Trên Đường Hoằng Pháp Của Phật Tổ Gotama

Đời sống của Ðức Phật Gotama (Thích Ca), trải qua 80 năm trong vòng thế kỷ thứ 6 trước Gia tô, mà được vang dội đến nay là nhờ thuyết khẩu truyền của giới Tăng già. Những tài liệu lịch sử ấy được khởi chép, một cách đơn sơ và rời rạc trong nhiều bộ kinh, trên lá Bối đa, lối 100 năm trước kỷ nguyên Gia tô.

Bốn mươi lăm năm Hoằng Pháp là bốn mươi lăm năm nhiệt thành tích cực để cứu độ, dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vòng đau khổ luân hồi. Ðêm chỉ nghĩ 4 tiếng, ngày không ngừng, châu du thuyết giảng, đến giờ phút cuối mặc dầu hơi tàn, sức kiệt, vẫn cố gắng cứu độ người Đạo sĩ xa lạ cuối cùng. Thật là một đời hy sinh đầy cảm động.


Trên Đường Hoằng Pháp Của Phật Tổ Gotama

(Tóm Lược Sự Tích Và Những Cuộc Du Hành Của Phật Tổ Thích Ca)

Trùng Quang Nguyễn Văn Hiểu

Thành Hội Phật giáo Tp Hồ Chí Minh. PL: 2539 – 1995

Mục Lục

Lời giới thiệu

Lời tựa

I/ Sự tích của Phật Tổ Gotama (Cồ Ðàm)

II/Trên Đường Hoằng Pháp Của Phật Tổ Gotama

A. Từ Buddha Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) đến vườn Isipatana (Lộc Giả)

B. Từ Isipatana (Lộc Giả) đến thành Bénarès (Ba La Nại)

C. Từ Bénarès trở lại Buddha Gaya

D. Từ Uruvela đến thành Rajagaha (Vương Xá)

E. Từ Rajagaha sang Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ)

F. Từ Kapilavatsu sang qua thành Savatthi (Xá Vệ)

G. Từ Savatthi trở lại Rajagaha

H. Từ Rajagaha trở lại Savatthi (Xá Vệ)

I. Từ Savatthi sang qua Kosambi

J. Từ Kosambi trở lại Savatthi (Ca Tỳ La Vệ)

K. Từ Savatthi sang qua Rajagaha

L. Từ Rajagaha Ðức Phật trở lại Savatthi

M. Ðức Phật ngự đến Vesali

N. Ðức Phật sang qua thành Rajagaha

O. Ðức Phật sang qua thành Vesali

P. Ðức Phật từ giả Vesali đi Kusinara

Lời Giới Thiệu

Ðối với người Tây Phương ở những thế kỷ trước, Ðức Phật Thích Ca là một nhân vật huyền thoại và những câu chuyện về Phật giáo là hoang đường. Ðến cuối thế kỷ thứ 19, những cuộc khai quật khảo cổ đã tìm thấy được những di tích và thạch trụ do Hoàng Ðế A Dục dựng lên, 218 năm sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn, có ghi khắc nhiều chi tiết liên quan đến nhân vật lịch sử này. Những chi tiết trong kinh sách đã được minh chứng bởi những di tích khảo cổ học.

Là Phật tử chúng ta không thể không tìm hiểu về cuộc đời Ðức Phật để tỏ lòng kính mộ, để học hỏi gương lành và để đền đáp công ơn. Có tìm hiểu, chúng ta mới cảm thấy thương kính vô cùng một con người như tất cả chúng ta, đã sinh ra dưới một cội cây, đã tự lực Giác ngộ dưới một cội cây (Bồ đề) và viên tịch dưới bóng một cội cây khác. Hầu hết cuộc đời của Ngài trải qua trong cảnh thiên nhiên và trong làng mạc mặc dầu có đủ điều kiện để sống trong cung vàng điện ngọc hay trong những ngôi chùa nguy nga lộng lẫy. Bốn mươi lăm năm Hoằng Pháp là bốn mươi lăm năm nhiệt thành tích cực để cứu độ, dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vòng đau khổ luân hồi. Ðêm chỉ nghĩ 4 tiếng, ngày không ngừng, châu du thuyết giảng, đến giờ phút cuối mặc dầu hơi tàn, sức kiệt, vẫn cố gắng cứu độ người Đạo sĩ xa lạ cuối cùng. Thật là một đời hy sinh đầy cảm động.

Ðể tưởng nhớ đến đấng cha lành, nhân ngày Ðại lễ VESAK 2540, kỷ niệm ba biến cố trong đại Ðản sanh, Thành đạo và Nhập Niết bàn của Phật Tổ Thích Ca, chúng tôi xin phép tái bản quyển "Trên đường hoằng pháp của Phật tổ GOTAMA" do Cụ Trùng Quang Nguyễn Văn Hiểu, cố Hội trưởng Tổng hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam, biên soạn năm 1959 tại Kỳ Viên Tự, Sàigòn.

Xin đa tạ quí Phật tử đã đóng góp công đức và tịnh tài để hoàn thành quyển sách này nhất là vợ chồng đạo hữu Ngô Ngọc Minh, Bà Ðinh thị Oanh, Bà Dương thị Bạch Tuyết và các Thiện tín ở chùa Phật bảo đã dày công đánh máy điện toán, sắp xếp và in lại thành sách.

Xin thành tâm kính dâng quả phúc thanh cao do sự pháp thí này đến các bậc Ân Sư Thầy Tổ, Cửu Huyền Thất Tổ, các vị Cư sĩ tiền bối, các Chư thiên và Long thần Hộ pháp, các chúng sanh trong ba giới bốn loài, xin cho tất cả đều được an vui hạnh phúc trong hào quang của Chánh Pháp.

Ban Hoằng Pháp Phật giáo Nguyên Thủy

Tỳ kheo ÐỨC MINH

Dương Lịch 1997 Phật Lịch 2540

Lời Tựa

Các bậc Vĩ nhân Ðông phương làm việc chi cũng chỉ vì mưu cầu lợi ích cho nhân quần xã hội mà hành động. Danh thơm tiếng tốt lưu lại muôn đời, đối với các Ngài, giá trị không cao quí bằng tinh thần phục vụ nhân loại. Bởi thế các bậc Hiền triết Á châu như Ðức Phật Thích Ca, Ðức Khổng tử, Ðức Lão tử không để lại một trang lịch sử nào.

Ðời sống của Ðức Phật Gotama (Thích Ca), trải qua 80 năm trong vòng thế kỷ thứ 6 trước Gia tô, mà được vang dội đến nay là nhờ thuyết khẩu truyền của giới Tăng già. Những tài liệu lịch sử ấy được khởi chép, một cách đơn sơ và rời rạc trong nhiều bộ kinh, trên lá Bối đa, lối 100 năm trước kỷ nguyên Gia tô.

Ðôi ba trăm năm sau, hàng cư sĩ dựa theo đó viết ra nhiều sử tích khác nhau; mỗi nơi tùy theo phong tục tín ngưỡng, tô điểm thêm nhiều màu sắc huyền bí thần thoại, làm cho Ðức Phật, một nhân vật lịch sử, trở thành một vị thần linh trừu tượng trong giới siêu hình.

Tài liệu về lịch sử Ðức Phật, trong Tam tạng Pali, được xác thực chứng minh bởi những di tích và thạch trụ, do Hoàng Ðế A Dục dựng lên, 218 năm sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn, được sở Khảo Cổ Ấn Ðộ tìm ra. Chúng tôi thu nhặt các tài liệu rời rạc trong kinh, trong các bài giảng của Ðại Ðức Narada Maha Thera, trong bút ký của một vài nhà Sư Việt Nam có dịp đi chiêm bái Phật Tích tại Ấn Ðộ và trong những sách khảo cứu của các nhà học Phật Âu châu và sắp xếp theo thứ tự, để căn cứ theo đó phỏng lập lại các cuộc hành trình của Ðức Phật, trong 45 năm Hoằng Pháp, trên lưu vực sông Hằng và miền kế cận Hy Mã Lạp Sơn.

Ðể phát họa con đường gian truân cực khổ của một bậc Hiền triết đầy nhẫn nại, trọn kiếp hy sinh cho đời, chúng tôi căn cứ nơi các địa điểm ghi chép trong kinh sách và sắp đặt theo vị trí địa dư gần xa của các kinh thành mà xưa kia Ðức Phật đã để chân đến. Về thời gian, chúng tôi cũng phỏng lập một ký sự đại lược, liên hệ với những hoạt động của Ðức Phật và những việc đã tuần tự xảy ra trên đường châu du của Ngài; trong Tam tạng chẳng có ghi chép năm, tháng, ngày, giờ nào Ðức Phật ngự nơi đây hoặc sang nơi khác.

Chúng tôi đặt ra những câu hỏi để tiện bề nhấn mạnh vào một vài điểm cần thiết và nhất là lưu ý các bạn thanh niên Phật tử về những đoạn đáng ghi nhớ cùng nhận định cho rõ rệt, hầu lập tâm phục vụ Phật Pháp một cách sáng suốt.

Chúng tôi thấy cần phải cởi mở những thắc mắc và hoài nghi của các bạn thanh niên về danh từ "Pháp Thần Thông", ám chỉ các phép lạ mà đôi khi Ðức Phật phải dùng đến để cảm phục người ngoại đạo cũng như để cứu độ những kẻ lâm nạn. Ðây không phải là một điều dị đoan, mà là một việc thông thường của các bậc đã tiến đến trình độ cao siêu và đã triệt thấu những bí ẩn của vũ trụ. Với phương pháp chỉ quán, Minh sát trong môn Thiền Ðịnh, mọi người có thể khai thông trực giác và đạt được các pháp mầu nhiệm như: thấy xa ngàn dặm, nghe xa ngàn dặm, đọc tư tưởng người khác, tàng hình đổi dạng, đi trên không gian hoặc sử dụng theo ý muốn những nguyên tố tinh thần vật lý. Khoa học, tuy chưa tiến sâu vào lãnh vực tinh thần, nhưng cũng đã chế tạo những máy móc tối tân để thâu thanh, truyền hình, tàu bay, hỏa tiễn, v.v..., mà trước kia chẳng ai tin tưởng rằng loài người có thể tiến bộ đến mức hiện giờ. Cũng như thế ấy, khi chưa ai đạt được kết quả Thiền Ðịnh như Ðức Phật và đệ tử của Ngài, hoặc như các bậc tu chứng trong đạo giáo khác, thì cũng không ai tin nơi các pháp thần thông, nhưng khi người nào đạt được khả năng sử dụng những tiềm lực sâu kín của vũ trụ, người ấy sẽ không lấy đó làm lạ.

Sau cùng chúng tôi mong được Chư Phật tử gần xa chỉ dạy những khuyết điểm hoặc những sai lầm, để chúng tôi sửa chửa lại cho quyển sách thêm phần hoàn bị.

Kỳ Viên Tự, Sài Gòn

21/ 11/ 1959

I/ Sự Tích Của Phật Tổ GOTAMA (Cồ Đàm)

1. Ai là Vị Giáo chủ của Ðạo Phật?

Chính là Ðức Phật Gotama (Cồ Ðàm). Tôn hiệu người ta thường dùng là Phật Sakya Muni, âm trại qua giọng Việt Nam là Thích Ca Mâu Ni hay Thích Già Mâu Ni, nghĩa là Bậc Trí tuệ của dòng Thích Ca.

2. Phật là người như thế nào?

Ðức Phật là người đã tiến hóa đến mức toàn thiện, toàn mỹ và tự tìm ra ánh sáng chân lý, thấu rõ định luật cấu hợp thiên nhiên của vạn vật, cho nên không còn bị ở dưới quyền chi phối của định luật ấy nữa, tức là được hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Tự mình giải thoát rồi, Ðức Phật còn một nghĩa vụ thiêng liêng là hướng dẫn chúng sinh theo Ngài đến nơi an vui tuyệt đối, nơi không còn khổ, không còn sanh, già, đau, chết gọi là Niết bàn.

3. Phật phải là một vị Trời không?

Không, Phật cũng là người như chúng ta nhưng là một người độc nhất vô nhị, cả muôn triệu ức năm mới gặp được một người như thế.

4. Ngài tên họ là chi?

Tên của Ngài là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ta). Họ của Ngài là Gotama (Cồ Ðàm).

5. Thân sinh của Ngài là ai?

Vua Suddhodana (Tịnh Phạn Vương) và Hoàng hậu Maya (Ma da). Hoàng hậu sanh Thái tử Siddhattha được bảy ngày rồi thăng hà; nhờ bà thứ hậu Mahapajapati hay Gotami là dì ruột săn sóc nuôi dưỡng đến trưởng thành.

6. Dân chúng dưới quyền cai trị của Vua Suddhodana thuộc về dân nào, dòng nào?

Dân Ấn Ðộ, dòng Sakya (Thích Ca), thuộc giống Ariya da trắng ở Âu Châu và Á Châu, gần dân Latins (Ý), Germans (Ðức) và Slaves (Tư Lạp Phu).

7. Nước của Vua Suddhodana ở đâu?

Ðông Bắc Ấn Ðộ, dưới chân Hymalaya (Hy Mã Lap Sơn), Kinh đô là Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), trên bờ sông Robini, cách thành Bénarès 150 cây số về hướng Bắc.

8. Hoàng tử Siddhattha ra đời lúc nào?

Ðúng bữa trăng tròn ngày thứ 6 tháng Vesakha (Nhằm tháng Năm dương lịch hoặc tháng Tư âm lịch, năm Tuất). Cách đây 2.618 năm trước kỷ nguyên Gia tô 623 năm (1.995 + 623).

9. Lúc Hoàng tử Siddhattha ra đời có điềm chi lạ?

Có. Chính các Thầy Bà la môn làm Quốc sư và chiêm tinh gia trong trào đã báo trước điềm lành; Hoàng tử Siddhattha sẽ trở thành một vị Ðại Hoàng đế, thống trị các xứ. Bằng như Hoàng tử xuất gia tìm đạo. Ngài sẽ trở thành một vị Phật, một ánh sáng cho thế gian.

10. Còn điềm lành nào nữa chăng?

Còn. Thuở ấy một vị Ðạo sĩ tên Asita, đương ẩn tu trên Hy Mã Lạp Sơn, đoán biết có quý nhân ra đời, liền hạ sơn đến thành Kapilavastu, xin ra mắt vị Hoàng tử sơ sinh. Vừa gặp Hoàng tử, vị Ðạo sĩ ấy cung kính cúi lạy và nói rằng một ngày kia Hoàng tử sẽ thành một Ðấng Vô thượng Chánh giác và làm Thầy hướng dẫn Chư Thiên và nhân loại trên đường giải thoát. Rồi vị Ðạo sĩ khóc lóc tức tưởi, buồn tủi phận già, không thể sống đến thời kỳ Hoàng tử đắc quả Phật để nhờ Ngài tế độ.

11. Khi nghe lời tiên tri của Ðạo sĩ Asita, Vua Suddhodana có tỏ vẻ vui thích không?

Không. Trái lại vua cha tìm đủ mọi phương pháp để ngăn ngừa không cho Hoàng tử xuất gia bởi Ngài muốn cho con trở thành một vị Ðế Vương hùng cường, trị vì thiên hạ.

12. Vua Suddhodana dùng phương pháp chi để cầm giữ Hoàng tử Siddhattha?

Khi Hoàng tử lớn lên, vua cha không cho lìa cung nội, ra lệnh nghiêm ngặt không ai được phép thố lộ cho Hoàng tử thấy biết những sự buồn thảm, bệnh tật và những cảnh đau khổ, tử biệt trong đời. Ngày ngày, Hoàng tử sống giữa yến tiệc, ca xang; hết cuộc vui này đến trò vui khác, làm cho Hoàng tử say mê, không quan tâm lo nghĩ đến thế sự. Ngoài ra còn có nhiều danh sư chuyên dạy văn chương võ nghệ, rèn luyện cho Hoàng tử có đủ tài ba lỗi lạc.

Ðến lúc trưởng thành, vua cha tạo cho Hoàng tử ba tòa cung điện thích hợp với ba mùa trong xứ: Mùa nóng, mùa lạnh và mùa mưa. Bên trong cung điện được trang hoàng cực kỳ sang trọng; bên ngoài có vườn thượng uyển rộng lớn bao la, cây cối sum sê, bông hoa đủ màu, hồ sen, suối nuớc và nhiều thắng cảnh vui đẹp làm cho Hoàng tử càng say mê cuộc đời vương giả trong cái tuổi xuân xanh mơ mộng.

13. Hoàng tử sống nơi ấy một mình trơ trọi hay sao?

Không. Ðể tránh cảnh đơn độc, không thích hợp với ý định của hoàng triều, vua cha chọn lựa giữa hàng công tôn, những trai tài đầy hy vọng về tương lai, hằng ngày vui sống bên cạnh Hoàng tử.

Ðến khi vừa được 16 tuổi, Vua cha cưới cho Hoàng tử nàng Công chúa Yasodhara (Da Du Ðà La), con vua Suppabuddha và Hoàng hậu Amita (Bà này là em ruột của Vua Suddhodana, tức là cô ruột của Hoàng tử) của xứ Devadaha ở kế cận, lại còn cấp cho một đoàn cung phi trẻ tuổi yêu kiều diễm lệ, rành nghề ca xang nhạc vũ.

14. Giữa đời sống cực kỳ vui sướng như thế ấy, cớ sao Hoàng tử lại nảy sanh tư tưởng chán đời?

Lúc dạo chơi trong vườn thượng uyển, tình cờ được mục kích bốn hiện tượng phi thường, Hoàng tử chợt tỉnh thấy rõ tình trạng khổ não của đời sống thế gian.

15. Bốn hiện tượng ấy như thế nào?

a) Một người già quằn quại dưới sự tàn phế suy nhược của xác thân.

b) Một người đau khổ vì bệnh lở lói cùng khắp thân thể.

c) Một tử thi sình nhầy hôi thúi gớm nhờm.

d) Một vị Thầy tu.

16. Xin tường thuật bốn hiện tượng ấy?

a) Một ngày nọ, Hoàng tử đi dạo chơi trong vườn thượng uyển, bỗng gặp một ông già thân hình còn da bọc xương, khom lưng, chống gậy, hai chân run rẫy, bước tới nặng nhọc, tỏ vẻ người tàn tạ dưới sức nặng của tuổi già. Hoàng tử lấy làm ngạc nhiên (vì chưa từng thấy), kêu tên xa phu hỏi:

Kìa Channa (Xa Nặc), người gì kỳ lạ vậy?

- Channa trả lời: Tâu Hoàng tử, ấy là một người già.

Người ấy sinh ra với hình thể như vậy sao?

- Tâu lệnh Ngài, trước kia người ấy cũng tráng kiện, tươi tắn, khỏe mạnh như Ngài.

Còn nhiều người già như ông ấy chăng?

- Tâu Ngài, có rất nhiều.

Tại sao ông này phải lâm vào tình trạng buồn thảm như vậy?

- Ấy là định luật thiên nhiên, dành chung cho nhân loại; hết lúc xuân thời tráng kiện, đến tuổi già yếu suy nhược, da nhăn, má hóp, mắt lờ, tai điếc, lưng mỏi, gối dùn.

Ta đây cũng sẽ già như vậy sao, Channa?

- Cũng vậy, tâu Ngài.

Câu trả lời của Channa đánh mạnh vào tâm trí của Hoàng tử, làm cho Ngài ngạc nhiên kinh sợ, lặng thinh suy nghĩ. Từ nhỏ đến lớn chưa từng gặp một thảm cảnh nào khêu gợi trạng huống bi quan của số phận loài người đến như thế, nên Hoàng tử buồn bả, bảo Channa quay xe trở về cung nội.

b) Một thời gian sau, cũng trong một cuộc du ngoạn trong vườn thượng uyễn, Hoàng tử gặp một người bị ghẻ chóc, lở lói cùng mình, rên siết khổ sở.

Channa cũng giải thích cho Hoàng tử biết thân người là nơi phát sanh rất nhiều thứ bệnh tật và mọi người bất luận trẻ già, sang hèn, không ai tránh khỏi được.

Nghe qua, Hoàng tử phát ghê tởm cái xác thân và bắt đầu chán nản cuộc đời. Từ đó, Hoàng tử không còn vui thú dục tình, ngày đêm lo nghĩ tìm kiếm phương pháp diệt trừ sự già và sự đau.

c) Sau một thời gian nữa, Hoàng tử gặp một tử thi sình nhầy nơi cạnh đường.

Lần này cũng nhờ Channa vạch rõ cho Hoàng tử thấy cái chết là mức cuối cùng của con người. Từ thường dân đến vua chúa, khi ra đời đều phải tiến lần đến chỗ chết, không ai tránh khỏi và cũng không ai biết được mình sẽ chết già hay chết trẻ.

Hoàng tử gạn hỏi Channa: Ta đây cũng sẽ chết hay sao?

- Tâu Ngài, trong hoàn vũ này, không một ai thoát khỏi tay tử thần. Nếu Ngài cho phép tôi nói sự thật, tôi xin tâu rằng: Một ngày kia, Ngài cũng sẽ chết như mọi người ở thế gian.

Lời quả quyết của Channa làm cho Hoàng tử không còn ngờ vực, liền hối quay xe trở về hoàng cung. Ðem hết tâm trí suy tưởng đến cái già, cái đau, cái chết, Hoàng tử kết luận: Ích lợi gì cái đời vinh quang oanh liệt của nhà vua, nếu những chuổi ngày hạnh phúc chốn lầu son điện ngọc sẽ đưa ta đến chỗ già đau, chết? Ô hô! Ðời người thật là khốn khổ, tìm đâu cho ra con đường diệt khổ? Từ đó không giờ khắc nào Hoàng tử xao lãng việc tìm kiếm con đường diệt khổ.

d) Mỏi mệt cả tinh thần trí não mà tìm cũng không ra lối thoát, Hoàng tử bảo Channa bỏ xe thơ thẩn trên những con đường xa xâm u tịch của vườn thượng uyễn. Ngồi trên xe mà tâm trí vẫn chú vào đề mục giải thoát khỏi cảnh già, đau, chết. Bỗng nhiên, trước mắt Hoàng tử xuất hiện một Ðạo sĩ du phương, phong độ uy nghiêm, sắc diện trầm tĩnh dưới bộ áo nâu sòng. Hoàng tử chợt tỉnh, lĩnh hội điềm lành, biết rằng đây là con đường duy nhất phải trải qua để khám phá nguyên nhân trói cột con người trong chỗ già, đau, chết.

(Theo kinh sách, điềm ứng hiện này, cũng như ba điềm trước, do năng lực sâu kín của các pháp Ba la mật mà Hoàng tử đã thực hành trong nhiều kiếp, tự nhiên xuất hiện làm trợ duyên giúp Hoàng tử tự tỉnh xuất gia cho kịp thời. Theo một nguồn tài liệu khác, thì bốn cuộc gặp gở nói trên đã xảy ra trong khi Hoàng tử xin phép vua cha đi dạo chơi ngoài bốn cửa thành. Thuyết này không hợp với bao nhiêu cố gắng của Vua Suddhodana để cầm giữ Hoàng tử trong cung nội vì sợ Hoàng tử gặp những khổ cảnh ngoài đời, chán nản đi tu).

Từ đó Hoàng tử nhất định xuất gia tìm đạo.

17. Hoàng tử hy sinh cả một đời sống vương giả được sao?

Trình độ tiến hóa của một vị Bồ tát đã hy sinh nhiều kiếp với chí nguyện độ đời, không thể tưởng tượng được. Ngài đã từng bố thí tài sản, vợ con, tai mắt, máu thịt và thân mạng, từ vô lượng kiếp để đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, thì sá chi ngôi vàng, điện ngọc, vợ đẹp, hầu sinh trong một tấn tuồng mà Ngài đã từng diễn đi, lập lại, trên con đường phiêu bạt giữa cõi luân hồi. Bởi thế Bồ tát Siddhattha dứt bỏ những nhân vật thương yêu một cách dễ dàng. Nếu gươm Trí tuệ của Ngài chưa sắc bén thì kiếp này chưa phải là kiếp chót để thành công đắc quả.

18. Trốn cha, lìa vợ, Hoàng tử há chẳng phải là người thất hiếu, bạc tình?

Không thể dựa nơi tình thương ích kỷ của cha đối với con, vợ đối với chồng, mà khép cho Hoàng tử cái tội thất hiếu, bạc tình.

