, trên những chiếc lá sồi màu nâu. Mặc dù đông ở đây không tuyết rơi nhưng mưa còn mãi dòng tâm sự vô ngôn. Đôi khi “cười cho vỡ mộng”

5. HOA NỞ TRONG BIỂN LỬA

Mấy hôm nay chúng ta lại được tắm mình, trong giếng nước thơm lừng trên quê hương thực tại. Rừng thông Bát Nhã tuy không hiện diện trước con mắt của những bước chân hiền sĩ ‘ đầu đội trời, chân đạp đất.’ Suối nước âm vang như tiếng gầm của sư tử bên vách núi đêm đông. Tình đồng đạo sao vẫn lưu dấu một thời, qua những buổi chuyện trò Hoài Thiên Cổ. Thật vậy, Bát Nhã ca đã trở thành một huyền thoại bất hủ với Bếp Lửa Hồng sưởi ấm cho lòng người những đêm giá lạnh. Hương rừng Phương Bối tỏa khắp mỗi buổi chiều đỉnh núi phù dung , hòa quyện với khung cảnh thơ mộng của Mây Đầu Núi đã tạo nên một bức tranh sinh động hòa quyện tình người lại với bao thế hệ. Cánh Đại Bàng muôn thuở, thế mà giờ đây tất cả đều đã khép lại.

Than ôi! Một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mới hiền hòa giờ đây đã trở thành một dĩ vãng nhạt nhòa tăm tối. Quán nước Trà Thơm, xa xa thấp thoáng Cốc Lưng Đồi, Tùng Xanh lộng gió vẫn còn nở nụ cười thương yêu.Vạn vật thong thả một lòng dõi bước theo đoàn Tăng vững bước. Cánh cửa Trai Đường Thệ Nhật luôn giang rộng niềm tin âu yếm bên những tâm hồn độc cư bé nhỏ. Chân trời Tăng Xá Cây Tre Triệu Đốt hé nở cánh đồng hoa sim nhiệm mầu. Dường như đâu đó nắng đã lên rồi, từng giọt sương mai trong trẻo khoe mình trước ánh hào quang rực rỡ của mái Đại hùng Bảo điện thiêng liêng được xây hàng nghìn viên gạch đá.

Những cái buổi đầu tiên của đời xuất sĩ đã lặng mình dưới cội đa hào kiệt. Có lúc chúng tôi ngắm trăng lên trên tản núi rêu phong và một tách trà gừng xứ Huế đậm đà sáng đêm. Đầu tuần, mọi người cũng có riêng một không gian yên bình để chế tác mây và gầy lấy nắng sau những ngày trau dồi đức hạnh. Từng bước thiền hành quay trở về an trú dưới bóng tao đàn Lâm Tì Ni. Tại đây hoa lá đều có đủ màu sắc chân như và hương cỏ thơm vị pháp lạc. Bởi vậy nước từ dòng suối cao, nước từ lòng đất sâu đã có mặt mỗi ngày trên hành tinh xanh. Người trẻ như chúng tôi luôn khao khát uống được một hớp tình thương không điều kiện của các bậc cha anh. Vườn Hồng Cha Mẹ của Nghệ nhân Nguyễn Sánh kiến thiết đã giữ ấm vạn chục trái tim non dại đang lạc mất đường về trong điều kiện lối sống thiếu làm chủ tánh linh. Trái tim bồ đề hạt mầm dần trưởng thành theo tháng năm, như khơi dậy vùng trời biết ơn sâu kín ngay giữa chốn đau thương bao dung không vũ khí. Do đó theo suy nghĩ nửa vời, Tăng Thân của chúng tôi chưa hề chia cắt và phân ly. Vì ngay tận đáy lòng của mọi góc nhìn đã có một Bát nhã độ lượng to lớn hơn chuyên chở hạnh nguyện vào đời. Thật vậy, dù cho tấm thân chịu đựng sương ba còn non yếu và con thuyền trên đường tránh bão vì mọi thứ đã ngả nghiêng rách nát trước thềm giông tố, ngoài kia lay đổ, nhưng trong lòng chúng tôi vẫn mong mỏi được có cuộc sống tự do ‘ giây phút hiện tại giải thoát ’, nhất dạ đi tới vùng nước yên bình có nhiều tình thương, biết nuôi dưỡng lẫn nhau. Đó chính là con đường lý tưởng đẹp còn rớt lại trong thiên niên kỉ mới này.

Trước lúc chúng tôi xa rời mái nhà Bát Nhã thân yêu để cất bước lang thang muôn vạn lối, trên mọi nẻo đường dường như đóng lại. Chiều tàn, ở cội nguồn tâm linh các cánh phượng vàng vẫn thả hồn trước cửa Chùa và hoa trà vẫn thơ thẩn tiễn chân người cố hương một dặm đường Đam Ri. Khi ra đi, con đường thân quen năm ấy vẫy chào lặng lẽ mỉm cười cùng chúng tôi kết thúc một cuộc tịnh độ rong chơi. Các gốc cây điều đầy ắp bốn trăm và hàng nghìn bản nhật kí vô danh qua những khối lệ lâm ly. Rồi từ đây vũ trụ, con người với nhau sẽ lánh mặt trong khoảng thời gian hữu hạn. Như núi rừng hùng vĩ luôn là một bản nhạc hòa tấu bất tận sinh diệt. Dòng sông Tăng lữ sẵn sàng đề cao giá trị chân tình sự thật, lẽ sống “ độ sinh giúp đời ”. Từ mọi chân trời, miền đất mẹ; anh chị em đã về, đã tới nơi chốn hòa bình này bên người Sư Phụ kính yêu cùng chan hòa yên ấm dưới bóng dặn dò Người cha lành. Tình nghĩa vai huynh đệ qua một buổi sáng bình minh chìm trong lệ ngọt và bầu trời thả xuống bức tranh hổ ly sơn. Người đã lặng lẽ cuộn tròn tám mươi hai tuổi lại để biểu hiện thành một giấc mơ kì quan, đó là đóa hoa tình Thầy trò bất diệt ! Giấc mơ ấy là gì vậy? có phải là vì tình yêu tuổi trẻ và lý tưởng không? “Hỡi người giàu sang bậc nhất, hãy thôi làm thân cùng tử, về đây tiếp nhận gia tài, một vóc kim cương sáng chói, lung linh sáng cả đêm ngày”. Bài kinh Pháp Hoa lâu nay, tôi thường tụng niệm mỗi ngày nhưng chưa lần nào thẩm thấu hết ý kinh. Trong bước đường cùng, vào tối hai mươi bảy trời mưa lạnh buốt, vừa đi vừa tủi cho cái kiếp học đạo giữa cõi đời ô trược, bị hất hủi, làm bẩn chiếc Cà Sa mà từ nhiều đời Phật, chư Tổ dày công bảo tồn kính lễ cho đến bây giờ còn là báu vật duy nhất của Người xuất gia mong nhờ sự che chở yên thân, ấm tâm. Đàn hậu duệ của quý Ngài sẽ tiếp nối nguồn ánh sáng vô thỉ và nhận lấy tinh thần vô úy trong đạo Phật, trước mắt phải đối biết bao lời sỉ nhục lương tâm, hành hạ cảnh đời tu đơn chiếc, và tùng bách luôn sống để lắng nghe sự nguyền rủa của sân si vào bạch nhật thanh minh nhưng chúng tôi đâu có lời thở than theo lối tiền sử man rợ, chỉ đáp lại nguồn cảm tưởng ân nghĩa “ tâm từ mở ra, khổ đau khép lại”. Nên sau một thời gian người con Phật khổ luyện “Cất Túi Hương Trầm”. Chúng tôi lại nghe thoáng, một chút lửa lòng: “Chư tôn đức và các bậc cha hiền dân tộc sẽ lưu tâm, đỡ đầu những mái đầu tóc non. Nỗi băn khoăn ‘không nhà’ luôn hiện về sau bữa cơm chiều ấm bụng chiến sĩ tha phương cầu pháp thực.

Nhớ lại cái đêm ly biệt, mỗi người đi một hướng. Có người khóc nức nở, có tình người không nỡ chia cắt “bỏ đạo về đời ”. Để tiễn những người bạn lên đường về với quê xa, về lại với tuổi thơ hồn nhiên và về cuốc đất trồng rau. Những âm thanh hừng hực như than đỏ muốn chộp lấy con mồi của phía kì thị khiêu kích bạo động. Chúng tôi coi đây là cơ hội thực tập, chuyển hóa nỗi buồn phiền đường cùng, bắt đầu chắp tay tạo tình liên đới, gắn kết tình đồng loại ái hữu bằng hơi thở tứ niệm xứ. Tỉnh táo trước cơn giận điên rồ, nổ tung lúc nào chẳng ai lường trước cái tâm thức nóng lên đó. Hẳn biết máu gan người trẻ lúc này sẽ ngồi thực tập hết lòng để phụng sự nguồn tuệ giác hiểu biết thương yêu và còn tiếp nối con đường ánh sáng Giác Ngộ của Thế Tôn. Nhờ năng lượng từ bi ấm áp giao cảm của “Thầy” nên chúng tôi tự thiết lập, tự chỉnh đốn thân tâm của mình lại bằng câu ngạn ngữ ‘cho mây ngàn quét sạch bầu trời vô minh hận thù’. Mọi người tuy đang ở mọi chân trời thế giới yên vui hoặc đang sống an hòa trong bầu không khí ngàn năm Thăng Long, Hội Nghị Phật Giáo Quốc Tế sắp diễn ra tại quê hương mình. Đã có ai thấu hết niềm đau xót lớn lao, đắng cay tủi nhục của một thời kì đổi mới hình thức. Trời ơi ! Phương Bối. Ôi rừng thông bát ngát xanh rì, suối reo điệp khúc muôn chim ca, từ đây còn ai đứng lặng ngắm em trong phút lát. Ai sẽ thầm nhắc và mang em theo cả cuộc đời, dìu em bước tới chân núi thơm hương tình người.

Từ lâu đã có một Thiền gia ghi dặn “Hận thù hờn oán chỉ xây bằng vôi gạch còn em hãy rót cái nhìn mật ngọt, hót ca như chim Khuyên không mòn mỏi, để lại cho đời bao tiếng thanh tao”. Cứ đến nơi đây và bước đi tự tại nơi này như mây bay qua đồi núi. Chúng tôi luôn sẽ mang theo cả tấm lòng, cả ánh trăng đêm và bàn chân đâu ngần ngại, sót lại chút bùn nhơ. Bát Nhã bây chừ thiếu vắng ngọn lửa hồng, ánh nến lung linh thắp sáng lối mòn. Hàng điệp vàng hai đầu ngõ không còn rụng êm đềm như độ ấy. Trăm ngàn bàn tay chăm bón Vườn Hồng từ đây rồi sẽ hóa thành giọt sương lam huyền diệu. Mọi thứ ngủ say đang hiện dần ra như bức họa đồng quê, lúa chín cỏ mọc. Tiếng kinh cầu thanh thoát lại thêm lần nữa nguyện ước lời thề “ cùng nắm tay đi như một dòng sông ” đó là tất cả chất liệu nuôi sống tương lai đáo bỉ ngạn. Xứ chân trời mây trắng ngàn năm vẫn mãi thong dong.

ĐẤT NỞ HOA MỘT LẦN


Trời hôm qua, những trận mưa đầu mùa buông xuống giữa trái tim của đất và bao cánh lá bất chợt rớt nhẹ. Lòng cảm nhận cần một giấc mơ hiện về cho đất nước, bên ngoài thì vắng vẻ đơn côi nhưng tận sâu trong tâm thức tôi luôn muốn tiếp xúc thật gần với cơn mưa ấy vì thấy những hạt mưa rất huyền diệu, đã làm ướt lại tảng đá khô khan và làn da của đồng ruộng heo gầy. Hai anh em chúng tôi, ai nấy thở dài êm đềm, mấy ngày nắng oai bức qua rồi, bao mỏi mệt cũng dừng lại trong giây phút để ngắm từng đàn mưa vụt về.

Mưa rơi ở sân trường Học Viện, lan dần tới Bến Cát, nghe đâu đêm qua bỗng dưng có một Đức Bụt hé nụ giữa đại ngàn cây lá. Đất đã nở hoa nấm, đất cho mưa gửi chút hồn lãng tử, đất bắt đầu ôm vào lòng mình những tánh Phật hiển nhiên. Hồng Bối thì không thể nào tin nỗi điều đó có thể là thật, như một sự mầu nhiệm quá đi, dù đó chỉ là một mớ đất do nghìn năm trụ lại hay đất muốn có một thông điệp cho hòa bình, cho yêu thương xuất hiện nơi chốn ấy mà thôi.

“Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ
Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
trong khi bên ngoài gió hú
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông
Thơ nơi từng giọt mưa Xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không,

Nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ
Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng thành mầu Sương
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng
Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương”.

Tôi biết trong chiều sâu lòng của đất cũng phải muốn cất lên điều gì đấy, bài thơ Trái tim mặt trời của Thầy Nhất Hạnh mà suốt chiều qua Hồng Bối và tôi vừa nhìn mưa đổ, vừa chiêm nghiệm lại những câu thơ ấy của Thầy viết trong tập thơ Từng Ôm. Thật là hạnh phúc thay cho đất mẹ đã có cơ hội nặn ra một vị Bụt cho riêng mình sau những ngày hạn nắng dài. Bài thơ, như trận mưa được hôn lên trán của đất, bất chợt nhìn rõ nhau, choàng vai nhau đi từng bước thảnh thơi mà không cần ngần ngại, đắn đo suy tính hay một thoáng tâm từ đâu vẳng lại gần. Đất và Mưa cũng giống hai người bạn thâm tình, biết lắng nghe, biết truyền hơi ấm cho nhau, hiểu hết người bạn bên cạnh của mình muốn gì, thì khổ đau hạnh phúc cũng ví như vậy! Trịnh Công Sơn cũng mời gọi tất cả “ lại gần với nhau”. Nhưng có lẽ điều đó bình thường đối với mọi loài vật trên trái đất, ví như mỗi tâm mỗi khác và mỗi người họa mỗi tâm. tự thân phải chấp nhận sự vụng về của nhau, tìm cách xoa dịu cơn đau lụy phiền ấy, đôi khi nén lại để chờ mưa về rồi chôn nỗi muộn phiền đó vào thăm thẳm. nên mỗi khi có cơn giận nổi lên thì chúng ta cần có chánh niệm, biết tháo gỡ, dừng lại, ngồi yên, thở nhẹ đợi cho sóng tâm lặng lẽ và khi đó buộc bạn phải mở miệng “cần cho nhau thêm thời gian”.Đó là phương pháp thực tập trở về an trụ tâm hành, nhìn kĩ thân hành là cách dễ dàng dẹp bỏ những loạn tâm kia.

Hồng Bối thường hay phân tích ra những hạt giống tập khí nóng nảy, tôi thì thường chỉ ra những xích mích của nội tâm, chẳng ai đồng ý với nhau khi ‘ nắng đục mưa trong’. Dù nói gì đi nữa tôi vẫn một lòng chờ đợi trái tim của đất nở hoa một lần. Ngày hôm nay đất tâm tự nhiên hiền lành, hoa cỏ thắm đượm lộc non, trời xanh gió thổi dìu dịu, mưa cũng sắp tạnh, người người hé môi cười nhìn lên vần mây ráng hồng.
Bởi vì mắt thấy trời xanh, cho nên mắt cũng long lanh màu trời. Bởi vì mắt thấy biển khơi, cho nên mắt cũng xa vời đại dương”.

Tâm tình cuộc sống

Chén trà tương phùng ấy
Bài ca vừa đắc ý
Mở mắt hiểu và thương
Bất tận cả xuân tình.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__s Nhìn lại Huế. Trong tôi, Huế càng lúc càng hiền đẹp nhiều lắm. Huế không chỉ thơ mộng mà Huế còn có một dáng điệu hồn nhiên, thanh thản, khiến cho ai đó đã từng nói rằng: “Huế ơi, sao lòng Huế quyến rũ quá đi thôi!” Tôi đứng khá xa người đó, nhưng câu nói ấy làm tôi thấy gần gũi xiết bao. Cứ những lúc xa Huế, âm hưởng Huế đã đi sâu vào tận tâm hồn và cứ mỗi dịp chào Huế ra đi, trong tôi lại mang Huế theo cùng.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__s Nói với quê hương. Tôi nhớ Huế quá chừng, đến nỗi mỗi lần mở trang thơ của chị Hỷ Khương, lòng tôi man mác một nỗi niềm bâng quơ. Sực nhớ bếp khói, củ khoai lùi, mùa bắp vẫy cờ… thì tôi lại càng chín thơm. Có những lúc thương Huế, không biết làm chi, ra đường phố ngó về buổi tan trường, để lén nhìn chiếc nón lá mười bảy vành, dải nón quai màu sẫm từ nơi chú tiểu ngây ngô đi học về. Nhìn chú mà tôi thầm nói với quê hương: “ Huế mần răng để trở lại một thời như cái nét đơn điệu như chú điệu dễ mến vừa rồi?” hít hà... chà chà.

Tôi đã dừng lại ngắm Huế trong khoảng thời gian chốc lát rồi đi về thôn cũ. Nơi đó đã ôm tôi vào lòng thuở còn ấu thơ và có hơi ấm xua tan cái lạnh lẽo, giá rét của mùa đông ở Huế. Nhưng hơn hết, lòng người, tình người vẫn thắm thiết làm sao.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__sHuế xưa nay. Huế của khúc ruột nước non, mang nặng đôi dòng thần kinh cổ kính. Bỗng thoáng nhẹ nghe như làn hương Huệ sực nức giữa buổi trưa nắng chói. Dường có ai đó cũng đã “ôm Huế vào lòng” từ lâu rồi. Huế nay, không tráng lệ, không ngồi trên lưng ngựa, chẳng hoang dã như thời vua chúa cung đình. Nhưng Huế hôm nay chỉ ướp lại chung trà nóng, đãi khách dân quê, người xứ lạ, quây quần bên cửa thành phố cổ. Ngồi xuống, cùng uống chén trà thơm, nói nên thơ cho Huế trở về “sẻ chia” đôi điều thầm lặng.

Mỗi khi nói về thăm Huế, những giọt nước mắt ngọt ngào cứ âm thầm đổ ào ạt về với sông Hương, bên bờ thôn Vỹ, mảnh đất Cồn. Tưởng chừng Huế rất khô, nhưng đâu ngờ “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” đã gợi cho tôi một tâm cảm khiến tình yêu Huế trở nên dạt dào, sâu lắng, với nỗi nhọc nhằn của bà mẹ thôn dã năm xưa.

Những tiết tấu độc thoại, đêm hoa đăng trên sông Hương của Huế, xưa nay vẫn mãi in đậm đến dấu thời gian ở trong từng hơi thở, chân tóc của biết mấy người con xứ Huế, thầm gọi hai tiếng “người thương”.

Tôi đã lớn lên nhờ lời ru êm ả của mẹ và ánh đèn dầu le lói bên kia nhà hàng xóm. Bao năm ấp ủ, ôm tôi vào lòng, thế nhưng nhịp Tràng Tiền Huế xưa nay vẫn đậm chữ tình. Có buổi chiều bất chợt nhìn lại cuộc đời còn vỏn vẹn đôi bên như dòng nước sông Hương êm đềm phẳng lặng không một lời thì thầm.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__sVề với Huế. Một buổi chiều trên sông Hương, là cả cuộc đời tri kỷ với Huế. Khi hoàng hôn ngự xuống bên Hoàng đài Tử cấm thành, Phu Văn Lâu, thì nét chân tình của Huế lộ rõ ra trước con mắt người tiểu quân tử, với bao khung ảnh buổi chiều, hương trầm thơm ngát, quyện vào lòng Huế chút hương thơ nhè nhẹ, cho Huế trở nên mộng mơ, mỹ lệ nhất trong đời. Khoảng chiều về, lắng nghe bên thềm nước Hương Giang, đâu đó có tiếng kinh cầu vọng lại với âm vang của một buổi chiều qua không hay, “nghe mê kinh trọn kiếp, ngộ của một sát na”.

Hẳn nhiên đối với Huế, tiếng kinh nguyện cầu, tiếng chuông chùa thoáng đưa như nói lên cả một cõi lòng mở rộng, cứ nhịp nhàng vang vọng trầm nhẹ và thả xuống dòng nước ngàn năm chảy mãi, như một nhịp mạch sống còn.

Huế nhẹ yên nhưng sâu lắng để cho đời vơi bớt nỗi sầu thương. Phút giây cho Huế là một chuỗi dài thời gian còn sót lại trong túi áo. Trở về nhìn lại Huế cho riêng mình mỗi ngày thêm sáng tươi, hãy ngồi lại để cúi xuống nhìn thấy đôi mắt long lanh của bé thơ bến đò và tất cả những nụ cười mát dịu ấy.

Sống cho trọn cái buổi chiều ấy, như mẹ đi chợ chiều về, thật bình an, thật hiền hoà. Với tôi khoảnh khắc như muốn uống Huế vào tim, rồi xin giã từ “một chuyến đi về”

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__sGọi Huế. Khi hoàng hôn mới vừa vụt tắt, Cố Đô chìm sâu trong sự lặng im, ánh đèn nhô lên, thoáng qua bị tắt ngấm. Tiếng gió thổi dội, vun vút, lay động giàn bông thiên lý tuyệt đẹp. Bông mới xoè cánh cũng vươn mình theo gió.

