9. Kinh chúng tập

9. KINH CHÚNG TẬP

[49b27]Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hành ở Mạt-la[1] cùng với một nghìn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, rồi đi dần đến thành Ba-bà,[2] vườn Am-bà của Xà-đầu.[3]

Bấy giờ, vào ngày mười lăm lúc trăng tròn[4], Thế Tôn ngồi ở giữa khoảng đất trống với các Tỳ-kheo vây quanh trước sau. Thế tôn đêm ấy sau khi đã thuyết pháp nhiều, bèn nói với Xá-lợi-phất :

“Các Tỳ-kheo bốn phương tụ tập về, thảy đều siêng năng, dẹp bỏ ngủ nghỉ. Nhưng Ta đau lưng, muốn nghỉ một chút. Ngươi nay hãy thuyết pháp cho các Tỳ-kheo.”

Xá-lợi-phất đáp:

“Kính vâng. Con sẽ làm theo Thánh giáo.”

Thế Tôn trải tăng-già-lê bốn lớp[5] rồi nằm nghiêng phía hữu như con sư tử, hai chân chồng lên nhau.

Khi ấy Xá-lợi-phất nói với các Tỳ-kheo:

“Nay trong thành Ba-bà này có Ni-kiền Tử[6] mạng chung chưa bao lâu, nhưng các đệ tử chia ra làm hai bộ, luôn luôn tranh chấp nhau, tỳm sở trường và sở đoản của nhau, mắng nhiếc nhau, thị phi với nhau rằng: ‘Ta biết pháp này. Ngươi không biết pháp này. Ngươi theo tà kiến. Ta theo chánh kiến. Ngươi nói năng hỗn loạn, chẳng có trước sau, tự cho điều mình nói là chân chính. Lập ngôn của ta thắng. Lập ngôn của ngươi bại. Nay ta làm chủ cuộc đàm luận, ngươi có điều muốn hỏi thì đến hỏi ta.’

“Này các Tỳ-kheo, lúc bấy giờ nhân dân trong nước những ai theo Ni-kiền Tử đều chán ghét những tiếng cãi vã của bọn này. Đó là vì pháp ấy không chân chính. Pháp không chân chính thì không có con đường xuất ly[7]. Ví như ngôi tháp đã đổ thì không còn tô trét gì[8] được nữa. Đó không phải là điều mà đấng Chánh giác[9] đã dạy.

“Các Tỳ-kheo, duy chỉ Pháp vô thượng tôn của đức Thích-ca ta là chân chánh mới có thể có con đường xuất ly. Cũng như ngôi tháp mới thì có thể được dễ dàng trang hoàng. Vì đó là điều mà đấng Chánh giác giảng dạy.

“Các Tỳ-kheo, hôm nay chúng ta cần phải kết tập pháp luật để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP MỘT

“Như Lai nói một Chánh pháp: Hết thảy chúng sanh đều y thức ăn mà tồn tại.

“Như Lai lại nói một Chánh pháp: tất cả chúng sanh đều y các hành mà tồn tại.

“Đó là một pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP HAI

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói hai Chánh pháp: một là danh, hai là sắc.

“Lại có hai pháp: một là si, hai là ái[10].

“Lại có hai pháp: hữu kiến và vô kiến.[11]

“Lại có hai pháp: không biết tàm và không biết quí.

“Lại có hai pháp: có tàm và có quí.

“Lại có hai pháp: tận trí và vô sanh trí.

“Lại có hai pháp, hai nhân hai duyên sanh ra ái dục: một, sắc tịnh diệu; hai, không tư duy.

“Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi sân nhuế: thù ghét và không tư duy.

[50a] “Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi tà kiến: nghe từ người khác và tà tư duy.

“Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh nơi chánh kiến: nghe từ người khác và chánh tư duy.

“Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên: giải thoát hữu học và giải thoát vô học.

“Lại có hai pháp hai nhân, hai duyên: hữu vi giới và vô vi giới.

“Các Tỳ-kheo, đó là hai pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP BA

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói ba pháp, tức là ba bất thiện căn: tham dục, sân nhuế và ngu si.

“Lại có ba pháp, tức là ba thiện căn: không tham, không nhuế và không si.

“Lại có ba pháp, tức là ba bất thiện hành: thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện và ý hành bất thiện.

“Lại có ba pháp, tức là ba bất thiện hành: bất thiện hành của thân, bất thiện hành của khẩu và bất thiện hành của ý.

“Lại nữa, có ba pháp, tức là ba ác hành: ác hành của thân, ác hành của khẩu và ác hành của ý.

“Lại có ba pháp, tức là ba thiện hành[12]: thiện hành của thân, thiện hành của khẩu và thiện hành của ý.

“Lại có ba pháp, tức là ba tưởng bất thiện[13]: dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng.

“Lại có ba pháp tức là ba tưởng thiện[14]: vô dục tưởng, vô sân tưởng và vô hại tưởng.

“Lại có ba pháp tức là ba tư bất thiện[15]: dục tư, nhuế tư và hại tư

“Lại có ba pháp tức là ba tư thiện: vô dục tư, vô nhuế tư và vô hại tư.

“Lại có ba loại phước nghiệp: nghiệp bố thí, nghiệp bình đẳng và nghiệp tư duy.[16]

“Lại có ba pháp, tức là ba thọ: lạc thọ, khổ thọ và phi khổ phi lạc thọ.

“Lại có ba pháp tức là ba ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

“Lại có ba pháp tức là ba hữu lậu: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

“Lại có ba pháp, tức là ba thứ lửa: lửa dục, lửa sân và lửa si.

“Lại có ba pháp tức là ba cầu[17]: dục cầu, hữu cầu và phạm hạnh cầu.

“Lại có ba pháp tức là ba tăng thịnh: ngã tăng thịnh, thế tăng thịnh và pháp tăng thịnh.[18]

“Lại có ba pháp tức là ba giới: dục giới, sân giới và hại giới[19].

“Lại có ba pháp tức là ba giới: xuất ly giới, vô sân giới và vô hại giới.