Lòng Từ bi của một vị Bồ tát bao trùm cả muôn loài vạn vật. Tình thương bình đẳng mới gọi là chân thật và hy hữu. Vả lại, Bồ tát chỉ tạm biệt gia đình một thời gian, khi thành công đắc quả trở về cứu độ gia đình quyến thuộc. Cũng chẳng vì sự vắng mặt tạm thời ấy mà cha già, vợ yếu, con thơ phải đói khổ, mà gọi Hoàng tử là người thất hiếu, bạc tình.

19. Hoàng tử trốn ra đi bằng cách nào?

Giữa đêm trăng tròn của ngày rằm tháng 6 năm Mẹo, trong lúc mọi người an giấc, Hoàng tử sẽ lén vào phòng nhìn vợ, xem con, rồi trở ra đánh thức Channa, bảo thắng ngựa Kanthaka (Kiền trắc), Thầy trò ra đi không ai hay biết.

20. Lúc ấy Hoàng tử Siddhattha được mấy tuổi?

Hoàng tử vừa được 29 tuổi.

21. Hoàng tử đi về hướng nào?

Hoàng tử đi về hướng Ðông Nam, thẳng đến bên kia bờ sông Anoma, dừng ngựa lấy gươm cắt tóc, cởi trang phục bên ngoài, giao cho Channa, bảo trở về Kapilavastu yêu cầu Vua cha và Công chúa Yasodhara an tâm để cho Ngài đi tìm đạo. Sau khi Channa lên ngựa trở về, Hoàng tử ở lại bờ sông Anoma bảy ngày, tĩnh tọa giữa cảnh u tịnh, rất vui thích được tiến một bước đầu trên đường xuất gia. Rồi sau khi đổi y phục cho một người Ðạo sĩ, Ngài lên đường lần bước đến Rajagaha (Vương Xá thành), kinh đô của xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà).

(Từ đây người ta gọi Hoàng tử là Sa môn Gotama, hay Bồ tát Siddhattha, trong lúc Ngài chưa thành Phật).

22. Bồ tát Siddhattha đến Rajagaha để làm gì?

Gần thành Rajagaha có hai Thầy Bà la môn tên Alara và Uddaka nổi danh là bậc Trí tuệ siêu phàm, nên Bồ tát đến đó để xin thọ giáo với hai vị danh sư ấy.

23. Hai Thầy Bà la môn ấy dạy những chi?

Hai Thầy dạy phải tấm gội linh hồn bằng kinh kệ, cúng tế và mọi cách hành lễ để cầu xin Ân huệ của Thượng đế cho được giải thoát.

24. Sa môn Gotama có cho tôn chỉ ấy là chân chánh không?

Ban sơ Bồ tát cố gắng học tất cả giáo lý của hai vị Bà la môn và tinh tấn thực hành nhưng không thấy tiến được bước nào đến mục đích giải thoát.

25. Không được toại nguyện Bồ tát đi tìm đạo nơi đâu nữa?

Bồ tát còn đi thọ giáo với nhiều Ðạo sĩ khác, trong vùng kế cận Rajagaha, học tu khổ hạnh để diệt trừ Ái dục Phiền não. Học xong Bồ tát vào ẩn dật trong một khu rừng tịch mịch, tại làng Uruvela và hết sức kiên nhẫn, giam mình trong mọi pháp hành thân hoại thể, cực kỳ khổ sở. Tiếng đồn Ngài là bậc Thánh nhân, nên có năm người đồng tu khổ hạnh như Ngài đến xem cho biết. Thấy tận mắt họ đem lòng kính phục, cho rằng Bồ tát Gotama thật là người có tinh thần cứng rắn và can đảm trong pháp khổ hạnh. Họ tin tưởng một ngày kia Bồ tát sẽ thành công đắc quả chẳng sai, nên xin ở lại đó, mong sẽ được làm môn đệ của Bồ tát.

26. Năm Thầy ấy tên chi?

Tên:

- Kondanna (Kiều Trần Như hay Hỏa Khí)

- Bhaddiya (Bạt Ðề hay Tiểu Hiền)

- Vappa (Thực Lực hay Khởi Khí)

- Mahanama (Ma Nam hay Ðại Danh)

- Assaji (Át Bệ hay Mã Sư hay Mã Thắng).

Thường gọi là nhóm năm Thầy Kiều Trần Như.

27. Bồ tát Gotama ở tại rừng Uruvela bao lâu?

Gần sáu năm. Sức lực càng ngày càng suy nhược, thân thể gầy còm, do sự nhịn ăn, thức đêm, thức ngày, mệt mỏi rủ liệt nhưng không thối chuyển. Một đêm nọ, Bồ tát đi kinh hành mặc tưởng, té qụy chết giấc vì đã kiệt sức. Năm Thầy Kiều Trần Như tưởng Bồ tát đã chết nhưng một chập sau Ngài tỉnh lại.

28. Bồ tát còn tiếp tục tu khổ hạnh nữa không?

Không. Ngài đã thấy pháp khổ hạnh không đem lại thành công và giải thoát... Ðã cố gắng liều thân đến cùng, mà vẫn không đạt được mục đích, cũng không thấy tiến hóa về mặt tinh thần, Bồ tát nhất định bỏ lối hành xác và bắt đầu ăn uống trở lại như thường. Năm Thầy Kiều Trần Như thấy vậy cho rằng Bồ tát đã thối chí ngã lòng, nên bỏ ra đi nơi khác, không còn tin tưởng nơi Ngài nữa.

29. Ðã nói rằng Bồ tát là bậc Trí tuệ, sao cũng lầm lạc theo mê tín?

Chẳng phải vậy. Tin những điều chi mù mờ, vô căn cứ, không đúng với chân lý, mà vẫn cố tin, cố thực hành mới gọi là mê tín.

Sa môn Gotama là người thật tâm giải thoát, không bao giờ tin bướng, nghe càng, cũng chẳng hề đặt trọn tin tưởng nơi một Tôn giáo nào trước khi nghiên cứu và thực hành chu đáo. Nghe nơi đâu có danh sư, dầu đường sá xa xôi hiểm trở. Bồ tát cũng tìm đến học đạo và trong khi học, Ngài đem tất cả tinh thần nghị lực, kiên nhẫn suy tầm chân lý tận nơi huyền vi sâu kín, dùng Trí tuệ suy xét và thực nghiệm đạo pháp để nhận định chánh tà; như thế chẳng phải là mê tín. Bồ tát Siddhattha là người duy nhất đã cố công khảo cứu và thực hành tất cả đạo giáo trong thời kỳ Ngài đi tìm đạo. Nhờ chí kiên nhẫn mà Ngài không lầm lạc và cũng nhờ Trí tuệ xét đoán nên Ngài mới tìm ra chân lý.

30. Ðến đâu cũng không được toại nguyện Bồ tát có thối chí ngã lòng chăng?

Không. Ðã kinh nghiệm bao nhiêu pháp cầu khẩn, cúng tế, hành xác mà không đắc kỳ sở nguyện, bấy giờ Bồ tát định tự vạch lấy con đường tiến hóa sáng kiến của mình. Bỏ khổ hạnh, Bồ tát áp dụng phương pháp thu thúc Lục căn, chế ngự dục vọng. Ðồng thời nhờ cảnh cô độc, được tịnh tâm an trí, Bồ tát khai thông những kinh nghiệm sẵn có và làm phát triển những tiềm lực siêu việt bên trong.

Một đêm nọ, Bồ tát thấy triệu chứng sắp thành công đắc quả. Sáng ngày Bồ tát xuống sông Niranjara (Ni Liên) tắm rửa sạch sẽ, rồi thọ một bữa cơm sữa của nàng Sujata. Nàng này, trước kia có khấn vái với vị Thọ thần, xin được gặp một người chồng vừa ý và sanh được một trai đầu lòng. Lời khấn vái ấy đã thành tựu nên sắm một mâm cơm nấu sữa tươi đem ra cây cổ thọ cúng trả lễ cho vị Thọ thần. Trông thấy Bồ tát đương ngồi trầm tư mặc tưởng dưới cội cây, nàng tưởng rằng vị Thọ thần ứng hiện nên thành tâm đem cơm dâng cúng cho Bồ tát.

Sau khi thọ thực, Bồ tát thấy trong mình khỏe mạnh phi thường. Trọn ngày đó Bồ tát ngồi bên bờ sông tham Thiền quán tưởng. Chiều lại, Ngài đến cội Bồ đề kế cận, ngồi xây mặt về hướng Ðông và nhất nguyện không lìa khỏi nơi ấy trước khi đắc đạo quả.

Chính dưới cội Bồ đề này, Bồ tát Siddhattha chiến thắng vẻ vang trận giặc cuối cùng hết sức khó khăn.

31. Trận giặc thế nào mà gọi khó khăn?

a) Thất tình lục dục là những bẩm thụ thiên nhiên, hằng đưa con người đến sa đọa điêu linh. Bồ tát luôn luôn thu thúc, đè nén, không để cho các tật ấy chi phối nên trong thời gian xuất gia tìm đạo, những bẩm thụ cố hữu bên trong, tựa hồ như đã bị diệt tận gốc rễ; chẳng dè trong giai đoạn chủ yếu này, bao nhiêu thị dục và khuynh hướng về thế gian, bấy lâu đã ẩn khuất im bặt trong tiềm thức, thình lình lập lòe phản ứng, gây ra một bức tường chướng ngại kiên cố. Vì thế Bồ tát phải quyết liệt chiến đấu với Dục lậu Phiền não này (Kamàsava).

b) Sau mũi giặc thứ nhất xuất hiện một loạt ảo giác bộc lộ những háo thích về các lạc thú đã từng nếm trải, kích thích sự mến tiếc và mong ước được sống cho lâu dài, để tận hưởng mùi vị hương trần. Biết được sự tham sống là cội rễ, nhân sanh ra bản thân này và cũng là nguồn gốc của mọi sự khổ não dính liền với thân, Bố tát gom thần lực Trí tuệ, tẩy trừ những trần cấu, đã lâu đời chồng chất, tích trữ trong tâm khảm của Ngài. Ðây gọi là Tái sanh lậu Phiền não (Bhavàsava).

c) Kế tiếp xuất hiện trong tâm Bồ tát một màn ảnh rất linh động: Nào là lộc cao, tước trọng, thanh danh, uy quyền, giàu sang, vinh hiển, ái tình, dục lạc, hạnh phúc, gia đình cho đến tất cả những thú vị, những vui sướng của người được đặc biệt ưu đãi trên thế gian như Bồ tát, đều liên tiếp biểu hiện những tranh cảnh rất cám dỗ, làm cho Bồ tát bị cảm kích, xiêu lòng, tấn thối lưỡng nan. Ðây gọi là Vô minh Lậu Phiền não (Avijjàsava). Chợt nhớ lại lời cương quyết thề nguyện "Thà chết hơn là từ bỏ mục đích giải thoát.” Sa môn Gotama liền vận dụng tất cả tiềm lực Trí tuệ phi thường, hùng dũng chiến đấu và đã toàn thắng trận giặc lòng rất ghê tởm ác nghiệt.

Sau khi những dấu vết cuối cùng của ba pháp trầm luân bên trong đã được dứt khoát tẩy trừ thì sự vắng lặng sâu kín của Niết bàn đã tràn ngập cõi lòng, Bồ tát nâng Trí tuệ lên từ nấc Giác ngộ đến đỉnh Tuệ giác Viên minh tuyệt đối. Màn Vô minh đã bị xé tan, Ngài đạt được mục đích cứu cánh, chứng quả Toàn Giác thành một vị Vô thượng Chí Tôn, một Vị Phật.

32. Ngày giờ nào Bồ tát thành Phật và lúc ấy Ngài được mấy tuổi?

Trận chiến đấu cuối cùng để thắng mọi vi tế Phiền não bên trong vừa chấm dứt thì trời vừa sụp tối, trăng rầm tháng Vesakha lố mọc, rạng tỏ chân trời. Chính trong đêm trăng tròn tháng Vesakha ấy, Bồ tát Siddhattha đã chứng quả vị Chánh Ðẳng Chánh giác nhằm năm Dậu, ngày thứ tư kể tới nay được 2.583 năm (1995 + 623 - 35). Lúc ấy Ngài được 35 tuổi.

33. Xin giải rõ thế nào gọi là đắc quả Vị Phật?

Nhờ trau dồi Trí tuệ sắc bén, do pháp Thiền định Minh sát, Bồ tát tận diệt gốc rễ Phiền não vi tế trong tiềm thức, không còn một chướng ngại nào che án, nên tâm thần thanh thoát, sáng suốt càng sáng suốt thêm. Thắng được trận giặc lòng rồi, trong canh một Bồ tát dùng Tuệ giác soi thấy trong mỗi kiếp luân hồi, từ gần đến xa, Ngài đã sanh nơi đâu, làm chúng sanh ở cảnh giới nào, cha, mẹ, vợ, con là ai. Tuệ giác thấu rõ tiền kiếp của mình gọi là Túc Mạng Minh (Pubbenivasanusatinãna).

Qua canh hai, Bồ tát dùng Tuệ giác soi cùng khắp ba giới bốn loài thấy chúng sanh bị trầm luân trong sáu nẻo luân hồi (Trời, Người, Súc sanh, A tu la, Ngạ quỷ, Ðịa ngục) do sự gây nhân tạo nghiệp (Nhân quả báo ứng). Tuệ giác này gọi là Thiên Nhãn Minh (Cutuppatanàna).

Qua canh ba, Bồ tát dùng Tuệ giác quan sát đời sống của chúng sanh thấu rõ pháp Tứ Ðế (Catu àriyasacca) là bốn điều chân thật về:

- Cái Khổ trong Ðời

- Nhân sanh Khổ

- Sự Diệt Khổ

- Phương pháp Diệt Khổ.

Tuệ giác này gọi là Asavakkhayànàna (Lậu Tận Minh).

Ðắc được ba cái Tuệ giác nói trên, Bồ tát thấu rõ cái định luật cấu tạo sáu loại chúng sanh trong ba cõi: (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) nên không còn dính mắc trong định luật ấy tức là hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Từ đây Bồ tát đã chứng quả Vị Phật cũng gọi là đạo quả Niết bàn Vô sanh Bất diệt.

34. Bồ tát Gotama thành Phật rồi, còn ở trong rừng Uruvela bao nhiêu ngày?

Từ nay không còn dùng hai chữ Bồ tát nữa bởi Bồ tát (Bodhisatta) có nghĩa là chúng sanh có Trí tuệ. Khi chúng sanh ấy đã thành Phật rồi ta phải dùng danh từ Phật Gotama (Buddha Gotama) hay Phật Thích Ca Mâu Ni (Buddha Sakya Muni).

Trong lịch sử có chỗ nói rằng: Ðức Phật ở lại rừng Uruvela bảy tuần nhật (49 ngày), có chỗ nói Ngài ở bốn tuần (28 ngày).

a) Sau khi đạt được chân lý rồi, Ðức Phật nhập Ðại định trọn bảy ngày dưới cội Bồ đề. Qua bữa thứ tám Ngài đến tĩnh tọa dưới cây Ajapàla (cây dừng) gần đó để suy nghĩ về đạo quả mà Ngài đã chứng ngộ. Ngài thấy chân lý đem lại hạnh phúc tối cao nhưng rất khó đạt. Chỉ có bậc Minh triết, đại hùng đại lực mới tu chứng được. Nhân loại đương xao xuyến theo bản năng chỉ biết vui thú trong vòng trần tục, nên không thể nhận thức được luật Tuần hườn, luật Nhân quả: khó hấp thụ được giáo lý của Như Lai, bởi giáo lý ấy bắt buộc phải xa lánh thế sự, thắng phục dục vọng luyến ái mới tiến được trên đường giải thoát.

b) Nghĩ như thế Ðức Phật do dự rồi xét lại thấy cần phải đem đạo pháp ra chỉ dạy cho người đời bằng một đường lối rõ rệt và giản dị, để tùy căn cơ và duyên nghiệp, mỗi người có thể thấu rõ được ít nhiều chân lý. Chỉ có phương pháp ấy mới phổ độ được chúng sanh và để cho họ có quyền bình đẳng tự do trên đường tu học. Ðó là ý định của Ðức Phật về phương cách Hoằng pháp độ sanh.

35. Nghe rằng Ðức Phật có một kẻ cừu địch đeo theo phá khuấy, nhiễu hại, kẻ đó là ai?

Người xưa hay dùng thí dụ, ngụ ngôn cùng nghĩa bóng cốt yếu để tô điểm thêm vẽ huyền bí cho những đoạn lịch sử của vị Giáo chủ. Nhiều kinh sách chứa đầy sử tích thần thoại, không thích hợp với đời nay lại còn làm cho thương tổn giá trị của nền đạo giáo cao siêu của Ðức Phật. Người ta muốn che đậy những sự thật đã xảy ra, chẳng qua là sợ giảm uy tính và thanh danh của bậc Chí tôn. Vì đó người ta trừu tượng một con quỷ để làm kẻ cừu địch của Ðức Phật. Con quỷ ấy được đặt tên là Ma vương. Tùy trường hợp Ma vương có nhiều nghĩa:

- Ma vương là tượng trưng của thú tánh bản năng, tật xấu, khuynh hướng theo đời, mọi sự khổ não, phiền muộn, tham muốn.

- Ma vương là những gì cột trói con người trong vòng sanh tử luân hồi, trong biển khổ trầm luân.

- Ma vương là Tử thần, là chúa của cõi trời thứ sáu trong Dục giới gọi là cõi Tự tại biến hóa.

- Ma vương đóng vai trò tương trợ như Sa tăng bên Thiên chúa giáo. Ðức Chúa Jésus bị Sa tăng cám dỗ trong bãi sa mạc như thế nào, dưới cội Bồ đề, Ðức Phật Gotama bị Ma vương cám dỗ muờng tượng như thế ấy.

36. Lúc nào Ðức Phật cảm thắng Ma vương?

Lúc hoàng hôn, trước giờ Thành đạo, Bồ tát Siddhattha chiến đấu để dẹp yên trận giặc lòng (Như đã ghi chép nơi câu giải số 30 đoạn a và b).

37. Xin cho biết Ðức Phật cảm thắng Ma vương như thế nào?

Dưới tựa đề: "Ðức Phật cảm thắng Ma vương" sách ghi rằng: Ðược báo tin nguy cấp, kẻ thù không dung thứ được là Sa môn Gotama sắp thành Phật, Ma vương cấp tốc huy động một ngàn người con và các tướng soái rần rộ kéo binh bao vây Bồ tát. Một đạo binh ghê tởm, chưa từng nghe, chưa từng thấy toàn là những quái vật kỳ hình, dị tướng, lưỡi dài, nanh nhọn, mắt lửa, nhóm không tay, nhóm cả ngàn tay, nhóm không đầu, nhóm cả ngàn đầu, đủ loại yêu quái, có lũ mang sọ người, lũ khác phun ra những rắn độc, nhóm thì xô đá, lăn cây, xạ tên, nhóm làm mưa, làm sấm sét, vận dụng toàn lực, cố hạ sát cho được vị Sa môn cô độc đương tĩnh tọa dưới cội Bồ đề. Ma vương chỉ huy đốc suất nhưng binh ma tướng quỷ chẳng hề va động tới chân lông của Bồ tát. Các pháp Ba la mật và lòng Từ bi Vô lượng của Ngài làm một hàng rào kiên cố, bảo vệ Ngài bình an vô sự. Tên bắn vào như mưa, mũi nào cũng tà đầu và trở thành những đóa hoa tươi đẹp nằm ngổn ngang chung quanh Ngài.

38. Lúc nào Ðức Phật bị ba nàng con gái của Ma vương cám dỗ?

Ðể tô điểm câu giải 30 đoạn c) trên đây, người ta thuật rằng sau khi thất bại trong trận đột kích vị Sa môn Cồ Ðàm, Ma vương sai ba người con gái đến cám dỗ Bồ tát, nghĩ rằng khí giới không thắng được vị Thầy tu cô độc, có lẽ bùa mê của sắc đẹp sẽ làm xiêu lòng vị này một cách dễ dàng. Ba nàng kiều mỹ tên Tanha (Ái dục), Arati (Tình yêu), Raga (Tham ái) vâng lệnh Cha đến trêu ghẹo Bồ tát. Sắc phục và trang điễm lộng lẫy, ba cô ca hát, múa nhãy, trừng liếc, rủ rê; người thì khêu chọc, người lại tỏ vẽ bẻn lẻn thẹn thùng. Bao nhiêu nghệ thuật khêu gợi dục tình chẳng hề làm rung động Bồ tát (Theo sách khác, ba nàng này đến quyến rủ Ðức Phật trong tuần lễ thứ năm sau khi Ngài đắc đạo).

39. Lúc nào Ma vương thỉnh Ðức Phật nhập Niết bàn?

Chính lúc Ðức Phật đương suy nghĩ thấy giáo lý của Ngài cao siêu, khó hiểu, khó hành, khó cho người đời hấp thụ được (Xem câu giải số 33 đoạn a). Lúc ấy Ma vương biết được tâm Phật đương băn khoăn về vấn đề Hoằng pháp, chen vào yêu cầu Ngài nhập Niết bàn an nghỉ, bởi chúng sanh ngu muội không thể cứu độ được. Ma vương lo sợ chúng sanh siêu thoát theo Phật, mà trần gian không còn ai để thống trị.

40. Lúc nào Trời Phạm Thiên đến thỉnh Ðức Phật khai đạo cứu đời?

Kế tiếp thấy Ðức Phật do dự (xem giải câu 33 đoạn b) Vua trời Phạm Thiên Brahma Sahampati xuống yêu cầu Phật Tổ mở rộng cửa Chân lý cho chúng sanh nhờ.

41. Sự thật rất giản dị mà người ta lại bày vẽ thêm nhiều chuyện phi thường, ắt cũng do một duyên cớ nào?

Trong đời thượng cổ, dân chúng xứ nào cũng tin tưởng nơi thần quyền, chuyện một họ bịa đặt ra mười, truyền khẩu đời này qua đời khác, sau lại các nhà viết sách "Thánh nhân Liệt truyện" chỉ dựa theo tục truyền trong dân gian, rồi tùy thích tô điểm cho thích hợp với tín ngưỡng của thời đại. Chính các nhà viết sách ấy cũng đồng một khuynh hướng thần thoại của thời đại ấy. Chỉ có những cổ truyền do các vị Tỳ kheo, mắt thấy, tai nghe, viết để lại thì vắn tắt và giản dị nhưng bị xem như là khô khan thô thiển. Chính trong thời đại văn minh khoa học này cũng còn nhiều dân tộc giữ vững đức tin theo học thuyết thần quyền, yêu chuộng triết lý siêu hình hơn chứng cớ thiết thực.

42. Sau khi đã quyết định đem đạo giải thoát ra chỉ dạy cho chúng sanh, Ðức Phật còn suy tính chi nữa?

Ðức Phật còn tĩnh tọa dước cội cây Ajapala và dưới nhiều cây cổ thụ khác trong vùng Uruvela thêm ba tuần lễ nữa để thưởng thức hạnh phúc tối đại của đạo quả Niết bàn và suy nghĩ về phương cách mở đạo. Trọn 28 ngày, nhờ tọa hưởng lạc thú giải thoát. Ðức Phật không biết đói khát. Qua ngày thứ 29, Ngài định ra đi truyền đạo và mở lời tuyên minh rằng: "Từ nay cửa Chân lý đã rộng mở, ai có tai cứ nghe lời thuyết giáo của Như Lai và trọn đời hành theo.”