Dòng nước sông Hương thở dài, người người đi trong bóng đêm, bất chợt giá buốt, đêm về, tiếng gào thét của núi Ngự, sông Bồ, biển cửa Thuận, Vùng Duyên Hải, lao xao nỗi buồn da diết thê lương, trở mình cúi xuống cõi lòng, đời người thắt lại, tạo thành dòng chảy xiết, một buổi sáng thức dậy. Huế thấp thoáng đi xa...

Chiều hôm nay, tôi đứng trên đồi vực thẳm và đã gọi tên Huế muôn triệu lần, ngay ở giữa nhịp đập con tim, cứ đau nhói, có ai bần thần xót dạ khi nghe Huế vỡ bờ.

Trái tim nhỏ xíu bị chia cắt thành từng mảnh. Mỗi giờ, tin đồn nước sông thượng nguồn đổ về, nước biển tràn chảy vào khúc ruột của tâm linh. Xa xa còn mấy bụi trúc trơ trọi ngả nghiêng, lá đi đường lá, thân trôi đường thân.Dòng nước lũ có thèm xá chi cái thân tre èo uột, đã bị vùi dập và rồi mắc kẹt mấy hôm nay bên mương nước chảy rỉ rả, bị phù sa chôn sâu vào đất mẹ.

Ngoài trời mưa tuôn ào ạt như trút nước, các con đường trở nên trơn láng. Những cánh đồng lúa thơm, luống rau khoai mơn mởn, ruộng bắp trổ cờ… bây giờ đã đi vào huyền thoại, pha lẫn mớ bùn non. Nước từ mọi nhà, từ đường xá và những am lá đua nhau ra nguồn, ra trận, ra đi không ngày trở về.

Các công trình xây dựng cho tương lai, vô tình ngừng hoạt động, sống một mình trong gió táp, mưa sa, đất sạt lở. “Những kẻ vô tri, đâu dại khờ”. Buồn vui đâu mấy chốc, lại đi về trong cõi mộng, trong giọt ‘Mắt Lệ Hai Ngàn’. Tôi đang nắm chặt lấy Huế nơi đôi tay, nơi hơi thở đi vào và đi ra. Tôi chỉ còn Huế, vì tôi biết Huế là một giàn thiên lý, tình người muôn thuở.

Nơi ấy, một phương trời rộng mở bao la, tôi hy vọng sẽ tìm lại Huế trong giây phút bình yên.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__s Ngủ bên Huế. Thấm thoắt, thế là những mùa Xuân đã đi qua, không để lại dấu vết. Thế nhưng, mùa Xuân vẫn là Xuân bất tận, Xuân vô thời gian và Xuân không biên giới. Hình như mùa Xuân nào, đến rồi cũng đi thong dong, thật mong manh vô thường.

Xuân, hồi nào đây đã có lần ngủ quên bên bờ cỏ Đại Nội, dọc theo đây thôn Vĩ Dạ, Huế mãi luôn dịu dàng và đầy thơ mộng. Vì đời người là cả mùa Xuân vô tận, ngự trị với dòng thời gian, biến chuyển đổi thay, có hay hơi ấm của hương Xuân đi vào giấc ngủ tâm can và từng chiếc bóng lẻ loi, từng giọng điệu hát ru, kể cả mọi con sâu, con kiến, dế, trùn, v.v...tất cả đều trở về bên sự sống yêu thương.

Mỗi cái nhìn hiểu biết, cảm thông là điều muốn nói cho hôm nay, chút ân tình, chút trà thảo mộc, pha lẫn nụ cười, là tất cả để sống cho trọn cuộc đời còn ngắn hạn dưới đám cỏ cháy của mùa hè xứ Huế. Đưa mùa Xuân quay lại một thời để nhớ, để quên trong dĩ vãng.

Có thể thế đó nhưng chẳng tại sao?...

Ngày tháng, mong chỉ đi tìm mùa Xuân bên nắng hồng, bên tuổi thơ, bên cánh diều, bên đàn trâu đang gặm cỏ hay trong những bước chân nhẹ nhàng thanh thản, vô tư, vô tác...

Thầm lặng cảm ơn Huế, tôi như hạt nước nhỏ giữa dòng Hương để buổi chiều lấp lánh ánh thiên thần hiện hữu.

“Tôi không ngủ mơ đâu
Ngày hôm nay đẹp tuyệt vời”

Từ bên kia thế giới đã bắc nhịp chiếc cầu đi tới bên dòng đời thực tại; dường như hơi thở ấy, giấc mơ ấy đủ để gói trọn cả một mùa Xuân miên viễn vô khứ, vô lai...để cho ta nhớ mãi.

__MCE_ITEM____MCE_ITEM__sĐi tìm Huế, trở về Huế, sau thời gian đi xa. Con đường miền Nam đã theo cùng tôi khắp mọi nẻo, con đường phảng phất chút bụi hồng; hướng đi cho cuộc sống mới, chính điều ấy, phải làm cho tôi tìm Huế giữa sa mạc muôn trùng, nhưng giọt nước, từ hạt cát vẫn còn sự sống có mặt đó cho tôi. Tiếng chuông thanh thoát của chú Tiểu vừa mới dụi con mắt đỏ kè, được gióng lên từng hồi, cho cuộc đời dậy hát ca.Tiếng gọi cho tôi trở về lại với quê hương, về với buổi nắng sớm, khi sương vẫn còn đọng long lanh trên màn chiếc lá. Bóng dáng chùa xưa năm nào tuổi thơ, bọn chúng tớ leo rào hái vả non, lắng nghe đồng ca “về đây dây thân ái, nối lại vòng tròn, ta bên nhau, tình bạn ta ơi! Mãi sống chung bền lâu”...

Những phút giây, đượm màu ngọt ngào cho thời gian, về dưới đêm trăng thanh tĩnh, ta cùng tìm Huế.

Sau Tịnh tâm, là cả cuộc đời của mùa Xuân, nở rộ hoa mai. Hãy bên nhau, hãy hoà nhịp vào nguồn sống tình mây lam, cho sen trắng ngát thơm muôn trời, đi với thời gian, vượt ra ngàn biển khơi. Cùng lội xuống đại dương mênh mông, chở Huế, cõng Huế, và đưa Huế vào trái tim biết lắng nghe, biết hiểu thấu như một tiếng chuông điểm nhẹ vào cõi mây không.

MÙA XUÂN CHUYỂN HÓA

Thầy! là người lùa gió sang bên
Ngồi yên nhìn hỏi bèo về nơi đâu
Một mình chống gậy lên non
Thấy gương đá phẳng tỏa hương đạo huyền.

Thầy tôi, khoác áo xuất sĩ từ một thời làm điệu. Đã Học Phật học tại Cố Đô Huế và được tác thành giới thể Cụ túc tại Phật học viện Hải Đức Nha trang, sau đó tiếp tục tu học ở Quảng Hương Già Lam Sài Gòn. Khi trở về Huế, Thầy đảm trách công việc Giáo Thọ cho Tăng ni sinh Phật học viện Báo Quốc, Viện Cao Đẳng Từ Hiếu, Phật Học viện Thuyền Lâm và Lớp thực tập thiền Chánh Niệm tại chùa Phước Duyên - Huế.

Nhân ngày húy nhật cố Đại Lão Hòa thượng Thượng Trí Hạ Thủ lần thứ 26. Như mọi năm trước, Thượng Tọa Thái Hòa luôn vào đảnh lễ, làm lễ tưởng niệm ân sư tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam cũng là dịp ôn lại đạo tình thắm thiết của một thời học Tăng chốn này. Đặc biệt năm nay, Ban Hướng Dẫn GĐPT Gia Định có thỉnh mời Thầy cho bài pháp thoại vào lúc 14 giờ chiều, ngày Chủ Nhật 18-4-2010, nhằm 05-3 Canh Dần, trong khóa tu Bát quan trai giới, với chủ đề: “Nhìn Mọi Sự Hiện Hữu Bằng Con Mắt Thiền Quán” tại giảng đường Tu viện Quảng Hương Già Lam, đường Lê Quang Định - Quận Gò Vấp.

Sau ngày hôm sau vào lúc 19 giờ, 19-4-2010 Thượng Tọa sẽ có buổi Giảng pháp - “Đêm Thơ Lời Kinh Trên Biển” tại Chùa Diệu Giác, đường Trần Não, Quận 2 do ban Văn hóa Ni Viện cung thỉnh.

Những ấn phẩm, dịch thuật, chú giải Thầy đã cho in trên 50 tác phẩm có giá trị và nhiều bài viết trên các tờ báo nội san nghiên cứu quốc nội và ở những tạp chí Phật Giáo hải ngoại như là tuần San Pháp Luân, Phật Việt, Tập san Nghiên cứu Phật Học, thư viện Hoa Sen, Nội san Hoa Đàm, Văn Hóa Liễu Quán, GĐPT, Đạo Phật Ngày Nay, Diễn Đàn Vẻ Đẹp Phật Pháp và tờ Hoằng Pháp do chính Thầy làm chủ bút.

Nhân đây chúng tôi cũng xin hân hạnh giới thiệu những ấn bản đầu tiên của T.T Thái Hòa, Thầy được các nhà học Phật uyên thâm trong và ngoài nước thương mến và tin tưởng như một nhà Luận sư, hành giả Luật học, nhà Văn Học, Tâm Lý Duy Biểu và còn là một nhà thơ với bút danh Tuệ Nguyên.

Ở Việt Nam, và Huế, phần nhiều phật tử rất thương và tin tưởng vào sự tu tập của Thầy và biết Thầy qua các tác phẩm như Kinh Pháp Hoa Tinh Yếu, Phổ Môn chú giải, Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải, Lịch Sử Phát Triển Đại Thừa Bồ Tát Giới, Sương đọng ven trời, Giọt nắng ngàn khơi, Đường Mây, Hương Giữa Gió Ngàn, Tay Buông ráng Hồng, Nói với Em, Nói Với Nhà Giáo Dục, Mùa Xuân Chuyển Hóa, Mây Trắng Hỏi Đường Qua, Như dấu chim bay, Lời ru chạm mặt trời, Mây gió Thong dong, Lời Pháp tỉnh lòng mê, Đôi mắt tình xanh biếc,Tình phơi trên đá trắng và gần đây Thầy đã cho in thêm hai tác phẩm “Một Thời Làm Điệu” và “Trong Con Mắt Thiền Quán” sẽ là dấu ấn của chủ đề ngày giảng hôm nay. Đến Với ngày giảng lần này, quý vị có thể nhìn lại chính mình sâu hơn, sống bằng tất cả trái tim thương yêu của mình cho những người ta từng thương quý và đang tiếp tục tin cậy và để có khả năng tiếp xúc bao phép mầu nhiệm của sự sống. Đây là cơ hội quý báu cho chúng ta có cơ hội ngồi thực tập lắng nghe, chuyển hóa sân hận hay buông bỏ những ý niệm qua cái thấy, cái biết hoặc tự làm mới thân tâm của mình với sự thành kính. Thầy nói Pháp, chúng ta là người cảm nhận Pháp và phải sống hết lòng với Pháp, đó mới thực sự là những may mắn lớn là chúng ta được làm con cháu của Thế Tôn.

Những phương pháp Thầy trao tặng cho quý vị hôm nay cũng ví như “đi trong sương lâu ngày thấm áo”. Thầy sẽ giúp đưa chúng ta trở về lại với con đường thực tại, thì giờ hiện tại “ngay bây giờ và ở đây” để nuôi dưỡng thân tâm luôn có bình an, chế tác sự cảm thông để cho chúng ta mỗi ngày xích lại gần nhau hơn. Biết tưới tẩm hạt giống bao dung và lòng biết ơn của mình đối với cuộc đời, đối với những ân tình. ở Huế, Thầy chúng tôi đã nói Pháp thoại rất nhiều nơi, như các Niệm Phật Đường, Thiền Đường, các trung tâm thiên nhiên nhưng có lẽ bài Pháp thoại đặc biệt lần này tại Đất Già Lam - Gia Định là Thầy mong muốn cùng nhau mở ra con đường duy trì phát triển lý tưởng hoằng pháp và nuôi lớn trách nhiệm đối với Tam Bảo. Thật vậy từ lâu Đạo Phật đã có câu “Vào Nhà Như Lai thì phải: Nói Năng Như Chánh Pháp, Im Lặng Như Chánh Pháp” . Do đó trong buổi giảng Ngày Chủ Nhật tới đây của Thầy tôi, xin quý vị ở xa, quý vị đang ở gần bên và những người con Phật hãy đến với nhau bằng tình thương chân thật, lắng lòng nghe lại nghĩa lý siêu mầu của Thế Tôn cách đây hơn 26 thế kỷ, qua con mắt tuệ giác của người học Phật.

Để giúp quý vị dễ dàng tìm hiểu thêm về những bước đường Hoằng Pháp của Thầy trong những tác phẩm : Hướng đi của chúng ta, Mở lớn con đường, Nói với cõi người ta, Xuân và Thi ca, Tấm cám trong con mắt Thiền, Khung trời vàng cùng với một số tác phẩm lớn của Thầy đang được ban thư viện Tổ Đình Từ Hiếu và Tàng Kinh Các Chùa Phước Duyên lưu giữ như Nhân duyên học, Kinh A Hàm tuyển chú, Đức Phật lịch sử và Siêu lịch sử, Cận trú giới, Kinh dấu ấn chánh pháp (dịch và chú giải), Kinh bốn lĩnh vực quán niệm (dịch và chú giải), Kinh thừa tự chánh pháp (dịch và chú giải), Kinh nhất giả hiền giả (dịch và chú giải), Kinh Kim Cang tam muội (dịch và chú giải), Thi kệ và Đại nguyện Tịnh Độ (chú giải), Bốn mươi tám đại nguyện Tịnh Độ (dịch và chú giải), Phước Duyên Thiền Uyển, Lịch sử phát triển Bát nhã và hạnh phúc không gì bằng chúng ta được thừa hưởng bộ Luận tinh túy mà Thầy đã chấp bút hơn hai mươi năm qua và còn là bộ sách gối đầu giường của các giảng sư, luật học, giáo thọ sư trẻ hiện nay:

- Niềm tin bất hoại đối với Phật

- Niềm tin bất hoại đối với Pháp

- Niềm tin bất hoại đối với Tăng

- Niềm tin bất hoại đối với Thánh Giới.

ĐI TRONG TỈNH THỨC

Thầy đã từng nói "Này người bạn trẻ tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam...!". Mấy hôm nay đất thần kinh rung chuyển thay đổi vì có duyên lành hội tụ "Xuân đoàn tụ ta về bên nhau" được đưa đứa con xa quê hương trên xứ người cách đây 40 năm trở về lại chốn xưa mà ngày ấy đã lưu lại dấu chân người. Ôi lành thay khi sự có mặt của Thầy về đây chúng con biết làm gì đây, chúng con xin nguyện quyết ngồi đây, để lắng nghe và thấu hiểu những lời Pháp những lời kinh những tiếng nhạc và cả đoàn tăng thân mà Thầy dành cho tuổi trẻ. Là trẻ em và người lớn hơn đều ý thức được rằng đất nước, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi. Thầy đã dìu dắt tuổi trẻ qua từng cử chỉ qua từng ánh mắt đến từng lời nói dần dần trở thành sự thật mỗi ngày và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại. Từ trẻ thơ cho đến thanh thiếu niên nô nức hân hoan chào đón cùng với Thầy bằng niềm vui và tiếng cười hé môi, thở vào thở ra. "Là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ bệnh tật thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống". Tình yêu, lý tưởng của Thầy dành trọn và muốn nói cho lứa tuổi trẻ bây giờ và mai sau. Thầy nghĩ tuổi trẻ ngày nay sẽ làm được nhiều việc cho ngày sắp tới. Bắt đầu và ở đây Thầy sẽ làm mới cho tất cả thế hệ hôm nay; sự có mặt của Thầy trên đất Huế đã làm rạng rỡ và uy nghiêm tầm vóc của một bậc chân tu đáng kính: Là sông, núi rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này. Ngày hôm nay Thầy đã mở rộng vòng tay để ôm tình yêu thương tình huynh đệ tình bạn trẻ có dịp nối lại tình huyết thống và mạng mạch từ ngàn xưa đã bị lãng quên, vì lẽ đó ngày hôm nay chúng ta có cơ hội tiếp xúc và được Thầy nhắc lại để có "Thêm một ngày nữa để yêu thương".
Với truyền thống ấy với con người ấy Thầy đã đem nguồn huyết mạch tâm linh soi sáng cho giới trẻ khắp đó đây và từ đó lý tưởng của con người càng được nâng cao và bồi đắp. Vì vậy mọi người cần áp dụng công phu tu tập với pháp môn hiện có vào đời sống hằng ngày. Muốn thực hiện tốt đều đó Thầy đã từng dạy chúng ta "Thực tập" cho sâu.

Thay lời kết các bạn hãy quán chiếu và lắng nghe Thầy nói về giấc mơ...!

Ô hay, bạn sẽ nói, Thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là Thầy Nhất Hạnh nữa không, khi Thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp? Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại.

Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm Bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi.

CƠ HỘI LỚN CHO CHÚNG TA

"Tôi đang mỉm cười an nhiên

Trong phút giây hiện tại
Nụ cười nở mãi trong bài ca
Mùa xuân bất tận"

Trở về với bản trường ca bất tận ấy! Sư Ông đang ở bên chúng ta, và đang mỉm cười tươi thật; hình như mọi người cứ tưởng rằng Sư Ông là hiện thân của một vị Bụt bây giờ. Nói như vậy để cho thấy "cơ hội lớn cho chúng ta" từ trong thân tâm vận mình chuyển đổi để rồi ngày đó sẽ đẹp hơn và luôn có những gì giá trị quý báu hơn.

"Nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai
Tận cuối đường ảo tưởng
Không có gì đã qua và đã mất
Không có gì sẽ qua và sẽ mất
Và suối chim khuyên em hôm nay
Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca"

Trái tim của Sư Ông luôn rộng mở và đón nhận những gì cao quý nhất, hay những gì thương đau nhất trên cuộc đời. Thiết tha nghĩa tình huynh đệ mà dẹp bỏ tất cả thành kiến lòng hận thù, tính cố chấp luôn đoàn kết "hàn gắn vết thương lòng" để dễ dàng xây dựng lại truyền thông thây trò, với anh với em, với vợ chồng và con cái...!

"Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, chỉ có hiện tại, trong hiện tại sống bằng những thành kiến căm phẩn của quá khứ, bản thân mỗi người không cảm thấy an lạc, tác động đến mọi người chung quanh bởi ý thức manh động, tạo một môi trường bất loạn lạc, luôn sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào, đây không phải bản chất của Đạo Phật "

Dưới cái nhìn thiền quán của thiền sư Nhất Hạnh luôn cọ sát thực tế để nhìn rõ và lắng nghe.

"Trong nụ cười kia cũng thấy em còn mãi
Bởi vì em quả thực chưa bao giờ
Hiện hữu trong ảo tưởng tồn sinh"

Ý thức rằng ta đang ở giờ phút thực tại, an trú bây giờ, an trú ở đây thì con người chúng ta cảm thấy khoan thai và thanh tịnh ở ba nghiệp thân - miệng - ý lắng xuống để trỗi dậy những hạt giống thương yêu và xoá bỏ những chủng tử sầu bi khổ luỵ; có làm được như vậy mới đem lại những hạnh phúc vui sướng và hi hữu trong đời sống. Gần trọn suốt cả cuộc đời Sư Ông đã gắn liền với tình yêu thiên nhiên muôn loại, tình yêu phù sa, tình yêu tuổi trẻ và có những tình yêu gần gũi những cái tình yêu đó luôn đem lại niềm vui bớt khổ. Chính những cái tình yêu ấy mới có tình yêu hiện thực bây giờ.

Sư ông nói:

Cũng như dòng sông về gặp đại dương

Ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới.

Tiếng hát kia vẳng lại sẽ đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường.

Trả lời:

Tôi sẽ không ra đi
Hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến
Nơi khởi hành có trăng mây gió nước
Nơi tối đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím.

ĐÓN THẦY TRỞ VỀ TỪ TÂY PHƯƠNG

Niềm xúc động trào dâng khi thấy hình bóng Thầy hiện hữu trước hàng ngàn hành giả đang ngưỡng mộ đạo hạnh công năng của bậc Thầy đáng kính. Bước chân tỉnh thức của thiền sư Nhất Hạnh hoà quyện với nắng mai ấm áp, Thầy còn là một tư tưởng Phật giáo hiện đã tạo nên một nét hùng tráng.

Hai dòng nước phương Đông và phương Tây pha lẫn cõi thiền và tịnh độ tạo nên một bản thể nhất nguyên trong đời sống tâm thức "đang là điểm sáng trong triệu triệu con tim của Phật tử Việt Nam đang khao khát chào đón. Như nắng hạn gặp mưa để được tắm mình trong dòng suối tươi mát của giáo pháp thế tôn. Đã thuyết giảng từ ngàn năm về trước bên dòng sông đầy huyền bí và thiêng liêng".

Tâm niệm, Thiền sư là bậc danh tăng, là vị Thầy được nhiều người ngưỡng mộ thì lẽ ra khi Thầy về đến Việt Nam là y vàng mũ mão khác người. Nhưng từ cái nhìn đó chợt nhận ra rằng cái đơn thuần tinh khiết vốn có của người Việt Nam, đó là sự giản dị đơn sơ thực sự và chỉ có Sư Ông mới nhận ra điều đó, Ngài chỉ mang theo chiếc áo tràng nâu sẫm, chiếc áo choàng bạc màu nắng sương. Ai cứ ngỡ Ngài phải như một ông hoàng đầy hùng tráng, nay nhìn lại đoàn người nối bước theo chân Thầy trong sự im lặng, tươi tỉnh gợi cho mọi người đến gần với bậc chân tu thạc đức chính điều đó làm cho con người của Ngài cẩn mật và nhẹ nhàng hơn.

“Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một cảnh tượng như vậy, một cảnh tượng của cảnh giới giải thoát đã biến cõi ta bà đầy ô tạp này trở thành cảnh giới của Tây phương đầy sự tỉnh thức và an lạc. Tôi như biến thành một đứa trẻ thơ gương mặt hồn nhiên đón chào vũ trụ bao la đang rộng mở quanh mình. những cánh tay sen từ ái, bao dung của sự tiếp xúc, hiểu và thường được đưa lên chấp tay xá chào nhau: Chấp tay kính chào một vị Bụt tương lai". Trở về lại với bản lai diện mục năm xưa như bây giờ được đưa chúng ta trở về lại quá khứ, nơi đó mà Tăng đoàn của Phật đang đăng toạ đàm thuyết giáo và chuyển hoá bao nhiêu thâm tâm con người sống trong sự thanh tịnh và trong sự tĩnh lặng, hoà hợp sống yên vui.

Nguồn sống tâm linh vốn có đó như nhắn gửi và truyền trao những hạt giống từ bi cứu khổ và lấy tình người làm thương yêu. Ngoài Thầy ra là cả đoàn người từ mọi miền thế giới hội tụ về chốn này cùng đi với Thầy. Ôi thật hạnh phúc biết bao khi nhìn thấy những bước đi thảnh thơi và ui nghi của những Tăng sĩ phương Tây .Thầy nói: “Văn hoá của Tây phương vốn sôi động, vậy mà khi sống trong giáo pháp của Bụt họ trở thành một tu sĩ chuẩn mực và đầy đủ về uy nghiêm cũng như về trí tuệ".

Mùa xuân về, ánh nắng chào đón rực rỡ, những nụ cười hoà nhập vào nhau như nước và sữa với những bước chân nở hoa chưa từng có tại Việt Nam hơn 40 năm qua.

Đây là một cơ hội ngồi lại bên nhau cùng chia sẻ, trao đổi những mâu thuẩn, thành kiến, đủ làm cho thế hệ tăng ni trẻ hôm nay nhận thức rằng: "Chỉ sống với nhau bằng hết thảy tấm lòng và nghĩa tình huynh đệ đồng học, đồng tu là cao quý nhất". Trở về bên nhau đó là nguyện vọng thiết tha, tâm tư ước vọng, tấm lòng thổn thức đã từ lâu; lẽ dĩ nhiên nhịp đập của trái tim thương yêu vẫn còn có hiệu quả, vì nó đem lại năng lượng quý báu vào sự nghiệp xây dựng tăng thân rạng rỡ và tốt đẹp hơn.

Khoá tu sẽ còn diễn ra nhiều ngày, từ hôm nay 7/3 đến hết ngày 11/3/2005. Tình xưa nghĩa cũ đã nói lên được điều đó. Mặc cho sóng gió hay phong ba bão tố đã làm rạn nứt nghĩa tình, nhưng chẳng phá vỡ mối tương tức và cuộc sống đạo tình trong ngôi nhà giải thoát. Một sự nghiệp độ sinh lớn lao nối lại mạng mạch cội nguồn tâm linh và làm mới lại mái nhà mục nát. Tại xứ Thừa Thiên được xem như cái nôi của Phật giáo cả nước cũng là sự kết tinh mối tình huynh đệ, tình huyết thống đẹp . Bây giờ chỉ còn lại đám mây xanh trong, ngọn gió vi vu và giọng nói êm dịu của những bậc vĩ nhân lục hoà tuyệt đối. Đây thực sự là một cảnh sum vầy, đoàn tụ có năng lực, có sức truyền cảm thâm tâm. Thật hạnh phúc vui sướng vì đã thoa dịu cơn nhức mỏi lâu ngày, vì hạnh phúc khi có dịp ngồi bên nhau mà  Huế bây giờ mới bắt đầu có sinh khí, sức sống trở lại.

Con đường tương lai và con đường trước mắt sẽ dẫn dắt tất cả chúng ta bước những bước chân vững chãi, thở ra những hương hoa tươi mát, cười những nụ cười xinh tươi, ngồi như một dãy núi an nhiên tự tại, nằm như một dòng sông Ni Liên Thuyền, theo tinh thần đại hùng, đại lực, đại trí, đại từ bi mà mỗi chúng ta cần xây đắp và duy trì nếp sống chơn tình như ngàn năm về trước. Có một ai đó cảm nhận:

"Thiền sư năm ấy vừa trở lại
Từ Hiếu Tổ đình dấu chân soi
Nhất Hạnh viên dung vầng trăng sáng
Mở hội ba thừa khách tái lai."

SƯ ÔNG NGÀY ĐÓ VỚI HÔM NAY

"Chỉ cần một hơi thở nhẹ
Là bao phép lạ diễn bày"

Từ Tử Cấm Thành Huế bước chân của vị thiền sư chuyển hoá cả không gian và thời gian lắng xuống trở thành một nét cố đô nên thơ và cổ kính. Biết bao đoàn người đã tấp nập đỗ về Thành Huế cùng dạo bước rong chơi với một niềm tin ngày mai sẽ có an vui và thảnh thơi hơn.
Cảnh sắc Huế hôm nay đậm đà và bình an biết bao với sự im lặng sâu lắng, tâm tư con người thở nhẹ; như muốn nói với mọi người hãy thở đi anh, hãy cười đi chị, anh và tôi hãy cùng đi bên nhau theo một tăng thân sống lục hoà và giải thoát. Từ nẻo đường nhộn nhịp tấp nập người qua lại, phố xá đông vui bây giờ nó khác lạ, rồi "cái ta" lại nhường đường phía trước cho cả một đoàn hải âu tung cánh hoà bình tới mọi nhà tới từng ngõ đường.

Bấy lâu nay ai cũng ước ao chờ đợi được gặp hay chỉ một lần thấy vị Bụt tương lai của xứ Việt, hay tận tường thấy bước chân của Ngài đi, thấy nụ cười hiền hoà và bao dung của Ngài "Thực tại vượt ra khỏi ý niệm về quá khứ, về hiện tại, và về tương lai. Tại vì quá khứ đã qua rồi, còn tương lai lại chưa đến và hiện tại thì mình đâu dễ nắm bắt được? Vừa thấy nó thì nó đã trở thành quá khứ rồi. Như vậy thì Bụt thọ ký cho Ngài để thành Bụt trong đời quá khứ đời hiện tại hay trong đời tương lai".

Trở lại với âm sắc Huế ngày hôm nay với ngày hôm qua nhìn lại sắc của Huế không thay đổi mà luôn luôn nguyên sơ mộc mạc. Chỉ có con người ấy, bản chất ấy có thể đổi thay mỉm cười với con chim trên tổ, con kiến trong hang, ngọn lá trên cành. Thật sự bước chân tĩnh lặng, giọng nói âm trầm sâu lắng luôn gợi cho người Huế một nét của Huế độc đáo sâu kín. Người Huế luôn ngỡ ngàng trước sự đổi thay và cái nhìn khác hơn của một bậc tu hành: Người tu hành có thể dạo phố, người tu hành có thể rong chơi với sự đi đứng chánh niệm đã làm cho bao thân tâm con người luôn nghĩ đến một niềm hạnh phúc thực sự.

Từ cái nhìn và cái thấy đó và cả cái chứng kiến ngẫu hứng đã quyến rũ mỗi người hãy tự tìm lại chính mình, tự đi tìm mà cái lâu nay bị đánh mất, xao lãng. Có thể Thiền sư Nhất Hạnh là một âm sắc Huế vang vọng từ xa, gợi lại gần, đánh dấu một bước ngoặt, vang lên một tiếng chuông nhà thờ, rống hồi chuông bát nhã chuyển hoá nội tâm của con người; một sự hoà giải với hận thù, khổ đau, con người với con người.

Đại diện âm sắc Huế Thiền sư Nhất Hạnh là sứ giả bồ câu trắng, mang một thông điệp thương yêu và tha thứ đến khắp nẻo đường, nhà nhà của tất cả tâm hồn mọi người.

VỀ THIÊNG QUỐC BUDDHA

Ngày mới nơi cõi thiêng, đất hiện thân Bụt. Đoàn chúng tôi đi gồm có tất cả những con người lành, hướng tâm nơi thánh địa AYUTTHAYA. Một vùng trời Phật được hé nở dưới bóng mây ráng hồng. Từng bước các người bạn tôi đi là dấu ấn tinh nhuệ, không chỉ là thưởng ngoạn mà còn nhập cuộc vào con đường giác ngộ của các bậc trưởng giả qua lăng kính cầu pháp, cứ mỗi giọt mồ hôi của Nước Thái rơi xuống là giống tâm, hạt bồ đề lại trỗi mầm sống. Thành cổ Ayutthaya- di sản thế giới nổi tiếng của Thái Lan - là quần thể gồm có phế tích hoàng cung, tường thành, và vô số chùa chiền cổ kính bậc nhất thời đại.

Những giọt mưa tươi mới
Thấm dần vào biển mặn
Tiếng sóng chiều du dương
Bên bờ xuân miên viễn.

Các trung tâm Phật giáo xưa và nay luôn mang vẻ đẹp thánh thiện cao tột, nét thiêng trong kiến trúc của những tòa tháp cao ngất trời, luôn là biểu tượng của tín tâm, con người thực tập Niệm Xứ. các anh em trong lữ hành sẽ là ngọn đuốc sáng rực tâm hồn thụy khê, ngay trong chiều sâu từng trái tim mỗi người khao khát tìm về nguồn sống chân thiện tâm. Khi Nam Hà, làm gia trưởng cho đoàn với tên Sen Đã Mọc, anh Tuấn lúc nào cũng bên tận ngõ Thiền, tiếng cười ha hả có vẻ như vị thiền sư dưới chân núi bắt đầu lên dốc, còn với anh Khanh chặn đường nào cũng tạo cho sáu con người xa xứ xích lại gần nhau, trong ánh đèn se mùi hương trầm, nhưng Thanh Tùng là chủ đạo trong mọi bước du hành khắp BangKok - Chiang Mai. Hơn hết Thầy Tín Hải làm chỗ dựa tinh thần cho mọi cuộc hành hương bất cứ ở đâu và còn là chiếc cầu nối giữa đạo với đời. Trong tiếng Ca La Tầng Gìa của cung vàng thướt ngọc, từng phiến đá ngọc lấp lánh chánh pháp nơi cửa thạch trụ.

Giữa muôn trùng nắng rọi
Tâm từ lan gần xa
Địa cầu vang tỉnh thức
Cõi Phật chợt hiển nhiên.

Tới bên dòng sông thanh thoát một thuở huyền bí xưa kia, các bạn tôi không ngừng ngước mắt nhìn đăm chiêu trước những công trình kỳ quan rực rỡ muôn sắc Phật giáo. Khi hoàng hôn buông xuống trên mái cong cung điện và các lối thiền, ta chẳng thể ngờ được trước sự linh thiêng huyền diệu của xứ sở Dấu Chân Voi. Hoàng hôn làm cho khung cảnh trở nên thi vị, nhân sinh ấm áp tình người, như vóc kim cương bích ngọc chói sáng toàn thiêng quốc Mê Kông bí ẩn Phật tích.

8. DÒNG SÔNG CHIỀU QUÊ TÔI

Một lần nữa thầm thì gọi tên Huế trong chiều sâu kí ức là lúc nỗi nhớ hiện về khôn nguôi bên bến đỗ cuộc đời của những ngày tháng thơ ấu. Dòng sông quê tôi là chuỗi thời gian lắng đọng lại một kiếp phù vân. Nơi từng nuôi lớn không biết bao tâm hồn thi sĩ lãng mạn và những tình ca phiêu du bất hủ đi vào lòng người .

Đã đi xa muôn dặm đường lênh đênh ở chốn người nhưng chưa có bao giờ giọt tình thắm đượm ấy lặng lẽ đơn côi. Bởi dòng Hương luôn ẩn mình thơ mộng trước Văn Lâu cổ kính kiêu sa như muôn vẻ đẹp tình tứ ở trong mỗi trái tim người lữ khách. Huế xưa nay vẫn một màu xanh biêng biếc, nước thơm hương rừng quyến rũ và đậm đà tính quê hương trong văn hóa hồn Việt. Dòng sông trinh nguyên ấy còn như một thiếu nữ duyên dáng đứng nghiêng mình chải mái tóc thướt tha vô tận. Chàng du tử khi vội vàng bước xuống chiếc xích lô cũ kỉ, dưới bóng sương chiều giăng giăng, đã man mác gửi vào lòng Huế hai vần thơ đầy ngọt ngào bùi ngùi: “ cha là núi, mẹ là sông, các con hiếu thảo nhớ công sinh thành”. Xa xa dãy núi Ngự phủ lên màu xanh mướt, một bức tranh vững chãi oai vệ được ví như người cha muôn đời che chở Tử Cấm Thành giữa mùa đông lạnh buốt, bờ sông hoa nhẹ nhàng êm ả trôi, đêm đêm tỏa ngát hương dịu dàng, ôm ấp con thơ vào lòng mỗi khi gió hạ ngập tràn rồi chảy dài ra biển khơi xa xăm.

Sông Hương luôn là mạch nguồn của sự sống hồn thiêng sông núi. Qua bao thăng trầm của năm tháng gắn liền với dòng lịch sử kinh đô một thời vang bóng. Nắng chiều buông lơi xuống chiếc bóng Trường Tiền nên thơ dịu dàng, là khi dòng nước dường như đang thu mình quạnh quẽ để cùng hòa vào đại dương mênh mông. Từng tia nắng nhấp nhô dưới mặt nước giống như những vì sao lấp lánh li ti trên bầu trời. con thuyền nho nhỏ lướt lênh đênh trên những làn sóng triều ven sông đã cuốn theo bao nỗi niềm kí ức mỏi mòn một thời của người trạo phu tần tảo xuôi ngược. Bà mẹ ở bên kia sông Bạch Hổ đang cúi mình lom khom trước đám ngô đầu mùa, rồi vội vàng gieo xuống dăm ba hạt lúc buổi chiều hoàng hôn còn chút chói chang.

Trăng về, dòng Hương trở nên thanh thoát huyền ảo đầy ánh đèn hoa đăng muôn sắc lung linh chung một niềm ước mơ nguyện cầu. Huế còn là không gian xanh tươi giữa bao người tấp nập rộn ràng bôn ba, và luôn luôn hòa quyện vào Thành cổ ngọc ngà rêu phong bên tiếng chuông Chùa uy nghiêm. Điệu hò còn Nhịp nhàng vang vang ‘thuyền ai xuôi ngược dòng Hương, đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non’. Vì thế bài Nam Ai như đã đi vào dòng sông huyền thoại trong một nhạc phẩm Trịnh Công Sơn viết nên để ca ngợi về người Mẹ kính yêu của mình. Núi Ngự vạn cổ giang sơn, dòng sông ấy vẫn mãi soi bóng qua ngàn năm tuổi thiêng liêng.

Một Lần Bình An

Các hiền triết thân mến! sau ba tháng giao niên đầu năm Canh Dần, chúng ta lại được thưởng thức những không gian lặng lẽ hay những áng mây trắng thong dong và biết bao hoa cỏ mỉm cười rạng rỡ trước thềm tâm của sự sống có – không. Cuộc sống muôn màu chân như tuyệt đối khi chúng ta biết rót cái nhìn cho hết lòng về từng mỗi đối tượng, vạn vật để cảm nhận hết tất cả những thứ gia tài mà con người hằng rong ruổi đi tìm. Có một lần bạn hỏi tôi rằng: Bạn biết đến khi nào bạn trẻ lại không? Thật là một sự ngẫu nhiên, như bài ca ‘con mắt còn lại vậy’, đôi khi ta lại vô tình với câu nói đó, để trốn tránh những cái ẩn chứa trong chiều sâu. Như chúng ta biết, đối với Đạo Phật có cái gì mà tồn sinh tuyệt đối đâu ! nó lột xác qua từng mảnh bụi và chỉ có sự tiếp nối mới có thể dẫn ta đi đến con đường trung đạo nhân duyên “không sanh không diệt, đừng sợ hãi”. Thường thì chúng ta rất mệt mỏi vô định để đối diện trước những chiều nhìn hạn hẹp ấy. Ví dụ tôi đang có mặt ở Pleiku, nơi mà nắng xuyên qua từng kẽ lá, buổi chiều như những mùa đông tĩnh mặc còn nắng ở Sài Gòn vẫn hạo nhiên quay quanh bốn mùa như một bức tranh thiên thu vô thỉ kiếp ‘ nhìn những mùa thu đi’, Còn chút gì cho nhau.

Như Huế là cuộc trở về cho những tiền kiếp hay những quân sĩ tha phương. Chính sau chuyến về Huế vào tháng giêng đã cho tôi thấm thía thêm về cõi hư vô. Thú thật, Tôi đã bắt gặp những khoảnh khắc lệ đắng “con lá vàng đớp nhẹ đám rong mây”, những góc phố rêu phong lên đèn “em về đâu miền sơn cước”,để rồi ta chỉ biết lặng im cúi mình chấp nhận “ đến một lúc…” khung trời mở rộng thêng thang. Kể từ độ ấy, sau lần VĐPP nhận lấy lộ trình hoằng pháp của Sư Ông Chơn Tế tại Cần Thơ, là lúc tiếng chuông từ bi điểm nhẹ lên chiếc lá mùa thu băn khoăn. Sư Ông là một bậc Thầy viên triết hiền hòa mà cả đoàn điều thẩm thấu như vậy. Hòa Thượng đi tới đâu là nụ tầm xuân được vun bón công phu như thạch bích không vướng bụi trần. Trong từng mỗi giây phút Sư Ông Chơn Tế như người thắp lửa để cho bao kẻ viễn du trở về trú ẩn. Sư Ông thường dạy thiền, về những phương pháp đối diện tâm ( cái này có, thì cái kia có…cái thấy là cái biết, cái biết là cái thấy) chúng ta hãy quán chiếu mình là đỉnh núi hay là hình hài này từ xa xôi thâu tóm hoàn không.

NGÀY TRỞ VỀ

Huế là chiếc nôi của dòng sông tâm linh, xưa kia vốn là nguồn tuệ giác Thuận Hóa Cố Đô. Có truyền thống Thiền tập từ những ngày Phật giáo du nhập vào Thần kinh, cũng là lần khai mở con đường truyền thừa nhiệm mầu linh nghiệm của các Tổ sư. Ngày nay Hòa Thượng Chơn Tế đã bắt đầu tiếp nối nguồn linh khí Thiền tông, Ngài chẳng ngại khó khi dẫn dắt các tín đồ với những phương pháp trị liệu huệ mạng, chữa lành vết thương của tâm hồn. Từ những buổi mở lớp ngồi thiền tại Chùa Tường Vân, Vạn Hạnh, Hòa thượng luôn thổi vào ý thức của mọi người như một ngọn gió mát dịu êm. Bên cạnh đó ngài còn thiền định để giúp tháo gỡ bao trái tim đang còn vướng mắc, bận tâm bôn ba, chỉ qua ánh mắt hiền triết và nụ cười giòn tan điềm tịnh.

Sau hơn một tháng hai cư sĩ Huệ Viên, Huệ Nguyên,  từ Cần Thơ lặn lội ra thọ giáo học đạo, y chỉ thiền với Hòa Thượng ngay trong dịp lễ Khánh tạ Tổ Đình Từ Đàm năm Canh Dần. thật diễm phúc cho chúng đệ tử được quý ngài chứng minh cho tiếp nhận 10 giới thập thiện nghiệp đạo. Đây là lần thứ nhì mà hai cư sĩ áo trắng, gia đình Diệu Hoa, Từ Qưới Minh có chuyến hành hương về Huế học hỏi đạo mầu và phát tâm cúng dường trai tăng cho nhị bộ Tăng Già Thừa Thiên nhân  ngày vía Cố đệ nhất Tăng Thống tại Tổ Đình Tường Vân. Cứ mỗi buổi sáng chư phật tử được bổn sư cho phép hành bộ quán đỉnh Quán Âm ở núi Tứ Tượng. vì sự nghiệp lợi sanh độ đời nên H.T Chơn Tế đã để lại trong thân tâm của mỗi vị đệ tử những giọt cam lồ tình thương và hoài bão, chuyển tải hạt giống thiền học đi vào khắp thế gian, đó là mục đích tối ưu mà ngài “chế lấy mây, gầy lấy nắng” làm cho pháp Phật luôn soi sáng, bắc cầu cho chúng sanh vượt qua bỉ ngạn, chiến thắng ác ma, tâm từ mở ra, khổ đau khép lại.

ĐỐI DIỆN KHỔ ĐAU (*1)

Trong cuộc sống hiện tại, ai trong chúng ta cũng có khổ đau. Chỉ khác chăng mức độ khác nhau. Điều này phụ thuộc vào sự tu tập của mỗi cá nhân.

Trong thư bạn Kim Cương, bạn không nói rõ bạn đang khổ cái gì cụ thể, còn bạn Minh Hiếu là chủ yếu bế tắc trong công việc. Ở đây mình xin trả lời chung cho hai bạn về việc hóa giải khổ đau nói chung (bao gồm cả bế tắc công việc). Những khổ đau cụ thể mình sẽ trả lời sau.