“Lại có ba pháp tức là ba giới: sắc giới, vô sắc giới, tận giới[20].

“Lại có ba pháp tức là ba tụ: giới tụ, định tụ và huệ tụ.

“Lại có ba pháp tức là ba giới: tăng thượng giới (cấm), tăng thượng tâm, tăng thịnh tuệ.[21]

“Lái có ba pháp tức là ba tam-muội: không tam-muội, vô nguyện tam-muội, và vô tướng tam-muội.[22]

“Lại có ba pháp tức là ba tướng: chỉ tức tướng, tinh cần tướng, và xả tướng.

“Lại có ba pháp tức là ba minh: tự thức túc mạng trí minh, thiên nhãn trí minh, và lậu tận trí minh.

“Lại có ba pháp tức là ba biến hóa: thần túc biến hóa, biết tâm người mà tùy ý thuyết pháp và giáo giới.[23]

“Lại có ba pháp tức là ba căn bổn dục sinh[24]: 1. Do hiện dục[25] hiện tiền sinh trời người; 2.  do hóa dục[26] sinh trời Hóa tự tai; 2. do tha hóa dục[27] sinh trời Tha Hóa Tự Tại.

“Lại có ba pháp tức là ba lạc sinh[28]: 1. Chúng sanh tự nhiên thành biện sanh hoan hỷ tâm[29] như trời Phạm chúng[30] vào lúc mới sinh. 2. Có chúng sanh lấy niệm làm an vui[31] tự xướng ‘lành thay’ như trời Quang Âm. 3. Lạc do được chỉ tức[32] như trời Biến Tịnh.

“Lại có ba pháp tức là ba khổ: dục khổ, hành khổ, và biến dịch khổ.[33]

“Lại có ba pháp tức là ba căn: vị tri dục tri căn, tri căn, tri dĩ căn.[34]

“Lại có ba pháp tức là ba trụ: Hiền Thánh trụ, thiên trụ, phạm trụ.[35]

“Lại có ba pháp tức là ba sự cử tội[36]: cử tội do thấy, cử tội do nghe và cử tội do nghi.

“Lại có ba pháp tức là ba ngôn y[37]: Quá khứ có sự như thế, có ngôn luận như thế. Vị lai có sự như thế, có ngôn luận như thế. Hiện tại có sự như thế có ngôn luận như thế.

“Lại có ba pháp tức là ba tụ[38]: chánh định tụ, tà định tụ, và bất định tụ.

“Lại có ba pháp tức là ba ưu: thân ưu, khẩu ưu, và ý ưu.

“Lại có ba pháp, tức ba trưởng lão: trưởng lão do tuổi tác, trưởng lão do pháp và trưởng lão do tác thành[39].

“Lại có ba pháp tức là ba con mắt: con mắt thịt, con mắt trời và con mắt tuệ.

“Các Tỳ-kheo, đó là ba pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP BỐN

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói bốn pháp, tức là bốn ác hành do miệng: 1. nói dối; 2. hai lưỡi; 3. ác khẩu; 4. ỷ ngữ.[40]

“Lại có bốn pháp, tức là bốn thiện hành của miệng: 1. nói sự thật; 2. nói dịu dàng; 3. không ỷ ngữ; 4. không hai lưỡi.

“Lại có bốn pháp tức là bốn phi thánh ngôn:[41] 1. không thấy nói thấy; 2. không nghe nói nghe; 3. không cảm thấy nói cảm thấy; 4. không biết nói biết.[42]

“Lại có bốn pháp tức là bốn thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. hay nói hay; [50c]4. biết nói biết.

“Lại có bốn pháp tức là bốn loại thực phẩm: 1. đoạn thực[43]; 2. xúc thực; 3. ý tư thực[44]; 4. thức thực.

“Lại có bốn pháp tức là bốn pháp thọ[45]: 1. khổ hành trong hiện tại thọ khổ báo về sau; 2. khổ hành hiện tại thọ lạc báo về sau; 3. lạc hành hiện tại thọ khổ báo về sau; 4. lạc hành hiện tại thọ lạc báo về sau.

“Lại có bốn pháp tức là bốn thủ[46]: 1. dục thủ, 2. ngã thủ, 3. giới cấm thủ, 4. kiến thủ.

“Lại có bốn pháp tức là bốn phược[47]: 1. thân phược bởi dục tham, 2. thân phược bởi sân nhuế, 3. thân phược bởi giới đạo, 4. thân phược bởi ngã kiến.

“Lại có bốn pháp, tức bốn gai nhọn: 1. gai nhọn dục; 2. gai nhọn nhuế; 3. gai nhọn kiến; 4. gai nhọn mạn.

“Lại có bốn pháp tức là bốn sanh: 1. sanh từ trứng, 2. sanh từ thai, 3. sanh do thấp, 4. sanh do biến hóa.

“Lại có bốn pháp tức bốn niệm xứ: 1. Ở đây, Tỳ-kheo quán thân trên nội thân tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên ngoại thân tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời; quán thân trên nội ngoại thân tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. 2. Quán thọ, 3. Quán tâm, 4. Quán pháp, cũng vậy.

“Lại có bốn pháp tức là bốn chánh cần[48]: 1. Ở đây Tỳ-kheo ác pháp chưa khởi, phương tiện khiến không khởi, 2. Ác pháp đã khởi phương tiện khiến diệt, 3. Thiện pháp chưa khởi pháp, phương tiện khiến khởi, 4. Thiện pháp đã khởi phương tiện khiến tăng trưởng.

“Lại có bốn pháp tức là bốn thần túc: 1. Ở đây Tỳ-kheo tư duy dục định đoạn[49] hành thành tựu, 2. Tinh tấn định, 3. Tâm định, 4. Tư duy định cũng vậy.