43. Trọn bốn tuần nhật không ăn uống, Ðức Phật cũng ra đi được sao?

Vừa lúc ấy có một đoàn xe 500 cổ từ xứ Ukala (nay thuộc địa phận tỉnh Grandjàm), thuộc miền Nam, chở hàng hóa lên miền Bắc như Bayà, Rajagaha, Vésali vừa đến địa phận làng Uruvela, có nhiều xe bị trục trặc, cái thì sút bánh, cái thì bị lún cát, cái thì bị bò chứng không chịu đi tới, làm cho mọi người lo sợ, không biết điềm lành dữ. Hai người lái buôn, chủ của đoàn xe tên Tapussa (Sa Lệ Phú Ba) và Bhallika (Bấc Lê Ca) nhãy xuống rảo bước xem coi có việc chi bất thường chăng. Hai người chợt thấy Ðức Phật đương tĩnh tọa dước cội cây Tàràyana, hào quang tủa sáng như mặt trời ban mai, họ định tỉnh tinh thần và nói với nhau: Ðây là một vị Thánh nhân và giờ này có lẽ Ngài cũng sắp thọ trai, vậy chúng ta nên đem vật thực cúng dường cho Ngài. Tapussa và Bhallika trở lại xe lấy món thực phẩm nấu mật và mía róc, đến gần mọp lạy dưới chân Ðức Phật và sau khi đi ba vòng quanh Ðức Phật, đứng chấp tay cung kính bạch: Xin Ðức Thế Tôn xuống phước thọ nhận vật thực chúng tôi đem đến dâng cúng cho Ngài.

44. Ðức Phật thọ lãnh vật thực bằng cách nào?

Các vị Phật chẳng hề đưa tay ra thọ nhận vật thực của thí chủ cúng dường. Ðức Phật tự hỏi phải làm thế nào để giữ cho đúng phong cách của Bậc Chánh giác. Liền khi ấy Tứ đại Thiên vương hiện đến dâng cho Ngài một cái bình bát bằng đá. Hai người lái buôn liền để vật thực vào bát dâng lên cho Ðức Phật (Nội vấn đề "Bình bát" các nhà lịch sử cũng thêu dệt nhiều thuyết hoang đường, thấy không bổ ích nên xin miễn thuật).

45. Sau khi thọ thực rồi, Ðức Phật có nói chi với hai chàng lái buôn không?

Ðức Phật có ban ít lời khích lệ để nâng đỡ tinh thần sùng mộ của hai người và tặng một bài kệ hộ thân, gồm những lời ca tụng tán dương Ân đức của các vị Trời ở bốn phương tám hướng nhất là Tứ Ðại Thiên vương và Ngọc Hoàng Ðế Thích thường hộ trì bốn châu thiên hạ. Kệ ấy có năng lực đem lại sự an lành cho họ và đoàn tùy tùng và sự may mắn trên bước thương trường.

46. Hai người lái buôn ấy nghĩ sao?

Hai người rất thỏa thích, liền xin qui y với Ðức Phật và cầu xin Ngài ban cho một vật kỷ niệm để tôn thờ.

47. Ðức Phật có làm vừa lòng họ không?

Ðức Phật hoan hỷ cho họ qui y theo Ngài và cho họ ít sợi tóc và rẻo móng tay làm kỷ niệm.

48. Sự qui y của hai người thiện nam đầu tiên này có ý nghĩa chi khác không?

Hai vị thương gia Tapussa và Bhallika này là hai người tâm đạo sâu sắc, thấy Ðức Phật biết Ngài là bậc Thánh nhân, phát tâm trong sạch dâng vật thực cho Ngài (sau buổi đắc đạo) và xin làm thiện nam đầu tiên trong Phật giáo. Hành động của họ khác hơn nàng phú gia Sujata là người có đức tin thiển bạc, tưởng Bồ tát là vị Thọ thần, dâng bát cơm sữa cho Ngài (trước giờ Thành đạo) để trả lễ cho một lời khấn vái bông lông. Hai sự cúng dường có giá trị khác nhau. Ðức tin nào căn cứ nơi bằng chứng thiết thực mới gọi là Chánh tín. Hai người thiện nam đầu tiên này là tượng trưng của đức tin chân chánh. Rường cột trung kiên của Phật giáo là hạng Tín đồ biết phân biệt chánh tà, biết nhận định chân giả.

49. Hai ông Tapussa và Bhallika làm gì với tóc và móng tay của Ðức Phật?

Hai người này cầm đầu đoàn thương đội, đi từ Nam lên Bắc, từ Bắc xuống Nam, và nhiều khi mướn thuyền vượt biển sang qua các xứ hải ngoại. Ði đến đâu họ đem vật kỷ niệm ấy ra chiêm bái và gây ảnh hưởng tốt đẹp cho sự truyền bá Phật Pháp. Sau lại hai người lái buôn đến kinh doanh lập nghiệp tại Miến Ðiện, xây tháp thờ tóc và móng tay của Ðức Phật tại thành Rangoon (Ngưỡng Quãng). Vua Miến Ðiện cũng như các vị Vua xứ kế cận, nhờ sự loan truyền tin tức của hai ông Tapussa và Bhallika, sang tận Ấn Ðộ ra mắt Ðức Phật, thọ giáo qui y, đem lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn về khuyên dạy dân chúng và bắt đầu tham dự vào công việc kiến trúc đền thờ Xá Lợi tóc và móng tay, tiếp sức với hai vị cư sĩ đầu tiên khuyếch đại Thánh tháp, đến nay đền thờ ấy trở thành một kỳ quan vô giá tại trung tâm kinh đô Miến Ðiện gọi là Shwedagon.

II/ TRÊN ĐƯỜNG HOẰNG PHÁP CỦA PHẬT TỔ GOTAMA

A. Từ Buddha Gaya (Bồ đề đạo tràng) đến vườn Isipatana (Lộc Giả)

50. Sau cuộc gặp gỡ hai vị thương gia, Ðức Phật định đi truyền đạo cho ai trước nhất?

Ðức Phật rời khỏi rừng Uruvela đi về hướng Tây Bắc đến rừng Isipatana (Lộc Giả), hiện giờ là Sarnath cách Bénarès tám cây số để tìm năm Thầy Kondanna (Kiều Trần Như), là năm người đồng tu khổ hạnh cùng Ngài và đã rời bỏ Ngài khi thấy Ngài không còn tu pháp hành xác nữa.

51. Tại sao Ðức Phật không trở về Kapilavastu, truyền đạo cho Vua cha trước nhất?

Vừa khi đắc đạo Ðức Phật đã nhớ Cha Mẹ và hai vị Ðạo sĩ Alara và Uddaka. Ngài thấy duyên kỳ của Vua cha và quyến thuộc của Ngài chưa đến, nên chưa vội trở về quê hương. Ngài biết hai ông Alara và Uddaka đã từ trần: Ông thứ nhất vừa được một tuần nhựt, ông thứ nhì trong ba ngày vừa qua. Người đầu tiên được Ðức Phật tế độ là Hoàng hậu Maya. Tại Buddha Gaya còn một tháp kỷ niệm ghi dấu chỗ Hoàng hậu Maya từ cung trời xuống thọ giáo với con Bà (Theo một nguồn lịch sử khác, Hoàng hậu Maya được Ðức Phật tế độ bảy năm sau).

52. Trên đường đi từ chỗ đắc đạo quả (Buddha Gaya) đến vườn Isipatana (Lộc Giả), Ðức Phật có gặp ai không?

Trên khoảng đường 10 cây số, từ Buddha Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) tới thành phố Gaya, Ðức Phật gặp một Thầy Bà la môn tên Upaka. Ông này thấy dung mạo của Ðức Phật rất phong nhã và trầm tĩnh, đứng lại kêu hỏi:

- "Thầy của Ngài là ai? "

Ðức Phật trả lời:

- "Ta không có Thầy và cũng không ai bằng Ta; Ta là một vị Phật.”

Ông Upaka ngạc nhiên nói lớn lên:

- "Không lẽ Ngài quá quắt đến đổi tự xưng là một bậc Thánh nhân nữa sao?"

Ðức Phật đáp lời:

- "Chính ta đây là bậc Thánh nhân, bậc Thầy Tối thượng của Thế gian.”

Ðạo sĩ Upaka càng ngạc nhiên hỏi rằng:

- "Không lẽ Ngài quá quắt đến đổi tự xưng là một Ðấng Toàn thắng? "

Ðức Phật liền đáp:

- "Thật vậy, Ta là Ðấng Toàn thắng, thắng tất cả những thị dục trụy lạc suy đồi.”

Tới đây Thầy Bà la môn trở giọng:

- "Thầy đi đâu mà hối hả vậy?"

- "Ta đi đến Bénarès (Ba La Nại), đem giáo lý mới ra giảng để thức tỉnh người đời trong giấc mê mộng.”

- "Tốt lắm, tốt lắm, Thầy cứ đi đi, nói rồi Ðạo sĩ Upaka đi thẳng về hướng Nam, Ðức Phật trực chỉ về hướng Bắc.”

53. Ðến rừng Isipatana (Lộc Giả), các vị Ðạo sĩ khổ hạnh có vui lòng tiếp rước Ðức Phật chăng?

Các vị Ðạo sĩ không muốn tiếp rước Ðức Phật vì họ không còn tin tưởng nơi Ngài. Nhưng tướng hảo quang minh của Ngài làm cho các Thầy phải xúc động, cảm giác hân hoan, khiến họ phải nghiêng mình chào hỏi và cung kính nghe Ngài thuyết giáo.

54. Lần mở đạo đầu tiên này kêu là chi?

Danh từ thường dùng trong Phật giáo là "Ngày Ðức Gotama chuyển Pháp luân.” Ðây có thể gọi là lễ khai mạc của nền Giáo pháp đạo đức cho thế gian, hay là lễ đặt nền tảng của định luật công bình vĩnh viễn, hoặc là ngày "Bánh xe Pháp bắt đầu luân chuyển trên thế gian.”

55. Ðức Phật dạy những chi mà gọi là Chuyển Pháp luân?

Ðức Phật đặt nền tảng của đạo. Khởi đầu Ðức Phật dạy phải xa lánh hai điều thái quá:

1. Chẳng nên say đắm theo cuộc đời vui sướng, khoái lạc vì đó là đường lối thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng đáng, vô ích, không đưa đến chỗ giải thoát.

2. Chẳng nên sống một cuộc đời kham khổ, hành thân hoại thể, làm cho hao mòn sức khỏe vì đó là đường khổ hạnh, vô ích, không đem lại kết quả tốt đẹp.

Như Lai đã tránh hai cực đoan ấy và nhờ đi trên đường trung đạo, không lợi dưỡng, không hành xác, nên Như Lai tìm được sự an tịnh, sự hiểu biết, sự sáng suốt. Như Lai được hoàn toàn giải thoát khỏi nẻo sanh, già, đau, chết. Như Lai đã chứng đạo quả Niết bàn.

Như Lai đã tìm ra bốn điều xác thật (Tứ Diệu Ðế: Catu àyasacca):

a) Khổ Diệu Ðế: Dukkha Ariyasacca

b) Tập Diệu Ðế: Samudaya Ariyasacca

c) Diệt Diệu Ðế: Nirodha Ariyasacca

d) Ðạo Diệu Ðế: Magga Ariyasacca

a) Khổ Diệu Ðế: Dukkha Ariyasacca

Ðây là sự xác thật cao thượng về cái khổ: Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ; hiệp với nhân vật mà mình không ưa là khổ; xa lìa nhân vật mà mình yêu mến là khổ. Tóm lại đời sống là khổ.

b) Tập Diệu Ðế: Samudaya Ariyasacca

Ðây là sự xác thất cao thượng về khởi nguyên của cái khổ: Sự khao khát được sinh tồn mãi mãi, hằng đem lại sự tái sanh này đến sự tái sanh khác với bao nhiêu sự vui thích, Ái dục, mong tìm kiếm đây đó vật vừa lòng đẹp ý. Tóm lại tất cả những khát vọng vui sướng, khát vọng sống còn, khát vọng thay đổi triền miên là nguyên nhân đem lại sự khổ.

c) Diệt Diệu Ðế: Nirodha Ariyasacca

Ðây là sự xác thật cao thượng về sự diệt khổ: Dập tắt sự khao khát ấy bằng cách tiêu diệt hoàn toàn Ái dục, khai trừ Ái dục, từ bỏ, thoát ly Ái dục, không còn dư sót chút nào.

d) Ðạo Diệu Ðế: Magga Ariyasacca

Ðây là sự xác thật cao thượng về con đường diệt khổ: Ấy là Bát Thánh Ðạo (Atthangikà Magga), con đường siêu việt có tám chi:

- Chánh Kiến (Sammà Ditthi)

- Chánh Tư Duy (Sammà Sankappa)

- Chánh Ngữ (Sammà Vãcã)

- Chánh Nghiệp (Sammà Kammanta)

- Chánh Mạng (Sammà Ãjìva)

- Chánh Tin Tấn (Sammà Vãyãma)

- Chánh Niệm (Sammà Sati)

- Chánh Ðịnh (Sammà Samàdhi).

56. Pháp Tứ Ðế là nền tảng của Phật giáo nhưng Ðức Phật giải tóm tắt quá, liệu chúng sanh có hiểu được không? Vậy xin lược giải theo thông thường để thấy rỏ đó là pháp cần yếu của người tu Phật.

Ðức Phật dạy rằng đời sống là khổ. Sự đau khổ của con người có nhiều hình thức khác nhau; trước nhất là bốn đại khổ về xác thân: sanh, già, đau, chết. Ngoài những nổi khổ không ai nhớ được từ lúc ở trong bụng mẹ đến ngày mở mắt chào đời, xác thân là nơi phát sanh đủ thứ bệnh hoạn, không nhiều cũng ít; càng sống càng già, ngũ tạng lục phủ càng suy nhược, lụn bại, để rồi phải chết, phải tan rả. Không một chúng sanh nào không sợ chết. Sợ chết tức là muốn sống. Muốn sống nên luôn luôn phải đề phòng ngăn ngừa bệnh hoạn, để bảo tồn xác thân, săn sóc cho nó lâu già; nhưng càng cố gắng duy trì xác thân, càng thấy ta bất lực: đau nó vẫn đau, già nó vẫn già, chết nó vẫn chết.

Ngoài cái khổ của xác thân, con người còn nhiều cái khổ về tinh thần: sống chung chạ với kẻ mình không ưa thích, xa lìa những nhân vật thân yêu, muốn giàu sang, muốn có hạnh phúc, mà muốn không được; đó là khổ tinh thần. Trong khi khao khát món này vật nọ, cùng danh lợi quyền tước, phải khổ tâm lao trí, tìm ra mưu này chước nọ, lắm khi không chánh đáng, trái ngược với luân thường đạo lý với pháp luật. Ðạt được mục đích rồi, chưa kịp toại hưởng hạnh phúc, đã phải lụy mình vì nó. Nếu mục đích ấy là chánh đáng, khi đạt được rồi, cũng phải khó khăn cực nhọc, tận tụy bảo tồn nó.

Kết cuộc đời người hẳn thật khổ nhiều vui ít. Vì bám vào cái vui ngắn ngủi khó kiếm ấy, mà người sang kẻ hèn đều quên hết nỗi khổ. Không thấy khổ nên mọi người cho đời là sướng và luôn luôn muốn sống. Sống để hy vọng tìm đôi chút thú vui giữa muôn ngàn nỗi khổ.

Ðó là Khổ Diệu Ðế, cái khổ hiển nhiên không chối cải được.

Muốn sống tức là tự cột trói mình vào guồng máy vô hình của bánh xe luân hồi. Dầu muốn dầu không, dầu tin hay không tin, bao nhiêu khát vọng danh lợi phù ba, bao nhiêu thèm thuồng hạnh phúc giả tạm; gọi chung là Ái dục, là nhân đem lại sự khổ.

Ðây là Tập Diệu Ðế, nguồn gốc hiển nhiên của cái khổ là Ái dục.

Ðời sống của mỗi người luôn luôn bị xao xuyến, bị đau khổ, bị quấy nhiễu, không giờ khắc nào yên ổn, do nộc độc của Ái dục. Muốn dập tắt cái tham tâm vô độ ấy, chỉ có cách xa lìa thế sự, dứt bỏ cái khổ của đời. Người nào tự thấy không chịu đựng nỗi với cái khổ ấy thì cứ trút bỏ nó đi. Ðang cơn đau gặp thuốc điều trị, còn muốn gì nữa, còn chờ gì nữa?

Diệt Diệu Ðế tức là diệt Ái dục.

Khổ bệnh đã tiết lộ, căn bệnh đã khám phá, phương pháp giải độc đã tìm ra, bây giờ tới lúc phục dược để trừ căn. Luơng dược này không ai bán, cũng không tốn kém chi cả. Nó là một thứ thuốc đạo đức, có tám vị:

- Chánh Kiến (Sammà Ditthi): Hiểu biết chân chánh, ngay thẳng, đúng đắn, xác thật, đề tìm chân lý.

- Chánh Tư Duy (Sammà Sankappa): Quyết định đúng đắn, ý chí cương quyết, suy xét tường tận, để bước lên con đường giải thoát, lập hạnh Từ bi hỷ xả, không lo nghĩ đến oán thù nhiễu hại chúng sanh.

- Chánh Ngữ (Sammà Vàcà): Dùng lời nói chánh trực, chân thật, nhất định, không nói dối, không nói hành, không nói lời thô lỗ, không nói chuyện vô ích.

- Chánh Nghiệp (Sammà Kammanta): Làm mọi việc lành, tránh mọi điều ác, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.

- Chánh Mạng (Sammà Àjìva): Nuôi mạng bằng những phương pháp chân chánh; tránh nghề hung ác như đồ tể, thợ săn, bán thuốc độc, bán khí giới.

- Chánh Tin Tấn (Sammà Vàyàma): Sốt sắng dập tắt khuynh hướng xấu xa sẵn có hoặc sắp có, tăng cường khuynh hướng tốt đẹp đã có hoặc sắp có.

- Chánh Niệm (Sammà Sati): Phải làm chủ lấy mình, lanh trí, ghi nhớ và luôn luôn biết mình, chú ý đến hành động, cảm giác, tư tưởng của mình.

- Chánh Ðịnh (Sammà Samàdhi): Thực hành Thiền định, từ thấp lên cao, để rèn luyện tâm trí, khai thông trực giác.

Ðây là Ðạo Diệu Ðế, con đường đi đến nơi diệt tận những thống khổ, tức là Niết bàn.

57. Buổi lễ khai đạo có đem lại kết quả chi cho năm Thầy Kiều Trần Như chăng?

Năm Thầy nhìn nhận Ðức Phật là đuốc Tuệ để soi sáng thế gian và xin thọ giáo làm đệ tử. Ðức Phật liền thâu nhận họ vào hàng Thanh văn đầu tiên trong Giáo đoàn Tăng lữ và phán rằng: "Này chư môn đệ, đạo pháp đã được minh khai, từ nay các Thầy đã hoàn toàn là bậc Thánh nhân giải thoát mọi điều khổ não.”

58. Vị nào được chứng quả trước nhất?

Ông Kondanna (Kiều Trần Như). Tuệ nhãn viên minh thấu rõ chân lý, ông đã chứng quả thứ tư, cùng tột trong hành Tứ Thánh gọi là Ðại A la hán.

Bốn vị sau, lần lượt cũng đồng chứng quả như ông, sau khi Ðức Phật thuyết ba lượt pháp Tứ Ðế cho các Thầy nhận thức rõ rệt.

59. Ngoài mục đích tế độ năm Thầy Kiều Trần Như, Ðức Phật còn có ý định chi khác chăng?

Ðức Phật nhắm vào hai mục đích: Khai đạo và thành lập Giáo hội Tăng già. Sau khi chuyển Pháp luân, Ðức Phật thâu nhận năm vị đệ tử A la hán vào hàng Tỳ kheo (Bhikkhu) để chung lo việc Hoằng pháp của Ngài.

Từ nay trong Phật giáo có ba ngôi chí tôn:

 Ngôi Phật chính là Ðức Phật vị Giáo chủ sáng lập đạo Phật.

 Ngôi Pháp là Giáo pháp của Ngài

 Ngôi Tăng là Hàng Thanh văn trong bốn bậc Thánh:

- Tu đà hườn

- Tư đà hàm

- A na hàm

- A la hán

Ba ngôi ấy cũng gọi là Ngôi Tam bảo, rất quí báu, đáng cho chúng sanh nương nhờ để tìm đường giải thoát, đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường. Người nào gặp duyên may, phát tâm tín ngưỡng, dâng cúng vật thực, thuốc men, y bát, chỗ ở đến các Ngài thì sẽ được hưởng nhiều phước báu. Các Ngài đã hoàn toàn giải thoát, thân tâm trong sạch, không còn một bợn trần nhơ, một tí tội lỗi, ví như phước điền để cho chúng sanh gieo trồng giống lành, dọn đường thẳng tiến đến Niết bàn.

60 Ðịnh nghĩa của các danh từ như Tỳ kheo, Thanh văn, Thánh Tăng, khác nhau thế nào?

a) Tỳ kheo (Bhikkhu) là Thầy tu chánh thức trong Phật giáo, thường ngày đi trì bình khất thực để nuôi mạng. Xin được món chi ăn món nấy, không được đòi hỏi cùng khen chê và mỗi ngày chỉ được phép ăn trước giờ Ngọ. Có hai hạng Tỳ kheo:

1. Trong thời kỳ Ðức Phật còn tại thế, những người đã có tu hành nhiều kiếp, được duyên dầy quả đủ, khi nghe Ðức Phật thuyết pháp liền chứng đạo quả Tứ Thánh, từ Tu đà hườn đến A la hán và những người có nhiều duyên lành, gần đến thời kỳ chứng đạo quả, phát tâm trong sạch xin xuất gia theo Phật, liền được Ðức Thế Tôn cho xuất gia. Lúc ấy chưa có điều luật. Ðức Phật chỉ nói: "Vào đây Thầy Tỳ kheo, để thực nghiệm đời sống phạm hạnh hầu diệt tận nguồn khổ.” Liền khi ấy người xin xuất gia, nhiều ít chẳng hạn, dầu là người cư sĩ hay ngoại đạo giàu sang hay nghèo hèn, mất hẳn sắc tướng trần tục của họ, trở thành vị Tỳ kheo xuất gia từ lâu. Các vị này có cái biệt danh là Èhi Bhikkhu: Thiện lai Tỳ kheo.

2. Sau lại số người xin vào đạo rất đông và có nhiều người không đủ điều kiện, Ðức Phật phải chế định ra qui tắc gắt gao: Người muốn xuất gia ít nhất phải đúng 20 tuổi, phải có cha mẹ cho phép, phải là người có đầy đủ sức khỏe, không bệnh hoạn, truyền nhiễm như phong cùi, ho lao, v.v..., không thiếu nợ nần, không bị án tiết, không trốn xâu lậu thuế và phải trải qua một thời gian tập sự, ít nhất là 4 tháng học Giới luật, trau giồi hạnh kiểm phải được một Thầy Tỳ kheo kỳ cựu ít nhất 10 năm kinh nghiệm, thông suốt kinh luật đứng ra bảo đảm và trình diện, để chịu khảo thí trước một Giáo hội có từ 10 vị Tỳ kheo sấp lên thông hiểu Phật Pháp. Khi được Ban Giám khảo chấp nhận thì vị Thầy tu liền được đặt vào một địa vị cao thượng. Ðịa vị ấy luôn luôn phải biểu hiện bằng cử chỉ, hạnh kiểm, hành động, lời nói, tư tưởng cao đẹp hơn người thế tục.

Trong Phật giáo còn hạng Sa di (Samanera) là những đạo tiểu từ 7 tuổi sắp lên, được các vị Trụ trì thâu nhận vào học kinh luật, chờ đúng tuổi xuất gia Tỳ kheo.

b) Thanh văn là những Thầy Tỳ kheo hoặc Sa di chỉ nghe lời thuyết pháp của Ðức Phật mà chứng ngộ được Chân lý, đắc đạo quả Tứ Thánh.

c) Thánh Tăng là các vị Tỳ kheo đã vào dòng Thánh như Chư Thanh văn nói trên.

B. Từ Isipatana (Lộc Giả) đến thành Bénarès (Ba La Nại)

61. Ðộ được năm Thầy Kiều Trần Như rồi, Ðức Phật đi đâu?

Từ rừng Lộc Giả, Ðức Phật và năm Thầy Kiều Trần Như sang qua thành Bénarès, cách đó 8 cây số về hướng Nam. Ðến nơi có một Thầy Bà la môn xin xuất gia vào hàng Tỳ kheo để phục vụ Ðức Phật. Ông ấy tên Naradatta, con của người chị ruột và học trò kế nghiệp của Ðạo sĩ Asita.