Thưa hai bạn, trong xã hội chúng ta hiện nay, sự thành công hay thành đạt hay dựa trên những khái niệm như: quyền lực, giàu có, danh tiếng, sức khỏe, v.v... Những điều này bản thân nó không xấu, nhưng chưa đủ.

Hiện nay nguồn gốc của sự đau khổ đa số cũng xuất phát từ những cái chúng ta "tưởng" là thành công ở trên. Nếu chúng ta cứ dằn vặt quá khứ là không làm thế này, thế nọ để sướng hơn, hoặc tham đắm chạy theo những điều "thành công" trên một cách điên cuồng để rơi vào sự cô đơn, chia cắt, quên đi những giây phút hạnh phúc hiện tại đích thực: đơn giản là cùng ngồi "thiền trà" với bạn bè, những bữa cơm gia đình, những bản nhạc hay, những cuốn sách quý,v.v... liệu có thực sự hạnh phúc?

Quá khứ thì đã qua, tương lai thì chưa tới. Chỉ có những giây phút hiện tại mới thực sự là "niết bàn". Nói như vậy không có nghĩa ta chối bỏ quá khứ (vô tình) hay sống "hưởng lạc"không tính đến tương lai.

Quá khứ chỉ giúp ta rút kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại để mà tính tóan đúng hơn cho tương lai. Chúng ta tính tóan cho tương lai nhằm hạn chế những rủi ro không đáng có, nhưng chúng ta không được phép hy sinh giây phút hiện tại. Hiện tại mới là cuộc sống của ta.

Hiện tại các bạn tại sao đau khổ?Có phải cũng vì các bạn đang nghĩ đến những diều "thành công" như trên nhưng các bạn thấy bế tắc vì không biết cách đạt được? Các bạn hãy nhận thức khổ đau của các bạn một cách thật tỉnh táo và sáng suốt. Điều này tùy thuộc vào sự tu tập của các bạn.

Trong Đạo Phật (Bụt), cái này gọi là sống Tỉnh thức.

Thực sự những khổ đau các bạn nghĩ, có thực sự khổ đau không? Con người ta thông thuờng khổ đau là do "muốn" mà không được. Vấn đề đặt ra là những cái mình "muốn" nó có đúng đắn không?Nó có vượt quá khả năng của mình không?Nó có "thực sự" là cái để ta phải hy sinh những giây phút an lạc ở hiện tại. Những cái đó có phải xuất phát từ "tham, sân, si" không các bạn?

Nói như vậy, có bạn sẽ nói: tôi sao cũng được, nhưng tôi phải lao vào mọi thứ là vì người thân của tôi. Nói vậy cũng có phần đúng, nhưng chưa hòan tòan chính xác. "Muốn đem hạnh phúc đến người khác thì chính ta phải tỏa chiếu hạnh phúc "Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nói như vậy trong cuốn "Quyền lực đích thực.".

Vậy, cái gốc của hạnh phúc, xóa bỏ khổ đau, đó là phải chăm sóc thân, tâm ta thật vững chãi.

Chăm sóc Thân: Ăn, uống, đủ nuôi thân, tập thể dục,... Những nhu cầu này thưc sự là không nhiều, và không khó phải không các bạn?Chỉ cố chút, ai cũng có thể làm được. Vậy cái còn lại là Tâm. Theo mình cái này mới là khó. Muốn chăm sóc Tâm, chúng ta phải có cách và đi đúng hướng.
Đức Phật là "Ngừơi Tỉnh Thức", đã chỉ ra chúng ta con đường đem lại hạnh phúc đích thực đó là sống tỉnh thức. Chúng ta cứ theo những bài học của Đức Phật, đảm bảo các bạn sẽ chăm sóc Tâm của mình một cách chính xác.

Từ đó mọi khổ đau của các bạn sẽ được giải thóat. "Sống thiếu tỉnh thức, thiếu khả năng nhìn rõ thực trạng chung quanh thì chẳng khác gì một chuyến tàu lửa tốc hành không người lái"(Thiền sư Thích Nhất Hạnh). Các bạn có muốn cuộc đời của mình như chuyến tàu không người lái?Chắc là không rồi phải không các bạn.

Năm nguồn năng lượng đem lại nền tảng cho hạnh phúc chân thực đó là: TÍN, TẤN, NIỆM (GIỚI), ĐỊNH VÀ TUỆ.

Các bạn có thể vận dụng 5 năng lượng này để giảm bớt khổ đau cho chính các bạn.

__MCE_ITEM__§              Trước tiên muốn hết khổ bạn phải có nguồn năng lượng đầu tiên : Đức tin (Tín). Có đức tin bạn sẽ có sức mạnh.

__MCE_ITEM__§              Muốn Đức tin vững bền, thì ta phải thực tập mỗi ngày, đều đặn. Cái này gọi là Tinh tấn (TẤN), nguồn năng lượng quý giá thứ hai. Có bốn khía cạnh của sự tinh tấn.

__MCE_ITEM__v      Thứ nhất: Khi một cảm xúc tiêu cực chưa phát khởi thì đừng tạo cơ hội cho cảm xúc ấy phát khởi

__MCE_ITEM__v      Thứ hai: Lắng dịu các hạt giống tiêu cực hoặc thay thế chúng khi chúng đã biểu hiện.

__MCE_ITEM__v      Thứ ba: Luôn mời các hạt giống tích cực lên vùng ý thức

__MCE_ITEM__v      Thứ tư: Lưu giữ những tâm hành thiện ở trên phòng khách càng lâu càng tốt.

(Trong tâm lý học Phật giáo: thì tâm thức của chúng ta gồm có hai tầng: Tầng dưới gọi là tàng thức hay tiềm thức (ví như nhà kho), còn tầng trên là Ý thức (ví như phòng khách)

__MCE_ITEM__§              Nguồn năng lượng thứ 3: Chánh niệm (Niệm). Chánh niệm là năng lượng giúp ta thấy rõ những gì đang xãy ra trong hiện tại. Khi có chánh niệm thì ta sẽ sống thực sự, trọn vẹn ở giây phút hiện tại. Không rơi vào những dằn vặt của quá khứ, vọng tưởng ở tương lai.

__MCE_ITEM__§              Chánh niệm sẽ đưa ta đến sức mạnh thứ tư , sức mạnh của sự chú tâm (ĐỊNH). Điều này rất quan trọng, không có Định ta sẽ không nuôi dưỡng được thân tâm ta.Có những sự việc chỉ thóang qua, không rõ ràng. Ta phải sử dụng năng lượng của Định để nhận rõ bản chất và khám phá nó.

__MCE_ITEM__§              Sức mạnh của Định sẽ giúp ta thấy được nguồn gốc của khổ đau. Bất cứ việc gì khi thấy được nguồn gốc, ta sẽ biết cách giải quyết. Biết cái gì là đau khổ thực sự ta sẽ biết vượt thóat. Cái này chính là Tuệ Giác (TUỆ). Tuệ giác, chính là nguồn sức mạnh thứ năm.Là lưỡi gươm cắt đứt mọi đau khổ, sợ hãi, tuyệt vọng, sân hận và kỳ thị.

Các bạn nếu có thời gian xin tìm đọc cuốn: "QUYỀN LỰC ĐÍCH THỰC" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ hiểu rõ hơn về năm thứ quyền lực chân thực này. Những chia sẻ của mình ở đây đa số là những gì mình rút ra từ cuốn sách này đấy.

Có thể nói, sự đau khổ xuất phát từ cái ‘MUỐN’ vô hạn của chúng ta-lại nhân danh- để vì những nhu cầu vật chất hữu hạn.

Mong các bạn mau hết "khổ". Có gì thắc mắc các bạn cứ tiếp tục trao đổi.

(*1.Nguyên Niệm)

Nắng và Mưa qua cái nhìn của nhân quả

( Tiếng Vỗ của một bàn Tay )

Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có. Nhưng không hẳn là như vậy mà lắm lúc chúng ta quên đi sự vô thường và biến hoại của vật chất trong từng giây phút đi qua. Ta có thể tận mắt nhìn một đám mây đang bay ngang trước mắt, nhưng rồi nó cũng phải biến tướng dời đi nơi khác mà không còn nguyên vẹn như ban đầu chúng ta đang  có cảm thọ là đám mây kia vẫn ở vị trí cũ .

Và tương tự như vậy, mưa luôn là đối tượng để mọi vật hấp thu thêm nguồn năng lượng, bổ dưỡng thêm cho cây cối, thềm cỏ xanh và những loài côn trùn, sinh vật nhỏ. Từ đó mưa thấm dần vào lòng đất để cấu tạo địa chất, một sự sống không thể thiếu đối với loài người. Hạt mưa dù bé nhỏ đến đâu nhưng vẫn mang một giá trị sống nhất định nào đó cho những nhà khoa học và môi trường lặn lội đi tìm mãi, nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu và sự nóng lên của trái đất ngay trong lòng chính chúng ta. Như thế Đức Phật luôn là con người tiên phong, nắm vững những khái niệm nhân quả có liên quan đến mối “ tương quan tương duyên” mỗi khi ánh nắng bình minh bắt đầu vươn lên thì vô vàn, hàng ngàn hạt sương được chuyển qua một đời sống mới ‘ tái sinh’. Tức nhiên chúng ta sẽ thấy rõ hơn về việc nó nhường chỗ cho những sinh vật khác biểu hiện. lúc đó trời đất sẽ khác đi, những thay đổi của tâm thức vạn vật được nhận thức như một tiếp nối ‘ chẳng sinh mà cũng chẳng diệt’ chỉ qua con mắt thường của chúng ta mới có giới hạn, giới hạn từ trong tiếng sấm sét, tiếng của đôi cánh nhạn bay qua sông. Không những thế chúng ta còn lún túng khi biết sự hiện hữu bất thường của Mưa và Nắng, thế mà đôi khi con người lại sợ hãi, ít có chấp nhận sự thay thế của một trạng thái khác nhau. Hôm tôi đi viếng Chùa Đậu ở Tỉnh Hà Tây, giữa đường xe dừng lại, hỏi thăm ngỏ vào Chùa có hai Thiền Sư đắc đạo. có người bảo đi lối này, người kia chỉ hướng phía trước, rồi có người dẫn đường cho xe vào một con đường khác. Trong khi ngồi trên xe mọi người ai cũng cho rằng mình đã đi sai “ đạo lộ”. có Bác muốn cho xe quay về, có Cô nói, mình cứ đi thử một đoạn nữa xem sao? Có lẽ lúc này với ai cũng đều đúng cả vì chúng ta ai cũng có một hình dung riêng về Chùa Đậu trong đầu, trong vị trí lịch sử. thế rồi mọi con đường lúc nảy được mọi người chú ý ca tụng lại là cuối cùng chỉ còn duy nhất một con đường đi vào Chùa Đậu mà thôi. Bởi vậy chúng ta thường nghĩ cái gì của ta xảy ra là nhất định phải đúng, đúng theo sự máy móc từ vô lượng kiếp. nghiệp lực, tập khí hay còn gọi là nắng và mưa nếu được thay đổi sẽ từ từ .

Có một con đường chuyển hóa và thăng hoa ngay trong mọi suy nghĩ, cái thấy chánh niệm. Bầy kiến cũng thế, nếu chúng biết thời gian lột sát thì nó sẽ biết chọn đất đào hang hay cuốn tổ vào một thân cây khỏe khoắn, tập đi tìm lương khô để thoát thân và gửi mình vào cho một đoàn thể. Khi chúng tìm đủ mọi cách để tồn tại thì nhờ cậy sự bảo hộ hay phải gia nhập vào một sự sống mới. Một khi Mưa rơi xuống mặt đất mềm là lúc có nắng hiện lên trên táng cây cổ thụ và khi nhân quả cho và nhận là lúc hạt giống thiện ác, bao dung, nóng giận được cất kỉ bên trong tạng thức. như chúng ta biết Tạng Thức là cái bao chứa đựng tất cả những tập khí, đối tượng khác nhau, tùy thuật vào khả năng xử lý của ý thức để những suy nghĩ có phần nhận diện’ chọn lựa’ cho ra bằng được cái mà mình muốn tiếp nhận( bông hoa thơm, dòng nước mát, hạt bụi nhỏ, cành lá khô, giận, thương, tâm hồn đẹp, buồn vui…) khi ta có cái nhìn cụ thể khỏi vướn mắt rồi thì mỗi tướng trạng “ câu sanh chủng tử”  trên lại một lần nữa sẽ rời ta mà đi hay ở lại, tùy vào tâm hành quyết định:

“Khi căn nhà mục nát

Là mưa dột thấm vào

Nắng xuyên qua khe hở

Tìm đâu người khéo lợp”

Sau những ngày gieo hạt, quán chiếu vào từng sự sống, ta có thể thấy rõ hơn về quan điểm nhân quả và khi ‘nhìn sóng không phải sóng’ là hiện tượng ‘một có trong tất cả’. chúng ta cần phải nỗ lực quan tâm hơn về sự tàn phá hủy hoại môi trường sống, đừng bỏ qua việc nhỏ hay vụn về sả rác. Ta nên thực tập sống có lợi ích để giảm bớt hiểm họa về sức khỏe, nguồn nước, cây xanh thiếu dần. Như chính vườn tâm của Đức Phật luôn là một mái ấm cho nhân loại học hỏi, tìm kiếm để yêu thương đồng loại. riêng tôi rất đồng cảm với sự quan tâm nguồn nước thải, chuyển hóa rác, nhặt rác bẩn và tiêu thụ bao ni lông của Thượng Tọa (T.T) Giác Viên, Chùa Từ Đức, Cam Ranh. Tôi may mắn được T.T hướng dẫn cụ thể về phương pháp duyên sinh là “Cái này có, tức cái kia có, cái nay sinh thì cái kia sinh” mới đây tôi mới làm thiết thức hơn cho những con người gần tôi và những lòng lề đường sum quanh ven đường hay những núi rác  ở chợ, bến xe, ga tàu, chung cư, sân chơi giải trí, đặc biệt là nơi ngồi nghe pháp thoại, thiền trà, nhà hàng chay sân vườn v.v…khi ta biết lắng nghe về những mối nguy hại ấy là cuộc sống ta giàu có hơn, suy nghĩ thoải mái hơn, tâm tư con người ta khỏe mạnh hơn và các thế hệ tiếp theo có đạo đức lành mạnh hơn. Trong dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long Đô Hội, chúng ta cần phải thể hiện niềm biết ơn sâu sắc đối với đất nước là tự thân của mỗi chúng ta cần dọn bớt rác (Rác bên trong tâm lẫn ngoài tâm) có được những hành động như thế là ta đã ăn mừng và nhớ về cội nguồn tâm linh, cội nguồn tổ tiên rồi, đừng để đến lúc mưa và nắng, thiên tai  hủy hoại và địa chấn khủng bố thì ta mới chịu đứng yên thở nhẹ vỗ tay.

Cho nên cuộc đời không như chúng ta nhận thức chỉ  vài chút qua loa trên bề mặt “ cái thấy” sắc và không. Lẽ dĩ nhiên mọi người phải nhìn được tuệ giác ta là núi, ta là dòng sông và đôi khi ta còn là sự tương tức. có như vậy thì chúng ta mới đồng hành vào một thế giới duyên sinh, thế giới  của sự trở về nương tựa nơi hành tinh xanh này. Như Đức Phật có dạy ( cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài). Mỗi khi tôi có dịp đi ra đường vào buổi sáng, thấy từ những con đường bị kẹt xe hằng giờ đồng hồ, trong tôi luôn thở ra những hơi thở bình an và nở ra những đóa hoa tình thương, vì tôi nghĩ mình có thể đóng góp cho xã hội những chất liệu nuôi dưỡng hiểu biết, cảm thông vào con đường đang bị hâm nóng bởi do khí thải, và cảnh người xô đẩy nhau, hấp tấp chen lấn, có khi xô ngả va chạm vào nhau để chiếm được làn xe. Tranh thủ đuổi theo phía trước để tìm cách đến đích. Một sự ‘ vọng tưởng’ vô ích. Thấy vậy tôi thường hạn chế đi ra ngoài, do tôi biết chắc nếu tôi bước ra đường thì  mặc nhiên vô tình đã làm khổ lụy thêm trái đất phải gánh nặng bởi sự ô nhiễm và sẽ đụng đến cái tư tưởng đúng đắng của những đối tượng tham gia giao thông. Muốn tiêu thụ tất cả các loại năng lượng còn thường những nhà tu tập họ thường quán niệm rất rõ về sự cống hiến của sự bảo tồn năng lượng, họ thường xem việc ra đường là đã sả rác, đã làm chết đi môi sinh và họ chọn cách đi bộ để nuôi dưỡng sự sống trong từng tế bào. Chính vì vậy đừng nên để cuộc sống của chúng ta rơi vào “ giọt dầu được bỏ vào bát sữa”.  tôi cảm nhận Thượng Tọa Giác Viên luôn  thực tập nghiêm túc về sự có mặt của Thầy trong việc làm mới môi trường, vì Thầy thường chia sẻ với mọi người rằng là chúng ta đang sống trong bầu khí quyển của dòng ngân hà và nhờ vào nguồn nước , rau sạch, bóng mát. Thầy đề nghị tự thân mỗi người hạn chế đốt cháy năng lượng xanh mà chúng ta đang sử dụng hằng ngày.

Vừa rồi tôi có chuyến ra Bắc, sau đó được lên Mộc Châu, tôi được một người thân giải thích rằng, bây giờ chè xanh cũng phải chung số phận cho việc tiêu thụ nhanh. Người sơn phu được huấn luyện kỉ lưởng trong việc bơm thuốc vào từng đọt trà, nếu muốn vườn chè có năng xuất, đọt trà xanh thì người chủ sơn trang cần phá bỏ những rào cản của sự sống để thu hoạch trà ngắn thời gian và làm lợi cho việc kinh doanh của những người thu mua. Ngày nay những ngày mưa không theo mùa nữa, và thiên tai đến bất thường, bởi vậy đời sống của mọi cá thể đang gặp khó khăn và lối sống nhờ vả thiên nhiên đang là mối đe dọa làm trái đất vỡ dần.

HƯƠNG NỞ TRÊN NGÀN

Đây là những đoạn văn được viết qua một thời gian khá lâu, nay có đủ duyên, chúng tôi cho hợp lưu lại để trở thành một dòng sông. Những hạt nước cũng có hơi thở, có chiếc lá rơi và có những ân tình luôn mang đậm chất liệu nuôi dưỡng.

- Thiền Sỏi

Phương pháp thực tập chánh niệm bằng thiền sỏi, còn được gọi là Thiền của những viên sỏi. Khi chúng ta có điều kiện thực tập sẽ giúp nhiều trong việc định tâm và nhận diện mọi cái đang xảy ra trước mắt, để đối trị lại nguồn cảm hứng của thời gian hay không gian, vì nếu mà chúng ta đang bước một chân thì sẽ dễ dàng buông lung; chi phối bởi cảnh vật hoặc một tâm ý nào đó đang từ từ khởi lên. Lúc đó những cơ quan làm việc, chẳng hạn như sáu giác quan “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân , ý” sẽ xúc chạm bằng con đường sáu trần “sắc, thọ, tưởng, hành, thức, pháp”và nó sẽ đi qua từng bộ phận để diễn biến tâm trạng , buồn, khổ, hạnh phúc, sung sướng. Trong lúc đó chúng ta có hơi thở cũng giống như không. Như mọi người đã biết là hơi thở sẽ làm chủ mọi cái, hay tất cả , kể cả tâm hành phát sinh, chưa phát sinh ra. Vì trong Thiền sinh đang mơ hồ, chưa tháo gỡ dứt khóat mọi thứ mà hằng ngày các Thiền sinh tiếp xúc, va chạm. Nên muốn thực hành theo công phu Thiền sỏi là bước cơ bản giúp ta quay trở về lại với thân tâm một mối. Cũng giống như tiếng gà gáy vào hai canh “canh 3 và canh 5”. Tiếng gà là một chủ thể, đối tượng quán chiếu và nhận diện đơn thuần. Mỗi khi có tiếng gà ò ó o thì các Thiền sinh sẽ mỉm cười va tỉnh dậy trong ngày mới.

Tôi thường xem gà gáy như một liều thuốc tự liệu thân, tâm ý mỏi mệt, chán nản, cô đơn, cũng như các bạn coi Thiền sỏi là món ăn bổ dưỡng ngay trong cuộc sống, lúc bận rộn, khó thở, tình trạng suy nghĩ, xuống cấp tâm lý. Bởi do chính chúng ta thiếu cẩn trọng về mọi mặc chăm sóc bản thân. Cứ để thời gian giằng xéo, chỉ đạo làm việc bằng một cách máy móc, buông xuôi, đôi khi làm gì chúng ta chưa chắc chắn mình đang làm gì nữa, trừ khi có người đụng tới “con làm gì đó”. Chỉ cần có một lời nói ngắn gọn thôi, đã chấn chỉnh chúng ta rất nhiều, huống hồ hồi nãy tôi có dẫn chứng tiếng gà gáy.

Trong phong tục, tập quán của người Đông phương, nhất là đối với con người Việt Nam, đã có bảo bối thiết yếu nhưng ít ai có thể dùng tới vì chúng ta vẫn đang còn thất niệm hay mãi coi thường những giá trị tầm thường đó.

Chẳng như thế Thiền sinh cần phải quan tâm quán sát mọi tác động phụ xung quanh, đôi khi những yếu tố đó làm cho chúng ta đánh mất sự chín chắn và xao động chẳng yên.