“Lại có bốn pháp tức là bốn thiền: 1. Ở đây, Tỳ-kheo trừ dục, ác bất thiện pháp, có tầm có tứ, hỷ lạc phát sanh do viễn ly, nhập sơ thiền, 2. Diệt tầm và tứ, nội tịnh,[50] nhất tâm, không tầm không tứ, có hỷ lạc do định sanh, nhập đệ nhị thiền; 3. Lìa hỷ, an trú xả chuyên niệm không loạn, tự thân cảm giác lạc, điều mà Hiền Thánh nói là xả, an trú lạc có niệm, nhập đệ tam thiền; 4. Xả bỏ khổ và lạc, trừ diệt ưu và hỷ từ trước, không khổ, không lạc, xả và niệm thanh tịnh, nhập đệ tứ thiền.

“Lại có bốn pháp tức là bốn phạm trụ[51]: từ, bi, hỷ và xả.

“Lại có bốn pháp tức là bốn vô sắc định: 1. Ở đây, Tỳ-kheo siêu việt hết thảy sắc tưởng, sân tưởng đã diệt từ trước, không niệm các tưởng khác, tư duy vô lượng không vô biên xứ; 2. Sau khi xả không vô biên xứ, nhập thức vô biên xứ; 3. Sau khi xả thức vô biên xứ nhập vô hữu xứ; 4. Sau khi xả vô hữu xứ nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ.

“Lại có bốn pháp tức là bốn pháp tích[52]: Pháp tích không tham, pháp tích không sân, pháp tích chánh niệm và [51a] pháp tích chánh định.

“Lại có bốn pháp tức là bốn Thánh chủng[53]: 1. Ở đây, Tỳ-kheo tri túc về y thực, được thứ tốt không mừng, được cái xấu không buồn; không nhiễm không trước, biết điều cấm kỵ, biết con đường xuất yếu; ở trong pháp này tinh cần không biếng nhác; thành tựu sự ấy không khuyết không giảm và cũng dạy người thành tựu sự ấy. Đó là thứ nhất; tri túc, an trú trong sự truyền thừa của Hiền Thánh, từ xưa đến nay chưa thường não loạn. Chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời và Người không ai có thể chê trách. 2. Thức ăn. 3. Vật dụng nằm ngồi, 4. Thuốc thang trị bệnh, tất cả đều cũng tri túc như thế.

“Lại có bốn pháp tức là bốn nhiếp sự: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

“Lại có bốn pháp, tức là bốn chi của Tu-đà-hoàn[54]: Tỳ-kheo thành tựu tín tâm bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng và đối với Giới.

“Lại có bốn pháp tức là bốn thọ chứng[55]: 1. Thọ chứng do thấy sắc;[56] 2. thọ chứng do thân hoại diệt;[57] 3. thọ chứng do nhớ về túc mạng;[58] 4. thọ chứng do biết hữu lậu đã bị diệt tận.[59]

“Lại có bốn pháp tức là bốn thông hành[60]: khổ đắc chậm, khổ đắc nhanh, lạc đắc chậm và lạc đắc nhanh.

“Lại có bốn pháp tức là bốn Thánh đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ xuất yếu thánh đế.

“Lại có bốn pháp tức là bốn Sa-môn quả: Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả.

“Lại có bốn pháp tức là bốn xứ: thật xứ, thí xứ, trí xứ, chỉ tức xứ.[61]

“Lại có bốn pháp tức là bốn trí: pháp trí, vị tri trí, đẳng trí, và tha tâm trí.[62]

“Lại có bốn pháp tức là bốn biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết biện tài.

“Lại có bốn pháp tức là bốn trú xứ của thức: sắc là trú xứ của thức, duyên sắc mà trú, sắc và ái cùng tăng trưởng. Thọ, tưởng, hành, cũng đều như vậy.

“Lại có bốn pháp tức là bốn ách[63]: dục là ách, hữu là ách, kiến là ách, vô minh là ách.

“Lại có bốn pháp tức là bốn vô ách: vô dục ách, vô hữu ách, vô kiến ách, vô vô minh ách.[64]

“Lại có bốn pháp tức là bốn tịnh: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, và độ nghi tịnh.

“Lại nữa có bốn pháp tức là bốn sự biết: đáng thọ biết thọ, đáng hành biết hành, đáng lạc biết lạc, đáng xả biết xả.

“Lại có bốn pháp tức là bốn oai nghi: đáng đi biết đi, đáng đứng biết đứng, đáng ngồi biết ngồi, đáng nằm biết nằm.

“Lại có bốn pháp tức là bốn tư duy: tư duy ít, tư duy rộng, tư duy vô lượng, không tư duy gì cả.[65]

“Lại có [51ab] bốn pháp tức là bốn ký luận[66]: quyết định ký luận, phân biệt ký luận, cật vấn ký luận, chỉ trú ký luận.

“Lại có bốn tức là bốn pháp không cần phòng hộ của Phật: 1. Như Lai thân hành thanh tịnh, không khiếm khuyết, không rò rỉ; có thể tự phòng hộ; 2. khẩu hành thanh tịnh; 3. ý hành thanh tịnh; 4. mạng hành thanh tịnh cũng đều như vậy.

“Các Tỳ-kheo, đó là bốn pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP NĂM

“Như Lai nói năm Chánh pháp, tức là năm xứ[67]: mắt, sắc; tai, tiếng; mũi, hương; lưỡi, vị; thân, xúc.

“Lại có năm pháp tức là năm thủ uẩn[68]: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Lại có năm pháp, tức là năm cái:[69] tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo cử cái, nghi cái.

“Lại có năm pháp tức là năm hạ phần kết: thân kiến, giới đạo[70], nghi, tham dục và sân nhuế.

“Lại có năm pháp tức là năm thuận thượng phần kết: sắc ái, vô sắc ái, vô minh, mạn, trạo hối.[71]

“Lại có năm pháp tức là năm căn: tín, tấn, niệm, định, huệ.

“Lại có năm pháp tức là năm lực: tín, tấn, niệm, định, huệ.

“Lại có năm pháp tức là năm thắng chi[72]: 1. Tỳ-kheo tin Phật, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu thành tựu. 2. Tỳ-kheo không bịnh, thân thường an ổn. 3. Chất trực, không dua xiểm. Được như thế thì Như Lai chỉ bày con đường đi đến Niết-bàn.[73] 4. Tự chuyên tâm không để thác loạn. Những điều đã tụng đọc từ trước ghi nhớ không quên. 5. Khéo quán sát sự sinh và diệt của các pháp bằng sự thực hiện của Hiền Thánh[74] mà diệt tận gốc rễ của khổ.