Ba mươi lăm năm trước về trước, lúc Bồ tát Siddhattha ra đời, có ứng hiện điềm lành. Ðạo sĩ Asita cùng một chú tiểu là cháu của ông đương tu trên núi Hy Mã Lập Sơn, đoán biết có quế nhân xuất hiện, nên hai cậu cháu hạ san tìm đến thành Kapilavastu, xin ra mắt Hoàng tử để xem tướng cho tường tận. Xem rồi Ðạo sĩ Asita cho Ðức Vua Suddhodanna biết rằng Hoàng tử lớn lên sẽ xuất gia tu hành đến quả vị Phật. Xét lại thấy tuổi ông đã già không thể sống đến thời kỳ Bồ tát Thành đạo, để nhờ Ngài tế độ, ông tủi phận than khóc. Trở về núi, trước khi qua đời, Ðạo sĩ Asita khuyên cháu lo trau giồi Thiền định và dọn mình chờ ngày thọ giáo với Ðức Phật. Ông Naradatta đoán biết Ðức Phật sẽ đến Bénarès, nên chực đón Ngài. Ðược nghe giáo lý của Ðức Thế Tôn, ông Naradatta liền ngộ đạo, chứng quả A la hán. Ông lấy pháp danh là Maha Kàtyàyana. Về sau ông là một sứ đồ quan trọng giúp Ðức Phật rất đắc lực; chính ông lãnh sứ mạng đem Phật Pháp đi truyền bá về miền Tây và Bắc Ấn Ðộ, tận xứ Pamirs (Nga và A Phú Hản).

62. Ðức Phật còn độ được ai nữa chăng?

Trong một trường hợp khác thường, Ðức Phật độ một gã thanh niên danh tiếng, tên Yasa (Cũng gọi Yasas hay Yosada), con duy nhất của một nhà triệu phú tại Bénarès. Gã thanh niên này sống một cuộc đời đầy hạnh phúc, chẳng thua kém một vị Hoàng tử, trong một tòa lầu cực kỳ sang trọng, với một người vợ đẹp và một nhóm hầu thiếp. Một đêm nọ, thức giấc, chàng dòm thấy những người yêu của chàng, đương say mê trong giấc điệp, nằm sóng sượt như những thây ma, chàng liền phát tâm ghê gớm, nhờm chán; rồi nghĩ đến cuộc đời, chỉ có cái dạng bề ngoài làm cho chàng mê đắm, quên tìm một lẽ sống cao thượng, khác thường, thích hợp với phẩm cách của người thiện trí thức. Suy tính đến đó, dường như có một mãnh lực vô hình thúc đẩy, chàng phải mau mau tẩu thoát khỏi nhà, để tìm hạnh phúc siêu việt vĩnh viễn. Chàng liền mở cửa xuống lầu ra đi. Trên buớc đường vô định, chàng đến bờ sông Vànàrà; thấy nước cạn, cát phơi trắng trẻo, chàng bỏ dép, xăn quần lội qua sông, đến xóm Vàrànasi, thuộc về ngoại ô của thành Bénarès, ở giữa hai ngọn rạch Vãnãrã và Asĩ, rất thanh vắng lại có nước trong gió mát. Chính nơi đây là chỗ Ðức Phật và 6 vị đồ đệ tạm trú dưới cội cây cổ thọ. Ði trờ tới chàng gặp Ðức Phật và 6 vị A la hán đương ngồi tĩnh tọa, hào quang sáng rở. Chàng mừng gặp được Thánh Nhân, liền đến quỳ lạy đảnh lễ và xin thọ giáo. Ðức Phật biết duyên lành của chàng Yasa đã đến, nên cho xuất gia làm Thiện lai Tỳ kheo (Èhi Bhikkhu), rồi giảng đạo cho nghe; trong chốc lát Thầy Yasa chứng đạo quả A la hán.

Sáng ngày, thấy mất chàng, cả nhà tuôn ra đi kiếm cùng khắp mọi nơi. Cha mẹ chàng tới bờ sông Vãnãrã gặp đôi dép của chàng, lội qua sông thấy chàng đã xuất gia đầu Phật. Cha mẹ khóc lóc khuyên nhủ bảo trở về cọng hưởng gia tài đồ sộ, mà chàng là người kế nghiệp duy nhất. Ðức Phật cho biết chàng Yasa đã đắc quả Thánh Nhân rồi, không còn sống chung với gia đình được nữa và thuyết pháp giảng đạo cho cha mẹ chàng nghe. Hai ông bà thức tỉnh xin quy y thọ giới làm người cận sự nam và cận sự nữ chánh thức trong Phật giáo. Vợ và hầu thiếp của chàng cũng đến xin quy y thọ giới và buộc lòng phải để cho chàng theo hầu Ðức Phật.

Gia đình của Ðại đức Yasa là người thiện nam tín nữ đầu tiên, chánh thức quy y Tam bảo và thọ trì Ngũ giới nghĩa là người xin nương nhờ nơi Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo và nguyện trọn đời không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

63. Tại sao ông Yasa, một thanh niên giàu có, hạnh phúc dồi dào, tương lai tốt đẹp, lại có tư tưởng và chí hướng khác thường như thế?

Theo lịch sử, ông Yasa là người đã tạo nhiều duyên lành trong tiền kiếp để làm nền tảng cho chí nguyện giải thoát, người như thế trong đời thật hy hữu. Ông là một trong 33 người đồng tâm đã làm nhiều công tác từ thiện, giúp khó trợ bần, tu kiều bồi lộ, cất nhà nghỉ mát nơi các ngã ba đường, bố thí nước cho người đi đường, thí cơm, thí cháo cho người thiếu hụt. Khi mãn kiếp, 33 người ấy được siêu sanh về cõi trời, cộng hưởng hạnh phúc lâu dài. Người làm đầu chính là Vua trời Ðế Thích Sakka.

Thuở Bồ tát Siddhattha ra đời, có hai vợ chồng vị triệu phú thương gia tại Bénarès, không con kế nghiệp, ông chồng buồn rầu. Bà vợ khuyên chồng đến cây đa cổ thọ, kế cận bên nhà, khấn vái với vị Thọ thần cho bà sanh được một mụn con trai. Ông chồng nghe lời, sắm lễ vật đến gốc đa cầu khẩn và nguyện sẽ cất một ngôi chùa xứng đáng để thờ vị Thọ thần. Bà vợ nghe lời van vái quan trọng của chồng, sợ nếu ông Thọ thần làm lơ, thì chồng bị mắc lời thề oan uổng, nên bà lật đật thêm rằng nếu lời cầu khẩn của chồng bà không được kết quả, bà sẽ đốn cây đa.

Ông Thọ thần nghe vậy lo sợ, biết rằng đàn bà có đức tin, nhưng khi họ không được vừa lòng, họ cũng dám trả thù; mà ý muốn của hai ông bà triệu phú này lại vượt khỏi quyền lực của mình; nếu lo không kham sẽ mất chỗ ở. Ông Thọ thần lật đật lên cầu khẩn Vua trời Ðế Thích. Trời Ðế Thích bảo ông an tâm trở về. Chính lúc ấy, một trong 33 vị trời sắp mãn tuổi thọ, phải hạ sanh xuống trần. Trời Ðế Thích khuyên bạn mình nên thọ sanh vào nhà vị triệu phú ở Bénarès. Ông này chối từ vì ông đã lập nguyện giải thoát trong kiếp chót ở thế gian; nếu sanh vào nhà giàu có, ắt khó bề xuất gia tu hành. Trời Ðế Thích hứa sẽ giúp bạn trong lúc cần thiết, để hướng dẫn bạn tìm đường giải thoát. Ông liền chịu xuống làm con nhà triệu phú ở Bénarès, nên khi dứt tuổi thọ ở cung trời Ðế Thích, ông hạ sanh làm con của vợ chồng ông Trưởng giả và được dặt tên là Yasa.

Lúc Ðức Phật đến ngụ tại xóm Vàrànasi, chính Trời Ðế Thích đã thức tỉnh ông Yasa và giục ông nửa đêm thức giấc đi tìm Ðức Thế Tôn. Nhờ vậy ông được nghe pháp và chứng Ðạo quả A la hán.

64. Tại Bénarès còn ai xuất gia theo Phật nữa chăng?

Tin đồn một vị thanh niên triệu phú nửa đêm bỏ nhà đi tìm Ðức Phật xin xuất gia và đắc quả A la hán, làm chấn động cả thành Bénarès. Năm mươi bốn (54) bạn thanh niên trí thức của ông Yasa, trong hàng Bà la môn, công khanh, vương tôn, rủ nhau đến xin thọ giáo xuất gia theo Phật, tinh tấn thực hành Thiền định theo phương pháp dạy bảo của Ðức Thế Tôn, lần lượt kẻ trước người sau đều chứng quả A la hán.

65. Tại sao các thanh niên trí thức ấy không chịu hưởng giàu sang, lại ly gia cắt ái một cách dễ dàng và chứng quả A la hán mau lẹ như thế?

Các bạn của ông Yasa cũng như ông là hạng người đã tu hành nhiều kiếp và đã tạo nhiều phúc hậu, nên được sanh trưởng trong gia đình giàu sang, lại sẵn có bẩm tính thông minh, thường suy xét thấy cuộc đời là giả tạm, hằng nuôi chí nguyện giải thoát. Gặp được Ðức Phật làm Thầy hướng dẫn, các ông ly gia thoát tục một cách dễ dàng. Người sẵn có Trí tuệ, khác thường lại được Ðấng Giác ngộ khai tâm truyền đạo, thì đường vào Niết bàn hẳn thật không xa, đối với bậc đại căn ấy.

66. Ðức Phật có giao phó nhiệm vụ chi cho các vị đệ tử A la hán của Ngài chăng?

Sau 5 tháng khai đạo, kể luôn 3 tháng Kiết hạ (trụ lại một chỗ trong mùa mưa) tại Bénarès, tính ra Ðức Phật đã độ được 60 vị đại đệ tử đắc quả A la hán, thông rõ giáo lý cao siêu mầu nhiệm về đạo giải thoát. Mùa mưa vừa chấm dứt, Ðức Phật nhóm 60 vị A la hán bảo phải tách ra đi riêng từ vị, cùng khắp mọi nơi, đem đạo giải thoát phổ cập trong dân gian.

67. Ðức Phật nói chi với chư vị A la hán ấy?

"Này chư môn đệ, các Thầy đã hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi; các Thầy nên khởi hành châu du từ xứ này sang xứ khác, đem giáo lý giải thoát truyền bá cho tất cả chúng sanh; vì lòng Từ bi đối với đời, mỗi Thầy tách ra đi mỗi nơi, ban bố an vui hạnh phúc, cứu độ chư Thiên và nhân loại. Nhiều người sẵn có tâm đạo và thiện ý, nếu họ không nghe được giáo lý giải thoát của Như Lai, họ sẽ sa đọa. Bằng nghe được họ sẽ thọ giáo với các Thầy và sẽ liễu ngộ được chân lý."

C. Từ Bénarès trở lại Buddha Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng)

68. Sau khi giao phó nhiệm vụ Hoằng pháp cho chư vị A la hán, Ðức Phật đi đâu?

Sau khi các vị Thánh Tăng chia nhau mỗi vị đi mỗi hướng. Ðức Phật lên đường trở lại rừng Uruvela (chỗ Ngài Thành đạo).

Chưa ra khỏi địa phận Bènarès, Ðức Phật gặp một nhóm 30 thanh niên hơ hải chạy đến hỏi Ngài:

- "Bạch Sa môn, Ngài có gặp người phụ nữ nào đi về ngỏ này chăng? Chúng tôi 30 anh em cùng đi du ngoạn với một người kỵ nữ theo ca hát giúp vui; lúc chúng tôi tấm sông, mãi vui chơi đùa giỡn với nhau, cô ấy trộm hết đồ trang sức và lén trốn mất dạng.”

Ðức Phật vui vẻ đáp lại:

- "Này các cậu, tại sao các cậu luống công đi tìm một người phụ nữ, mà các cậu không chịu khó tìm cho ra các cậu?"

Lời nói của Ðức Phật làm rung động tâm hồn các gã thanh niên; họ chợt tỉnh hối hận và hân hoan thỉnh cầu Ðức Phật giảng pháp cho nghe, rồi cả bọn thỏa thích xin xuất gia, theo hầu Ðức Phật. Thầy trò vầy đoàn trực chỉ đến rừng Uruvela.

69. Ðức Phật nói cách nào mà cảm hóa được dễ dàng 30 thanh niên đang trụy lạc?

Những thanh niên này cũng là hạng người có tu hành nhiều kiếp, như ông Yasa và các bạn của ông. Những người sống vào thời kỳ Ðức Phật ra đời, lại được gặp Ðức Phật khai tâm điểm đạo là người đại căn thượng trí, có nhiều duyên lành được tế độ. Ðức Phật chỉ thốt một câu vắn tắt, mà họ đã thấu triệt được ý nghĩa kim ngôn và nhận thức chân lý; tìm sắc dục bên ngoài là tìm hạnh phúc thấp hèn, trụy lạc; tìm cái chân tâm siêu việt bên trong, ấy mới là tìm sự an lạc cao thượng của đạo giải thoát. Với bậc Trí tuệ, không cần phải nói nhiều; Ðức Phật biết chỗ khai sáng của người, nên Ngài chỉ nhấn mạnh một vài lời, đủ cho họ tỉnh ngộ.

70. Ðức Phật trở lại Uruvela với mục đích chi?

Ðức Phật biết trong vùng Uruvela có nhóm Bà la môn quan trọng, thuộc phái Jatila thờ thần lửa; người cầm đầu là 3 anh em ruột, nổi tiếng là người kế nghiệp cho một vị Ðạo sĩ tiền bối đại tài tên Kassapa. Ba vị đầu sư này chiếm một vùng rộng lớn, dọc theo bờ sông Ni Liên, ẩn dật dưới những chòi tranh với rất nhiều đệ tử và súc vật chuyên tu khổ hạnh, cúng tế phức tạp, thông suốt các khoa thần học, vũ trụ luân, lại rất giỏi về triết học văn chương (Sanscrrit), nên được dân chúng cảm mộ sùng kính.

Muốn cảm hóa 3 nhóm này không phải là chuyện dễ, bởi Ðức Phật chủ trương thuyết "Vô Ngã", trái ngược với chủ nghĩa "Hữu thần" của 3 anh em ông Kassapa. Bằng khuất phục được họ thì hẳn thật là một sự vẻ vang cho Phật giáo. Ðức Phật tin tưởng nơi sứ mạng cứu thế của Ngài, nên Ngài trở lại Uruvela, khôn khéo đến xin tá túc với người anh cả. Ông Kassapa anh, vị Trưởng lão rất hiền từ, không thể từ chối được, nên cho Ðức Phật vào ở với ông. Nhưng sau khi biết vị Sa môn trẻ tuổi này được dân chúng ở vùng lân cận sùng kính, ông đem lòng ngờ vực rằng Ðức Phật là một người đối thủ nguy hiểm. Thấy không thể dùng lý thuyết để cảm hóa ông Kassapa, Ðức Phật định phải dùng phép thần thông mới có thể thắng phục lòng ngã mạn cứng rắn của ông này. Nhờ Tha Tâm Thông nên lúc nào biết ông Kassapa cố ý muốn xua đuổi Ngài thì Ngài biến mất; khi biết, ông hối hận, Ðức Phật hiện ra. Trong đêm khuya thanh vắng thường có Trời Phạm Thiên (Braham) và Trời Ðế Thích (Indra) đến viếng Ðức Phật; hào quang của 2 vị Thiên Vương chiếu sáng rực rỡ cả một góc trời, ông Kassapa biết Ðức Phật có khách quí, nhưng trong bụng vẫn đinh minh rằng Sa môn Cồ Ðàm không thể sánh bằng ông. Khi ông Kassapa muốn dùng đồ đạc trong nhà như ghế ngồi, hoặc chén dĩa, hoặc đồ tế lễ thì đồ đạc ấy biến mất. Khi lấy củi đem ra chẻ để đốt lửa cúng thần, củi ấy lại cứng như đá, chẻ không bể. Khi muốn đốt lửa, lửa lại không cháy; khi múc rượu đổ vào lửa, rượu lại dính trong muỗng không rớt ra; rồi thình lình trật tự trở lại như xưa. Mỗi khi xảy ra những chuyện lạ thường phiền phức như thế ấy, các Thầy Bà la môn nghi cho Thầy Sa môn Gotama đứng xa dùng phép lạ phá khuấy nhưng họ vẫn thấy Thầy Cồ Ðàm thản nhiên. Tuy vậy các Thầy cũng tự tin rằng các Thầy có pháp thuật cao siêu không ai bằng và họ là bậc Thánh nhân siêu quần trác tuyệt hơn Thầy Sa môn Gotama.

Ðức Phật thấy cần phải dùng một phép thần thông khích động hơn nữa, nên Ngài xin ông Kassapa cho Ngài ngủ trong chòi đốt lửa cúng thần. Ông Kassapa thành thật khuyên Thầy Sa môn Gotama chớ nên dễ duôi vì nơi ấy có con rồng dữ tợn thường hay vãng lai, mà ai ai cũng ghê sợ. Ðức Phật cố nài nỉ xin cho được. Vào đến nơi quả thật con quái vật hiện ra dương oai với Ðức Phật. Khói lửa bốc cháy rần rần, tuôn ra mấy lỗ cửa, làm cho nhóm Bà la môn kinh hồn, xúm nhau đem gào chuyền nước chữa lửa. Kết cuộc Ðức Phật cảm thắng được con ác thú ấy và nhốt nó trong bình bát, đem ra cho các Thầy Bà la môn xem. Tuy nhiên bọn Bà la môn cũng chưa chịu qui phục Ðức Phật.

Kế đó một trận bão lụt làm cho nước sông Ni Liên tràn bờ và lôi cuốn các chòi tranh. Ông Kassapa lo sợ cho số phận của Thầy Sa môn Gotama, chèo thuyền đến tiếp cứu. Ðến nơi thấy Ðức Phật đương lặng lẽ đi kinh hành trên dòng nước cuộn chãy như thác đổ. Chừng ấy ông Kassapa mới chịu nhìn nhận tài năng siêu việt của vị Sa môn trẻ tuổi và mọp lại dưới chân Ðức Phật. Năm trăm đồ đệ của ông cũng đều qui phục. Trong lúc nhiệt tâm hoan hỷ, các vị tân Tín đồ khuân liệng tất cả y phục và vật dùng để thờ cúng thần lửa xuống sông Ni Liên. Hai ông Kassapa Em, ở vào phía hạ lưu, thấy đồ đạc thường dùng của anh mình trôi lênh đênh giữa dòng, hốt hoảng kéo hết 500 đồ đệ đến tiếp cứu. Ðến nơi thấy anh mình và cả bọn đã xuất gia theo Phật, hai ông Kassapa Em và 500 Tín đồ cũng đồng xin thọ giáo làm Tỳ kheo.

D. Từ Uruvela đến thành Rajagaha (Vương Xá)

71. Thắng phục được ba anh em ông Kassapa rồi Ðức Phật định đi đâu nữa?

Cả ngàn Thầy Bà la môn đã trở thành những vị Tỳ kheo khất sĩ du phương, vấn đề sinh sống cần phải giải quyết mau lẹ, bởi dân chúng ở các xóm chung quanh rừng Uruvela và trong thành Gaya kế cận không đủ sức cung cấp vật thực mỗi ngày. Ðức Phật và đoàn tân khất sĩ lên đường nhắm hướng Ðông Bắc trực chỉ đến thành Rajagaba (Vương Xá), kinh đô xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà) của vua Bimbisàra (Tần Bà Sa), là nơi phong phú và dân cư đông đảo. Vã lại 7 năm về trước, lúc mới xuất gia tìm đạo, Bồ tát Gotama đã được vua Bimbisàra hứa chia hai giang san, nếu Bồ tát chịu trở lại trong đời trị vì thiên hạ; nhưng Bồ tát từ khước. thấy không thể cầm cọng vị Sa môn trẻ tuổi đương hăng hái tìm đạo, vua Tần Bà Sa yêu cầu Bồ tát, khi thành công đắc quả, xin trở lại tế độ. Ngày nay đã chứng quả Chánh giác rồi, Ðức Phật phải tìm gặp Ðức vua cho khỏi thất hứa. Ðến nơi, Ðức Phật và đoàn tùy tùng tạm trú ngoài thành, trong cụm rừng Yatthivana (Rừng tre cao lớn thường dùng để làm sào, nên gọi là Rừng sào).

Hay tin Ðức Phật đến, vua Bimbisàra cùng bá quan trong triều, các thân hào phú gia, ra nghinh tiếp rất trọng thể và thỉnh Ðức Phật cùng Chư Tăng vào đền thọ thực. Sau buổi trai tăng, vua Bimbisàra ngỏ ý dâng vườn thượng uyển "Trúc Viên" cho Ðức Phật để tiện bề làm nơi Hoằng pháp, bèn lấy bình vàng dựng nước, rót trên tay Ðức Phật và bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, Trẫm xin dânh cúng vườn Trúc Lâm đến Ngài và Chư Tăng.” Ðức Phật thọ nhận, rồi giảng đạo và phúc chúc cho Ðức vua; sau cùng Ngài dùng lời dịu ngọt khuyến khích làm cho phấn khởi đạo tâm của vua Bimbisàra. Vua liền xin qui y làm thiện nam trong Phật giáo.

Lần đầu tiên Giáo đoàn Tăng lữ được làm chủ một vuông đất rộng lớn, nơi ngoại ô Vương Xá, tiện bề cho các Thầy Tỳ kheo du phương tạm trú và cho Tín đồ tới lui nghe pháp học đạo.

Ðức Phật nhập hạ thứ nhì nơi vườn Trúc Lâm (Veluvana), trong mùa mưa sắp tới và trải qua thời gian Hoằng pháp Ðức Thế Tôn thường trú ngự nơi đây.

72. Tại Rajagaha (Vương Xá), Ðức Phật còn thâu phục được ai?

Tại Vương Xá, Ðức Phật thâu được hai vị Ðại Ðệ tử là ông Sariputa (Xá Lợi Phất) và ông Moggalàna (Mục Kiền Liên).

73. Xin cho biết tiểu sử của hai vị Ðại Ðệ tử ấy và nhân duyên đưa hai Ngài đến gặp Ðức Phật?

Ông Upatissa thường kêu là Sariputa (tên của mẹ ông) và ông Kolita thường kêu là Moggalàna (tên của họ ông) đều sanh trưởng trong một làng kế cận kinh đô Vương Xá gọi là làng Nalanda. Hai ông là con nhà Bà la môn giàu có, lại là bạn đồng môn, tài năng xuất chúng, học thức uyên thâm. Ðịa vị xã hội của hai thanh niên dành sẵn cho họ một tương lai rực rở. Một ngày nọ, hai anh em rủ nhau đi dự một cuộc lễ hành hương, có bày bố buôn bán một đám chợ phiên. Giữa lúc thiên hạ vui mừng ăn lễ, ông Sariputa lại nảy sanh trong trí một tư tưởng lạ thường: "Trong vòng 100 năm nữa, đám đông có mặt tại đây sẽ hóa ra người thiên cổ. Không nhận thức mình là người đương đi đến chỗ chết, nhóm người này thản nhiên vui say theo trò chơi thế sự; thật đáng thương, đáng buồn giùm cho họ.” Nghĩ như vậy, ông Sariputa liền tỏ ý tưởng ấy cho bạn mình nghe. Ông Moggalàna cho biết rằng ông cũng đương suy nghĩ như thế và đương bối rối trước cảnh phù hoa của thế gian. Hai người bạn tâm đồng ý hiệp liền rủ nhau đến xin thọ giáo với Ðạo sĩ Sanjaya, một trong sáu vị Lục sư danh tiếng đương tu luyện với 250 đồ đệ; trong khu rừng gần thành Vương Xá. Khi vào tu rồi, hai ông thấy học thuyết của Ðạo sĩ Sanjaya không thích hợp với trình độ mình, nên định đi tìm một vị Minh sư cho xứng đáng và cam kết với nhau, khi một trong hai anh em người nào gặp được Minh sư, phải mau mau báo tin cho biết.

Vì sẵn có tiền duyên, nên chẳng bao lâu họ gặp Ðức Phật.