Cũng vậy Thiền sỏi là trong những môn học quán chiếu. Ngày nay giới trẻ Tây phương thích thú theo học phương pháp niệm chú quán  và đã nhiều lần họ thực tập ngay trong công sở hay đang đi đến trường. Chúng ta luôn có thời gian để ngắm ngía mọi sự vật đang hiện hữu mà đừng nên sống vội với giây phút hiện tại.  Nếu một nhà bảo vệ hành tinh hay là bậc chân tu, một em bé đều thấy rằng trong viên sỏi có cả một vũ trụ bao la, chúa đựng cả sự sống mầu nhiệm ở  từng mỗi viên sỏi nhỏ bé ấy. Khi Thiền sinh có cái nhìn chánh kiến, tư duy đúng đắn, an trú vào hơi thở thiền định, tức khắc mọi câu hỏi và trả lời sẽ nói lên sau đó. Như có một người đốn gỗ ở trong rừng, khi đang cưa thì đâu có biết cây gãy lúc nào, thời gian nào và nằm về hướng nào; người đốn gỗ đó cứ chờ mãi đến lúc cây ngã xuống mới biết là thân cây đã gãy. Muốn thực tập chánh niệm Thiền sỏi và đem áp dụng vào đời sống là một công việc bảo hộ cho chính mình.

Chúng tôi sẽ đưa cho những vị Thiền sinh bốn viên sỏi tượng trưng “Đất, nước, gió, lửa” thì chúng ta tiếp xúc với từng viên một: đây là đất, đây là nước, đây là gió và đây là lửa, còn đây là v.v...Sự chú ý mang đến cho Thiền sinh chức năng nhận biết  rõ ràng về tâm ý, hành động. Có khả năng nhìn nhận viên sỏi như một đối tượng bất biến, khi sờ, cảm giác lạnh của viên sỏi tiết ra, đụng vào thì biết là mình đang đưa tay vào từng mỗi viên sỏi, lồi lõm, to nhỏ, nóng lạnh. Đó là những tri giác, hay còn  gọi là cảm thọ ở trong con người luôn có sẵn.

Bởi vậy mình thử đặt tên cho tất cả 4 viên sỏi:

Viên 1: Hoa tươi mát

Viên 2: Núi vững vàng

Viên 3: Nước tĩnh lặng

Viên 4: Không gian thênh thang

Trong trường hợp này Thiền sinh dễ nhìn nhận mọi hiện tượng, sự vật và cái thấy sâu sắc khi cầm viên sỏi Hoa là đó chính là một bông hoa, mình là một đóa hoa, khi  tiếp xúc  viên có tên là núi thì nó sẽ là tảng núi và chúng ta giơ viên nước lên thì trong cơ thể ta đã là một dòng sông, một con suối trong veo, còn ta đặt viên không gian trên lòng bàn tay cái gì mà bạn cảm nhận ra ngay là xung quanh bao bọc chứa đựng với bầu trời, mây bay rộng lớn.

Nếu Thiền sinh đã biết cách áp dụng thành thạo nó thì chẳng cần đi tìm bất cứ đòi hỏi gì, tốt nhất chúng ta nên ở lại với thân tâm. Vì đây là cơ quan cung cấp những điều kiện cần thiết của con người, còn những cái gì mà ta đang phụ thuộc chính yếu là cực hình của bản thân. Một hôm tôi đi ngang qua cái lồng, nhốt con hổ, tôi mới thấy nó thì rất sợ, nhưng sau tôi mới hiểu chính tôi là đối tượng để làm cho nó khiếp đảm. Trong khi đó loài hổ là một nghị lực, sức khỏe bền bỉ, tại sao nó lại hoảng hốt trước một cái bóng đi qua. Tại vì nó là một chủ thể bị nhốt, đang bị xích tại chỗ, cho nên chúng ta thường bị lôi kéo bởi những trói buộc, không có chủ đích như một người sáp trận chiến đấu, có khả năng tiến tới, ai run sợ thì bỏ chạy.

Thiền sỏi cũng như thế. Ai có khả năng theo dõi phương pháp này sẽ giúp ích lợi ngay trong đời sống của người xuất gia hay tại gia cư sĩ, luôn có đời sống thân tâm tỉnh thức, làm biết mình đang làm, đi biết mình đang đi...v..v

Thay vì chúng ta thường dùng chuỗi hạt để đếm, niệm danh hiệu của Bụt nhưng những viên sỏi cũng có tác dụng như vậy, nếu bất cứ chỗ nào, trường hợp nào, không gian nhỏ hay lớn ta đều đem ra hành trì thực tập được cả. Vì vậy các bạn thử tìm cho một hạnh phúc đích thực của trong mỗi viên sỏi. Riêng bản thân tôi đã làm đươc như thế trong vòng 3 tháng, đã đem lại kết quả đáng quý. Tôi có thể chế tác chánh niệm cho hơi thở, cho bước chân, nụ cười và làm ra định lực cũng nhờ vào bốn viên sỏi. Khi Thiền sinh có hai chất liệu: Niệm, Định bền bỉ thì tuệ giác dễ dàng hiện khởi và con người chúng ta luôn luôn có một tình thương, hiểu biết lớn. Thiền sinh nhờ có công năng làm hoà dịu tính cố chấp tư kiến, cái gọi là bảo thủ ở chính trong chiều sâu tâm thức, lúc đó chúng ta luôn mở tấm lòng thênh thang của mình ra để đón nhận tất cả tinh ba quan niệm tốt, xấu, hận thù, hoà giải, hạnh phúc, đau khổ sẽ là một vấn đề cực kỳ bình thường đối với người học thiền. Cho nên cuộc sống chỉ cần có bốn viên sỏi bên cạnh, làm cho chúng ta một sức sống mới, không màng đến hay đi tìm bất kỳ những ngũ dục, địa vị của loài người mà chính trong viên sỏi đã nói lên được điều đó. Một phương pháp Thiền học đầu tiên dành cho mọi giới không kỳ thị bất cứ chủ nghĩa tôn giáo nào, kể cả trí thức hay bình dân, người của Đạo Bụt hoặc người Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Hoà Hảo...

Đây là vấn đề xây dựng đất nước hòa bình không xảy ra chiến tranh tâm linh như các tôn giáo khác đã có lần tương tự.

Nên tự mỗi người cần có ý thức chánh niệm trong mỗi giây mỗi phút, thả ra những con bò bị ốm, buông bỏ những thị hiềm đang có mặt ngay chính bản thân của thiền sinh.

Đường chánh niệm mọi nơi

Khắp nơi có thiền sỏi

Không còn lo sợ chi

Ta an trú vững chãi .

CON ĐƯỜNG VẮNG

Bước chân thiền hành, hiển lộ quê hương của tự thân . Pháp môn đi thiền vốn dĩ đã ấn  tàng lâu năm sau hồi Đức Thế Tôn nhập diệt. Trải qua hơn 250 thế kỷ, bao cuộc thăng trầm, biến động đổi thay của Phật Giáo nhưng Đạo Bụt vẫn đi song hành với khoa học tiến bộ.

Điều đó đã nói lên tính chất Đạo Bụt có khả năng phục vụ nhân loại và đáp ứng một phần khoa học thực tiễn cho xã hội trong thời đại văn minh lịch sử loài người. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ngài đã đi từng bước chân thảnh thơi an lạc mỗi lúc đi hành đạo hoặc cùng chúng đệ tử đi du hoá khất thực nơi các địa phương và trú xứ từng vùng. Ngài đã đem hết năng lực của mình cống hiến cho trái đất một bước chân tỉnh thức, vì Đức Bụt hiểu rằng sự chuyển hoá lớn lao nhất của con người lúc bấy giờ là bước chân, không có giáo chủ nào, thần giáo nào, hoàng đế, quốc vương nào có khả năng chế tác bước chân, đi mỗi bước như Đức Thế Tôn cho nên Đạo Bụt đã ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của mọi tầng lớp, địa vị xã hội, từ đó mỗi lần Đức Thế Tôn đi thiền hành thì bóng dáng vô minh sự đánh phá tan dần đi, trở thành một thái cực tiêu biểu, nét văn hoá tâm linh của Ấn Độ lúc bấy giờ được xem như là quốc độ của bước chân chánh niệm. Vốn dĩ phương pháp đi thiền hành đã có mặt từ lâu nhưng ngày càng bị thời gian chuyển  hoá, làm ra con người phù hợp với thời đại. Dù sao việc ấy đến nay vẫn chưa hề quên lãng. Đạo Bụt lúc nào cũng ‘khế lý, khế cơ, khế thời”

Các nhà khoa học vẫn chú ý đến những nhà tu kết hợp hơi thở đi cùng bước chân. Bây giờ người ta đang tìm tòi thực hiện theo phương pháp hữu ích này. Bây giờ Tây Phương đang học hỏi Thiền rất nhiều, nhất là đi thiền hành. Nói chung, xã hội phát triển, lúc nào con người cũng vội vã đua chen, hưởng thụ, ít khi nào họ biết trở về với chính thực tại ngay trong giờ phút họ xảy ra nên thiền hành ở Tây Phương khá phổ biến và vẫn trên chiều hướng đi lên. Họ đã thực sự làm một con người đáng nể, dễ dàng chấp nhận được. Bước chân, điều phục được thân và tâm liền nhau, họ không còn bám chặt vào bất cứ suy nghĩ nào mà họ buông thả một cách thoải mái. Trạng thái “hiện pháp lạc trú” phát sinh cho họ có niềm tin vào chính mình giữa cuộc sống đầy sự nghi ngờ, thiếu hạnh phúc ấy.

Các thiền sinh đến các trung tâm thiền học sẽ được hướng dẫn bước đầu làm sao khi đi phải có chánh niệm vì theo tôi đặt bước chân có ý thức xuống mặt đất là có cả tương lai tất nhiên đã làm chủ được mọi cái, không bị chi phối hoàn cảnh tác động vào.

Mỗi bước chân đi trên mặt đất là phải có tình thương yêu mọi vật khi bắt đầu khởi niệm dưới lòng bàn chân mọi thứ đang hiện hữu sống thì chúng ta cần phải phát nguyện bước chân cẩn trọng hơn.

Vì nếu quan niệm rằng “mọi vật là mình, trong tôi tất cả mọi vật” thì làm sao chúng ta nỡ lòng nào huỷ hoại nó, vì nếu ta huỷ diệt mọi thứ thì như đang làm tổn thương chính bản thân ta. Cho nên sự bảo vệ môi sinh của các thiền sinh, đi thiền hành là sự bảo vệ tuyệt đối, liên quan đến sự sinh tồn giúp cho hơi thở vào ra được liên tiếp mà không ngắt đoạn. Chẳng hạn phía dưới bàn chân có viên sỏi, Thiền sinh phải tiếp xúc sâu sắc biết cách nhìn sâu là ở dưới bàn chân có sỏi to, sỏi nhỏ, gồ ghề. Đó là cơ hội giúp Thiền sinh quay trở về và điều phục nắm lấy hơi thở rõ ràng, tiếp sau đó theo dõi bước chân nhanh, chậm, dài ngắn. Hay lấy lời kệ này để thực tập; mỗi bước đọc thầm: “con đã về”, bước thứ hai: “con đã tới” Cứ làm theo sự hướng dẫn đó, Thiền sinh chắc chắn đạt tới thảnh thơi, vững chãi trong từng bước chân.

Giữa đường đi chúng ta sẽ bị quấn hút, chạy theo trần cảnh bên ngoài, dễ ăn nhầm những thức ăn bằng con đường xúc thực, còn phân biệt cảnh quan đẹp xấu, bông hoa thơm, thời tiết mát, nóng, thiên nhiên mầu nhiệm. Nhưng khi đưa những thức ăn đó vào cơ thể, trước tiên phải biết nhận diện mỗi món ăn, tiếp theo nghiền nát, sau khi đó mới tạo ra sản phẩm. Khi đã thành sản phẩm thì chúng ta chỉ biết mỉm cười nhìn những hiện tượng đó vào việc quán chiếu thì điều đó sẽ  giúp chúng ta tháo gỡ tri giác sai lạc và buông xuống mọi phiền luỵ, gánh nặng, sự bỏ quên trước hoặc sau. Tận hưởng những giây phút nhẹ nhàng, mọi cảm thọ trực tiếp đối diện được lắng dịu. Mỗi bước chân ta là cả vũ trụ, có cha mẹ, người thân đang đi cùng vì chúng ta là một trong những cơ thể cộng tác khác. Không như chúng ta thường nghĩ ta là ta, thiền sinh đâu có biết ngay trong chính ta đã mang quá nhiều tài sản từ mọi thế hệ trao truyền và sự tiếp nối liên tục nên lúc bước những bước chân làm sao mình phải là hạnh phúc, chế tác ra nguồn suối tịnh ba nghiệp, thân, khẩu, ý một cách trọn vẹn. Trên đường đi thiền hành sẽ gặp mọi chướng ngại lớn cũng như Thiền sinh ngồi thiền vậy. Sẽ bị nhiều lúng túng, chẳng hạn vọng tưởng lôi kéo, thiếu sự tập trung tâm ý. Nếu cứ để cho tư tưởng điều khiển lúc đó ta sẽ có cảm giác khó chịu đau đớn hay còn gọi là tâm bị loạn xạ. Sự sống vẫn tiếp diễn dài hạn, suốt con đường đi thiền hành bằng cách nào Thiền sinh cần điều phục hơi thở vào ra như khi chúng ta ngồi thiền ở trong thiền đường vậy. Khi vọng tưởng nổi lên, chúng ta đừng nên có cố gắng mong bình phục trở lại mà cứ để nó tự giải quyết, tự xử lý lấy. Chúng ta chỉ cần ngồi yên, nhìn sâu vào đối tượng, gọi đúng tên hiện tượng dấy khởi. Khi đi Thiền có tác dụng giúp đỡ cho cơ thể hoạt động một cách tự do, bình thản; không có bất cứ việc gì ảnh hưởng đến tinh thần. Thư giãn mọi bắp thịt, các cơ được điều hoà thả buông. Thiền sinh còn có cơ hội chăm sóc thân thể của từng bộ phận kỹ càng, chỉ cần nắm lấy bước chân và hơi thở thì chúng ta sẽ trị liệu những cơn bệnh thông thường, một phần làm cho máu lưu thông hơn, dây thần kinh bớt căng thẳng khi làm việc, lúc tuyệt vọng, thời gian bệnh, không có ai quan tâm săn sóc bên cạnh thì bạn có thể thực tập phương pháp Thiền đi này. Chúng tôi mỗi ngày đều làm như vậy kể cả giờ rảnh rỗi, nhớ quê hương, đợi người thân, sỏi nằm trên đường đi đó chính là phụ thuộc vào hơi thở của Thiền sinh, quê hương của các bạn cũng đang có trước mắt là bước chân thiền hành thật vững chải, tâm tư thảnh thơi; các bạn đâu cần vội vã chạy đi tìm hạnh phúc xa vời.

Thiền hành muôn vạn lối

Thở vào, ra an vui

Bước chân luôn cẩn trọng

Làm hiển lộ quê hương.

MỘT CUỘC ĐỜI

Tôi có người Anh, miền cát nóng, chiều về cứ thả hồn theo nhịp thở, để rồi Anh và tôi tỏ bày đôi điều huyền diệu. Anh tôi, nơi cõi  bất diệt, nơi hiện hữu lá cây sắc nhiệm mầu, vùng gió cát giỡn đùa theo tiếng sóng, đưa Anh tìm bến giác vô sinh.

Hồi còn làm chú Tiểu ở Chùa, ngày đó tôi mới mười mấy tuổi, ý niệm vào Chùa là được Thầy thương. Cũng hiểu xem mảnh áo màu vàng kia sao mà có nhiều ngăn ô như vậy, thường thì quý Thầy hay khoác trên mình trông rất hiền từ, giữa khoảng trời màu vàng y tuyệt diệu ấy.

Thế là mới cất bước vào Chùa ít hôm, tôi xông xáo hỏi cho bằng được ý nghĩa của chiếc y, màu vàng của cánh đồng lúa trải dài bạt ngàn. Màu vàng đối với tôi rất trang nhã nhưng không bằng từng ô của chiếc y đó. Hỏi ra thì có một Thầy chỉ trả lời bằng giọng nói trầm lắng, nụ cười chúm chím, đó là cánh đồng của Đức Phật, lúc đó tôi ngẩn ngơ, tự nói thầm, sư chú cũng giống mình thôi, tại sao phải đắn đo, trong thâm tâm cứ mãi chạy đuổi theo ý niệm đó. Ngay lúc đó có sư chú Pháp Đăng chậm rãi bước tới:  “..Con này lúc nào điệu lớn thêm ít tuổi nữa sẽ hiểu thôi mà, bây giờ có gì hiểu nấy, chẳng có sao đâu”. Hoài bão cứ giữ trong lòng, một lát nó dịu xuống. Ngày tháng dần trôi, các bông hoa mai bắt đầu nhú nụ, đàn én bay lượn trên bầu trời trắng xoá, tôi đưa tay chỉ lên, vừa cất ngón tay thì bầy chim đã vẫy chào phía trước. Nhìn xuống thì mình đang đứng giữa mặt đất, trái đất đang nâng đỡ bàn chân của mình lên, thật giống hệt mẹ ôm con vào lòng. Nhớ lại mấy tháng đã qua đi nhưng sao câu hỏi vẫn chưa đi về đâu. Hay là một tấm y ôm trọn vào lòng của tất cả các mảnh ô khác, không vì tấm vải rộng. Tôi sực nhớ lại và hình dung thửa ruộng mà ngày nào ở quê, khi đi học hai bên đường mọi người lom khom gieo mạ nhẹ nhàng, khoan thai, từng bước đi thẳng hàng như chính tôi nghĩ tấm y màu vàng kia mấy sư chú nói là ruộng thì mình có thể gieo những hạt gì vào đây. Tôi bật cười mình có thể gieo cà, ớt, đu đủ, hạt đậu, hạt mè, rau thơm vào đó, y hệt mẹ mình làm ở nhà ngày trước. Nói xong cảm thấy không có đất mà sao gieo được. À đúng rồi, mỗi khi các Thầy gieo hạt tức là khoác mảnh y lên người chậm rãi, thảnh thơi như bao người nông dân đang từ từ gieo mạ xuống mảnh đất đã được cày xới một cách công phu.

Vừa đi, vừa cười ngẩn ngơ như một đứa trẻ tập đi, rồi lại tự đắc mình đã nghĩ ra được ước vọng của mình rồi sao mà sư chú Pháp Đăng biểu mình lớn lên sẽ hiểu được, nay mình đã hiểu, có gì mà đợi cho tới lớn.

Có lẽ lúc này trời đã xế chiều, mặt trời đã già đi, bắt đầu lặn xuống phía bên kia đồi Vạn Phước, nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả đi khắp nữa vòng trái đất , làm sáng không biết bao nhiêu mùi đất, như tấm lòng của mình mỗi ngày thêm rộng mở có thể hiểu và thương được tất cả.

Ngay chính ban đầu Bồ Đề tâm đang còn ẩm ướt, lăng xăng đi tìm những cái mình muốn bây giờ đã phần nào thấy rõ mỗi ý nghĩa hay. Giờ thì trái tim lặng yên cho mặt trời có chỗ toả rạng làm điều kiện cho những hạt mầm trỗi dậy như chính các nông phu gieo mạ xuống cánh đồng lúc còn ẩm ướt đầy chất mùi bùn, hương vị của đất đang nâng niu, chăm sóc hạt giống đó một cách cẩn trọng.

Rồi ngày mai kia tha hồ ngắm cánh đồng lúa màu vàng bạt ngàn, lung linh trước gió, thưởng thức hương vị bông lúa sữa non thơm lừng.

NHẬN DIỆN CUỘC SỐNG

Cả cánh đồng lúa chín bát ngát, nhờ cây lúa chín mà mình có thể lớn thêm. Bây giờ có thể hiểu sau khi đọc cuốn sách mỏng Tình Người của Tâm Quán tại một phòng sách trang nhã. Sao mà tâm tư cứ nuôi lớn mong sao Chùa mình có bò mà chăn, thế là mình trúng mánh được thoả thích rong chơi, không phải cần ở Chùa nữa, mà hằng ngày tiếp xúc với Trời, với Đất, với cỏ xanh thì vui sướng biết mấy. Còn nói mấy đứa bạn ở Vạn Phước, Thiên Minh, Từ Quang và Hải Đức, Hiếu Quang gần đó về thưa với sư phụ mua bò cho đi giữ thì hết ý, chuyến này đọc xong sách này là mình có thể trúng mánh, tha hồ nô đùa, chạy nhảy bên kia mảnh đất làng Hòa Bình. Còn ăn rồi tụng kinh, đi đứng nhẹ nhàng gối đầu kinh kệ này quá mệt, làm sao đó cho mình một không gian như chính chú Tiểu trong sách này vậy. Nhưng không ngờ hồi nào mình đã gieo một chữ tâm vào cuốn sách mỏng đó. Chỉ một cuốn sách nhỏ thôi mà tâm mình có thể gieo vào đó những hạt giống từ bi, thương yêu, kính phục rồi, hèn gì mảnh áo màu vàng nhiều thửa của Quý Thầy ở trong Chùa đã nuôi dưỡng mình vụt lớn, không như hồi mình mới chầm chậm bước vào cổng Tam Quan của Chùa, nhờ đọc và suy ngẫm cuốn Tình Người mà tôi đã chọn cho tôi một hướng đi mới, nhận diện được cuộc sống xung quanh vô vàn quý giá. Chỉ cần một lời nói ái ngữ giúp không biết bao nhiêu nỗi khổ, niềm đau, chỉ cần một hành động dễ thương là làm cho con người với con người không còn hận thù và phiền não nữa, mà còn nói gì sống với nhau bằng chữ Tâm Quán, làm việc gì phải biết suy xét, cẩn thận, không may xảy ra đổ vỡ tình người, lúc đó chẳng biết người biết ta.