“Lại có năm pháp tức là năm sự phát ngôn[75]: phát phi thời, phát hư dối, phát phi nghĩa, phát hư ngôn[76], phát không từ tâm.

“Lại có năm pháp tức là năm thiện phát: phát đúng thời, phát sự thật, phát có nghĩa, phát lời nói hòa, phát khởi từ tâm.

“Lại có năm pháp tức là năm sự tật đố: tật đố về trú xứ, tật đố về thí chủ, tật đố về lợi dưỡng, tật đố về sắc, tật đố về pháp.

“Lại có năm pháp tức là năm thú hướng giải thoát: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng hết thảy các hành vô thường, tưởng hết thảy thế gian không đáng vui, tưởng về sự chết.[77]

“Lại có năm pháp tức là năm xuất ly giới: 1. Tỳ-kheo đối với dục không hoan hỷ, bất động, cũng không thân cận, mà chỉ niệm sự thoát ly, hoan hỷ nơi sự viễn ly, thân cận không giải đãi, tâm mềm mại, xuất ly, ly dục. Vị ấy đối với [51b] các lậu triền do nhân dục mà khởi, cũng dứt sạch, xả ly diệt trừ mà được giải thoát. Đó gọi là dục thoát ly. 2. Sân nhuế xuất ly, 3. Tật đố xuất ly, 4. Sắc xuất ly, 5. Thân kiến xuất ly cũng vậy.

“Lại có năm pháp tức năm hỷ giải thoát nhập[78]. Nếu Tỳ-kheo tinh cần không biếng nhác, ưa ở nơi nhàn tĩnh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thoát thì được giải thoát, chưa an thì được an. Những gì là năm? 1. Ở đây Tỳ-kheo nghe Như Lai thuyết pháp, hoặc nghe đồng phạm hạnh thuyết pháp, hoặc nghe sư trưởng thuyết pháp, tư duy, quán sát, phân biệt pháp nghĩa, tâm đắc hoan hỷ. Sau khi được hoan hỷ thì được pháp ái, sau khi được pháp ái thân tâm an ổn, sau khi thân tâm an ổn thì chứng đắc thiền định. Đắc thiền định rồi, đắc như thật kiến. Đó là giải thoát xứ thứ nhất. 2. Ở đây, Tỳ-kheo sau khi nghe pháp hoan hỷ. 3. Thọ trì đọc tụng cũng lại hoan hỷ. 4. Thuyết cho người khác cũng lại hoan hỷ. 5. Tư duy phân biệt cũng lại hoan hỷ, ở nơi pháp mà đắc định cũng như vậy.

“Lại có năm pháp tức là năm hạng người[79]: trung bát-niết-bàn, sanh bát-niết-bàn,[80] vô hành bát-niết-bàn, hữu hành bát-niết-bàn, thượng lưu sắc cứu cánh.[81]

“Các Tỳ-kheo, đó là năm Chánh pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP SÁU

“Lại nữa, các Tỳ-kheo, Như Lai nói sáu Chánh pháp tức là sáu nội xứ[82]: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

“Lại có sáu pháp tức là sáu ngoại xứ: sắc, tiếng, hương, vị, xúc, pháp.

“Lại có sáu pháp tức là sáu thức thân: nhãn thức thân, nhĩ thức thân, tỷ thức thân, thiệt thức thân, thân thức thân, ý thức thân.

“Lại nữa có sáu pháp tức là sáu xúc thân: nhãn xúc thân, nhĩ xúc thân, tỷ xúc thân, thiệt xúc thân, thân xúc thân, ý xúc thân.

“Lại có sáu pháp tức là sáu thọ thân: nhãn thọ thân, nhĩ thọ thân, tỷ thọ thân, thiệt thọ thân, thân thọ thân, ý thọ thân.

“Lại có sáu pháp tức là sáu tưởng thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng thân.

“Lại có sáu pháp tức sáu tư thân: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tư thân.

“Lại có sáu pháp tức là sáu ái thân:[83] sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ái thân.

“Lại có sáu pháp tức là gốc rễ tranh cãi[84]: 1. Nếu Tỳ-kheo ưa sân không bỏ,[85] không kính Như Lai, cũng không kính Pháp, cũng không kính Chúng tăng, ở nơi giới có lọt, có rĩ, nhiễm ô bất tịnh, ở trong Chúng ưa gây tranh cãi mà ai cũng ghét, tranh chấp nhiễu loạn, trời và người bất an. Các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự mình [52a] quán sát bên trong, giả sử có sự sân hận như kẻ nhiễu loạn kia, hãy tập hợp hòa hợp chúng, rộng đặt phương tiện, nhỗ sạch gốc rễ tranh cãi ấy. Các ngươi lại hãy chuyên niệm, tự quán sát. Nếu kết hận đã diệt lại hãy thêm phương tiện ngăn cản tâm ấy không để sinh khởi trở lại. 2. Các Tỳ-kheo ngoan cố không chịu nghe.[86] 3. Xan tham, tật đố.[87] 4. Xảo ngụy, hư vọng.[88] 5. Cố chấp kiến giải của mình không chịu bỏ.[89] 6. Nghe lầm nơi tà kiến cùng với biên kiến[90] cũng như vậy.

“Lại có sáu pháp tức là sáu giới: địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, không giới, thức giới.

“Lại có sáu pháp tức là sáu sát hành[91]: con mắt sát hành sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý đối với pháp.