74. Hai ông Sariputa và Moggalàna gặp Ðức Phật trong trường hợp nào?

Trên đường đi Hoằng pháp, vị A la hán trẻ tuổi trong nhóm năm Thầy Kiều Trần Như là ông Assaji (Át bệ: Mã thắng) đến Vương Xá gặp Ðức Phật tại Trúc Lâm, tạm trú nơi đó ít ngày. Một bữa nọ, sáng sớm Ðại Ðức Assaji vào thành Vương Xá khất thực. Tình cờ ông Ðạo sĩ Sariputa đi tới gặp Ðại Ðức Assaji, thấy sắc diện của Ngài sáng rỡ, y phục chỉnh tề, đi đứng trang nghiêm. Ông Sariputa tự nói: "Hẳn thật đây mới là một vị Sa môn, nếu chưa đắc đạo quả Thánh nhân thì cũng là một bậc đuơng tiến vào dòng Thánh, chẳng sai vậy; ta nhất định phải đến gần Ngài để dò la cho tường tận.” Ðạo sĩ Sariputa chậm rãi theo sau, chờ cho Ðại đức Assaji khất thực xong, quay bước trở về, ông mới lại gần cung kính xá chào và hỏi:

"Bạch Ngài tinh thần của Ngài đầy vẻ trầm mặc, sắc diện trong trắng sáng rỡ; chẳng hay Ngài nương nơi sự hướng dẫn của ai, mà được giải thoát ra khỏi trần tục? Tôn sư của Ngài là ai? Ngài theo Giáo pháp của ai?"

- "Này ông bạn, Thầy của tôi là vị Ðại Sa môn, thuộc dòng Sakya (Thích Ca) là người đã hoàn toàn giải thoát. Chính nhờ sự hướng dẫn của Ngài, mà tôi được xuất gia thoát tục. Tôn sư của tôi là Ðức Phật Gotama.”

- "Bạch Ðại Ðức, Tôn sư của Ngài nói những chi? Dạy điều chi? "

- "Này ông bạn, tôi chỉ là một đồ đệ sơ cơ, xuất gia chưa được bao lâu; tôi không thể trình bày trọn cả Giáo pháp của Thầy tôi cho ông bạn được; nhưng tôi có thể tỏ cho ông biết sơ lược phần chủ yếu thôi.”

"Bạch Ngài, như vậy cũng được; dầu Ngài nói ít, nói nhiều cũng không sao, tôi cần thấu rõ phần chủ yếu thôi.”

Ðại Ðức Assaji liền trả lời vắn tắt rằng:

"Các pháp đều sanh ra bởi một nhân;

Ðức Thế Tôn đã chỉ cho thấy rõ nhân của nó.

Ngài cũng dạy cho biết sự diệt tắt của nó.

Chính đó là Giáo pháp của vị Ðại Sa môn.”

Ðại Ðức Assaji vừa dứt lời, Tuệ nhãn của ông Ðạo sĩ Sariputa liền bật sáng (chứng quả Tu đà hườn) thấu rõ chân lý; biết rằng cái chi sanh thì phải diệt. Ông liền nói: "Bạch Ðại Ðức, mặc dầu chân lý chỉ lược giải có bấy nhiêu lời, nhưng Ngài cũng đã tuyệt diệt Phiền não, chứng được đạo quả chưa từng thấy, từ triệu ức kiếp.”

Sau khi từ tạ Ðại Ðức Assaji và biết Ðức Phật đương ngự tại Trúc Lâm (Veluvana), ông Sariputa liền đi báo tin cho ông Moggalàna.

Thấy ông Sariputa từ xa tiến tới, ông Moggalàna mừng rỡ chào hỏi: "Mừng Sư huynh, hôm nay khí sắc của Sư huynh rất trầm tĩnh, khiết bạch khác thường, chắc hẳn Sư huynh đã tìm ra được con đường giải thoát rồi, phải chăng? "

- "Quả thật như vậy, đạo hữu.”

- "Vậy thì Sư huynh cho tiểu đệ biết với.”

Ông Sariputa thuật lại sự gặp gở giữa ông và Ðại Ðức Assaji, rồi đọc bốn câu kệ tóm lược phần cương lĩnh của đạo giải thoát cho ông Moggalàna nghe.

Vừa nghe qua Tuệ nhãn của ông Moggalàna bật mở (đắc Tu đà hườn) thấu rõ chân lý; biết rằng cái chi sanh thì phải diệt. Ông liền thốt lời: "Thưa Sư huynh, mặc dầu chân lý chỉ lược giải có bấy nhiêu nhưng Sư huynh đã diệt được Phiền não, thấu đáo tâm trạng chưa từng thấy, từ triệu ức kiếp. Vậy thì chúng ta mau mau đi tìm Ðức Thế Tôn, chính Ngài là Thầy của chúng ta.”

Ông Sariputa liền nói: "Này đạo hữu, còn 250 bạn đồng môn của chúng ta, phải tính sao với họ? Vì cảm mến chúng ta mà họ còn ẩn nấu nơi đây. Vậy chúng ta nên cho họ biết ý định của chúng ta, để tự họ liệu lấy.” Ông Moggalàna đồng ý, hai ông liền triệu tập 250 Ðạo sĩ, thuật rõ đầu đuôi cho họ nghe, rồi ông Sariputa nói rằng: "Hai anh em chúng tôi nhất định đi tìm Ðức Phật để xin làm đệ tử của Ngài...” Ông Sariputa chưa kịp dứt lời, cả 250 Ðạo sĩ rộ lên xin đi theo. Họ nói: "Chúng tôi vì cảm mộ tài đức của hai Thầy mới ẩn náo lại đây, nay hai Thầy đi xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Ðại Sa môn, xin hai Thầy hoan hỷ cho chúng tôi cùng theo với.”

Ông Sariputa và Moggalàna đồng nói: "Vậy thì chư đạo hữu, chờ anh em chúng tôi đi báo tin cho Thầy Sanjaya hay đã.” Ðến nơi hai ông trình bày ba lượt cho Ðạo sĩ Sanjaya: "Bạch Thầy, chúng tôi định đi tìm Ðức Phật để thọ giáo, học đạo với Ngài.” Ông Sanjaya cũng ba lượt trả lời: "Khoan đã, hai bạn chẳng nên đi, ở lại đây ba anh em chúng ta chung lo cai quản giáo đoàn.” Hai ông Sariputa và Moggalàna cùng 250 Ðạo sĩ nhất định đi tìm Ðức Phật, đồng từ tạ Thầy Sanjaya ra đi. Ông này câm giận, đến đổi phải thổ huyết.

Từ xa Ðức Thế Tôn thấy hai ông Sariputa và Moggalàna hướng dẫn 250 Ðạo sĩ đến, Ngài kêu các Thầy Tỳ kheo mà nói rằng: "Kìa các Thầy, hai người đạo hữu Kolita và Upatissa đã đến. Trong hàng đệ tử của Như Lai, hai người ấy sẽ là một cặp hướng đạo và có duyên lành nhiều nhất.”

75. Tài đức của hai ông Sariputa và Moggalàna ra thế nào?

Hai ông Sariputa và Moggalàna cùng đoàn tùy tùng vào đảnh lễ Ðức Phật và xin xuất gia. Ðức Thế Tôn hoan hỷ thâu nhận làm đệ tử và ân cần chỉ dạy phương pháp tham Thiền quán tưởng. Sau một tuần nhựt, ông Moggalàna đắc Ðạo quả A la hán. Qua tuần thứ hai, ông Sariputa cũng chứng quả A la hán. Ðoàn tùy tùng của hai ông phải trải qua một thời gian tu học, rồi cũng lần lượt đắc đạo quả cả thãy.

Trong hàng đệ tử của Ðức Phật chỉ có Ðại đức Sariputa (hay Upatissa là bậc Trí tuệ viên thông tốt chúng. Ðức Phật giảng pháp cao sâu đến đâu, Ðại Ðức Sariputa đều thấu hiểu cả; rồi lần lượt giải thích lại cho các Thầy Tỳ kheo nghe. (Trái lại trong nhiều thế kỷ về sau, tác giả nhiều quyển sách lại liệt Ðại Ðức Xá Lợi Phất vào hạng thấp thỏi, Trí tuệ chậm chạp, không đủ sức hiểu giáo lý cao thâm nên Ðức Phật chỉ thuyết riêng cho ông những pháp cạn cợt, gọi là pháp Tiểu thừa).

Ðại Ðức Moggalàna lại có một thiên tài đặc biệt về pháp thần thông. Ngài lên các từng trời và xuống các cảnh Ðịa ngục một cách dễ dàng và giúp Ðức Phật trong nhiều xứ mạng rất khó khăn.

Hai vị A la hán này gọi là Ðại Ðệ tử, bên mặt và bên trái của Ðức Phật.

76. Ðức Phật còn độ được vị Ðại Ðệ tử nào nữa, tại xứ Magadha chăng?

Ngài còn độ được một vị Ðại Ðệ tử thứ ba tên Maha Kassapa (Đại Ca Diếp). Chẳng nên lầm lộn ông này với 3 anh em ông Kassapa trong nhóm Jatila, tại Uruvela.

77. Xin cho biết sơ lược sử tích của ông Maha Kassapa?

Ông Maha Kassapa là con của một triệu phú gia trong xứ Magadha. Tài sản, ruộng đất, tôi tớ của ông không thua kém sự nghiệp của Ðức Vua Bimbisàra. Ông Maha Kassapa là bậc Trí tuệ hiếm có trong đời. Vừa lớn lên, ông đã tỏ ra người không màng của cải, lại còn nhờm gớm ái tình nhục dục. Vâng lời cha mẹ, ông buộc lòng phải cưới một người vợ rất xinh đẹp tại thành Vésali. Gặp cô này cũng đồng tánh nhờm ghét ái tình như ông nên hai vợ chồng sống chung nhau trọn 12 năm mà không gần gũi nhau. Hai vợ chồng ông Maha Kassapa cũng đồng có chí nguyện xuất gia tìm đạo giải thoát, nên hằng tập tánh ăn ở giản dị. Ngủ chung trong một căn phòng rộng lớn, trên hai cái sạp nhỏ thấp; một đêm nọ, ông chồng thấy một con rắn đen vô phòng, lại xâm xâm phóng ngay tới cánh tay của bà vợ đang bỏ thòng xuống đất trong lúc ngũ quên. Ông Maha Kassapa lật đật chạy lại kéo tay vợ lên giường. Giật mình thức dậy, bà vợ nghi chồng mình có tư tưởng không tốt. Hai vợ chồng mới nghĩ rằng nếu kéo dài sự sống chung như thế này, ắt có ngày sẽ nguy hại cho sự trinh khiết đã gìn giữ từ lâu, nên định tách ra mỗi người đi mỗi hướng, tìm nơi ẩn dật tu hành. Cha mẹ đã qua đời, vợ chồng ông Maha Kassapa giải quyết cuộc xuất gia rất dễ dàng. Hai ông bà phóng thích tôi trai tớ gái, bán hết gia tài sự nghiệp lấy tiền bố thí cho người nghèo khó, rồi chia tay nhau ra đi, mỗi người mỗi hướng tìm Thầy học đạo.

Khi Ðức Phật đến Vương Xá, ông Maha Kassapa đến xin qui y thọ giáo chẳng bao lâu ông đắc quả A la hán và trở thành một vị Ðại Ðệ tử, tín cẩn nhất của Ðức Bổn Sư. Sau lại bà vợ được xuất gia làm Tỳ kheo ni đắc quả A la hán. Kinh sách ghi rằng Ðức Phật tặng y Ca Sa của Ngài cho Ðại Ðức Maha Kassapa và đối đải ông như người bạn thân. Ðại Ðức Maha Kassapa có uy tín lớn, nên sau giờ Niết bàn của Ðức Phật, Ngài đảm đương nhiều trọng nhiệm: chủ tọa lễ hóa táng Ðức Phật tại Kurinara và sau đó 100 ngày, chủ tọa Ðại hội Thánh Tăng, kết tập Tam tạng lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá).

78. Tại xứ Magadha, Ðức Phật còn thâu nhận ai nữa?

Rất nhiều thanh niên, thuộc gia đình giàu sang trong xứ Magadha xin xuất gia theo Ðức Phật.

79. Có sự phản đối của dân chúng không?

Có. Dân chúng cho rằng Ðức Phật cảm hóa thanh niên, làm cho chồng xa vợ, cha mẹ xa con, tan nát gia đình, nên khi gặp các Thầy Tỳ kheo họ chê báng mỉa mai rất khó chịu:

Ông Sa môn đã đến trong kinh đô xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà). Ông đã cải hóa trọn cả đệ tử của Ðạo sĩ Sanjaya.

"Chờ xem hôm nay ông còn cảm hóa ai nữa?"

Các Thầy Tỳ kheo nghe vậy cũng xầm xì bàn tán, rồi đem câu chuyện bạch lại cho Ðức Phật nghe. Ðức Phật phán: "Này các Thầy Tỳ kheo, dư luận xôn xao ấy không kéo dài đâu, trong vòng 7 ngày sẽ chấm dứt. Nếu có ai kiếm chuyện với các Thầy, các Thầy nên trả lời cho họ như vậy:

"Những trang hào kiệt, những bậc Vĩ nhân,

Cảm hóa vì đạo chân chánh,

Ai có thể oán trách cho đúng lý,

Những người cảm hóa vì đạo chân chánh chăng?"

80. Rồi Ðức Phật có làm chi cho các gia đình được thỏa mãn chăng?

Người ta nóng lòng vì chồng con bỏ nhà đi tu; thật ra Ðức Phật đâu có ép buộc ai phải xuất gia theo Ngài. Từ đó về sau Ngài đặt ra những điều kiện để hạn chế sự thâu nhận giới tử, với mục đích chủ yếu là bảo vệ quyền lợi và uy tín cho Giáo đoàn Tăng lữ:

- Những người có bệnh nan y, truyền nhiễm, kẻ sát nhân, kẻ có tiền án và những người mà sự xuất gia làm tổn hại quyền lợi kẻ khác như: những trẻ vị thành niên, những người tôi tớ, những quân nhân, những người trốn nợ, đều không được thâu nhận vào hàng Tỳ kheo. Các thanh thiếu niên muốn xuất gia phải có cha mẹ cho phép và bảo đảm tánh hạnh.

Ðiều luật này đã làm vừa lòng mọi người.

81. Tại sao Ðức Phật chưa định về Kapilavastu phổ độ thân quyến của Ngài?

Ðến Magadha là một quốc gia cường thạnh, Ðức Phật được Bimbisàra (Tần Bà Sa Vương) nhiệt thành sùng kính ủng hộ, nên Ngài thừa cơ hội thuận lời, phổ biến Giáo pháp sâu rộng trong dân gian, Tăng đồ và Tín đồ học thức và giàu có, càng ngày càng đông, thanh danh của Ðức Phật lẩy lừng, nền tảng Phật giáo đã vững chắc, nhưng Ngài cũng chưa vội trở về Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ). Hành động của bậc Trí tuệ phải khác hơn thường tình thế gian: dưới cội Bồ đề tại Uruvela, trước khi đem đạo giải thoát ra truyền bá. Ðức Phật đã định sẵn một lộ trình khai đạo đầy đủ. Nơi mục 50 chúng ta đã thấy người đầu tiên mà Ngài muốn tế độ là mẹ cha và các bậc ân nhân của Ngài và Ngài cũng đã tự biết rằng duyên kỳ của Vua cha và quyến thuộc của Ngài chưa đến.

82. Vua Sudhodana (Tịnh Phạn) có hay con của Ngài thành Phật chưa?

Thanh danh của Ðức Phật lẫy lừng tại xứ Magadha, dĩ nhiên đã vang dội đến Kapilavastu, nên đồng bào và quyến thuộc của Ngài nóng lòng trông đợi. Bá quan trong triều đệ sớ yêu cầu Ðức vua phái khâm sai sang tận Rajagaha (Vương Xá) triệu thỉnh Ðức Phật.

83. Ai lãnh sứ mạng đi thỉnh Ðức Phật và kết quả ra sao?

Triều thần đề nghị giao trọng trách ấy cho ông Udayi, con của vị Lễ bộ Thượng Thơ. Người ta hy vọng nơi sự thành công mau chóng của ông Udayi, bởi ông này là bạn thân trong thưở thiếu thời của Hoàng tử Siddhattha.

Trong hoài không thấy ông Udayi trở về, Ðức vua nóng lòng phái ông Channa (Sa Nặc) là người tâm phúc luôn luôn ở bên cạnh Hoàng tử trong các buổi dạo chơi và cũng là người đưa Hoàng tử trốn đi xuất gia. Ông Channa đi rồi cũng bặt tin nhàn cá.

Hai vị khâm sai, kẻ đến trước người đến sau, chưa tỏ được lời nào, đã ngoan ngoãn vâng lời Ðức Phật xuất gia làm Tỳ kheo. Mặc dù hai người đều không muốn xuất gia nhưng vì Ðức vua đã ra lệnh phải hết lòng chiều chuộng Hoàng tử, nên họ tạm thời hứa chịu xuất gia cho vừa ý Ðức Phật, tưởng rằng chẳng phải là một điều cam kết quan trọng; hơn nữa dòm quanh ngó quất chẳng thấy thợ cạo lại cũng không sắm sẵn y bát, câu chuyện ắt còn trì hưỡn, không dè sau khi Ðức Phật kêu họ nói: "Lại đây, hỡi Thầy Tỳ kheo, Chánh Pháp đã truyền dạy, Thầy hãy sống theo Thánh nhân để diệt tận nguồn khổ.” Vừa dứt lời, râu tóc họ sạch trụi, y phục trở thành ca sa màu vàng; họ đã hóa ra Thầy Thiện Lai Tỳ kheo (Èhi Bhikkhu) (*), giữa giáo đoàn Tăng chúng. Người trước gặp người sau cười với nhau rồi mạnh ai nấy lo tu, không còn nhớ thế sự luôn cả xứ mạng của mình.

Cách một thời gian sau, Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) phái liên tiếp 9 vị Ðại thần qua thỉnh Ðức Phật. Chín vị này và cả đoàn tùy tùng của họ, kẻ trước người sau, cũng xuất gia theo Phật và cũng quên sứ mạng của họ.

Thỉnh thoảng ông Udayi nhắc nhở người bạn cũ của mình, bảo phải về thăm Vua cha, Ðức Phật vẫn làm thinh.

(*) Tục truyền rằng các vị Èhi Bhikkhu, trong tiền kiếp có dùng y bát cho Chư Phật và Tăng chúng, nên qua đời sau gặp Phật cho xuất gia khỏi lo sắm chi cả. Nên hiện giờ người ta đua nhau dâng y bát đến Chư Tăng để mong được làm Thiện Lai Tỳ kheo trong buổi vị lai. Nên thêm rằng phải dâng dao cạo mới đủ cho.

 

E. Từ Rajagaha (Vương Xá) sang Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ)

84. Ðến bao lâu Ðức Phật mới chịu về Kapilavastu?

Một ngày nọ, do sự thúc giục của ông Udayi, Ðức Phật trước khi lên đường, xây mặt về quê hương, rãi tư tưởng lành, cầu chúc yên vui hạnh phúc cho Vua cha và đồng bào quyến thuộc. Xong, Ngài cùng đoàn Tăng chúng khởi hành, nhắm hướng Kapilavastu tiến bước. Nhằm mùa thu, khí trời mát mẻ, cuộc hành trình từ thành Rajagaha đến Kapilavastu, trải qua 60 ngày ròng rã, ngày đi đêm nghỉ.

Ðến nơi Ðức Phật và chư Tăng dừng bước tại vườn thượng uyển của Vua cha, tên vường Nigrodha (Cây da), thuộc ngoại ô hoàng thành.

85. Vua cha có vui mừng tiếp rước Ðức Phật chăng?

Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) vẫn chưa tha thứ con Ngài vì thất vọng đau đớn, không thể nguôi lòng: Hoàng tử đã xuất gia thì còn ai xứng đáng nối nghiệp cho dòng Sakya (Thích Ca).

Hay Ðức Phật về tới, Suddhodana (Tịnh Phạn) vương cũng gắng gượng thân hành ra đón với tư cách của một nhà vua và một người cha trên long xa bốn ngựa. Dọc đường Ðức Vua gặp các vị Tỳ kheo mang bát đi khất thực trong thành, Ngài nghĩ tới con của Ngài là một vị Hoàng tử, mà ngày nay cũng phải đi xin ăn theo phố phường, như thế ấy thật là nhục nhã vô cùng. Ngài liền truyền lệnh xua đuổi các Thầy Tỳ kheo cho khỏi chướng mắt; rồi quay long xa trở vào hoàng cung, ôm ấp mối lo sợ cho rằng sự hồi loan của con Ngài là một điều bất thường, sắp đem lại một trận bão tố, lôi cuốn dòng giống Sakya theo triều lưu thoát tục.

86. Ðức Phật đối xử cách nào?

Ðức Phật liền phái ông Udayi vào đền an ủi Vua cha và giải thích cho Ngài hiểu rằng trong đời rất khó mà được cái vinh hạnh là Cha của một Ðấng Cứu thế, vẻ vang hơn làm Thượng hoàng của một vị Chuyển Luân vương.

Vua Suddhodana nghe được, bớt sầu truyền lệnh tổ chức một cuộc nghinh tiếp Ðức Phật rất trọng thể.

87. Tại sao Ðức Phật không thủ phận làm con để chờ Vua cha ra nghinh tiếp?

Ðức Phật đã tiên đoán sẽ gặp nhiều sự khó khăn trong buổi tái ngộ hôm nay:

1) Dòng Sakya từ cổ chí kim đã nổi tiếng là một dòng tự cao, tự trọng, chẳng bao giờ chịu khuất phục một ai.

2) Dầu Ngài là Phật nhưng Ngài biết không dễ gì làm thần Thánh ở quê mình được, nhất là trước mặt Vua cha và những bậc Trưởng lão trong dòng họ là những người đã từng biết Ngài lúc còn nhỏ bé.

3) Một bậc Chánh đẳng Chánh giác không thể đứng dậy, cũng không thể nghiêng mình trước một người phàm tục nào, vì ngại rằng đầu người ấy sẽ bị bể ra làm bảy miếng, nếu họ chịu thọ lãnh cái vinh hạnh tối cao ấy. Như thế phải làm sao đề giải quyết vấn đề nghi lễ, đầy hậu quả nguy khốn cho gia đình quyến thuộc của Ngài.

Ðức Phật nhất định phải dùng một pháp thần thông để cảm phục dòng Sakya, trước giờ hội ngộ với Vua cha và hoàng thân trong triều. Ngài hóa ra một con đường trên hư không; trên ấy Ngài đi kinh hành như đi trên mặt đất, giữa lúc Vua Suddhodana (Tịnh Phạn), bá quan văn võ và dân chúng rần rộ ra nghinh đón Ngài. Trước sư mầu nhiệm hy hữu ấy, mọi người ngưởng mặt lên dòm một cách sung sướng, rồi chấp tay quì lạy, tỏ lòng tôn kính Ðức Phật. Chính Vua cha Suddhodana (Tịnh Phạn) cũng quì lạy con của Ngài, thân tâm rất khoăn khoái nhẹ nhàng và đắc chí được làm Cha của một Ðấng Cứu Thế. Hoàng hậu Gotami vì thương nhớ Hoàng tử Siddhattha, ngày đêm rơi lụy đầm đề cho đến đui cả hai con mắt, nay hay tin Ðức Phật trở về, lòng vui phấn khởi đến cực độ, khiến cho đôi mắt của Bà bật sáng trở lại như xưa.

88. Rước Ðức Phật vào đền, Vua Suddhodana nói chi với con của Ngài?

Mối tình lạnh nhạt giữa cha con đã chấm dứt trong giờ phút phụ tử đoàn viên, nên hai bên thân mật trò chuyện. Ðức Vua vẫn chưa hài lòng trước hoàn cảnh tương phản xốn xang giữa đời sống của con Ngài trước kia và hiện nay. Ngài phàn nàn sao con Ngài : đi chân không, ăn nằm vất vả, không tắm nước thơm, không mặc y phục thanh nhã, không đeo đồ trang sức, không dùng chén vàng mâm bạc, không người hộ vệ, không âm nhạc ca vũ, cũng không có phi tần cung nữ hầu hạ.