Từng dòng chữ mộc mạc, giản dị của Tâm quán như đang trau chuốt mọi thứ: đi đứng, nói năng, hành xử đúng lúc, đúng thời, đúng người; làm cho con người mình đẹp ra, rộng lượng hơn, không còn nông nổi đi tìm lại dấu chân nếu chẳng biết thế, không may chúng ta sẽ dễ bị chìm đắm, say sưa theo lối cũ. Một sáng mai khi bình minh ló dạng, sau một giấc ngủ ngọt ngào, êm ấm, mình đã báo cáo với Quý Thầy lớn: cho con gieo vào tấm áo giải thoát rộng lớn một hạt giống xù xì, muốn vùng vẫy đâm chồi mọc lên. Như bao nhà nông khác đã cho lên các hạt mầm tốt tươi, sáng toả như tấm y màu vàng uy nghi mà quý Thầy đang mang trên mình, hằng ngày đã nuôi dưỡng con lớn lên và sống trong một gia đình tâm linh thuần khiết.

Nay mình chẳng muốn chăn bò nữa mà ngay bây giờ mình cần buông bỏ các cáu uế nhơ bẩn của thân tâm và thả ra ngoài những con bò mà lâu nay đã ràng buộc. Thật tội nghiệp cho một con người, một cuộc đời suốt ngày rong ruổi, tìm cầu, theo đuổi những danh tướng vậy.

Nói đến cuộc sống là vô biên không thể kể xiết nào là vui – buồn, khổ đau – hạnh phúc, cực nhọc – sung sướng… nhưng điều tất yếu anh phải biết nhận diện nó, để rồi chuyển hoá thì tự nhiên cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, thong dong hơn, đừng nói gì đến” không đi đâu nữa mà cũng không cần đến”. Ví như hồi nãy tôi đang đứng giữa mặt đất đưa ngón tay lên chỉ bầy chim én bay lượn khi vừa đưa lên thì nó đã bay quá xa. Cho nên mỗi chúng ta đừng nên vội vàng đi tìm cầu mà hãy sống trong hiện tại ngay bây giờ cho thật thi vị nhiệm mầu và biết trân quý cuộc sống.

SỰ CÓ MẶT CỦA DÒNG SÔNG TRONG CHÉN TRÀ

Tôi ngồi một mình bên bếp lửa than hồng đang còn đỏ rực và tôi đang ý thức tiếp xúc với những gì nhiệm mầu, giúp cho tôi có mặt đích thực với chính tôi. Trời ráng hồng bắt đầu buông xuống, hơi lạnh từ từ thấm sâu vào nỗi lòng, mọi cái đều im lìm trong màn đêm. Chỉ có bếp lửa đang còn bập bùng cháy nổ với mọi vật xung quanh làm cho ánh sáng chói đỏ khắp không gian, lúc đó tôi bắt đầu đi vào từng cơn. Tôi đã thấy rất rõ hơi ấm dần lan toả trong cơ thể tôi và tôi đã  ôm chặt nó vào lòng khi đang còn lim dim đôi mắt. Lúc đó tôi cố gắng gạn lọc tâm ý, cùng dìu bước vào ngỏ sâu thẳm của dòng tâm thức mà tôi thường gọi nó là biểu tượng của một dòng sông. Nó thật quý báu vô cùng, nếu không có người bạn của tôi thì lúc nào tôi cũng mơ ảo, chạy theo ngược chiều với tâm thức hư vọng, khát khao, bồn chồn. Nhờ dòng sông đã đưa tôi trở về lại với chính tôi, nếu không thì những ngày tháng vừa qua tôi đã đi theo sự mong muốn, chẳng biết mình đang ở đâu và bước về hướng nào. Bếp lửa sắp tàn và lụi theo thời gian để về lại với chính nó. Còn tôi đã mang trong mình một khái niệm là chén trà trong xanh đang gần gũi bên tôi, vì lâu nay tôi bị đánh mất tất cả những gì hiện hữu. Nếu tôi không tự biết tôi là chén trà nằm sâu trong dòng sông thì mọi người coi tôi bị lãng quên hồi nào. May thay tôi có một chén trà trong bàn tay ấm áp, từ ban đầu tôi đã nâng niu nó cho đến giờ phút chót mà tôi chẳng biết cái gì đã ở trên tay nãy giờ. Tại vì dòng sông cuốn tôi đi, nó đưa tôi đi thăm biển, nó đưa tôi đi thăm núi và những dãy san hô nằm sâu tận dưới lòng đại dương. Tôi say mê và thích thú vô cùng khi dòng sông đưa tôi đến những nơi mà tôi chưa từng quen biết. Bỗng nhiên tôi cảm thấy bị va chạm bởi một vật cứng lại còn nóng. Tôi tỉnh lại thì mới hay là hồi nào đến giờ mình đang đi trên mây giữa cõi hư ảo. Chính nhờ sự có mặt của chén trà làm cho tôi thức giấc bởi cơn mê hoang đường. Vậy mà tôi cho chén trà là cái chủ đạo của riêng tôi tuy, nó được nằm ngoài ý thức; còn đối với dòng sông tâm thức là cái được nằm trong nội tâm nhưng chỉ ví như ngọn đèn ban đêm toả chiếu ánh sáng. Thực tế thì trong nó đã có sẵn dầu, tim, chỉ cần khí nữa thôi là nó sẽ dẫn cháy và phát sáng còn gọi là điều kiện để hiện diện sự có mặt.

Vì thế nếu khi bạn uống trà cũng vậy phải đích thực biết là dòng sông đang có mặt ngay trong chén trà, chẳng những có nguồn nước từ nguồn suối cao chảy về mà bạn phải ý thức được hơi thở của mình cũng góp mặt làm cho chén trà thêm thi vị và đậm đà bởi các yếu tố tạo nên chén trà, mình nên thực sự có mặt ngay trong giờ phút khi đang nâng chén trà trong lòng bàn tay, để đưa lên mắt, xuống mũi, rồi kế tiếp vào miệng, từng động tác sẽ giúp chúng ta tiếp xúc được với năng lượng tỉnh thức. Hơi thở là sợi dây nối liền bởi các căn, không cho nó rong ruổi đi chơi các nẻo như chính một hồi nó đã đưa tôi đi khắp chốn, còn dắt tôi chơi trò trốn tìm dưới đáy biển, trên thác đá ghềnh cao chót vót.

Bởi vậy dòng sông là tác ý đến nội thức, còn chén trà là hình thể có mặt của tự thân.

ƯỚC HẸN CỦA CÁNH HOA

Vào động tâm nhìn ra vầng sáng

Thắp đèn trí tuệ khai lối đạo

An Bằng một dạ theo gót Phật

Nguyên Phương từ thuở ánh Đạo Vàng.

Thế giới đang gặp những khó khăn, bế tắc, con người với xã hội cũng đang đắm chìm trong lao động và đói nghèo. Mảy may hạt bụi dính vào vai áo, khó mà rũ sạch những hành động bất hòa xảy ra. Nhân loại thật không may khi hành xử. Cuộc sống có phương thức diệt tránh được màn vô minh, nhưng không có ai dám đứng dậy để an ủi những số phận bất hạnh, neo đơn, giúp họ có được cuộc đời trọn vẹn, sung túc, no ấm.

Xã hội đang mang trên vai một trọng trách lớn lao, đem lại sự an vui, bình đẳng, không còn phân biệt, đối xử bất công đối với những nạn nhân.

Lành thay ai cũng muốn được thương, ai cũng cần có cơm no, áo ấm, và ai cũng mong rằng cha mẹ nói chuyện được với con cái hiếu thuận, hiểu được cha mẹ. Thực tế đây là một tệ nạn xâm nhập đạo đức, giữa người đánh mất lẫn nhau. Trong cuộc sống chúng ta phải biết hành động chánh niệm sẽ mang lại ý thức của con người ngay trong đời sống, vì nếu ta có chánh niệm thì biết chia sẻ ngọt bùi, đau khổ, không còn mang đến cho nhau những vết thương căm thù, thành kiến, giận hờn mà cần giải quyết ngay bây giờ trong giờ phút có mặt của nhau. Khi đã hiểu được và thương được rồi thì ta có thể dễ mở tấm lòng tha thứ, khoan dung. Đó là cánh cửa từ bi, bác ái, hoà bình, mỗi con người phải nâng đỡ, gánh bớt những nỗi khổ, niềm đau của người bạn mà ta chưa hề quen hay biết nhưng ta có thể thấy được mình thực sự có mặt trong trái tim họ.

Trải qua những cơn sống còn, đi trên hoang mạc, bước chân sâu thẳm trong tận nguồn cơn, ta mới thấy được cảm thọ, giao cảm hàn gắn lại những vết thương bị rạn nứt ở trong tận đáy lòng. Chúng ta muốn hiểu được người bên cạnh thì ta thực sự có mặt với chính ta, khi đó mới dễ dàng đối diện và truyền thông được với nhau bằng cách thiết lập mối tương tác và nên sử dụng lời nói có yêu thương, nâng đỡ vì khi ta đã làm được như vậy rồi là việc xây dựng một đời sống với tinh thần ước hẹn. Càng được nâng cao và sum vầy, đoàn tụ. Bằng cả khả năng giáo dục, có thể dễ dàng thâm nhập, tạo dựng một thế hệ tương lai đầy hoà ái, thịnh vượng. Trở về với nguồn suối bao la, rộng lớn ta có thể nhìn thật rõ biết bao nhiêu công trình đang củng cố xây đắp, mái chèo thẳng bến đến nơi luôn luôn có đầy đủ các chất liệu làm nên nhịp điệu vững chãi, tươi mát. Có như thế chúng ta thực sự góp nhặt cánh hoa rụng, tàn úa thêm sắc hương.

NỤ CƯỜI CHÀNG ÁO NÂU 

Một con người có chăng chỉ là một tấm lòng thiết tha, trân quý dành cho nhau. Nếu người biết đủ, cuộc đời chỉ là một nhành hoa, đem hiến tặng cho đời thêm nguồn vui. Nét tinh nguyên của một chàng đạo sĩ luôn nở nụ cười, hết cả niềm say mê, dâng trào thể hiện niềm an vui ngay trên quê hương bụi hồng. Đó mới chính phép lạ thay đổi không gian, làm mới nền tảng thời gian. Có hay chăng chỉ là quan niệm của cuộc sống bình thường mà mọi người đã gắn thêm màu cho nó, để rồi một mai kia, trở thành nếp sống an bần lạc đạo của một đạo sĩ già, râu tóc bạc phơ, gương mặt có nhiều nếp nhăn, đang vững vàng, oai nghiêm thong thả bước về phía trước của một ngọn núi cao phía trước tiếng trúc vi vu, mây trắng bạt ngàn của mùa thu trăng về, lặng yên theo chiều gió. Cầm trên tay các loại trái cây thơm mát và còn có những hương vị của đất , trời ngày ngày kết tinh tạo thành bản hòa ca lắng đọng với bao tâm tư nguyện thành, trong một ngày của mẹ. Đạo sĩ đã dấy lên khúc nhạc tâm thành gởi gắm cho lũ trẻ hãy nhớ công ơn sinh thành, nuôi nấng của những bậc vô thượng. Hiển nhiên trong một chữ tâm, luôn có tất cả yếu tố hiếu hạnh cao xa của một người con. Bằng hết cả tấm lòng thiết tha, nghĩ về thời đã qua, đền đáp lại những món quà vô giá mà người mẹ, người cha mong đợi ở những đứa con trong tuần lễ thề nguyền tưởng nhớ ấy.

Ông già đạo sĩ cũng nên chia sẻ, ban phát hạt giống từ bi có sẵn ở trong tận nụ cười, ánh mắt hiền hoà của thế giới tuổi thơ và nhận ngay trách nhiệm đi đến những nơi vắng bóng tình thương, những căn nhà mờ ánh đèn đèn bất hạnh, lẽ loi với một hình dáng thấp thoáng bóng trăng già, khoác trên mình một chiếc áo đạo sĩ thường dân, tay cầm gươm báu nhiệm mầu trên tay còn cầm những phần quà, phẩm vật để dâng tặng cho những con người có số phận bất toàn, trong đó có những trẻ em cũng được nhận từ trên tay của ông bố, người mẹ hiện thân của một Đạo sĩ đầy tình thương cho các đứa con, người cháu của mình những vật dụng, đồ chơi, bánh trái, sắm sửa mọi thứ cho ngày Vu Lan.

Trang bị phòng hiếu hạnh cho thật trang nhã, thành kính có một bếp lửa, hòn núi, bát cơm, trên bàn ăn buổi tối trong tuần lễ Mẹ phải có các loại thực phẩm, thức ăn, cả nhà nên chìm trong im lặng vài ba phút để cử hành bữa cơm yêu thương hạnh phúc, nói lên tình người, tình của mẹ dành cho cả cuộc đời vì con, còn thể hiện được chữ Hiếu của đạo Bụt đi vào cuộc sống thật hay và đầy tính mô phỏng lại cuộc đời của tấm gương đại hiếu mà ngài Mục Kiền Liên khi xưa báo đền cho mẹ cha nhân ngày rằm tháng bảy. Bây giờ trong thời đại chúng ta phải thể hiện qua tấm lòng, báo dưỡng công ơn sinh thành, dưỡng dục, luôn nhắc lại cho ta thấy ý nghĩa đạo đức của con người, không nên lãng quên trong một ngày trọng đại này. Nếu như việc làm này thực sự chỉ mang lại một kết quả tượng trưng thì ắt hẳn ngày này chỉ còn lại là một hình thức văn hoá thiêng liêng. Cho nên chúng ta nên tạo dựng lại một bối cảnh cho sinh khí nhân ngày của mẹ được thêm phần sâu sắc, đậm đà, ôn hoà , pha lẫn chút tinh thần hiếu đạo.

Tối hôm đó mọi tư gia đều được tổ chức lễ cài bông hồng cài lên áo cho nhau, chồng gắn cho vợ một chiếc bông hồng đỏ thắm nếu may người vợ của mình đang còn có mẹ bên cạnh. Rủi thay người con cài lên ngực bố một đóa hoa hồng màu trắng sương mai nếu bất hạnh khi bà không còn. Vui sướng thay em gái gắn lên túi người anh một bông hoa hồng màu sắc tươi thắm, có cành lá xanh tươi thì mình nên ý thức rằng ta đang còn có mẹ, có cha đang còn hiện hữu sống bên cạnh mình.

CỞI MỞ TẤM LÒNG

Trong tinh thần văn hoá lịch sử Phật giáo luôn song song với những bước ngoặc của thời đại. Ta đã nhìn thấy hằng thế kỷ mà tiếng nói Diệu Pháp dần lan toả nơi nơi, thấm sâu vào tâm hồn của mỗi người. Theo tiếng gọi con tim, Phật giáoluôn vươn mình trong nắng mai cùng với xã hội phát triển và trên đà đi trên con đường khoa học, đạt đến một tương lai Chân Thiện Mỹ tốt đẹp nhất. Hoà chung không khí nhân ngày văn hoá trọng đại của nhân loại, ngày lễ Vu Lan được kết tinh bởi tấm lòng hiếu thảo và tinh ba thuần khiết, làm cho ngày của mẹ có một cái gì đó mới mẻ, thăm thẳm nói lên được ý nghĩa giá trị trong ngày ấy. Chính vì thế Đạo sĩ A Tư Đà là hiện thân có mặt trong ngày lễ lớn bằng tất cả niềm hân hoan, thương xót vô bờ bến của ông cụ già râu tóc trắng như tiên. Khi xưa ngài ở sâu trên núi cao, chỉ chuyên việc tu hành lạc đạo, tìm vô vàn pháp môn khổ hạnh để có thể cứu khổ, độ người, xoa dịu niềm đau khổ của nhân loại đang chìm đắm trong sinh tử. Một hôm điều lành xuất hiện, báo tin rằng có đấng Giác Ngộ biết người, biết mình, hiện thân giữa cõi ta bà này để đem lại niềm an vui, giải thoát, mong tìm ra chân lý nhiệm mầu, dẫn dắt chúng sinh tránh khỏi vòng tục luỵ, bi ai, nên đạo sĩ lần xuống núi, mong gặp đấng trượng phu hào quang toả chiếu như lời tiên đoán.

Đạo sĩ A Tư Đà cũng từng phát nguyện đúng như vậy.

Đứa trẻ sơ sinh kia hiển hiện trang nghiêm tướng tốt trong một vẻ đẹp lạ thường, sắc thái ung dung, tự tại, sống ở thế gian là một đại vương chí dũng, hào kiệt. Còn xuất gia thì là một bậc Thiên nhân sư, bậc xứng đáng tôn sùng và quý kính nhất trên đời.

Vượt ra khỏi lịch sử, trở về lại với cuộc sống, cởi bỏ giới hạn Thiên đường hay địa ngục, hôm nay trong một thế giới đang còn xảy ra những điều đáng tiếc bởi vô minh, có lẽ cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, địa vị nên đã nảy sinh vấn đề tha hoá, tình hình đói nghèo bộc phát, thương vong, lạm dụng… bởi vì trong đó còn có kỳ thị, sự bất công, ích kỉ giữa đời sống cao thấp. Cho nên Đạo sĩ ngày nay phải dấn thân vào những công tác bình đẳng, đem vui cứu khổ, giúp người thêm hạnh phúc bằng phương thức xây dựng cộng đồng tương trợ, tiếp trợ cho những con người thiếu may mắn, kém phước nhưng giàu lòng can đảm, chịu đựng vượt lên tất cả.

Vì vậy trong Đạo Phật rằm tháng Bảy được xem như ngày Tết đói nghèo và tạo thêm niềm vui cho thế hệ mới lớn nhất là đối với trẻ em. Làm sao cho ngày Vu Lan thật sự là ngày yêu thương, ngày dành cho mẹ và của những đứa con sau bao ngày rong ruổi, bây giờ trở về bên gối mẹ để nói lên được niềm vui sướng khi vẫn còn có gia đình, mẹ cha. Như thế Đạo sĩ A Tư Đà cần phải có trách nhiệm đi tìm đến tận nhà nhà để cùng gởi gắm một chút tình thương ngọt ngào vào đó như chính A Tư Đà  đang sống lại với hình dáng ông tiên xưa ngay một lần về núi gặp được duyên lành. Nên cộng với tinh thần chia sẻ nỗi niềm bất hạnh của những ai mà số mệnh ở trên cuộc đời này lắm đau thương, thì ông Già có thể đưa một tay dài hơn, ánh mắt từ bi, tấm lòng chứa chan, bao dung là một sự hy sinh cần mẫn yêu thương giúp đời bớt khổ, thêm vui như chính ông đã ước đoán biết trước ngày mai nhân loại sẽ không còn chiến tranh nội–ngoại, đem lại hoà bình cho đồng loại. Đó là một việc làm mang đầy tính chất cao quý cho một bậc tiên tri phải làm, thiết lập con đường hiểu và thương ngay trong giờ phút hiện tại của một ẩn sĩ A Tư Đà.

 

MỘT THỜI LÀM ĐIỆU

Thời làm điệu, nhớ lại hồi đó tôi thật ngốc như một mảnh giấy trắng tinh, thơm màu gỗ rừng. Tôi ăn cơm chỉ biết no, mặc áo là cho ấm, chơi đùa cho quên nỗi nhớ mẹ và lim dim trong giấc ngủ của tiếng chuông đưa khuya sớm.

Tôi bỗng giật mình, tỉnh giấc lệnh báo giờ công phu 3 giờ sáng. Đêm đó trời xứ Huế khoảng giữa tháng 11 thật rét, con người cảm tưởng như đang phơi ngoài sân lạnh buốt. Hồi đó kể ra Chùa vẫn còn nghèo đơn sơ – hình như mái nhà của sư phụ đang trú ẩn được làm bằng lá và phên che, phía sau nhà có hai cây mận trái xum xuê trĩu quả chín hồng. Cứ mỗi buổi trưa đến giờ Ngọ, tôi cùng với mấy chú cùng lứa trèo lên núp dưới những tàn lá xanh, giấu mình trên những cành cây, chờ Thầy đi vắng hoặc tiếp khách mới níu cành để lặt ít quả non, đem xuống chia cho nhau một người một ít, có thể để dành lại cho những buổi liên hoan bí mật cuối tuần. Có một cây mận trái to, ngọt lịm, có mùi vị thơm, có màu hồng trông thật dễ thương cho nên ai cũng hay thương nó còn lại một cây mận dáng hơi gầy, quả lại nhỏ xíu hay bị sâu, lại còn cho ra trái quá cao và loại mận này da màu của nó trắng xanh. Chẳng ai chăm chú, quan tâm nhiều. Nhưng thật ra tại vì tại tôi trèo không cao nên phải tìm cành cây sào bằng tre, cột trên đầu chóp một cái móc sắt để đứng phía dưới khèo những trái mận đu đưa trong tia nắng, làn gió nhẹ. Vả lại cây mận ít ai thương này chỉ có mình tôi thường tâm sự với nó rồi cho nó vào bụng cho ấm. Hai đứa tôi chơi với nhau quanh năm, mùa này sang mùa khác mà không biết mệt, thậm chí còn có anh muối tiêu ớt cộng tác với hai chúng tôi thật là chung thuỷ, mặn nồng. Đêm ấy trời se lạnh, cái chăn không đủ ấm mà nó còn xa tôi xuống tít dưới chân khi tôi đang ngủ say, may nhờ tôi có chuẩn bị cho tôi một là lửa nhỏ. Nếu sáng có dậy thì để hơ tay cho ấm rồi mới đi tụng kinh, còn nếu quên thì bếp lửa than sẽ đi về với tro bụi. Có một lần Thầy tôi bắt phạt cả mấy đứa tôi vì cái tội nằm nướng. Cả đêm đó ai cũng sinh tâm làm biếng cũng phải thôi, có lẽ vì ăn cháo nấm tràm cho nhẹ bụng. Cái món cháo này cả Chùa ai cũng ưng vì bản chất của nó rất là đắng, Dì phải cho ít đậu xanh để khử mùi và cho nó thải bớt chất đắng, vì thế ai đều thích nên Dì Na thường hay đi chợ để nấu món cháo tràm này.