“Lại có sáu pháp tức là sáu xuất ly giới[92]: 1. Nếu Tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi tu từ tâm[93] nhưng lại tâm sanh sân nhuế.’ Các Tỳ-kheo khác bảo: ‘Ngươi chớ nói như vậy. Chớ báng bổ Như Lai. Như Lai không nói như vậy. Giả sử tu từ giải thoát mà sanh sân nhuế tưởng, không có trường hợp ấy. Phật nói: trừ sân nhuế rồi sau mới đắc từ.’[94] 2. Nếu Tỳ-kheo nói: ‘Tôi thực hành bi giải thoát nhưng tâm sanh tật đố.’[95] 3. ‘Thực hành hỷ giải thoát nhưng sanh tâm ưu não.’[96] 4. ‘Thực hành xả giải thoát nhưng sanh tâm yêu ghét.’[97] 5 ‘Thực hành vô ngã nhưng sanh tâm hồ nghi.’[98] 6. ‘Thực hành vô tưởng[99] nhưng sanh tâm loạn tưởng;’[100] cũng giống như vậy.

“Lại có sáu pháp tức là sáu vô thượng: kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi dưỡng vô thượng, giới vô thượng, cung kính vô thượng, ức niệm vô thượng.[101]

“Lại có sáu pháp tức là sáu tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên.

“Các Tỳ-kheo, đó là sáu pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP BẢY

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói bảy Chánh pháp, tức là bảy phi pháp: không có tín, không có tàm, không có quí, ít học hỏi, biếng nhác, hay quên, vô trí.

“Lại có bảy pháp tức là bảy Chánh pháp: có tín, có tàm, có qúi, đa văn. tinh tấn, tổng trì, đa trí.

“Lại có bảy pháp tức là bảy thức trụ: 1. Hoặc có chúng sanh với thân sai biệt, với tưởng sai biệt, tức là Chư Thiên và loài người. [102] Đó là trú xứ thứ nhất của thức. 2. Hoặc có chúng sanh với nhiều thân khác nhau nhưng chỉ một tưởng, đó là trời Phạm chúng,[103] tối sơ mới thọ sinh. Đó là trú xứ thứ hai của thức. 3. Hoặc có chúng sanh với một thân nhưng nhiều tưởng sai biệt tức là trời Quang Âm. Đó là trú xứ thứ ba của thức. 4. Hoặc có chúng sanh với một thân và một tưởng đó là trời Biến Tịnh. Đó là trú xứ thứ tư của thức. 5. Hoặc có chúng sanh trú ở không vô biên xứ.[104] 6. Trú ở thức vô biên xứ.[105] 7. Trú ở vô hữu xứ.[106]

“Lại có bảy pháp, [52b] tức là bảy tinh cần: 1. Tỳ-kheo tinh cần nơi sự thực hành giới. 2. Tinh cần diệt tham dục. 3. Tinh cần phá tà kiến. 4. Tinh cần nơi đa văn. 5. Tinh cần nơi tinh tấn. 6. Tinh cần nơi chánh niệm. 7. Tinh cần nơi thiền định.

“Lại có bảy pháp tức là bảy tưởng: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng về hết thảy thế gian không đáng ưa thích, tưởng về sự chết, tưởng về vô thường, tưởng về vô thường là khổ, tưởng về khổ là vô ngã.

“Lại có bảy pháp tức là bảy tam-muội cụ[107]: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.

“Lại có bảy pháp tức là bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.

“Các Tỳ-kheo, đó là bảy pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP TÁM

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói tám Chánh pháp tức là tám pháp ở đời: đắc, thất, vinh, nhục, khen, chê, lạc và khổ.

“Lại có tám pháp tức là tám giải thoát: 1. Sắc quán sắc giải thoát.[108] 2. Nội không sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát. 3. Tịnh giải thoát, 4. Vượt quá sắc tưởng, diệt hữu đối[109] tưởng, an trú hư không vô biên xứ giải thoát.[110] 5. Vượt hư không vô biên xứ an trú hư không vô biên xứ giải thoát.[111] 6. Vượt thức vô biên xứ an trú vô hữu xứ giải thoát, vượt vô sở hữu xứ an trú phi phi tưởng xứ giải thoát. 8. Vượt phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú diệt tận định giải thoát.

“Lại có tám pháp tức là tám thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

“Lại có tám pháp tức tám hạng người: Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả; A-la-hán hướng, A-la-hán quả.

“Các Tỳ-kheo, đó là tám pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đông cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP CHÍN

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói chín Chánh pháp, tức là chín chúng sanh cư: 1. Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là Chư Thiên và loài người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh. 2. Lại có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm chúng lúc mới sanh thời kiép sơ. Đó là cư trú thứ hai của chúng sinh. 3. Lại có chúng sanh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời Quang Âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sanh. 4. Lại có chúng sanh với một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến Tịnh. Đó là cư trú thứ tư của chúng sanh. 5. Lại có chúng sanh không có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô tưởng. Đó là cư trú thứ năm của chúng sanh. [52c] 6. Lại có chúng sanh an trú hư không vô biên xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sanh. 7. Lại có chúng sanh an trú thức vô biên xứ. Đó là cư trú thứ bảy của chúng sanh. 8. Lại có chúng sanh an trú vô sở hữu xứ. Đó là cư trú thứ tám của chúng sanh. 9. Lại có chúng sanh an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là cư trú thứ chín của chúng sanh.[112]

“Các Tỳ-kheo, đó là chín pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.

 

PHÁP MƯỜI

“Các Tỳ-kheo, Như Lai nói mười Chánh pháp, tức là mười pháp vô học: vô học chánh kiến, vô học chánh tư duy, vô học chánh ngữ, vô học chánh nghiệp, vô học chánh mạng, vô học chánh niệm, vô học chánh tinh tấn, vô học chánh định, vô học chánh trí, vô học chánh giải thoát.

“Các Tỳ-kheo, đó là mười pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài, làm lợi ích cho số đông, cho Chư Thiên và nhân loại được an lạc.”

Bấy giờ, Thế Tôn ấn khả những điều Xá-lợi-phất đã nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Xá-lợi-phất đã nói, hoan hỷ phụng hành.[113]

 


*  佛說長阿含第二分[06]眾集經第五

[1] Mạt-la 末羅. Pl.: Malla. No 1536: Lực sỹ sanh xứ 力士生處.

[2] Ba-bà thành 波婆城. No. 1356: Ba-bà ấp 波婆邑. Pl.: Pāva.