Ðức Phật vạch ra từ điểm, dùng lời ôn tồn lễ phép giải thích cho Vua cha thấy rõ rằng đời sống an vui của bậc Thánh nhân không còn dính líu đến các điều hoan hỷ của thế tục và bậc xuất gia đã sẵn có nhiều sự bồi đắp, nhiều đặt ân cao quí hơn.

Nghe vậy Ðức Vua cũng tạm gọi là an tâm, xong Ngài vẫn cố chấp địa vị Ðế Vương.

89. Vua Suddhodana cố chấp địa vị đế vương của Ngài bằng cách nào?

Vua Suddhodana không muốn cho con Ngài mỗi bữa mang bát đi xin ăn nơi dân chúng. Ðể tránh sự nhục nhã ấy, Vua cha thỉnh Ðức Phật và chư Tăng mỗi ngày vào thọ thực trong hoàng cung.

90. Ý muốn của Vua Suddhodana có đem lại sự vừa lòng cho Ngài chăng?

Làm như thế chẳng khác nào lập đàn tràng nơi cung nội cho Ðức Phật tha hồ cảm hóa thân nhân. Mỗi ngày Ðức Phật có dịp hội kiến với quyến thuộc, nào là cha, mẹ nuôi, vợ con, em út, chú bác, bạn xưa, là những người đã đau khổ từ lúc Ngài trốn đi tìm đạo và luôn luôn phiền trách Ngài ra đi không để một lời Từ biệt. Lần lần Ðức Phật cởi mở sự hiểu lầm của quyến thuộc: "Vì tình thương lai láng đối với gia đình chủng tộc, Như Lai chỉ tạm biệt để tìm đường diệt khổ, hầu hướng dẫn mọi người tiến đến nơi an vui tuyệt đối. Ngày nay đạo đầy quả đủ, cũng vì lòng Từ bi vô lượng đối với toàn thể chúng sanh, mà Như Lai về đây thuyết minh chân lý cứu độ quyến thuộc giống nòi, ra khỏi sông mê biển khổ. Trong đời, Như Lai là người duy nhất đã tận tụy hy sinh, để đem lại hạnh phúc cho nhân quần xã hội.”

Bao nhiêu sầu khổ phiền muộn chờ dịp tuôn ra để lên án người thất hiếu, bạc tình, lần lần bị tan rã dưới hiệu lực của lời biện minh rất chân chánh, càng lúc càng đem lại cho tâm hồn mọi người, những cảm xúc nhẹ nhàng khoăn khoái. Ngoại trừ Ðức vua, tất cả thân quyến của Ðức Phật đều quì lạy xin thọ qui giới làm người cư sĩ: Ba vị Hoàng thúc, bà Dưỡng mẫu Gotami, Công chúa Yasodhara, Hoàng tử Rahula, Hoàng đệ Nanda, cùng anh em chú bác, tính ra trên ngàn người.

91. Có ai xin xuất gia theo Phật chăng?

Có nhiều người nhưng họ chờ lệnh của Ðức vua.

92. Lệnh ấy ra sao?

Vua hạ chỉ cho phép gia đình nào có từ hai người con trai xấp lên, được cho xuất gia một người, theo Ðức Phật. Ý Vua muốn có một nhóm người trong hàng vương tôn theo bên cạnh Ðức Phật, để phô trương phương danh hoàng tộc. Mặt khác, Ðức vua muốn bảo tồn dòng giống, trước nhất muốn giữ người con thứ của Ngài là Hoàng tử Nanda (con của bà Gotami) và cháu nội là Rahula, để duy trì cơ nghiệp của dòng Sakya.

93. Trước quyết định khôn khéo của Vua cha, Ðức Phật nghĩ sao?

Biết rằng Vua cha còn nặng nghiệp trần chưa cảm hóa được, nhưng không vì đó mà bỏ qua cơ hội tế độ những người hữu duyên, trước nhất là em và con của Ngài. Sự xuất gia của Thái tử Rahula và Hoàng đệ Nanda là hai biến cố rất xúc động cho Vua Suddhodana, Ðức Phật không vì tình thương chật hẹp của Cha mà không tuần tự đưa người hữu duyên lên đường Giác ngộ.

94. Hoàng tử Rahula được xuất gia trong trường hợp nào?

Thế thường người đời, nhất là hàng phụ nữ luôn luôn tin tưởng nơi sự thành công của mưu chước mình. Công chúa Yasodhara, thừa dịp ông chồng hồi loan, dạy con của bà là Thái tử Rahula một bài học tâm sự, rồi thừa lúc Ðức Phật vào đền thọ thực xong xuôi, sắp trở ra về nơi tạm trú, bà xúi giục con bà chạy theo, thỏ thẻ xin cha truyền sự nghiệp lại. Ý của bà Công chúa dạy con xin ngôi Vua, nhưng sự khôn lanh của bà đâu có hơn Trí tuệ của bậc siêu phàm. Nghe con xin truyền sự nghiệp Ðức Phật liền hoan hỷ nhận lời và vỗ về bảo: "Này con Rahula, con theo Như Lai đến vườn Nigrodha (Cây da), Như Lai sẽ truyền cho con cả một sự nghiệp tinh thần vĩ đại mà Như Lai đã dành sẵn cho con.” Nghe lời hứa ngọt ngào của người Cha hiền từ, chưa từng gần gũi, ông Hoàng Rahula hớn hở vui mừng, núp dưới bóng Từ bi mát mẻ của Ðức cha lành, lúp xúp chạy theo bên cạnh, quên cả những lời căn dặn của mẹ. Về tới nơi tạm trú, Ðức Phật liền giao phó cho hai ông Sariputa và Moggalàna làm lễ xuất gia cho Hoàng tử Rahula vào hàng Samanera (Sa di). Ông tiểu Sa di này lại vui sống bên cạnh Ðức Phật, dường như có một năng lực gì huyền bí làm cho tâm hồn ông nhẹ nhàng, vui sướng, trong sạch tinh khiết, rất xứng đáng để tiếp thụ sự nghiệp tinh thần của Ðức cha lành.

Công chúa Yasodhara, dĩ nhiên phải mang lấy hậu quả của mưu chước sắp đặt mà bà không tiện nói ra. Nhưng sau khi suy cùng nghĩ cạn, bà cho rằng việc xuất gia của con bà là phải, vì con phải theo cha, một người cha xứng đáng để bảo đảm tương lai cho con bà.

95. Còn số phận của Hoàng đệ Nanda ra sao?

Nói qua ông Hoàng tử trẻ trung tuấn tú Nanda, người duy nhất còn lại để nối nghiệp cho hoàng triều; ngày nọ nhằm ngày Hoàng tử sánh duyên cùng nàng Janapadakalyànà, một vị công nương mỹ miều tại thành Kapilavastu, luôn dịp Vua Suddhodana định phong con Ngài làm Ðông cung Thái tử và cũng là ngày khánh thành cung điện để làm nơi động phòng hoa chúc, Ðức Phật dùng mưu cảm hóa em Ngài một cách lý thú. Giữa lúc trong hoàng cung đương rộn rịp, cử hành ba đại lễ: Kết hôn, Phong tước và Khánh thành, Ðức Phật từ khước không vào đền thọ thực, để cho em mình rảnh rang lo bề hạnh phúc tương lai.

Ðúng giờ rước dâu, Ðức Phật mang bát đi ngang trước hoàng thành. Hoàng tử Nanda, từ bên họ nhà gái vừa về tới cửa Ngọ môn với vị Tân nhân, chợt thấy Ðức Phật, liền bỏ nàng chạy đến rước bát, đem vào sắp đủ thức ăn mặn ngọt, trở ra dâng bát lại cho Ðức Phật.

Ðức Phật không thâu bát, chậm rải quay bước trở về nơi vườn cây da. Vị lễ phép đối với bậc trưởng thượng, Hoàng tử Nanda lủi thủi ôm bát theo sau. Ðến nơi, Ðức Phật đem những lợi ích tối cao của đời sống xuất gia giải thích cho Hoàng đệ nghe, so sánh hạnh phúc chắc thật của bậc thoát ly trần tục với hạnh phúc giả tạm của kẻ bị cột trói trong gia đình và khuyên em nên noi gương của mình để tìm đạo quả Niết bàn. Ông Nanda, mặc dầu còn nặng mang khối tình, nhưng xét ra lời nói của bậc Chí tôn thật là đúng lý, ông liền chịu xuất gia.

Khổ cho ông Nanda, khi mang cái lốt của vị Thầy tu rồi, ông ăn năn hối hận; không biết làm sao để trở về với vợ đẹp mới cưới?

Xa cách người yêu ông Nanda không thể nguôi được lòng thương nhớ, nhiều phen ông trốn ra khỏi chỗ cô tịch để trở về nhưng mấy lần đều bị bắt gặp.

Ðể trừ tận gốc cái bệnh tương tư của ông Nanda, Ðức Phật đề nghị đưa ông ấy lên viếng các vị Thiên nữ tận cõi trời Ðế thích. Nghe nói các vị Thiên nữ sắc đẹp tuyệt trần, ông Tỳ kheo Nanda, sẵn tính háo sắc, vui vẽ chịu đi ngay. Ðức Phật bảo ông nắm lấy chéo y ca sa của Ngài, rồi Ngài bay bổng lên hư không. Bay ngang qua một đám rừng, vừa bị một trận hỏa tai thiêu rụi. Ðức Phật chỉ cho ông Nanda xem một con khỉ cái đương ngồi cú rủ trên cành cây cháy đen, đã may mắn thoát chết, nhưng mình mẩy bị lửa táp trụi lông, lở lói xem rất thảm thương. Kể trong nháy mắt, ông Nanda được đưa đến thế giới tự tại của Vua trời Ðế thích (Indra) để cho ông mặc tình thưởng thức vẻ đẹp vô song kiều diễm và cốt cách thần tiên của các vị Thiên nữ. Khi trở về ông Nanda thú nhận với Ðức Phật rằng những phi tần mỹ lệ của Vua trời Ðế thích, sánh với vợ ông thì vợ ông chẳng khác nào con khỉ cái lúc nảy. Tư tưởng của ông từ đó hướng về các vị Hằng nga tiên nữ; ông nhẫn nại nương theo Ðức Phật để tu hành, mong ngày kia được sanh về thiên cung làm bạn với các vị Thiên nữ duyên dáng đậm đà ấy. Trong giới xuất gia, lần lần ai ai cũng biết mục đích bí mật của ông Nanda, nên người ta gọi ông là "Vị tình lang của Thiên nữ" cho đến ngày ông cố gắng diệt được căn bệnh say đắm sắc đẹp hảo huyền và nhất thời của phụ nữ.

96. Sau sự xuất gia của hai ông Rahula và Nanda, Vua Suddhodana có phiền trách Ðức Phật chăng?

Có phiền trách cũng việc đã rồi. Vả lại Ðức Phật chỉ nhắm mục đích cứu khổ, cũng khó mà đổ lỗi cho Ngài được:

1. Thái tử Rahula chạy theo xin Cha truyền sự nghiệp và khi được thỏa mãn, lại vui thích theo Cha.

2. Ông Hoàng đệ Nanda đã hóa ra người "Vị tình lang của Thiên nữ " thì mong gì cho ông trở lại với người vợ mà ông đã sánh như con khỉ cái.

Lúc Ðức Phật vừa về tới Kapilavastu, Vua Suddhodana đã có cảm tưởng (85) rằng con Ngài sắp gây ra một phong trào xuất gia mãnh liệt cho dòng Sakya, nên ban đầu Ngài tỏ ra bất mãn, nhưng sau lại nhờ nghe được liên tiếp hai thời pháp của Ðức Phật, Vua Saddhodana đã đắc được đạo quả Tu Ðà Hườn và Tu Ðà Hàm, Ngài thỏa thích dâng vườn Nigrodha (Cây Da) cho Ðức Phật và Chư Tăng làm nơi Hoằng pháp độ sanh (*).

(*) Khi Vua Suddhodana sắp thăng hà Ðức Phật trở về độ Vua cha đắc quả A la hán. Chính Ðức Phật tắm rửa, tẩn liệm và lo việc hỏa táng cho Vua cha.

97. Còn ai trong dòng Sakya xin xuất gia theo Ðức Phật nữa?

Năm trăm vị Vương tôn công tử, kẻ tâm đạo nhiệt thành, người vì bè bạn quyến rũ, ăn mặc sang trọng, kéo nhau đến ra mắt Ðức Phật, xin Ngài giảng pháp cho nghe. Sau thời pháp, mọi người đều tình nguyện xin xuất gia. Sẵn có ông Upali (Ưu Bà Li), người thợ cạo của hoàng gia "Tháp tùng viếng Phật", họ liền cậy ông thế phát cho họ và hứa cho tất cả y phục trang sức để đền ơn ông, bởi các vật ấy hết còn giá trị đối với đời thoát tục. Tình cờ ông Upali trở nên người giàu có nhưng duyên lành của ông đã đến, ông không thọ nhận chỉ ước ao được Ðức Phật thâu ông vào hàng đệ tử của Ngài.

Trong lúc 500 vị Vương tôn công tử trở về từ giã gia đình, ông Upali vào lạy Ðức Phật xin xuất gia, Ðức Phật liền thâu nhận ông làm Thiện Lai Tỳ kheo (Èhi Bhikku). Vào sau và được xuất gia trước, nên các vị Vương tôn công tử phải kính nhường ông là Bậc cao hạ đàn anh.

98. Trong hàng Vương tôn công tử nói trên có ai là thân bằng quyến thuộc của Ðức Phật không?

Có năm ông hoàng: hai người em chú bác của Ðức Phật là ông Anuruddha (A Nậu Ða La) và ông Ananda (A Nan Ðà) và người bà con cô cậu, anh ruột của Công chúa Yasodhana, tên Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða). Còn hai người nữa không biết tên chi.

(Theo nguồn lịch sử của thời đại sau, năm vị Hoàng thân nói trên và ông Upali đến xin xuất gia, lúc Ðức Phật ngự tại làng Anupiya, trong xứ của vua Malla, thuộc về hướng Nam kinh đô Kapilavastu).

99. Ðạo giáo của Ðức Phật đã đem lại ảnh hưởng chi cho dòng Sakya?

Dòng Sakya toàn là những vỏ tướng vô địch, khi hấp thụ được Giáo pháp của Ðức Phật, đều trở nên hiền từ đạo đức, thà chịu chết hơn dùng bạo lực, để tránh gây nghiệp báo.

F. Từ Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) sang qua thành Savatthi (Xá Vệ)

100. Ðức Phật ở Kapilavastu bao lâu rồi đi đâu nữa?

Sau 4 tháng ở quê nhà, Ðức Phật từ giả Vua cha và quyến thuộc sang qua kinh thành Savatthi (Xá Vệ), xứ Kosala của Vua Pasénadi (Ba Tư Nặc), thuộc về hướng Tây thành Kapilavastu.

101. Tại thành Savatthi (Xá Vệ) Ðức Phật được tiếp rước như thế nào?

Tại thành Savatthi, có một vị đại phú gia tên Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc): người nuôi kẻ nghèo khó cô độc), sẵn chờ nghinh tiếp Ðức Phật và dâng cho Ngài một ngôi chùa lộng lẫy, vừa tạo lập xong.

102. Tại sao ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) biết Ðức Phật sắp đến mà lo tạo chỗ nghinh tiếp?

Ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) đã có đến Rajagaha (Vương Xá) nhiều lượt giao thiệp buôn bán và có dịp nghe Ðức Phật thuyết pháp tại vườn Veluvana (Trúc Lâm). Ông đắc được đạo quả Tu Ðà Hườn thỏa thích xin qui y và thỉnh cầu Ðức Phật đến Hoằng đương Phật pháp tại Savatthi (Xá Vệ).

Ðức Phật nhận lời, nhưng bảo ông Anàthapindika về kiếm sẵn một nơi thanh vắng, ngoài thành Savatthi, để khi Ngài và Chư Tăng đến chỗ an trú. Ông Anàthapindika về lựa được một hoa viên đẹp nhất, ở ngoại ô thành Xá Vệ. Hoa viên ấy thuộc về của ông Hoàng Jeta (Kỳ Ðà). Ông này không muốn bán, lại diễu chơi với ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) rằng: nếu ông trải phủ vàng cùng khắp trên mặt đất của hoa viên tôi, tôi mới bán cho. Ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) liền chịu mua với giá cả ấy. Lỡ lời ông Hoàng Jeta phải chịu bán nhưng với điều kiện là ông giữ lại nguyên vẹn các thứ cây, nhất là những danh mộc cổ thọ, như xoài, đàn hương, để cho có bóng mát và bảo tồn thanh cảnh trang nghiêm, huyền mặc cho hoa viên mà ông đã công khó tạo ra... Nhân đó, sau khi ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) cất Tinh xá, rước Ðức Phật và Chư Tăng về ở, người ta thường gọi là Jeta Vana (Kỳ Viên hay Huê Viên của ông Jeta) hoặc là Anàthapindika Vihãra (Cấp Cô Ðộc Tinh xá).

103 Tinh xá của ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) có chi đặc biệt không?

Tinh xá này là một thắng cảnh đẹp nhất giữa một cánh đồng phì nhiêu, nằm về hướng Tây Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) và hướng Tây Nam núi Hy Mã Lập Sơn, cách xa hai nơi ấy độ 150 cây số. Quanh năm tiết trời mát mẻ, cỏ hoa tươi đẹp, lại gần quê hương của Ðức Phật, nên Ngài thường kiết hạ nơi đây (*). Ðại Ðức Sariputa được phái đến trước, chỉ vẽ cho ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) cách thức tạo lập Tinh xá. Giữa vườn là một biệt thất dành riêng cho Ðức Phật, chung quanh có vườn hoa và ao sen, bốn mùa hương xông ngạt ngào. Năm trăm vị Tỳ kheo ở riêng, mỗi vị một tịnh thất, cất rải rát trong hoa viên; ngoài ra nào là giảng đường, trai đường, phòng tắm, cầu tiêu nhà bếp, kiến trúc có lớp lang.

Ban ngày thiện nam tín nữ tới lui tấp nập, tối lại chỉ còn những bóng người lặng lẽ kinh hành, quán tưởng dưới tàn cây u tịch.

(*) Kiết hạ là an cư trong 3 tháng mưa, từ rằm tháng 6 đến 16 tháng 9. Trong 45 năm, Ðức Phật kiết hạ tại Kỳ Viên 25 mùa.

104. Ðức Vua nào trị vì xứ Kosala, tại Savatthi và Ngài đối với Ðức Phật ra sao?

Chính Ðức Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc). Hay tin Ðức Phật ngự đến Tinh xá Cấp Cô Ðộc, Vua và bá quan trong triều thân hành đến chào mừng. Vua Ba Tư Nặc, cũng như các vị vua khác, khi đến viếng Ðức Phật, đều áp dụng một nghi thức xã giao giống nhau. Trước đoàn xe giá có toán quân nhạc mở đường, sau có binh gia hộ tống. Ðến trước cổng Tinh xá. Vua và bá quan xuống xe, lột cất năm biểu chương: Lông, mão, quạt và giầy rồi từ từ đi chân không vào. Ðến trước Ðức Phật, Vua và bá quan quì lạy đảnh lễ. Phong tục Ấn Ðộ đặt phẩm cách tinh thần trên uy thế Ðế vương.

105. Vua Pasenadi có lòng mộ đạo không?

Vua Pasenadi cũng như Vua Bimbisàra, đồng tuổi với Ðức Phật thấy Ngài cũng là dòng Vua, lại dám hy sinh ngôi báu xuất gia tìm đạo và khi thành công đắc quả, còn phải sống một cuộc đời phiêu lưu khổ cực, tận tụy với nghĩa vụ tế thế độ nhân, nên hết sức kính phục và nhiệt thành ủng hộ Ðức Phật trong việc Hoằng pháp.

106. Tại Savatthi Ðức Phật còn người đệ tử nào trung thành như ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) chăng?

Kế ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) là bà Visàkhà, một tin nữ giàu có đã giúp Ðức Phật một cách đắc lực. Bà rất đông con và nhiều cháu chắt, được dân chúng thành Xá Vệ xem như bậc phúc hậu đệ nhất, nên trong mỗi cuộc lễ luôn luôn mời bà chủ tọa để nhờ hồng phước của bà. Bà được nổi danh là một vị đại thí chủ. Các nhà sư đến Xá Vệ đều nhờ bà châu cấp mọi vật cần thiết. Bà nguyện với Ðức Phật, trọn đời dâng cúng y phục tấm mưa cho Tăng ni, thuốc men cho các nhà sư có bệnh, vật thực cho các vị mới đến hoặc sắp đi và mỗi sáng dâng cháo lót lòng cho Chư Tăng.

Ðối với bà Visàkhà cũng như phần đông phụ nữ, người ân nhân hay người đáng cám ơn, chẳng phải người cúng dường Ðức Phật và Chư Tăng, mà chính là Ðức Phật, bởi Ngài chỉ dạy cách thức thực hiện công hạnh bố thí để cho mỗi người được dự vào phần thưởng của công hạnh bố thí ấy.

107. Trong thời gian Ðức Phật an cư tại Savatthi có điều chi xảy ra chăng?

Tại Tinh xá Cấp Cô Ðộc, Ðức Phật thâu nhận đệ tử càng ngày càng đông; có nhiều người chứng đạo quả Tứ Thánh tiếng đồn khắp xứ, thiên hạ đua nhau đến qui y thọ giáo với Ðức Phật, làm cho các đạo giáo phải lu lờ và các vị Ðạo sĩ phải thiếu thốn mọi bề, nên họ đâm ra ganh tị thù oán, tìm mọi mưu chước làm hại Ðức Phật.

108. Họ làm hại cách nào?

Ðây chỉ tóm lược hai sử tích:

a) Ðể thỏa mản lòng ganh tị, bọn tà sư nhóm lại định dùng mỹ nhân kế làm cho mất thanh danh uy tín của Ðức Phật. Mỗi buổi tối, giữa lúc thiện nam tín nữ từ Kỳ Viên ra về, sau khi nghe pháp của Ðức Phật, một nữ Ðạo sĩ, nhan sắc đậm đà, xiêm áo lòe loẹt, tay cầm hoa thơm, đi ngược chiều về hướng Tinh xá. Có người kêu hỏi: Cô đi đâu giữa đêm tâm tối vậy cô? Nàng ấy tên Cinca, ngoe ngoẩy trả lời: "Tôi đi đâu, căn cớ chi mấy người mà hỏi.” Ði khỏi đám người, nàng Cinca trở lại nghỉ trong chùa của bọn tà sư, gần Tinh xá Cấp Cô Ðộc. Rựng sáng, lúc thiện tín, từ ngoài thành Savatthi vào Tinh xá yết kiến Ðức Phật, nàng Cinca lại trở ra, cũng như nàng từ Tinh xá đi về.

Có ai hỏi: Cô ngủ đâu mà về sớm vậy?

Nàng cũng ngoe ngoẩy trả lời:

- "Tôi ngủ đâu, mặc kệ tôi.”

Liên tiếp gặp nàng với cử chỉ khả nghi, nhiều người ngạc nhiên hỏi nữa: Cô ngủ đâu mà về sớm vậy?

Nàng Cinca trả lời:

- "Tôi ngủ trong Tinh xá với ông Sa môn Gotama.”

Từ đó Tín đồ xầm xì, bàn tán, phân vân, nghi ngờ. Bốn tháng sau ai ai thấy bụng của nàng Cinca càng ngày càng lớn. Ðến tám chín tháng bụng nàng lại càng to lên, tỏ ra người mệt nhọc, như gần ngày sanh đẻ. Một buổi chiều nọ, lúc Ðức Phật đương ngồi trên bảo tọa thuyết pháp cho Tín đồ nghe, nàng Cinca vào đứng trước mặt Ðức Phật kêu nói rằng:

- "Này ông Ðại Sa môn, ông giảng đạo lý cho mọi người với giọng thật là ngọt ngào dễ thương nhưng đối với tôi đây, vì ông mà phải mang thai nghén, nay gần ngày nở nhụy khai hoa, mà không thấy ông để ý lo tạo cho tôi một chòi tranh, cùng mua sắm những vật cần thiết cho việc sanh đẻ. Cũng không thấy ông để lời cậy mượn những người trung thành với ông như Ðức Vua Pasenadi. Ông Anàthapindika hoặc bà Visàkhà, thay thế lo giùm cho ông. Ông biết chơi hoa thưởng nguyệt mà ông không biết ngăn ngừa hậu quả.”