Ngày hôm sau tôi có gặp chị Loan ở chợ tiểu thưong Đông Ba. Chị có hỏi han về sức khỏe . Tôi luôn tiện kể cho chị nghe về đêm đó. Tôi không thể nào kể mà quên cái lạnh ghê gớm của Chùa Vách đất, che lá. Chị còn hỏi thăm về cả đại chúng, tôi rất mến chị nên có gì tôi có thể nói cho chị về cách sinh hoạt như một gia đình của tôi. Tôi và chị ai cũng vui vẻ, sung sướng khi gặp nhau. Nói chị buôn bán ở chợ Đông Ba nhưng khi kể ra ai cũng bật khóc, do chị thương cái nghề đó vì có thể tận dụng thời gian rảnh để đi Chùa làm thêm công đức hay cái nghề đó đối với chị là lương thiện, đủ sống vì tánh của chị không thích dư giả. Tôi thường thắc mắc tại sao chị không đổi cái nghề mini đó, kiếm một công việc khác có tiền hơn, chị thường lắc đầu và mỉm cười hiền lành với giọng nói sang sảng:

“Tu đâu không bằng tu Nhà

Thờ cha kính mẹ ấy là đi tu”

Thứ nhất tu chợ, thứ hai tu nhà, thứ ba tu chùa. Vì chị thường nghĩ về chữ tu nên chẳng cần mua danh, hám  lợi.

Tối hôm sau chị và tôi được gặp mặt sau giờ tịnh độ. Gương mặt chị luôn có nụ cười, đôi mắt rất trong khi nhìn mấy chú Điệu của chị mỗi ngày mỗi lớn.

Thế rồi chị rủ tôi đi xuống phố mua chiếc áo cũ mà người ta đã xài rồi. Họ thường hay bán giữa đường. Về đến phố Mai Thúc Loan, tôi chẳng chọn cho mình được cái áo nào cả. Có cái thì quá lớn, có cái thì màu sắc tôi không vừa ý nên cũng làm cho chị mệt nhừ và cũng nhờ Trời đỡ mưa cho nên chị cũng bớt đi nỗi nhọc nhằn.

Cuối cùng tôi bảo với chị, thôi để lần khác vào buổi sáng đi cũng được tại vì trời tối quá chẳng chọn cái nào được cả. Thế rồi chị chiều ý tôi, tôi men theo cầu Tràng Tiền, rẽ lên chợ Bến ngự đến Xóm Từ Đàm. Tối về, giữa đường trời thì lạnh, mỏi cả đôi chân, bụng thì đói meo. Tôi ngủ thiếp một giấc no say đến sáng.

SÂN MÂY

Lần đầu tiên xa Chùa lòng tôi buồn ghê lắm, nơi đó bao nhiêu kỉ niệm biết mấy tình nghĩa dạt dào, người thân ở nơi Huế rất nhiều nên bỏ đi như thế này tôi không mấy cam tâm. Những lần khác đi xa, tôi không thể nhớ bằng lần này vì những lần kia đi rồi trở về lại thôi. Thực tế đi mà không biết mình sẽ đi về đâu, trong chốc lát tôi sực nhớ câu: “Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm, nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa” Nguyện một lòng đi theo tiếng gọi của tỉnh thức. Nói cho thật cao siêu vậy thôi, chớ tôi mà cao đến cỡ nào vẫn còn thấp, nhưng nói cho dễ hiểu hơn là đi theo như một dòng sông.

Lần này tôi đã quyết định mở cho mình một con đường mới, có điều thật lo vì tuổi vẫn đang còn nhỏ, học thức chưa tới đâu mà còn ham ăn, ham ngủ nữa chứ. Vì vậy cũng hơi run, đến chỗ mới và người lạ nên biết sao mà sống cho vừa lòng hết đây. Nhưng dù sao sống ở đây lâu ngày hơn ở Huế nên cũng dễ hoà đồng vào cuộc sống.

Kỳ ơi! Tôi thật hài lòng hơn bao giờ hết khi đặt chân tới mảnh đất này, từng bước tôi phối hợp với hơi thở “Đã về, đã tới”

Xứ sở sương mù, đồi thông bạt ngàn, tiếng suối chảy róc rách, con người ở đây hiền từ, nhân hậu nữa chứ. Toàn là người đi làm kinh tế mới hết mà, cho nên vùng này gọi là hương lá chè. Tôi đã từng kể cho Kỳ nghe về cuộc đời của tôi. Tôi không biết Kỳ phản ứng ra sao hay cảm nhận thế nào sau những lời tôi kể, nhưng tôi thầm vui sướng khi tôi đã chia sẻ một tấm lòng cho một người, Kỳ biết không? Đến đây đời tôi như hương vị của lá chè thơm phức.

Mỗi buổi sáng tiếp xúc với cảnh vật, thiên nhiên thật hùng vĩ và từng áng mây trôi thong dong (sân mây ), tôi luôn có ý thức về bước chân của mình và mục đích đến đây của tôi là đi để mà đi, đi trong cơn mưa phùn như ngày xưa tôi đã sống ở Huế, những khoảnh khắc đó, tôi không thể nào quên được Kỳ ạ!

Khi Ta Gặp Phật…

Hôm nay ngày mồng một tháng mười năm 2010, Thật là một thiện duyên cho toàn thể những nhà trí thức và hai nhà sư Thích Đồng Nhãn và Thích Pháp Bảo cùng với Bác Phạm Quang Định và các doanh nhân Phật tử ( Phạm Châu Thương, Phạm Trung Nghĩa) đã đến thăm Giáo sư Trần Văn Giàu để vấn an Cụ nhân nghìn năm Thăng Long đang về trên toàn cõi Việt Nam, bởi Cụ năm nay đã bước vào 100 tuổi. Theo như tiến sĩ Thu Xuân chia sẻ là Cụ cả tuần nay ai vào thăm thì Cụ không đáp lại một lời nào chỉ nhìn và nói: các Bác ngồi xuống đi nhưng sáng hôm nay có quí Thầy đến viếng thăm thì Giáo Sư lại cười nói rất tươi, đôi mắt sáng rực hẳn lên và luôn chắp tay xá Phật. 
Sau giờ trì kinh cầu nguyện “ tâm bình, thế giới bình” để hồi hướng năng lượng Bồ Tát Quán Thế Âm cho Cụ thì lời nói rõ ràng, uy lực năm xưa trở lại với chữ “ Khoan” và chữ thứ hai Khỏe trong tiếng lặng thầm Mô Phật đầy nhuệ khí của một đấng hào kiệt một thời tỏa sáng năm châu. Đây cũng là lần đầu tiên trong giờ phút hiện tại, tôi may mắn gặp được Cụ, tận mắt chứng kiến con Người tài ba, tâm hồn khí phách qua các công trình sử học, triết học và những dự án đã khiến không biết bao nhiêu nhà học giả trên thế giới ngưỡng mộ Ông. Chương trình Vẻ Đẹp Phật Pháp ( VĐPP ) lại một lần nữa minh chứng sự tiếp nối văn hóa Việt trong lòng Người Cha của mình. Vừa tròn một trăm tuổi nhưng với Cụ sức khỏe luôn là viên bảo châu. Bàn tay Thầy Đồng Nhãn được nắm chặt vào từng ngón của Ông và mỗi hơi thở của Ông được giữ gìn vào Thân cây như chiếc thuyền sẽ từ từ quay trở về …
“Ta đã trở về với chính ta,
Ta cùng chư Phật chung một nhà,
Ta đi phiêu bạt trong hoàng vũ,
Chẳng phải nơi nào chẳng phải ta”.
« Ta lại tìm ta chốn bụi hồng,
Cho hồn ta nhập với núi sông,
ở đây nương tựa vầng mây khói,
vạn nẻo luân hồi vạn nẻo không. »

Cả một đời Giáo Sư (GS) luôn cống hiến cho sự thịnh vượng của Đất nước, nhưng chưa có bao giờ GS tầm tồ bằng lòng với những gì mình đã làm cho các thế hệ con cháu mai sau.Có lẽ chính vì điều ấy nên chúng tôi tới thăm Cụ trong vài giây lát thôi mà Cụ đã dạy một mớ kiến thức uyên thâm “ hãy chưa bằng lòng với chính mình, hãy bằng lòng với những gì đang xảy ra”


Sự hòa nhập giữa hai thế hệ và bắt đầu sự giao thoa giữa những hình ảnh và tấm gương soi của một đời người và một rừng cây đại thọ ấy! thế nhưng buổi qui y tại nhà của vị tướng trận mạc “ Thượng Đức” tại Hà Nội với Pháp Danh Thiện Nguyện đã là dấu ấn cho sự hưng thịnh và tiếp nối ánh sáng chân lý của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong bữa cơm tình quê rau cà đạm bạc. Bác Phạm Xuân Thệ, Bác Phạm Quang Định hay Anh Trần Trương. sẽ là con người còn có cái Tâm trong tia nắng mới và đầy hương trầm bay tỏa bốn phương. Ước nguyện của Bác Định, trong dịp vào Nam lần này cũng đến đảnh lễ tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức và sau hai tuần thảo viên của “Thầy” được tổ chức lễ Khánh vị tại ngã tư Cách mạng tháng 8, Nguyễn Đình Chiểu. 
Lúc đoàn đến gần bức tượng chân dung thiền tọa, bắt ấn kiết tường của Ngài thì trời đỗ mưa, cơn mưa đã tự thốt lên ngọn lửa “ Bồ tát trang nghiêm lặng lẽ dưới trời mưa, lửa thiêng

phực cháy trong lòng quê hương”.


Cũng vào trưa hôm sau, buổi pháp đàm, cơm chay, trà thiền được thiết trí tại nhà hàng Sân Mây với các Tiến Sĩ , Chú Thiệu, Cô Thu Xuân, Cô Hoa Lan, Chú Hải, Nhà xuất bản, chị Hoàng Thi cùng với toàn thể đại chúng có mặt để đón Thủ Đô ngàn năm văn hiến và dân tộc Việt Nam chuyển bước qua một trang sử mới với tất cả là những người con, cháu Vạn Hạnh Thiền Sư, đại sư Pháp Thuận, Đức Phật Hoàng nhà Trần, Bồ tát Thích Quảng Đức v.v…thì tức nhiên “ Cất Túi Hương Trầm” không ngoài thiện tâm ấy. Ngày cơm chay đặt biệt này sẽ đánh dấu những trái tim thoát tục lên “ Động Hoa Vàng” tìm chốn tĩnh tâm, ngồi yên tự tại như cụ Trần Văn Giàu luôn sáng mãi với non sông.

NHÌN VU LAN BẰNG ĐÔI MẮT TÌNH YÊU

Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh. Rảo bước lang thang trên những con đường heo hút, nhiều lá vàng cũng bắt đầu rụng đầy ngõ, từng chiếc lá như một âm hưởng tiết trời vào mùa thu hiếu hạnh và vầng trăng luôn bừng sáng khắp mọi nơi có mẹ. Vào một đêm, tôi vẫn còn nhớ cái ngày Vu Lan năm Bính Tý, hai người em rủ tôi ra sau nhà hái một vài bông hoa và mấy trái chanh, hương chanh thơm phức, lan tỏa khắp khu vườn. Tôi cố gắng hỏi cho ra lẽ, các em hái mấy trái này để làm gì, chúng thật bí mật chẳng chịu nói cái điều mà nó sắp thực hiện. Bầu trời đã xuất hiện những ngôi sao lấp lánh như muốn báo hiệu niềm mơ ước gì đó sẽ xảy ra!Sân nhà bỗng sập tối. Thế là hai đứa thắp đèn dầu lên, chừ tới đây tôi mới hiểu ra ý của hai đứa muốn gì và Mẹ cũng bất ngờ nghe tiếng gọi mẹ.Từ trong lều bếp mẹ vói hơi ra giòn tan là mẹ đang nấu nồi khoai mót cho các con đây! Tôi chợt hỏi lại, khoai mót là gì vậy Mẹ? Mẹ cũng phải nực cười, đáp lại- khoai mẹ đi lượm lại đó con ơi! chắc có thể là mẹ cũng nghĩ tối nay trăng sáng nên mới luộc khoai nóng cho anh em tôi, nhưng chúng tôi thì thầm nghĩ đây là phần thưởng mẹ muốn khích lệ trước lúc vào năm học mới. Vừa chia nhau mỗi đứa mỗi phần, sau đó khoai ai nấy bỏ gọn vào túi. Thằng nhỏ cũng biết ý, giả vờ thật thà thương mẹ, nó cũng bày đặt lựa cho Mẹ củ to nhất trong rổ. (Nghĩ cái cảnh khốn khổ, nhà nghèo mà tủi thân buồn bã). Sau năm đó, Ba tôi đã trở thành người quá khứ. Chỉ còn duy nhất là có Mẹ bên đời với mái nhà tranh xiêu vẹo trong những đêm khuya vắng. Chúng tôi cố cầm lại nước mắt để ngồi xích thật gần Mẹ, nắm lấy bàn tay khô khan thấm mùi sương trời và liếc mắt nhìn nét mặt vất vả đơn độc của mẹ. Một bà Mẹ quê bấy lâu đã mang theo nỗi bôn ba nhọc nhằn khắp chặng đời. Ăn khoai xong, bắt đầu các anh em chúng tôi thay phiên nhau đọc bài thơ của Thầy viết:

“ Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông Chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Như mất cả bầu trời”

Các bạn biết không? Mẹ tôi thì vẫn ngồi lặng lẽ câm nín nhưng từng giọt nước mắt lắng đọng của Mẹ đã tuôn dài xuống đôi gò má gầy yếu. Bởi lẽ, chúng tôi đọc những lời lẻ ấy ra đây không chỉ sợ mất thêm một người yêu quý nữa, mà vì thương Mẹ của mình quá. Bởi Ba chúng tôi vĩnh viễn ra đi từ lúc tôi lên năm tuổi (cái hôm ấy bầu trời hiền hòa, đất tự dưng rung chuyển như có tiếng sét đánh vô tri). Kể từ đó thân phận trẻ mồ côi đã đổ ập xuống trên những búp măng non mới lớn. Sau phút kinh hoàng ấy, Mẹ chỉ biết cặm cụi một mình. Có những hôm chúng tôi cứ thức trắng bên mẹ. Hàng ngày, bà thường thui thủi một mình gồng gánh mọi việc đồng áng chợ đò, khi tuổi vẫn chưa đủ bốn mươi. Căn nhà mục nát đầy gió và nằm heo hút cuối làng ấy giờ trở nên quạnh quẽ hơn nhiều, chắc thiếu đi bóng dáng của Cha mình. (Những đêm thắp đèn, đánh thức con học bài,với những đêm đông Ba luôn cận kề sưởi ấm cho bảy đứa con thơ vào lòng).Tôi biết đó là nỗi niềm bất hạnh lớn đã xảy ra trong đời nhưng cũng đành cam chịu theo dòng thời gian ảo hóa và định luật vô thường đến rồi đi ‘vô khứ vô lai’ mà bất kể ai đang sống trên cõi đời dương thế này đều phải chấp nhận sự sống qua vô lượng kiếp phù sinh. Thế là Mẹ tôi vẫn trầm ngâm lắng nghe tiếng đánh vần 'cà lăm' từng con chữ, sau đó mới hết một bài thơ. ‘Thầy’ thì mất mẹ khi tuổi Thầy còn rất trẻ giống y hệt chúng tôi vậy thôi. Có lẽ đọc những vần thơ ấy xong, tôi mới thấu hiểu được sự cô đơn của Thầy, lúc Thầy mất mẹ và Thầy đã cho tôi cảm nhận được nỗi buồn tri kỷ sinh thành, khi đời mất bớt đi người Cha thân yêu (trong màn sương chiều giăng giăng đầy ắp con đường hôm ấy cả nhà phải chạnh lòng ngậm ngùi xót đau). Từ đó Mẹ tôi mang gióng chạy ngược lên non, quay lưng thức khuya dậy sớm, mong sao con mình đủ bữa, có cái chữ đến trường. Bây chừ lớn lên nhớ lại cái ngày tháng rát da của một gia đình miền biển xa xôi, tôi không thể nào quên nổi hình ảnh Mẹ hiền. Một bà Mẹ chân quê ‘buôn chín bán lưng’ giã gạo nuôi con từng ngày, không lời than vãn thở dài cũng chưa bao giờ để con mình đói rách phải thiệt thòi thua chúng bạn. Mặc dù đến tận hôm nay các con đã lớn khôn, đang có mặt khắp mọi, nẻo đường mưu sinh chông gai và dần lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của mọi người, nhưng đôi mắt hiền hậu của Mẹ lúc nào cũng mỏi mòn vì luôn dõi theo hành trang trên bước đường tha phương của mỗi đứa con yêu. Có lần Mẹ ngồi im lặng, nghẹn ngào trong giọt nước mắt khô, nhắc: thằng ở Cần Thơ, đứa giờ Sài Gòn, đứa tận Mỹ, Canada… Còn lại hai thằng có biết chúng chịu sống chung với tui hôm sớm nữa không? (Nói như vậy không phải Mẹ tự hào bầy con của Bà sải bước đi xa thế đâu)

Ân tình! Thầy Minh Niệm viết: Trong bản chất của tình thương chân thật phải có chất liệu của sự nâng đỡ, của hy sinh, của hiến tặng. Có lẽ vì thế mà mối liên hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái không bao giờ có thể rứt ra được.

Và có một người kể rằng “…Có hôm, tôi không làm xong bổn phận, đến bữa cơm ông phạt tôi ăn cơm lạt. Nghĩa là chỉ ăn cơm không thôi, không có đồ ăn, và phải quay mặt vào tường bưng tô cơm mà ăn để sám hối về sự lười biếng của mình. Tôi vừa thút thít vừa cố nuốt muỗng cơm đầu tiên nhạt thếch. Đến muỗng thứ hai, thì, ô cái gì thế này? Dưới mặt tô cơm trắng là cả một “kho tàng”. Nào thịt kho, nào tôm rim, nào đậu hũ, được chôn giấu và “ngụy trang” cẩn thận. Tôi ngưng khóc, lấm lét vừa ăn vừa thủ tiêu tang vật. Chắc các bạn biết ai là thủ phạm của hành vi mờ ám, thông đồng với tội phạm này rồi. Quả là mẹ tôi yêu tôi, một tình mẫu tử mù quáng”.

Nam Đan còn thốt lên : “ … Giá mà mẹ tôi còn tại thế thì tôi đã có một người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho cái sự đàng hoàng của tôi, tiếc thay! Nhìn lại đời mình, những khi mà tôi đàng hoàng thì chỉ có mình mẹ tôi chứng kiến mà thôi, nay bà đã qua đời thì lấy ai làm chứng bây giờ?”

“Xin có mặt cho người

Bằng tất cả trong tôi

Phút giây này tỉnh thức

Với ân tình chưa vơi”

Như Đức Phật có dạy Có bốn chữ Hiếu trong kinh: tiểu hiếu, đại hiếu, chân hiếu, cận - viễn hiếu. “Hạnh Hiếu tức Hạnh Phật ” Gốc rễ của cách làm người là ta phải biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ chính là trời đất, cha mẹ là Sư trưởng, cha mẹ cũng là chư Phật. Nếu như quý vị không có cha mẹ thì quý vị sẽ không có được thân thể này, mà không có thân thể này thì quý vị sẽ không bao giờ thành Phật. Cho nên quý vị muốn thành Phật thì trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ.

"Dù xây chín đợt phù đồ

Không bằng hiếu thuận Mẹ Cha một ngày”

"Một bên vai cõng Cha, một bên vai cõng Mẹ, như vậy suốt 100 năm, cũng không đủ để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của Mẹ Cha" (Tăng Chi I, 75).

Hoặc "Này các Tỳ kheo, cái này là nhiều hơn, tức là sữa Mẹ các người đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chứ không phải là nước trong bốn biển" (Tương Ưng II, 208). Hiếu thảo với Cha Mẹ có công đức lớn như vậy, lại phù hợp với đạo lý thế gian cũng như với đạo lý nhà Phật. Ở đời Chớ đừng:

"Mẹ nuôi con, như Trời như bể,

Con nuôi Mẹ, con kể từng ngày.”