[3] Xà-đầu Am-bà viên 闍頭菴婆園. No. 1356: rừng Chiết-lộ-ca 折路迦
林. D 33: Pāvāyaṃ viharati Cundassa kammāraputtassa ambavane, du hành Pāva, trong rừng xoài của thợ rèn Cunda.  

[4] No. 1356, Phật được những người Lực sỹ mời đến ở ngôi đền mới dựng là Ôn-bạt- nặc-ca 嗢跋諾迦舊制多. D 33, duyên khởi cũng vậy, hội trường tên là Ubbhataka. Tên gọi này liên hệ đến từ uposatha, chỉ ngày trai giới tức ngày 15, có thể giải thích sự khác biệt trong bản Hán trên.

[5] Xem cht. 115 No 1(2)

[6] No 12: Ni-kiền-đà Nhạ-đề Tử 尼乾陀惹提子.

[7] Hán: vô do xuất yếu 無 由 出 要; D 33: aniyyānike, không có khả năng hướng dẫn.

[8] Để bản: bất phục khả hủ 不可復圬. TNM: (…) trị 治. Nghi là (…) y 依.Xem đoạn sau, kinh 11 “Thanh tịnh” (h. 73a19). Cf. No 26(196, 753b09):băng hoại vô trụ vô sở y hỗ崩壞無柱無所依怙. Cf. D 33: bhinnathūpe appaṭisaraṇe: tháp đã đổ, không thể nương tựa.

[9] Nguyên Hán: Tam-da-tam-phật 三耶三佛; Pl.: sammāsambuddha.

[10] Hán: si 痴, ái 愛; No. 1536: vô minh 無 明 và hữu ái 有愛. Pl.: avijjā ca bhavataṇhā ca

[11] Hữu kiến vô kiến 有見無見, Pl.: bhava-diṭṭhi, vibhavadiṭṭhi.

[12] No 1536: ba diệu hành 三妙行. Pl.: sucarrita.

[13] No 1536: ba bất thiện tầm 不善尋. Pl.: akusalavitakkā.

[14] No 1536: thiện tầm 善尋. Pl. kusalavitakkā.

[15] Pl.: akusalasaṅkappā.

[16] No. 1536: ba phước nghiệp sự 福 業 事, cơ sở của phước nghiệp: 1. Thí loại phước nghiệp sự 施類福業事, 2. Giới loại phước nghiệp sự 戒類福業事. 3. Tu loại phước nghiệp sự 修類福業事. Pl.: tīṇi  puññakiriyavatth³ni: dānamaya, sīla, bhavanāmaya.

[17] Ba cầu, Pl.: tisso esanā.

[18] No. 1536: Ba tăng thượng, thế tăng thượng 世增上, tự tăng thượng 自增 上, pháp tăng thượng 法增上. Pl.: attādhipateyyem lokādhipateyyam dhammādhi            pateyyam. No 12: thế tăng thượng, pháp tăng thượng, ngã tăng thượng.

[19] No 12: ba bất thiện giới 不善界: nhiễm dục giới 染欲界, sân nhuế giới瞋恚
界, tổn hạ giới損害界. Pl.: tisso dhātuyo (ba bất thiện giới): kāma(dục), vyāpāda (sân nhuế), vihiṃsa (hại)

[20] No. 1536 ba giới: sắc, vô sắc và diệt. Pl.: tisso dhātuyo, rūpa, arūpa, nirodha.

[21] Nguyên Hán: tăng thịnh giới增盛戒, tăng thịnh ý 增盛意, tăng thịnh tuệ. 增盛慧; Pl. tisso sikkhā, 3 điều học: adhisīla (tăng thượng giới), adhicitta (tăng thượng tâm), adhipaññha (tăng thượng tuệ).

[22] Tam tam-muội 三三昧; Pl.: tayo samādī: suññato animitto appaṇihito.

[23] Tam biến hóa 三 變 化; No. 1536, tam thị đạo 三示導: thần biến thị đạo 神變, ký tâm thị đạo 記心, giáo giới thị đạo 教誡. Pl.: tīni pāṭihāriyāni: iddhi-, ādesana-, anusāsanī- pātihāriyam. N0 12: ba thông: thần cảnh thông 神境通, thuyết pháp thông 說法通, giáo giới thông 教
誡通.

[24] Dục sanh bổn 欲生本. No 1536: ba dục sanh. Pl.: kāmūpapatti.

[25] Hiện dục 現欲. No. 1536 giải thích: hiện tiền chư diệu dục cảnh, do những đối tượng ham muốn đẹp đẽ trong hiện tại. Pl.: paccupaṭṭhitakāmā, ái dục trong đời hiện tại, hiện tiền dục. No 12: hiên xứ dục 現處欲.

[26] Hóa dục  化欲. No. 1536: do những đối tượng ham muốn vi diệu do tự mình biến hiện ra. Pl.: nimmitakāmā.

[27] Tha hoá dục 他化欲. No. 1536: do những đối tượng ham muốn vi diệu được người khác biến hiện ra. Pl.: paraṇimmitakāmā.

[28] Lạc sanh 樂生, Pl.; sukhūpapatti: tái sanh do cảm thọ lạc (phát sanh từ các trạng thái thiền).

[29] Pl.: uppādetvā uppādetvā sukham viharati, sau khi thường xuyên làm phát sanh lạc, nó sống an lạc.

[30] Hán: Phạm quang âm thiên 梵光音天 (?). No 1536: Phạm chúng thiên 梵眾天. Pl.: Brahma-kāyikā.

[31] Dĩ niệm vi lạc 以念為樂. Pl.: sukhena abhisannā, sung mãn với cảm giác lạc.

[32] Chỉ tức lạc 止息樂. Pl.: santaṃyeva tusitā sukhaṃ.

[33] No. 1536, ba khổ tánh: khổ khổ tánh 苦苦性, hoại khổ tánh 壞苦性, hành khổ tánh行苦性. Pl.: tisso dukkhatā, dukkha-, saṅkhāra-, viparināma-dukkhatā. No 12: luân hồi khổ 輪迴苦, khổ khổ 苦苦, hoại khổ 壞苦.