Ðức Phật ngưng cuộc thuyết pháp, dòm ngay nàng Cinca và thốt rằng:

- "Này cô em, những lời cô vừa thố lộ đó, thật hay giả, chỉ có cô và Như Lai biết thôi.”

Nàng Cinca cũng bình tỉnh trả lời:

- "Thật vậy, thưa ông Sa môn, chỉ có đôi ta mới rõ thấu sự tình này thôi.”

Vừa dứt lời, một khúc gổ hình bán cầu, mà nàng Cinca đã ràng rịt trước bụng, thình lình rớt xuống đè dập cẳng nàng [1]. Mưu gian bại lộ, thiện nam tín nữ rộ lên, kẻ phun nước miếng, người thì tát vã vào mặt nàng. Ðức Phật liền ngăn cản, khuyên Tín đồ dung thứ và thương hại cho kẻ lỗi lầm. Nàng Cinca chạy ra khỏ Tinh xá, vừa khuất dạng, thì đất xụp, vùi thân nàng dưới một cái hố sâu đầy lửa Địa ngục [2].

[1] Tục rằng mỗi khi có việc chẳng lành xảy ra đến cho các bậc phạm hạnh trong dục giới, Trời Ðế Thích có cảm giác bảo tọa của Ngài ra hơi nóng và nhờ Thiên nhãn, Ngài biết Ðức Phật đương bị hàm oan, liền sai bốn vị hộ giá lập tức xuống tận Kỳ Viên, biếng làm 4 con chuột bạch, chung vào cắn đứt dây nịch của nàng Cinca.

[2] Mười ba thế kỷ sau, Thầy Huyền trang đến Savatthi còn thấy cái hố chôn nàng Cinca.

b) Bọn tà sư chưa chịu đừng bước trên đường tội lỗi. Ðịnh hy sinh một nữ Ðạo sĩ nữa tên Soundari (người đẹp), họ mướn kẻ côn đồ bóp họng cô này, rồi lén đem thây vùi dưới đóng tràng hoa héo, chất gần biệt thất của Ðức Phật. Mặt khác họ đi khai báo với nhà Vua rằng cô Soundari mất tích. Phụ lực với nhà chức trách họ cho bộ hạ đi tìm kiếm cô Soundari. Dĩ nhiên họ kiếm được tử thi cô này một cách dễ dàng và để nằm trên một cái võng khiên vào thành Savatthi, truyền rao cho thiên hạ thấy rõ bằng cớ dâm đãng hiển nhiên của ông Cồ Ðầm, mà đệ tử của ông cố ý che đậy, nên giết cô Soundari để phi tang. Dư luận xôn xao phẩn uất. Nhà cầm quyền đương ngấm ngầm điều tra, thì bọn sát nhân được trọng thưởng rủ nhau ra tửu lầu, gầy tiệc vui say, để rồi chia nhau số tiền thù lao. Thần men ám ảnh, anh nào cũng muốn dành phần nhiều, cải cọ, ấu đả, rồi tố cáo lẫn nhau. Kết cuộc cả bọn sát nhân và kẻ đồng lõa đều phải đền tội trước công lý.

Một lần nữa, hàm oan của Ðức Phật được minh giải. Trong đời kẻ tiểu nhân muốn làm hại một người chân chánh, không phải dễ như ý muốn, hà tất là cáo gian một vị Chánh đẳng Chánh giác.

109. Tại Savatthi, Ðức Phật còn gặp trở ngại chi nữa chăng?

Nhóm Lục Sư còn đề nghị tranh tài, đấu phép với Ðức Phật, có Vua Pasenadi chứng kiến. Ðức Phật bắt buộc phải làm vừa lòng họ. Trước khi tranh biện, Ðức Phật dùng phép thần thông hóa ra một cây xoài to lớn, cao tận mây xanh, đầy bông trái, giữa sân đã dọn trống cho cuộc hội hợp, rồi Ngài đến ngự dưới gốc xoài để trả lời từ câu chất vấn của nhóm Lục Sư.

(Theo sử tích khác, Ðức Phật hóa phép ngồi trên một tòa sen lớn bằng bánh xe. Nhân đó, trong thời đợi sau, các chùa đều tượng cốt Phật ngồi trên tòa sen. Một nguồn tài liệu khác ghi rằng Ðức Phật hóa ra vô số vị Phật đi đứng nằm ngồi trên không gian).

Bao nhiên biện chứng của Lục Sư đưa ra đều bị Ðức Phật đánh tan, với lý lẽ không chối cãi được. Không thấy kinh sách ghi rõ những biện chứng chi.

110. Ðức Phật có thần thông quảng đại mà không có phương pháp nào tế độ nhóm Lục Sư sao?

Ðức Phật chỉ độ người có duyên lành với Ngài. Những người ấy dầu say mê lầm lạc theo tà đạo, đúng giờ khắc nhất định, gặp một cơ duyên họ thức tỉnh ngay. Người không duyên lành, dầu sống bên cạnh Ðức Phật, họ cũng vẫn thiên về tà đạo, huống hồ là người đã sẵn có một tôn chỉ khác biệt như nhóm Lục Sư.

111. Có người nào lạc theo tà giáo mà được Ðức Phật tế độ?

Tại Savatthi (Xá Vệ) trong một hạ, Ðức Phật có tế độ một tên sát nhân, cuồng tín theo tà giáo, đã gây ra sự kinh khủng cho dân xứ Kosala. Kẻ sát nhân ấy tên Angulimàla (Ngón tay tròng cổ), con của một vị Ðại Thần tại Savatthi. Chàng được gửi đến thọ giáo với một vị Ðạo sĩ danh tiếng. Rất thông minh, văn hay võ giỏi, chàng được Thầy yêu mến, trọng đãi hơn các bạn học sinh. Bọn này sanh lòng ganh tị, bao phen lập kế, mét thót với Thầy rằng Angulimàla âm mưu phản Thầy. Ông Ðạo sĩ không tin nhưng ba lượt bị thúc giục phải xua đuổi Angulimàla ra khỏi nhà, để tránh tai hại về sau. Xiêu theo lời nịnh bợ bất chính, ông Thầy lập kế đưa Angulimàla vào chốn lao tù, mới kêu bảo rằng: "Này con, Thầy thấy con võ nghệ tinh thông. Thầy muốn truyền cho con một phép mầu nhiệm để sau này còn nhờ lấy đó mà lập thân; nhưng trước khi truyền phép huyền bí cho con, con phải giết cho đủ một trăm (có nơi ghi một ngàn) người, cắt lấy ngón tay, xỏ làm một xâu tràng hoa đem về đây.” Angulimàla tuy thông minh nhưng tham vọng rất nhiều, không suy nghĩ, phần ỷ lại tài nghệ xuất chúng, liền từ giả Thầy đi tìm giết cho đủ 100 người. Ai đi vào rừng cùng, đi lẻ loi nơi vắng vẽ đều bị Angylimàla giết chết và cắt ngón tay xỏ xâu đeo lên cổ. Tiếng đồn dân chúng kinh sợ. Vua Pasenadi định đem binh đi bắt tên sát nhân về trị tội. Lúc ấy Angulimàla đã giết được 99 người, càng giết càng hăng máu không gớm tay mong mau có đủ số, để sớm trở về cho Thầy truyền đạo. Cũng lúc ấy bà mẹ của Angulimàla dọ hỏi tin tức, biết tên sát nhân là con của bà. Bà liền vào rừng tìm Angulimàla để khuyên giải và báo tin cho con bà hay rằng Ðức Vua sắp gửi binh đến bắt chàng. Thấy mẹ, Angulimàla bị tội ác ám ảnh, định giết mẹ cho đủ số 100 người. Bà mẹ kinh hồn chạy trở lại, liền khi ấy Ðức Phật hiện ra chậm rãi đi trước mặt, chận đường Angulimàla, để cho bà mẹ chàng thoát thân. Tên sát nhân liền đổi ý, định giết ông Sa môn, nổ lực chạy đến gần để hạ thủ. Ðức Phật mang bát từ từ bước trở ra, tên sát nhân chạy theo sau như tên bay, trên cả ba do tuần, mà không theo kịp. Tức mình, Angulimàla kêu:

- "Kìa ông Sa môn, sao ông không dừng chân lại?"

Ðức Phật ngoái lại mĩm cười đáp:

- "Này Angulimàla, Như Lai dừng bước đã lâu rồi, chỉ có ngươi chưa chịu dừng bước đó thôi.”

Angulimàla hỏi lại:

- "Ông nói ông đã dừng bước, sao tôi chạy theo ông không kịp. Ông là người nói dối.”

Ðức Phật đáp:

- "Như Lai đã dừng bước trên con đường tội lỗi. Như Lai đã bỏ hết gươm giáo từ lâu rồi.”

Nghe được có bấy nhiêu lời Angulimàla chợt tỉnh cơn lầm lạc, hối ngộ ăn năn, liệng cả gươm đao, quỳ lạy Ðức Phật, xin ra tay tế độ. Ðức Phật liền vỗ về an ủi giải thích cho Angulimàla biết rằng: "Tiền kiếp người đã dày công tu hành và có duyên lành gặp Chánh Pháp, nếu Như Lai không đến cứu ngươi thì ngươi đã phạm tội giết mẹ. Với cái ngỗ nghịch đại tội ấy, ngươi phải sa vào vô gián Địa ngục, biết đời kiếp nào chuộc cho xong.” Ðức Phật dắt Angulimàla về Tinh xá Cấp Cô Ðộc cho xuất gia làm Tỳ kheo.

Vua Pasenadi, trước khi gửi binh nã tróc tên sát nhân vào thỉnh tôn ý của Ðức Phật, vì Ngài biết đũ mọi việc quá khứ vị lai. Hơn nữa, tiếng đồn Angulimàla là một võ tướng vô địch, binh sĩ nghe đến tên chàng đều khiếp sợ nên Ðức Vua không muốn mạo hiểm, sợ phải hao binh tổn tướng nhiều. Ðức Phật biết trước nên khi Vua Pasenadi vào đến nơi Ðức Phật hỏi: "Tâu Ðại Vương, tên sát nhân đã gây tội tày trời, đối với luật nước Ðại Vương sẽ trừng trị để làm gương. Nhưng khi kẻ ấy biết ăn năn tội lỗi, hồi đầu hướng thiện, xin vào đây xuất gia tu hành, như các ông Tỳ kheo của Như Lai đây, thì Ðại Vương sẽ đối xử với kẻ ấy như thế nào?"

- "Bạch Ðức Thế Tôn, nếu kẻ sát nhân ấy, thật tâm ăn năn vào xuất gia dưới sự hướng dẫn của Ðức Thế Tôn, thì không chi quí báu bằng. Chừng ấy, Trẫm sẽ lễ bái cúng dường, như Trẫm lễ bái cúng dường chư vị Tỳ kheo, môn đệ của Ðức Thế Tôn vậy.”

Ðức Phật mỉm cười, đưa tay chỉ vào nhóm Tỳ kheo mà nói rằng: "Tâu Ðại Vương, đây là Angulimàla, là người mà Ðại Vương sắp đem binh nả tróc.” Vua Pasenadi ngạc nhiên mọp đảnh lễ ông Tỳ kheo Angulimàla. Khi ấy binh tướng ngồi chung quanh hầu vua, giật mình, len lét liếc dòm người võ tướng vô địch, nổi tiếng hung ác, đương ngồi chểm chệ trong oai nghi đạo đức.

112. Ðức Phật còn châu du nơi nào nữa?

Sau khi tranh tài đấu phép với nhóm Lục Sư (câu 109) thì mùa mưa cũng vừa đến, Ðức Phật lên kiết hạ cung trời Ðao Lợi, thuyết phần Vi Diệu Pháp, độ mẹ Ngài là Hoàng hậu Maya đến đạo quả Niết bàn.

113. Ðã nói rằng Ðức Phật độ bà Maya tại Bodhi Gaya (câu 50) sao nay còn độ nữa? Vi Diệu Pháp là pháp chi? Sao ở thế gian biết được Ðức Phật giảng pháp ấy cho mẹ Ngài?

Nếu tại Bodhi Gaya, bà Maya đắc được đạo quả A la hán thì bà đã vào Niết bàn rồi, không còn làm chúng sanh ở cung trời. Lịch sử không ghi rõ nhưng có lẽ lần đầu tiên bà Maya chỉ đắc đạo quả A na hàm thôi. Ðể giữ trọn đạo làm con, Ðức Phật tùy thời cơ, độ mẹ Ngài đến tận bờ giải thoát.

Ba tháng sau, Ðức Phật trở xuống Ấn Ðộ, tại thành Sankasya, một nơi xa xăm về hướng Tây Savatthi, hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Bà la môn giáo. Trên hai trăm năm sau, Vua Asoka (A Dục) có đến tận chỗ chiêm bái và xây tháp kỷ niệm đặt tên là tháp Sankissa, hiện nay vẫn còn di tích.

Trở lại thế gian, Ðức Phật lần lượt đem pháp mà Ngài đã thuyết tại cung trời Ðao Lợi giảng giải cho chư Thanh văn La hán nghe. Pháp ấy dạy về tâm ý, danh sắc và Niết bàn, rất cao sâu khó hiểu nên gọi là Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Sau lại được ghi chép trong Tạng thứ ba cũng gọi là Tạng Vi Diệu Pháp mà người ta thường gọi là Tạng Luận.

(Có chỗ ghi rằng Ðức Phật lên cung trời trong hạ thứ 7, chỗ khác nói hạ thứ 16).

114. Người có duyên lành nhưng ở xa xăm lại cũng không phải là thân nhân của Ðức Phật, có hy vọng được tế độ chăng?

Những người hữu duyên gặp Ðức Phật ra đời đều được tế độ cả thãy. Mỗi buổi sớm mai, Ðức Phật dùng Thiên nhãn soi khắp mọi nơi coi có người đúng duyên kỳ, dầu xa xăm đến đâu, Ngài cũng đến tế độ, như trường hợp của chàng Angulimàla (câu 111). Ngoài ra, Tín đồ nào có chánh tín, thường ngày tưởng nhớ đến Ân đức Tam Bão mà không cầu cạnh van vái để xin ân huệ, chỉ lo làm lành ở phải, tin lý Nhân quả, thì chẳng những gia đình họ càng được an vui hòa thuận, mà họ lại còn có thể làm nhịp cầu đưa thân nhân quyến thuộc đến cho Ðức Phật tế độ.

115. Xin cho vài bằng chứng.

Từ Sankasya, Ðức Phật trở lại Savatthi. Nơi đây Ngài có dịp tế độ gia đình của ông Cấp Cô Ðộc. Ai cũng biết ông này là một nhà triệu phú nhưng vì có những thông gia tà kiến, nên dâu và rể của ông thường gây ra sự bất hòa trong gia đình mà ông vẫn nhẫn nại nín chịu. Ngày nọ, ông thỉnh Ðức Phật và chư Thanh văn đến nhà thọ thực, Ðức Phật biết dâu của ông là nàng Sujata thường ỷ mình là con nhà quyền thế giàu sang, không kiêng nể cha mẹ chồng, hổn ẩu với chồng và đày xắt tôi đòi nên khi thọ thực rồi Ðức Phật cho mời cô ra, đem đạo lý khuyên giải nàng, dạy nàng tư cách làm dâu, làm vợ, để tìm cội phúc hiện tại và vị lai. Nhờ vậy, nàng trở thành một người dâu thảo, vợ hiền và một tín nữ rất nhiệt thành.

Ông Cấp Cô Ðộc còn một người con gái cũng khổ tâm vì phải gặp một gia đình tà kiến. Làm dâu cho một nhà triệu phú ở xứ Bengale (miền Calcutta), mỗi ngày phải lo đủ lễ vật cho cha mẹ chồng cúng dường đến các vị Ðạo sĩ lõa thể. Ngày nọ, các Thầy Ðạo sĩ ấy được thỉnh về nhà thọ thực, cha mẹ chồng ép nàng phải ra lễ bài chào mừng. Vừa bước ra thấy các Ðạo sĩ trần truồng, dơ dáy, nàng bụm mặt trở vô, tỏ ý khinh bỉ. Ông cha chồng nổi xung, quở trách thậm tệ. Nàng trả lời: "Thưa cha, con chưa từng gặp những hạng người lõa lồ như vậy và con chỉ biết lễ bái cúng dường ông Cha lành duy nhất của con là Ðức Phật Gotama cùng hàng Thánh Tăng, đệ tử của Ngài thôi. Ðức cha lành của con và hàng môn đệ của Ngài dung nghi lẫm liệt, ăn mặc tề chỉnh rất xứng đáng cho trời, người lễ bái.”

Ông cha chồng mới hỏi:

"Mi nói thật chăng? Nếu quả thật vậy mi hãy mời các vị ấy đến đây thọ thực ngày mai. Bằng mi nói dối, ta sẽ tống khứ mi ra khỏi nhà này.”

Trong lúc bối rối nàng liền trả lời:

- "Dạ xin vâng.”

Trọn ngày ấy, nàng đem hết tâm thần hướng về Tinh xá Cấp Cô Ðộc, hết dạ tín thành cầu thỉnh Ðức Phật và chư Thanh văn đến thọ thực ngày mai tại nhà cha mẹ chồng nàng, để cứu rổi nàng khỏi tai hại và phổ độ gia quyến của chồng nàng theo về với Chánh Pháp.

Tại Savatthi, chiều ngày ấy ông Cấp Cô Ðộc vào yết kiến Ðức Phật và thỉnh Ngài cùng chư Tăng ngày mai đến thọ trai tại tư gia. Ðức Phật mỉm cười trả lời rằng: "Như Lai đã lỡ nhận lời thỉnh cầu của con gái ông rồi; nên ngày mai Như Lai và chư Thanh văn phải đi thọ trai tại xứ Bengale.”

Con gái ông Cấp Cô Ðộc đinh ninh rằng Ðức Phật sẽ đến, nên lo sắp đặt chỗ tiếp rước trong một gian phòng lớn trên lầu.

Ðúng giờ Ðức Phật và chư Thanh văn bay đến đứng giữa hư không, trước phòng trai tăng. Nàng hết sức vui mừng, mọp lạy cung thỉnh Ðức cha lành và chư vị Thánh tăng vào an tọa, cả nhà ngạc nhiên, kính phục, thành tâm lễ bái cúng dường ông Ðại Sa môn Gotama và đoàn tùy tùng của Ngài. Thọ thực rồi Ðức Thế Tôn thuyết pháp độ cả gia quyến từ cha mẹ chồng đến chồng và tôi trai tớ gái của nàng. Mọi người đều phát tâm tín ngưỡng xin qui y thọ giới làm thiện nam tín nữ.

Ðức Phật đã đem an vui hạnh phúc cho người thiện nữ chánh tín là con gái ông Cấp Cô Ðộc và gia đình bên chồng của nàng.

116. Hiện nay, nếu có người chánh tín cầu khẩn Ðức Phật gia hộ cho, có linh nghiệm chăng?

Nên nhớ rằng hai câu chuyện kể trên xảy ra lúc Ðức Phật còn tại thế. Những người đã có gieo nhiều duyên lành, mới được sanh vào thời kỳ ấy. Gặp lúc Ðức Phật ra đời mà không có Chánh kiến, cũng không thể nhờ Phật tế độ được. Chẳng phải vì lòng sùng mộ, vì sự cầu khẩn mà Ðức Phật sửa đổi được nghiệp quả của mỗi người.

Với một đức tin chân chánh, kiên nhẫn thực hiện đời sống, y theo giáo lý của Ðức Phật, mỗi Tín đồ phải tự lực mưu cầu hạnh phúc an vui cho mình, chớ nên mù quáng ỷ lại nơi sự gia hộ của Ðức Phật, bởi mỗi hành động thiện ác do luật Nhân quả.

117. Ðức Phật có gặp kẻ nào cương ngạnh, khêu chọc Ngài chăng?

Phật giáo ra đời làm lu lờ các đạo giáo khác, không sao tránh được kẻ cương ngạnh phá rối. Ðức Phật là người lễ độ ôn hòa, không bao giờ làm Phật lòng ai cả, trừ khi nào có người đến gây chuyện. Ngài mới đối phó nhưng cũng dùng kim ngôn mỹ từ để cảm thắng họ.

118. Xin cho vài bằng chứng.

Ðây chỉ tóm lược vài chuyện trong muôn ngàn chuyện đã xảy ra:

1) Ngày nọ, có một Thầy Bà la môn trong tay giấu một con chim vào đố Ðức Phật: "Này ông Sa môn Gotama (Cồ Ðàm), tôi đương cầm trong tay một con chim, ông có tài giỏi thử nói cho mọi người biết con chim ấy sống hay chết?"

Ðức Phật bảo:

- "Này Thầy Bà la môn, Thầy nên đem con chim của Thầy ra ngoài, hội nhiều người làm chứng, rồi đem trở vô đây, Như Lai sẽ cho biết chim ấy sống hay chết.” Ðức Phật biết rằng chim ấy sống nhưng nếu Ngài nói nó sống, Thầy Ðạo sĩ bóp nghẹt, dầu sống chim ấy cũng phải chết.

2) Một nhóm Bà la môn khác đến hỏi: "Này Thầy Gotama (Cồ Ðàm), tục lệ xưa nay từ bậc Vua chúa đến hàng thứ dân, muốn cầu hạnh phúc cho gia đình, xã hội, ai ai cũng giết thú vật để cúng tế thần linh. Thủ tục ấy có lợi ích cho bá gia bá tánh, cớ sao ông lại không cho Tín đồ của ông áp dụng.”

Ðức Phật đáp:

- "Này các Thầy Bà la môn, con người khôn hơn muôn vật, tự mình phải tìm hạnh phúc cho muôn loài vạn vật. Trí tuệ để làm gì, mà phải hạ mình, ỷ lại nơi thần linh? Sát sanh hại vật để đổi lấy hạnh phúc cho mình; hạnh phúc đâu không thấy, mà tội ác đã hiển nhiên.”

"Không đâu Thầy Gotama (Cồ Ðàm), các con vật bị giết để tế thần đều được siêu thoát về thượng giới, bởi thế chẳng phải là tội ác, mà chính đó là một việc lành để giúp các con vật ấy mau được thoát khỏi kiếp đọa đầy, siêu sinh về cõi yên vui. Thế tại sao Như Lai chưa từng thấy ai làm việc lành ấy để mưu cầu hạnh phúc thiên đàng cho thân nhân quyến thuộc của họ?”

3) Nhóm Bà la môn khác đến vấn nạn: "Bạch Thầy Gotama (Cồ Ðàm), Thánh kinh từ ngàn xưa lưu truyền, có hiệu lực huyền bí thiêu đốt tội lỗi cho linh hồn người quá vãng được nhẹ nhàng, hồi qui nơi cựu vị, cọng hưởng khoái lạc muôn đời với Brahma; đạo của Thầy được công bố là đạo cứu khổ, song mỗi khi trong hàng tứ chúng của Thầy, có ai qua đời, chẳng thấy tổ chức tế thần, cứ im lặng khiêng xác đi thiêu?"

- "Này các Thầy Bà la môn, đạo của Như Lai hẳn thật là đạo cứu khổ, cứu khổ một cách thực tế. Hàng tứ chúng của Như Lai thường xuyên tự độ, không mong chờ một tha lực nào gia hộ; trọn đời ăn ngay, ở thẳng, làm lành, lánh dữ; tinh tấn trau giồi đức hạnh; bố thí trì giới, tham Thiền quán tưởng, tự giác giác tha; khi thở hơi cuối cùng, nếu chưa đắc đạo quả Niết bàn họ sẽ thọ sanh vào cảnh giới yên vui hiệp theo định luật công bình thiên nhiên mà Như Lai gọi là luật Nhân quả. Nếu Thánh kinh của các Thầy quả thật có hiệu lực đổi ác ra thiện, sửa tội ra phước; Như Lai xin đề nghị đem ra thí nghiệm để chứng minh sự thật: Các Thầy hãy lấy một cục đá và một cục bông gòn đồng cân với nhau để trước mặt rồi xúm lại tụng Thánh kinh cầu nguyện cho cục đá trở ra nhẹ như bông gòn và cho cục bông gòn trở ra nặng như cục đá. Khi tụng kinh cầu nguyện rồi, các Thầy đem hai vật ấy thả xuống sông Găng, các Thầy nghĩ sao? Cục đá sẽ nổi phêu trên mặt nước hay cục bông gòn?"