Được lớn lên trong vòng tay ấm áp của Mẹ và Mẹ tôi từng trải qua cuộc sống không có chỗ dựa. Thế mà Mẹ đã gánh vác che chở cho đàn con nương tựa tới tận bây chừ! Phận làm con khi nghĩ về tình Mẹ thiêng liêng, lấy gì đền trả cho hết công đức sâu nặng như biển rộng rì rào với sóng muôn năm:

"Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời

Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.”

Có một lần, tôi nắm tay một người sư em đi thiền hành, dọc theo con suối nhỏ, nước trong veo, hoa rừng ở đây thơm nức nở. Dòng nước cứ muốn lặn lội cuốn mình về đại dương, hai bên lối đi là một màu xanh thăm thẳm của trà non Bảo Lộc. Đôi chân, có lúc dừng lại để tự thưởng thức món quà Mẹ cho. Thật hạnh phúc biết bao, từng bước, như từng nấc thang đi trên cõi đời mênh mông. Sự tạo hóa... mầu nhiệm chỉ có hơi thở chánh niệm mới nhận ra lòng biết ơn vi diệu ấy thôi; huynh đệ chúng tôi khép mắt để cảm nhận nguồn năng lượng thương yêu từ con tim chảy dài xuống gót chân, có lúc Mẹ muốn chúng tôi đứng thật vững chãi, có lúc mẹ dìu bước bên cạnh những khi giông tố khó khăn, nhưng mẹ chỉ muốn đôi chân tự bước vào đời. Tôi hiểu được Mẹ, tôi còn thấy cả khuôn mặt mẹ hiện về thật rõ mỗi lần mẹ nở nụ cười thắm thiết.

Một hôm trên con phố nhỏ, lác đác hàng ngàn cánh hoa phượng vàng. Tôi chợt nhận ra rằng mẹ là tình yêu, thứ tình yêu ngọt ngào nhất trong đời , chỉ đến một lần bên ta và lòng mẹ mở ra trước mắt tôi.

Chiều nay tóc mẹ phủ bóng tuyết.

Nụ cười mẹ còn trong gương nguyệt.

Cánh hoa thuỷ triều dâng đâu đó.

Mẹ mãi dòng Hậu Giang trôi êm.

Dường như bức thư tình gửi về cho Mẹ mỗi năm trong mùa báo hiếu Vu lan là một lần được minh chứng sự tri ân và sẻ chia vào trái tim biết nói hai tiếng: “Mẹ ơi!” Một lần nữa, thiết nghĩ có lúc Mẹ phải giã từ chia tay em tôi, các anh tôi, chị gái của tôi nên mỗi khi tiếng kinh chiều vang lên là lúc tôi nhận lại tình yêu thương của mẹ biểu hiện như một khung trời hiện hữu tuyệt vời “ mẹ vẫn còn đó, nắng chiều như hơi thở”. Lời tỉnh thức gọi tôi về giữa trang kinh niệm Phật chính là thời gian chúng ta trân quý sự có mặt của Mẹ.  Ý thức nhận ra lẽ thường nhiên của cuộc đời là vô thường, sinh diệt là tiếp nối thì tôi mới hiểu Đức Phật trong lòng tôi. Mỗi ngày giúp tôi tiếp xúc chừng ấy chất liệu thôi là đến một lúc nguồn từ bi sống dậy giữa muôn loài gần gũi bên nhau. Trong phút khoảng lặng buổi sáng, trong lúc ngồi thưởng thức chén trà độc ẩm, múc nước tưới rau, ngắm trăng lên hay bữa cơm chiều dưa muối đạm bạc. Đó là những khi dòng suy thức hiện tại đi ngang qua thì càng Cho ta cảm nhận về chân dung Mẹ, với ý niệm là mình đang có may mắn lớn

“Và diễm phúc cho ta hơn thế nữa.

Có pháp môn, tăng chúng giữa bụi hồng ”

Đã bao kiếp mẹ làm dòng sông lặng

Để chiều về phủ kín ánh tà dương.

Từng hạt nắng mẹ chắt chiu gói lại .

Để đêm về sưởi ấm mái đầu xanh.

Những ngày Vu Lan sau này, có Thiền sư Tuệ Nguyên dạy về tình yêu khi còn có mẹ trong bài thơ “Tình hoa trắng”, lòng tôi càng khắng khít, hiểu hơn về cuộc đời của người mẹ ở cái tuổi thời gian lam lũ, ôm ấp nhiều đắng cay bởi vì con. Qua nhiều cái nhìn, hóa thân của mẹ vào đại dương, trăng ngàn hay một bông hoa ven đồi, giọt sương lam, bờ cát mịn và đôi khi mẹ biến thành trang kinh giữa nghìn trùng vì sao:

“Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng,

Đoá hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng.

Giữa những ngày mưa chang và nắng quái,

Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông”.

Với Mẹ, tôi không bao giờ nghi ngờ điều gì cả, dù điều Mẹ dạy có khác với lời cô giáo dặn (về công thức hóa học để chế tạo ra vũ khí mang đi lấn chiếm đất liền). Bởi vì công thức đó ta sẽ nhanh chóng tìm ra ở mọi cột mốc thời gian nhưng công thức tình thương của mẹ chỉ dành riêng cho ta lúc ta đau ốm, lắng nghe lời vỗ về dạy bảo và tận mắt nhìn mẹ mỉm cười. Đó chính là thứ tài sản quý báu mà bạn không thể nào tìm lại được.

‘Dù bạn có đội lưng lên non, mang mình xuống biển’, dám chắc rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra dù có phép màu hiện hữu… vô vàn kiếp sau.

…“như cuộc đời - không thể thiếu trong con

Nếu có đi một vòng quả đất tròn
người mong con mỏi mòn

chắc không ai ngoài Mẹ

Cái vòng tay mở ra từ tấm bé
cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên”

Thầy còn khuyên chúng ta: “Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"… Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ “phải” đây không phải là luân lý, là bổn phận. “Phải” ở đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa Thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa!

Vu lan về cũng là dịp chúng ta biết sử dụng đôi mắt nhìn mẹ thật rõ ràng, một cách cung kính tràn đầy niềm biết ơn sâu sắc, quỳ xuống dưới chân mẹ, để nói lời thỏ thẻ “con cám ơn mẹ đã sinh ra con”, và đó là lúc tình yêu đạo lý lên ngôi. Tôi muốn chia sẻ thêm với các bạn rằng, điều đó chính là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh cho tình mẹ con luôn gần bên nhau và bạn nên tận hưởng nữa hạnh phúc còn lại giữa cuộc đời càng thêm ý nghĩa. Lấy nguồn cảm hứng, Võ Tá Hân chấp bút mấy dòng thương yêu:

Mẹ cho ta một tình yêu thương, mẹ cho ta một mùi thanh hương, con tim mẹ truyền đạt tất cả, mẹ dạy rằng yêu thương quê hương.

Tình của mẹ vời vợi trời cao, tâm của mẹ như vầng trăng sao, đôi mắt mẹ mặt trời ánh sáng, bàn tay mẹ cứu vớt thương đau.

Mẹ là Phật đại nguyện hóa thân, mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần, mẹ là nước nước nguồn vô tận, cuộc đời mẹ chỉ biết hiến dâng. Con chắp tay chiêm ngưỡng Ơn người, con nhiếp tâm khấn chúc vạn lời, mẹ là Phật là Phật hằng hữu, cho cuộc đời con mãi thắm tươi”.

Khúc ca ấy, ngợi ca lòng mẹ, Ông đã mời mẹ lên một tầm nhìn mới trong chiều sâu của đất trời. Đó là Phật hóa thân, là dòng suối mát róc rách tuôn chảy ở mọi ngóc nghách tâm hồn như Mẹ tôi sẽ sống mãi với trái tim thời gian

BÀI CA VU LAN

Nhớ về Mẹ là một ý niệm thiêng liêng không thể thiếu trong mỗi con người. Dù ai bôn ba công việc nơi đâu nhưng khi nghĩ tới Mẹ như là một giấc mơ diệu kì. Bài Ca Vu Lan, là một khúc hát, để nhớ về công ơn sinh thành trong muôn một.

Trăng khuya về trên biển lớn mênh mông
Con thuyền nhỏ chập chùng ngàn khơi rộng
Mẹ biểu hiện nghìn tay cánh buồm lớn
Tỏa ngát hương lành vạn đóa bình dương.  

Đã bao kiếp mẹ làm dòng sông lặng
Để chiều về phủ kín ánh tà dương
Từng hạt nắng mẹ chắt chiu gói lại
Để đêm về sưởi ấm mái đầu xanh.  

Mẹ là nguồn sống tình thương vô tận
Vạt áo xé đôi bờ vai gầy guộc
Trong cơn nắng mẹ đẫm ướt mồ hôi
Che đậy đời con mỗi tháng năm dài.  

Những ngày rằm tháng bảy vu lan về
Trước mắt mẹ bao bông hồng hiếu thảo
Trăng lên soi sáng khắp chốn đồng quê
Như tình yêu mẹ hát mãi trong con.  

TA TÌM MỘT CÕI RIÊNG

(Ký sự leo đồi Yên Tử)

Vạn trúc xanh reo hò theo kinh kệ

Đường về Yên tử đá nở hoa muôn sắc

Nước thác cao gội rửa bao mê muội

Gió ngàn phương ngát tỏa khắp rừng thiền

Nhớ nước Việt năm xưa dựng cơ đồ

Xây kinh thành trấn ngự bốn non sông

Một thời vang bóng Đức Phật Hòang

Gióng tiếng chuông linh cứu khổ cõi trầm kha

Vua tôi tay cầm tích trượng vung gươm quý

Thả thuyền từ về bến gíac Sân mây

Đắp thảo am quét lá tùng non

Làm động thư gác chân lên vách núi

Chùa Ba Vàng là biển trời sơn khê

Từng ngụm sương kết thành mây ngũ sắc

Phật về chơi dạo cảnh thiêng tự tại

Rải hoa vàng nối tiếp Ánh Đạo Từ

Trúc Lâm ơi, muôn dân đang gọi Người

Cho quê hương mát dạ bớt lầm than

Để đuốc lửa luôn rực cháy sơn hà

Một lần về đây ngắm am thơ khí phách

Buổi hòang hôn khi mây vừa chạm núi

Đặt bàn chân nhẹ bước xuất phiêu trần

Lấy cỏ non che bóng gốc cội tùng

Thăm chùa xưa, Hoa Yên chừ tĩnh mịch

Leo dốc cao khóac áo tranh chống gậy

Cả ba người mỉm cười tỏ chân tâm

Nhìn Đồng Nhãn bước chân xuyên đá cuội

Đò đưa duyên cho kịp ánh dương lên

Rừng thăm thẳm sao tâm mỏng nhẹ

Mồ hôi rơi hóa thành bờ cát mịn

Cho đỉnh thiêng vời vợi tới Ngân hà

Cho khánh đồng vang vọng ngục A Tỳ

Bước chân lên cùng khói hương ngào ngạt

Búp sen hồng hé nở cõi nhiệm màu

Người đang chờ gậy trúc lao xuống biển

Hồn mênh mông níu tấm áo cà sa

Tiếng đại đồng đã chạm đỉnh hư không

Sương mưa Pháp thấm nhuần nơi học địa

Nắng hồng bay quy phục dưới chân đài

Thiền là ngàn năm cứ mãi bước thong dong

Kinh Tâm

Ngày 22 tháng 9 năm 2010

Một ngàn năm Thăng Long

Lời tác giả:

Tôi lớn lên từ làng quê cát trắng, bên dòng phá Tam Giang - biển An Bằng đêm đêm sóng vỗ, cát trắng xóa đi bàn chân nhuốm trần nhiêu khê. Từ đó tôi lớn dần với tuổi thơ sương lạnh rồi lặng lẽ đi tìm tiếng chuông chùa sưởi ấm. Cuộc đời là một đóa hoa xinh, giữa biển đời mênh mông, lần theo bóng nâu sòng chiếc hoàng y của Thầy vào động hoa vàng - thinh không. Bởi lẽ nhân sinh quan là sự nhận thức tương tức sắc không'.Vốn dĩ thiền là khó hiểu, vì có bao giờ ta hiểu hết ta đâu? thuở ấy chân trời sẽ mở cửa... Trang Blog của tôi là tiếng nói từ trái tim và nơi góp nhặt sỏi đá. Tôi yêu chuộng tính hòa bình với tinh thần nhân ái lắng nghe cũng là hướng đi hạnh phúc đích thực của đời "biết nhìn mây" vô thường nói chuyện. Các bạn muốn gặp mùa xuân ư ? hãy đến đây ! chúng ta cùng uống ấm trà tình đạo và ngồi yên chia sẻ nỗi băn khoăn, suy tư, một chút mộc mạc đơn sơ nhưng ý vị... Chốc lát quay về ngọn hải đảo tự thân, tự tâm để nuôi lớn sự bình an vững chãi. Tôi cũng thường yêu cái nắng mùa xuân và chút gió thu dịu mát trong một vườn hoa cổ thụ. Thiên nhiên hoàn vũ cũng đang bảo hộ và làm mới hồn tôi như một thiên đường vắng lặng tuyệt nhiên. Mỗi ngày tôi tập sống thảnh thơi tươi mát, đó là niềm an lạc mà tôi muốn dành tặng cho cuộc đời. Phật, " là bậc Thầy" luôn soi sáng và thắp lên ánh lửa khi mùa đông về, lúc tâm tư bình yên lắng đọng. Vào Ngõ Thiền của tôi các bạn cảm thấy cô đơn lạnh buốt nhưng nó sẽ lưu lại dấu ấn từng bước chân an lạc của bạn. Vì Blog luôn là một không gian ta còn đó cho em. Trong sự sống, mỗi giây phút hiện tại là ta đang có mặt cho người thương và cho cả suối nguồn mưa pháp hư không. Ngày sau Blog sẽ là chiếc cầu nối từng trang: Sống lại thời sử học Lý Trần, văn chương luân thường đạo lý. Các công trình nghiên cứu tâm lý học qua con mắt thiền quán, Duy Thức Học Phật Giáo với Khoa Học, nghệ thuật qua góc nhìn tâm linh và con người. Đặc biệt là lần theo vết nhạn dưới cội tùng dấu chân voi của Thiền sư Nhất Hạnh, Hòa Thượng Thanh Từ, Đức Đạt Lai Lạt Ma và ngài Hư Vân, Thầy tôi, Thượng Tọa Thái Hòa . Như một cỗ xe thời gian vậy:

Tùng non lớp lớp giữa nền trời
Đùa reo với gió chừng thảnh thơi
Từng bước ta đi trên lối cỏ
Muôn ngàn giọt nắng dõi theo chơi.

Kính thưa quýt vị! Từ những ngày đầu sơ khai của Diễn Đàn, Ban Biên tập chúng tôi thầm cảm ơn tới các nhà hảo tâm và bạn hữu tri thức bốn phương. Nay C.L.B VĐPP sẽ sớm cho ra mắt thêm phòng Vấn Đáp - đặt câu hỏi & trả lời do các tân Mc của nhóm Chắp cánh ước mơ phối hợp tọa đàm. Thiết nghĩ đây vừa giống như một phân khoa Tâm Lý Trị Liệu của toàn xã hội với những bí quyết mang lại hạnh phúc còn xây dựng và thấu hiểu lại tâm tư con người hiện đại bây giờ cũng vừa đúng theo quan điểm của ban tham vấn, đàm đạo của chúng tôi là, cứ mở rộng trái tim ra để giúp đời đi, thì ta sẽ chạm được hạt giống hạnh phúc bình an thôi. Vì thể theo yêu cầu của bạn bè khắp nơi gửi về, là đề nghị Câu Lạc Bộ nên mở thêm Phòng thư vấn đáp nên chúng tôi đã lắng nghe, theo dõi trong suốt thời gian qua sẽ cố gắng tạo thêm một không gian mới lạ này. sau ngày 1.5.2010, Anh chị em của chúng tôi sẽ đón nhận những kí ức, những hoài bão, ước mơ và những tâm tình cuộc sống qua địa chỉ và hộp thư

Email: [email protected],

Chúng tôi sẽ cùng nhau tháo gỡ bao lo âu phiền muộn, sầu bi, hạnh phúc lẫn thương đau của bạn theo phương pháp nhân quả chánh niệm, phương thức làm mới, thay đổi những tri giác thường sai lầm và những nhận diện đơn thuần để tìm ra nguồn gốc tục lụy, khổ đau.

Thay mặt ban làm chương trình, chúng tôi vô cùng biết ơn những tấm lòng muốn giải tỏa chuyển hóa năng lượng tập khí từ vô thỉ ấy. Xin được tái ngộ và trao đổi những kiến thức kinh nghiệm hiểu biết, nhưng đôi khi bạn là người sẽ mở cánh cửa tự do của người khác thì sao nhỉ? Hãy đợi đấy ! Ai là người có khả năng xóa tan bầu không khí mây đen ảm đạm kia. Chúng ta hãy cùng thức dậy đi thôi để mỗi ngày chợt nhìn ra nhau, thấy được hình ảnh người xưa trong chiều sâu và nuôi dưỡng tâm ban đầu thật đẹp, thật tươi mát hiền lành bạn nhé! Chúc bạn có cuộc sống bình yên, thảnh thơi, thành đạt chí nguyện…!

Để tôn vinh những giá trị tinh thần và nguồn cội tâm linh tháp sáng trên mọi nẻo đường. Năm nay là năm thứ 2 của Vẻ Đẹp Phật Pháp chào ra mắt Ban làm chương trình thiện nguyện vì:

Vui thay Đức Phật ra đời.

Vui thay chánh pháp xiển dương.

Vui thay Tăng Già hòa hiệp.

Vui thay bốn chúng đồng tu.

Thế cho nên lần đây là một sự cố gắng hội tụ kết nối tình thâm giữa đạo với đời để tạo nên một ngôi nhà chánh niệm thương yêu. Nay trân trọng giới thiệu sự có mặt của những bồ đề tâm ban đầu dành cho vườn tuệ uyển Vẻ Đẹp Phật Pháp (VĐPP) ngày càng nhiều hoa trái hiểu biết và có nhiều nguồn sinh khí mới tỏa khắp nhân sinh, cũng như ngọn gió xuân hiền hòa ươm mầm hạt giống trí tuệ.

Đạo Bụt đã trải qua hơn 26 thế kỉ bên dòng sông Ni Liên Thuyền huyền bí, Ngài đã mở ra con đường hiểu khổ, bồi đắp hạnh phúc giác ngộ và đem lại ánh sáng tuệ giác ở khắp thế gian bằng sự hiện hữu với tinh thần từ bi đối thoại, khoan dung, vô úy.

Kính thưa chư tôn thiền đức và quý cư sĩ áo lam “hướng đi của TĂNG THÂN SINH THỨC sẽ đồng hành cùng Vẻ Đẹp Phật Pháp”. Như âm hưởng bốn mùa sẻ chia, hãy cùng chung tay vẽ thành con đường mặt trời hồng tỉnh thức ngay tại quê hương biển hồ này. Thiền sư đã nói với tất cả tâm huyết bao dung rằng:

‘Đây là Tịnh độ

Tịnh độ là đây,

thở vào hoa nở,

thở ra trúc lay,

Tâm không ràng buộc

Tiêu dao tháng ngày’

Chính vì vậy ngày hôm nay chúng ta tay trong tay, tâm bên nhau cùng góp nhặt những cánh hoa ưu đàm năm xưa và bao chiếc lá trúc của đỉnh Linh Sơn một thời mà từ phụ chép kinh. Ngay giờ phút được hân hoan mừng Bụt ra đời, ngay giây phút toàn thể Vẻ Đẹp Phật Pháp ( VĐPP) kính cẩn đón nhận những trái tim gắn bó, những không gian thảnh thơi và những gia tài mà Bụt đã để lại bên bờ trung đạo pháp ấn – tứ đế - nhân duyên:

Qua bao nhiêu năm thao thức nuôi dưỡng chí nguyện vào đời theo tinh thần Phật dạy. Nay cây trái trong vườn tâm đủ chín, để cùng gieo rắc những hạt giống từ bi đi vào đời sống cho nên ước nguyện nhập lưu của Câu Lạc Bộ Vẻ Đẹp Phật Pháp là một bước chân thảnh thơi giữa dòng đời gió trỗi, ngày càng mang đến cho nhân gian những hạnh phúc nho nhỏ và sẽ cùng nhau nỗ lực tinh tấn học hỏi về cuộc đời như lời ơn trên hay trao đổi sự thực tập Thiền Học.

Thưa các anh chị, các bạn thân mến ! để nhận ra tự tính của nước thì rất dễ, đã được các nhà phân tích học tìm thấy phương thức hóa học của hạt nước nhưng với nhà Phật, Trịnh Công Sơn, ông đã suốt cuộc đời lặn lội đi tìm giải pháp hạt bụi mỏng manh về bản chất có không, hoại diệt của bản tánh như thật “ hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai về làm cát bụi ”. Vì thế tới với CLB VĐPP chúng ta được tháo gỡ các tâm hành khổ đau, mệt mỏi, lo lắng, một thoáng nhìn lại mình. Hơn thế nữa chúng ta cùng chiêm nghiệm khoảng lặng của thời gian, của không gian trước cái thấy “ Nhìn những mùa thu đi, đã mấy lần thu sang ”. Giữa bầu trời thoáng không, tuy không xây dựng bởi không khí địa vị vật chất giàu có mà làm ra những chất liệu yêu thương tha thứ bao dung góp một phần bé nhỏ vào nền nhân bản hòa bình trên thế giới.

Bhikkhu Thích Pháp Bảo