[34] No. 1536: vị tri đương tri căn 未知當知根, dĩ tri căn 已知根 và cụ tri căn 具知根. Pl.: anaññātaññassāmītindriyaṃ, aññitindriyaṃ, aññatāvindriyaṃ.

[35] Nguyên Hán: tam đường 三堂; No. 1536, tam trú 三住. Pl.: tayo vihārā: dibbo brahmā ariyo.

[36] Nguyên Hán: tam phát 三發: ba trường hợp phát hiện hay tố giác vi phạm luật. No. 1536: tam cử tội 三舉罪. Pl.: tīni codanāvatthūni.

[37] Nguyên Hán: tam luận三論. No 1536: ba ngôn y 三言依.  Pl.: tīṇi  kathāvatthūni. No 12: ba ngôn thuyết sự 三言說事.

[38] Tam tụ 三聚; Pl.: tayo rāsī: ba nhóm, chánh định tụ (sammattaniyatarāsi): nhóm nhất định thành tựu Thánh trí trong hiện tại; tà định tụ (micchattaniyatarāsī), nhóm nhất định dẫn đến tà kiến, không thể thành tựu Thánh trí trong hiện tại; bất định tụ (aniyata), bẩm tính chưa xác định.

[39] Tam trưởng lão 三長老; No. 1536, tam thượng tọa 三上座: sanh niên thượng tọa 生年上座, thế tục thượng tọa 世俗上座, pháp tánh thượng tọa 法性上座. Pl.: tayo thero– jātithero, dhammathero, sammutithero.

[40] Ỷ ngữ 綺語, No. 1536: tạp uế ngữ 雜穢語. Pl.: samphappalāpa.

[41] No 12: bốn phi- A-duệ-ra hành 非阿曳囉行. Pl.: anariyavohārā.

[42] Kiến, văn, giác, tri 見 聞 覺 知. Pl.: diṭṭha, suta, muta, viñānata.

[43] Đoàn (viên tròn) thực 團食. No. 1536: đoạn (phiến) thực 段食. Pl.: kabalīkāro.

[44] Nguyên Hán: niệm thực . No 1536: 意思食. Pl.: manosañcetanā.  

[45] Tứ thọ 四受. No 1536: bốn pháp thọ 四法受. Pl.: cattāti dhamma-samādānā. No 12: bốn sa-ma-na-nẵng pháp 娑摩那曩法.

[46] Nguyên Hán:tứ thọ 四 受. No. 1536: tứ thủ 四取. Pl.: cattāti upādānāni.

[47] No 1536: bốn thân hệ 四身繫. Pali: cattāro  ganthā.

[48] Nguyên Hán: tứ ý đoạn 四意斷. No. 1536: tứ chánh cần 四正斷. Cũng thường nói là chánh cần 正勤. Pl.: sammappadhāna.

[49] Nguyên Hán: diệt hành thành tựu 滅行成就. No 1536: đoạn hành thành tựu 斷行成就. Pl.: padhānasaṅkhārasamannāgataṃ.

[50] Hán: nội tín 內 信.

[51] Nguyên Hán: phạm đường 梵堂. No 1536: phạm trụ 梵住. Pl.: brahmavihāra.

[52] Nguyên Hán: pháp túc 法足, “chân của pháp”. No. 1536: pháp tích 法跡. Pl.: dhammapada. No 12: bốn pháp cú 法句.

[53] Tứ hiền thánh chủng 四賢聖種. No. 1536 : bốn thánh chủng. Pl. ariyavaṃsā, 4 sự truyền thừa của Thánh.

[54] Tu-đà-hoàn chi 須陀洹支. No. 1536: bốn Dự lưu chi 預流支. Pl.: cattāri   sotāpannassa aāgāni. No 12: bốn Dự lưu thân 預流身.

[55] Tứ thọ chứng 四受證. No 1536: bốn pháp ứng chứng (cần được tác chứng) 應證法. Pl.: cattāro  sacchikaraṇāyā  dhammā.

[56] No 1536: nhãn ưng chứng 眼應證 (thấy sự sống và chết của chúng sanh). Pl.: sattānaṃ cutūpapāto cakkhunā.

[57] No 1536: thân ưng chứng 身應證: tám giải thoát. Pl. aṭṭha vimokkhā kāyena sacchikaraṅīyā.

[58] No 1536: niệm ưng chứng 念應證: nhớ đời trước. Pl.: pubbenivāso  satiyā sacchikaraṇīyo.

[59] No 1536: tuệ ưng chứng 慧應證: biệt lậu tận. Pl.: āsavānaṃ khayo paññāya sacchikaraṇīyo.

[60] Bốn đạo 四道, No. 1536: bốn thông hành 四通行: khổ trì, khổ tốc, lạc trì, lạc tốc thông hành. Pl.: catasso paṭipadā. No 12: boấn thần thông đạo 神通道.

[61] No. 1536: tuệ xứ 慧處, đế xứ 諦處, xả xứ 捨處, tịch tĩnh xứ 寂靜處. Pl.: cattāri adiṭṭhānāni: paññā, saccā, cagā, upasamā.  

[62]. No. 1536: pháp trí 法智, loại trí 類智, tha tâm trí 他心智, thế tục trí 世俗智. Pl.: cattāri ñānāni: dhamme ñāṇaṃ, anvaye ñāṇaṃ, pariye ñāṇaṃ, sammutiyā ñāṇaṃ.

[63] Bốn ách 四扼 (No1536:軛). Pl.: cCattāro yogā.

[64].No. 1536: tứ ly hệ 四離繫 thoát khỏi gông cùm của dục, hữu, kiến và vô minh. Pl.: cattaro visaññogo (visaṃyogo).

[65] No 1536: bốn tương 四想.

[66] No. 1536, tứ ký vấn 四記問, 4 trường hợp trả lời câu hỏi: nhất hướng 一 向, phân biệt 分 別, cật vấn 詰 問, xả trí 捨 置. Pl.: cattāri  pañhabyākaraṇāni.

[67] Năm nhập, hay năm xứ.

[68] Thọ ấm 受陰. .

[69] Ngũ cái. No 12: ngũ chướng 五障. Pl.: pañca  nīvaraṇāni.

[70] Giới đạo 戒道, No. 1536: giới cấm thủ 戒禁取. Pl.: sīlabbataparāmāso.

[71] No 1536: sắc tham 色貪, vô sắc tham 無色貪, trạo cử 掉舉, mạn 慢, vô minh
無明. Pl.: pañca uddhambhāgiyāni saññojanāāni– rūparāgo, arūparāgo, māno, uddhaccaṃ, avijjā.

[72]. Nguyên hán: diệt tận chi 滅盡支. No. 1536: thắng chi 勝 支. Pl.: padhāniyaṅgāni. Bản Hán hiểu là pahāniyaṅgāni.

[73].     No. 1536: “Tự hiển thị một cách như thật đối với Đại sư và đồng phạm hạnh có trí.” Pl.: yathābhūtam attānam avikattā satthari vā viññūsu vā brahmacārīsu.

[74] Hiền Thánh hành 賢聖行. Pl.: ariya nibbedhikāya: bằng sự quyết trạch (sự sắc bén) của Thánh.

[75] Ngũ phát 五發. No. 1536: ngũ ngữ lộ 五 語 路. Pl.: pañca codānā, 5 trường hợp chỉ trích (kết tội).

[76] No 1536, phát thô khoáng ngữ 發粗礦語, nói lời thô lỗ.

[77] No 1536: 5 thành thục giải thoát tưởng 成熟解脫想.               Pl.: pañca vimuttiparipācaniyā saññā, 5 suy tưởng đưa đến sự thành thục của giải thoát.

[78] No. 1536: ngũ giải thoát xứ 五解脫處.

[79] Hán: ngũ nhân 五 人. No 1536: ngũ Bất hoàn 五 不 還. Pl.: pañca anāgāmino.

[80] Sanh bát-niết-bàn 生般涅槃, cf. Pl.: upahacca-parinibbāyī.

[81] Nguyên Hán: thượng lưu A-ca-nị-trá上流阿迦尼吒. Pl.: uddhaṃsoto-akaniṭṭhagāmī.

[82] Nội nhập 內 入. No. 1536 nội xứ 內 處; Pl.: ajjhattāyatana, hay ajjhattikāni āyatāni.

[83] Pl.: cha taṇhākāyā.

[84] Tránh bổn 諍 本. No. 1536: tránh căn 諍 根. Pl.: vivādamūlāni.

[85] No 1536: hữu phẫn hữu hận 有忿有
恨. Pl.: kodhano hoti upanāhī.

[86] No 1536: hữu phú, nào 有覆惱. Pl.: makkhī  hoti  paḷāsī.

[87] No 1536: hữu tật, xan 有嫉慳. Pl.: issukī  hoti  maccharī.

[88] No 1536: hữu cuống, siểm 有[01]誑諂. Pl.: saṭho  hoti  māyāvī.

[89] No 1536: thủ trước tự kiến 取著自見. Pl.: sandiṭṭhiparāmāsī hoti ādhānaggāhī.

[90] No 1536: tà kiến, đảo kiến 邪見倒見. Pl.: pāpiccho  hoti  micchādiṭṭhī.

[91] Sát hành 察 行. TNM: pháp sát 法 察.

[92] Xuất yếu giới. No 1536: xuất ly giới. Pl.: nissaraṅiyā  dhātuyo.

[93] No 1536: từ tâm định 慈心定. Pl.: mettā hi kho me cetovimutti bhāvitā, tu tập từ tâm giải thoát.

[94] Pl.: nissaraṇaṃ hetaṃ byāpādassa, yadidaṃ mettā cetovimuttī’ti, xuât ly sân, ấy là từ tâm giải thoát.

[95] No 1536: vẫn bị chi phối bởi hại (tâm) 害. Pl.: vihesā cittaṃ pariyādāya.

[96] No 1536: bất lạc 不樂. Pl.: arati.

[97] No 1536: tham sân 貪嗔. Pl.: rāgo.

[98] No 1536: do dự 猶豫. Pl.:  vicikicchākathaṅkathāsallaṃ.

[99] No 1536: vô tướng tâm định 無相心定. Pl.: animittā cetovimutti.

[100] No 1536: tùy tướng thức 隨相識.Pl.: nimittānusāri  viññāṇaṃ.

[101] No 1536: kiến, văn, lợi, học, hành, niệm 見, 聞, 利, 學, 行, 念. Pl.: cha  anuttariyāni–  dassana, savana, lābha, sikkhā,  pāricariyā, anussati.

[102] No 1536: loài người và một phần Chư Thiên. Pl.: manussā  ekacce ca devā ekacce ca vinipātikā.

[103] Phạm quang âm 梵光音天. No 1536: Phạm chúng thiên vào thời kiếp sơ. Pl.: devā  brahmakāyik±  paṭhamābhinibbattā.

[104] No 1536: Không vô biên xứ thiên 空
無邊處天. Pl.: ākāsānañcāyatanūpagā.

[105] No 1536: Thức vô biên xứ thiên 識
無邊處天. Pl.: viññāṇñcāyatanūpagā.

[106] Nguyên Hán: Bất dụng xứ 不用處. No 1536: Vô sở hữu xứ thiên 無所
有處天. Pl.: ākiñcaññāyatanūpagā.

[107] No 1536: bảy định cụ 七定具. Pl.: satta  samādhiparikkhārā.

[108] No 1563: có sắc, quán các sắc. Pl.: rūpī rūpāni passati.

[109] Nguiyên: diệt sân nhuế tưởng 滅 瞋 恚 想. No. 1536: diệt hữu đối tưởng 滅 有 對 想. Pl.: paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā.

[110] No 1536: nhập vô biên không, trú Không vô biên xứ.

[111] No 1536: nhập vô biên thức, trú thức vô biên xứ.

[112] Đối chiếu bảy thức trú đoạn trên.

[113] Bản Hán, hết quyển 8.