119. Tại sao trong Phật giáo có tục lệ cầu an và cầu siêu?

Ðức Phật không có để lại bài kinh nào gọi là kinh cầu an hay cầu siêu. Do nơi sự đòi hỏi của người thế tục mê tín mà nảy sanh tục lệ cầu an và cầu siêu. An hay không tự mình, siêu hay không cũng tự mình, nếu mình biết hành đúng theo giáo lý của Ðức Phật. Hiện nay những Phật ngôn mà người ta thường đem ra tụng trước một xác chết, một linh cửu thuộc về loại pháp thức tỉnh những người còn sống có mặt nơi đám tang, cho họ hiểu rằng chúng sanh trong Tam giới phải chung chịu cái luật Vô thường sanh diệt và khi chết rồi còn phải tái sanh nơi vui, nơi khổ tùy theo nghiệp lực, chỉ khi nào tu hành đến đạo quả Niết bàn mới diệt được cái khổ sanh tử luân hồi. Ít ai giải thích, để mặc tình người thế hiểu sao cũng đuợc. Tình trạng mập mờ ấy dĩ nhiên làm mất giá trị của đạo.

Trong trường hợp cầu bệnh giải ách, người ta dùng một thứ Phật ngôn mà xưa kia Ðức Phật đã có dịp thuyết cho một vài vị Tỳ kheo có bệnh, hoặc dạy các Thầy ẩn dật trong rừng phải hành động cách nào để tránh những việc chẳng may. Lẽ dĩ nhiên người cầu kinh phải biết nghe, biết hiểu để suy xét quán tưởng nhẫn nại với cái đau, cái khổ và tinh tấn làm lành, lánh dữ. Nhưng phần đông chỉ tin nơi sự phù hộ của Ðức Phật; nếu mạnh được thì cho rằng kinh có hiệu lực trừ bệnh, quên để ý đến công điều trị của ông Bác sĩ; bằng thoát được tai ách cũng cho rằng nhờ kinh mà vận mạng được sửa đổi không ai tin nơi Nhân quả vô hình.

Ðối với người cầu phước xin tội còn một thứ kinh chúc phúc khác, không lớp lang, đặt ra để thỏa mãn nhu cầu của thí chủ.

Nếu ba loại kinh kể trên quả thật có hiệu lực, mà không cần phải thực hành theo Phật ngôn cùng vun trồng đạo đức thì trước nhất các ông Thầy không bao giờ có bệnh, không gặp việc rủi ro và cũng được siêu sanh về Niết bàn. Nếu lời chúc phúc của các Thầy có kết quả, thì thân bằng quyến thuộc của các Thầy đều được mọi sự an lành: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, giàu sang vinh hiển và những Tín đồ trung thành với các Thầy cũng được hưởng lây.

G. Giả Từ Savatthi trở lại Rajagaha

120. Từ Savatthi, Ðức Phật còn tính đi mở đạo nơi nào khác nữa chăng?

Ở Savatthi lâu ngày, Ðức Phật trở lại Rajagaha. Ngài thường qua lại hai xứ Kosala và Magadha nhiều lượt vì Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) và Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa) hết lòng tin tưởng và giúp đỡ Ðức Phật trong mọi phương diện. Nơi hai xứ này lại có nhiều người hữu duyên với Ðức Phật; lâu ngày vắng bóng Phật, dường như họ thương nhớ và khao khát muốn được nghe pháp của Ngài.

121. Ðức Phật giảng đạo cách nào mà người ta mê thích dữ vậy?

Ðức Phật tùy trình độ của mỗi người, mỗi nhóm, đem những pháp phù hạp với tâm địa, hoàn cảnh của thính giả mà giảng giải cho họ nghe. Thường khi trước công chúng, Ngài bắt đầu dạy những pháp thông thường dễ hiểu, dễ hành như sự bố thí đến kẻ tật nguyền, đói khổ, tư cách ăn ở theo luân thường đạo lý để gieo trồng cội phúc, hầu tiến hóa từ địa vị con người đến ngôi phẩm của các vị Trời. Ngài chỉ rõ những tội lỗi trong sự đam mê theo tình dục và những phước báu của sự trì giới tham Thiền. Khi nhận thấy tinh thần của người hỏi đạo hoặc của thính giả, đã được tắm gội, mềm dịu, hân hoan và có đức tin nơi Ngài thì Ngài bắt qua giảng giải về cái khổ ở đời, về nhân sanh khổ, về phương pháp diệt khổ và con đường giải thoát khỏi khổ. Chẳng khác nào như một tấm vải vừa giặt sạch sẽ, trắng trẻo, liền được nhúng vào nước nhuộm, vải ấy cầm màu tươi tắn; cũng như người hỏi đạo hoặc thính giả được tâm trí mở rộng liền liễu ngộ chân lý, ngay khi Ðức Phật dứt lời. Ðược khai sáng, đã thấy, đã chứng, đã thấm nhuần lý đạo đã dứt hoài nghi, đầy tin tưởng, hoàn toàn bị chinh phục bảo sao họ không hoan hô ca tụng: "Bạch Ðức Thế Tôn, thật là huyền diệu, phi thường chẳng khác nào chúng con té, được Ðức Thế Tôn đỡ dậy; chẳng khác nào chúng con lạc đường, được Ðức Thế Tôn chỉ nẻo; chẳng khác nào chúng con đi trong đêm tối, được Ðức Thế Tôn rọi đèn. Ðức Thế Tôn chỉ dạy rành rẻ đủ phương diện. Từ nay chúng con xin qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.”

122. Có lúc nào Ðức Phật thâu phục toàn cả thính giả trong một thời pháp chăng?

Có. Một ngày nọ, Vua Bimbisàra triệu tập tám muôn vị lý trưởng trong xứ Magadha về kinh thành Rajagaha để dạy phương pháp trị dân. Sau cuộc hội nghị, Vua Tần Bà Sa khuyên họ đến viếng Ðức Phật đương tịnh dưỡng trên núi Kicchakuta (Kỳ Xà Quật). Các vị lý trưởng ấy vốn không thích tu hành nhưng khi Ðức Phật giảng cho họ nghe một thời pháp, họ liền xin qui y thọ giới làm thiện nam trong Phật giáo.

124. Có lúc nào Ðức Phật bị người ta âm mưu hãm hại chăng?

Một lúc nọ, Ðức Phật ngự tại vườn Veluvana (Trúc Lâm), ngoài thành Rajagaha, có một vị giáo chủ trong nhóm Lục Sư tên Purana phái một Tín đồ đại phú gia đến lân la tỏ vẻ nhiệt thành sùng mộ Ðức Phật. Ngày nọ, ông đến thỉnh Phật và chư Tăng thọ trai tại tư gia. Trước khi tổ chức bữa trai tăng, ông cho đào giữa sân ngay lối vào nhà một cái hầm sâu ngập đầu, chờ khi Ðức Phật sắp đến, ông cho đốt lửa than đỏ rực, trên miệng gát ván mỏng, trải chiếu lót đường nghinh tiếp Ðức Phật và chư Tăng. Biết trước mưu sâu kế độc của ông Trưởng giả Srigupta, Ðức Phật cũng vẫn đến. Khi Ngài cùng chư Tăng tới nơi, cái hầm lửa bổng trở thành một hồ sen tươi tốt, bông to lá lớn, nổi lên làm cầu cho Ðức Phật và chư Thanh văn đi vào. Ðức Phật cũng thản nhiên như không hay biết chi cả. Thọ thực rồi Ngài thuyết pháp độ được vợ ông Srigupta.

Thất bại, hôm sau Ðạo sĩ Purana và nhóm đồ đệ mang bát đến nhà ông Srigupta xin ăn như thường lệ. Vào trong ông ta chép miệng cười. Một vị Ðạo sĩ nhỏ đã toa rập trước với Thầy liền hỏi:

"Bạc Tôn Sư, thiên nhãn của Ngài đã thấy điều chi phi thường, mà hôm nay Ngài lại chép miệng cười?"

Ông Tôn Sư nghiêm nghị trả lời:

- "Không có chi lạ, bần tăng vừa thấy cách đây trăm dậm, một con khỉ té xuống nước, đương chơi vơi giữa dòng sông, chãy ngang qua thành Savatthi (Xá Vệ).

Cả nhà kinh ngạc cảm phục, ngoại trừ bà Srigupta. Ðể thử tài vị Tôn sư của chồng, bà bước ra rước bát và trái hơn thường lệ, bà để vật thực dưới đáy bát rồi mới đổ cơm lên trên, đem dâng trả lại cho Ðức Thầy. Liếc mắt thấy toàn là cơm trắng, ông Ðạo sĩ Purana liền kêu bà nói:

- "Này con, con quên để vật thực cho Thầy.”

Bà tín nữ của ông Sa môn Gotama (Cồ Ðàm) giả bộ không nghe xoay lưng trở vào, vừa đi vừa nói:

- "Vật thực ở dưới đáy bát mà không thấy, lại thấy khỉ chết chìm cách xa trăm dặm.”

124. Tại xứ Magadha Ðức Phật còn ở chỗ nào khác hơn Vườn Trúc Lâm và còn thâu được Tín đồ nữa chăng?

Rajagaha (Vương Xá) là một kinh đô phồn thịnh, các vị thương gia khắp xứ Ấn Ðộ thường tới lui buôn bán, được dịp nghe Ðức Phật thuyết pháp giảng đạo, đi tới nơi khác họ loan truyền và ca tụng thanh danh của Vị Giáo chủ mới ra đời, nên từ bốn phương các nhà mộ đạo, đủ giai cấp, cho đến những người lầu xanh kỵ nữ, đều lũ lượt đến Trúc Lâm ra mắt Ðức Phật, chẳng khác nào kẻ khát nước đi tìm mạch nước. Hằng ngày đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, trang phục xinh đẹp, kẻ đem bông hoa, người đem vật thực đến cúng dường Ðức Phật và bao vây qui y hỏi đạo. Đức Phật ân cần dạy dỗ, khuyến khích trì trai, thọ giới. Ngày này sang qua ngày nọ, Ðức Phật luôn luôn ôn tồn niềm nở đón tiếp trai lành, gái tín: như một nguồn nước công cộng ngọt ngào mát mẽ, để cho mọi người tự do đến giải khát. Mỗi ngày Ðại đức Ananda có phận sự tiếp khách đưa vào yết kiến Ðức Phật và sau khi khách ra về phải lo đi gom gót cất giùm đồ vật của khách bỏ quên lại, ông cũng như Ðức Phật không biết mệt mỏi. Ðối với hai Thầy trò, nghệ thuật cảm hóa chúng sanh vào cửa chân lý tựa hồ như một môn thể thao.

Lúc nào có chút thì giờ rảnh rang, Ðức Phật cùng Ðại Ðức Ananda, khi thì ngự tại Tinh xá "Vườn xoài" của Ông Ngự y Jivaka cất dâng cho Ðức Phật, dưới triền núi Kỳ Xà Quật, khi thì lên tịnh dưỡng trên núi Vediyaka (núi kên kên), cũng gọi là núi Kicchakuta (Kỳ Xà Quật), cách Trúc Lâm không bao xa.

Không gặp Ðức Phật tại Trúc Lâm, thiện nam tín nữ cũng lên núi tìm Ngài, trong thạch động Indasàlà. Nơi đây, ban ngày Ðức Phật vẫn phải tiếp chuyện với thập phương bá tánh, ban đêm còn phải giảng đạo cho hàng Chư Thiên và Càn Thát Bà nữa.

126. Cũng có các Vị Trời xuống thọ giáo với Ðức Phật nữa sao?

Chúng sanh trong Tam giới còn ở trong vòng sanh tử luân hồi; Ðức Phật là bậc siêu thoát khỏi Tam giới, nên Ngài là Thầy của chư Thiên và Nhân loại. Gặp thời kỳ Ðức Phật ra đời, các Vị Trời có chánh kiến, đêm khuya thanh vắng thường xuống hầu Phật hỏi đạo, nên có nhiều Vị đắc Thánh quả.

Một dêm nọ, tại thạch động Indasàlà, Vua Trời Sakka (Ðế Thích) và Chư Thiên trên cõi Ðạo Lợi có xuống yết kiến Ðức Phật và yêu cầu Ngài giải thích 42 điều hoài nghi. Sau khi được cởi mở hoài nghi, Vua Trời Sakka đắc Tu đà hườn Ðạo Tuệ cùng một lượt với một muôn Vị trời trong đám tùy tùng của Ngài. Nhờ đắc quả Tu đà hườn Ðạo Tuệ Vua Trời Ðế Thích, vừa mãn kiếp, được hoá sanh trở lại ngôi vị cũ. Tích này rất dài có lợi ích cho người tìm chân lý, đã được trích dịch ra việt văn, tựa đề: Sakkapanha (Ðế Thích vấn đạo), soạn giả: Thông Kham (Bộ kinh Dighanikàya: Trường A Hàm; phẩm Mahàmagga).

H. Từ Rajagaha trở lại Savatthi

126. Ðức Phật ở Rajagaha bao lâu và còn đi đâu nữa?

Lịch sử ít khi dề cập đến thời gian Ðức Phật cư ngụ mỗi nơi là bao lâu. Từ Rajagaha, Ngài trở lại Savatthi.

127. Tại sao Ðức Phật chỉ qua lại hai kinh thành Vương Xá và Xá Vệ mà không đi mở đạo nơi khác?

Rajagaha và Savatthi là hai trung tâm Phật giáo rất quan trọng. Vương Xá ở miền Nam, Xá Vệ thuộc về miền Tây Bắc, trong lưu vực phồn thạnh của sông Găng. Từ thành này qua thành kia, dĩ nhiên Ðức Phật phải đi cả tháng và ghé nhiều thành nhỏ như Kusinara, Saketa... cùng nhiều làng mạc thôn quê, phổ độ dân chúng; vì không xảy ra việc chi đáng kể nên lịch sử không ghi chép. Vả lại mỗi nơi ấy đều có các Vị Thánh Tăng lãnh nhiệm vụ Hoằng pháp, lâu lâu Ðức Phật qua lại cũng như đi kinh lý.

128. Ðức Phật đối đãi với các môn đệ của Ngài ra sao?

Ðức Phật luôn luôn ân cần lo lắng cho các Thầy Tỳ kheo. Mỗi bữa vào xế chiều Ngài hội các Thầy lại, chỉ dạy đường lối tu hành, dìu dắt mọi người mạnh tiến trên đường giải thoát. Ðối với các Thầy Tỳ kheo kiết hạ ở phương xa, Ðức Phật hằng có hai mối bận lòng: lo cho họ không hòa thuận với nhau và không đuợc no ấm, bởi hai điều này là nguồn tai hại thường đe dọa những người sống chung chạ, nhàn rỗi, lại bám nhờ nơi đàn na tín thí. Ra hạ, các Thầy tìm dến vấn an Ðức Phật; vừa gặp các Thầy, Ngài lăng xăng cật hỏi: "Các Thầy được an vui không? Các Thầy no đủ không? Các Thầy có hòa thuận nhau không? Có gây gổ nhau không? Có thiếu thốn vật thực không? " Tự thấy trách vụ lớn lao đối với hàng môn sinh, về phương diện vật chất lẫn tinh thần, Ðức Phật hằng khuyến khích Tín đồ bố thí cúng dường đến các bậc tu trì giới đức, để hưởng lấy phước báu nhân thiên.

129. Ðối với các Thầy Tỳ kheo có bệnh, Ðức Phật làm sao?

Hàng cư sĩ không để cho Ðức Phật bận lo về việc ấy. Tại Vương Xá, Vua Bimbisàra giao nhiệm vụ săn sóc Ðức Phật và chư Tăng cho Ông Jivaka, vị ngự y đại tài của hoàng triều; tại Xá Vệ có Ông Cấp Cô Ðộc và Bà Visakhà; ngoài ra còn nhiều Tín đồ sẵn lòng lo thuốc men cho Chư Tăng. Còn Ðức Phật thì ít đau ốm.

130. Thầy Tỳ kheo đối với nhau trong lúc bệnh hoạn ra thế nào?

Các Thầy có phận sự kiếm thuốc giùm cho người có bệnh và nếu cần, họ phải thay phiên nhau chăm nom canh giữ ngày đêm cho đến khi lành mạnh. Nhưng đôi khi họ cũng quên phận sự của họ. Một bữa nọ tại Savatthi, Ðức Phật và Ðại đức Ananda, rảo bước trong vùng Tinh xá Cấp Cô Ðộc, Ngài gặp một vị Tỳ kheo Girimananda té nằm trên phẩn và nước tiểu, Ngài vội vã bước đến đỡ ông ấy và hối Ðại đức Ananda đi xách nước; rồi hai Thầy trò xúm nhau tắm rữa sạch sẽ, khiêng Thầy để lên giường, thay y phục, an ủi và hỏi:

- "Thầy đau bệnh chi? Không ai săn sóc Thầy sao? Tại sao các Thầy Tỳ kheo không chăm nom giúp đỡ Thầy? "

- "Bạch Ðức Thế Tôn, con đau cả tạng phủ, lại thêm kiết lỵ. Chẳng có người bạn nào săn sóc con vì con đã không giúp ích họ.”

Ðức Phật liền triệu tập Tăng chúng lại quở trách và dạy rằng: "Này các Thầy, nơi đây các Thầy là người không cha, không mẹ để chăm nom săn sóc các Thầy, nếu các Thầy không trợ giúp lẫn nhau, thì lấy ai nương nhờ trong khi đau ốm? Từ nay về sau, Thầy nào muốn ân cần săn sóc Như Lai, xin để tâm ân cần săn sóc các bạn mình trong cơn bệnh hoạn.”

131. Ðức Phật có tâm Từ bi rộng lớn bao la, tại sao môn đệ của Ngài lại chẳng giống Ngài?

Trong Tăng chúng có hai hạng: Thánh Tăng và Phàm Tăng. Các Vị Thánh Tăng mới có tâm rộng lớn như Ðức Phật. Các Ngài được phó thác trọng trách Hoằng pháp độ sanh, dĩ nhiên hàng Thanh văn La hán cũng chăm nom săn sóc môn đệ của các Ngài với tấm lòng Từ bi như Ðức Phật. Trái lại, trong nhóm Phàm Tăng có rất ít người xuất gia với chí nguyện giải thoát, đại đa số là những người xuất thân từ giai cấp thấp thỏi, chưa cởi bỏ được tánh nết xấu xa; họ chỉ lợi dụng uy danh và đức độ khoan hồng của Ðức Phật, xin nhập môn giữ đạo, vì hoàn cảnh cô độc, nghèo khó, tạm mang lốt Tỳ kheo để làm kế nuôi mạng. Trong các bộ chú giải có nhiều tích chỉ cho thấy rằng xưa kia Ðức Phật phải buộc lòng khiển trách các Thầy Tỳ kheo thiếu tư cách nhã nhặn, thiếu tiết độ liêm sĩ, thiếu nết na trinh khiết. Ngài hết sức ngăn cấm không cho họ nêu gương xấu, không cho họ xúc phạm đến phong tục tập quán, đến tín ngưỡng cổ truyền của từng lớp dân chúng. Mỗi khi, vì hành động xấu xa của các Thầy Tỳ kheo, mà có sự chê bai, chỉ trích của người thế tục, Ðức Phật nhóm họp chư Tăng để nghe Ngài xử phạt các Thầy đã làm mất thanh danh Tăng già và liền lúc ấy Ngài chế định điều luật răn cấm.

132. Phải chăng tại Giới luật nghiêm khắc mà ít người theo nổi?

Ngoài đời có pháp luật để duy trì an ninh trật tự cùng bảo tồn thuần phong mỹ tục, thì trong đạo cũng phải có Giới luật để diệt trừ tham sân tật đố tà mạng mê tín; như thế không thể gọi là nghiêm khắc. Không ai bắt buộc phải tu, nếu muốn tu, chẳng những phải nghiêm trì Giới luật trong đạo, mà cũng phải thừa hành luật pháp ngoài đời.

133. Có khi nào xảy ra những cuộc xung đột giữa các Thầy Tỳ kheo chăng?

Sự xung đột không thể tránh được trong một đoàn thể bình đẳng đông người trình độ khác nhau. Ngoài các vị Thánh Tăng đã diệt tận Tham, Sân, Si và các vị Phàm Tăng chân chánh đương nông trang tu học, còn lại những Thầy Tỳ kheo chưa tẩy sạch được bợn trần; hoài nghi, biếng nhác, sân hận, buông lung theo điều ác, dính mắc trong tình dục, xan tham, nguyện cầu, ganh gỗ, không hoan hỷ, không tri túc là hạng người còn mang những chứng bệnh trầm kha, dầu họ có học thức, nằm lòng kinh pháp của Ðức Phật giảng giải hằng ngày, họ cũng chẳng khác nào như cái vá nằm trong nồi canh. Chân lý đối với họ không có giá trị bằng lợi dụng uy danh của Ðức Phật và oai lực của bộ Cà sa dể làm kế sinh nhai cấp thời.

Những sự gây gỗ, cải vả là thường sự. Ðức Phật hằng lo sợ họ nuôi mầm chia rẽ, lưu truyền gương xấu cho hậu thế, mà làm cho Phật Pháp phải suy đồi. Biết rằng đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, nên Ðức Phật khép tội chia rẽ vào bốn Ngỗ nghịch đại tội:

- Giết cha

- Giết mẹ

- Hãm hại Phật

- Chia rẽ Tăng chúng.

Tội này sẽ đem lại kết quả thảm khốc trong đời hiện tại.

I. Từ Savatthi sang qua Kosambi

134. Có khi nào các Thầy Tỳ kheo tỏ thái độ vô lễ với Ðức Phật chăng?

Lúc nọ Ðức Phật cùng chư Tăng ngự đến Kosambi, kinh đô của Vua Udayana, thuộc dòng Vatsas, ở về hướng Tây xứ Magadha và hướng Nam xứ Kosala. Ðức Thế Tôn và chư Tăng nhập hạ tại Tinh xá Ghosita. Trong hạ có một vị Tỳ kheo, một hôm nọ vào phòng tắm rửa xong, vô tình quên dọn quét và cũng quên xách nước châm thêm vào lu. Kế một vị khác, cũng bậc Thượng tọa như ông trước, vào tắm. Có lẽ vì thiếu nước nên ông này bất bình; thay vì đi ngay lại nhắc nhở người bạn của mình, ông đem câu chuyện ấy thuật với nhóm học trò của ông và bảo rằng ông kia phạm điều luật răn cấm của Ðức Phật. Ðám học trò này, ác nghiệt, đem câu chuyện thuật lại cho nhóm đồ đệ của ông kia nghe với giọng nhạo báng, khoe rằng Thầy mình là một vị đệ nhất Luật sư. Câu chuyện rất xoàng, trở thành quan trọng. Vì binh Thầy tổ, bên nào cũng giành phần phải, sanh ra gây gổ, la lối, cải vả om sòm, cho đến thấu tai Ðức Phật. Ngài vội vàng đến nơi, vừa đi vừa nói: "Thôi rồi, Tăng chúng đã chia rẽ.” Xây qua nhóm của vị Luật sư, Ðức Phật khuyên: "Các Thầy nên hoan hỷ tha thứ cho nhau đi.” Dòm qua phía đối lập, Ngài dạy: "Các Thầy nên thành thật sám hối với nhau đi.” Rồi Ðức Phật phân giải cho đôi bên thấy rõ đặc tính cao thượng của bậc tu hành là khoan từ và dễ dạy; nhưng chẳng ai đếm xỉa đến Ngài. Ðức Phật nhẫn nại thuật lại cho họ nghe một tiền tích rất cảm động, để chỉ rõ những tai hại về sự kết cấu oan trái, mà chúng sanh phải vay trả nhiều đời nhiều kiếp, do sự không tha thứ cho nhau, và khuyên họ biểu dương tinh thần khoan dung hòa thuận để làm guơng cho Tín đồ. Lời vàng, tiếng ngọc của bậc Chí tôn không còn hiệu lực thức tỉnh các ông Tỳ kheo đương quên mình vì tự ái và danh dự của phe đảng. Chẳng những không biết phục thiện, họ còn cưỡng biện với Ðức Phật bằng những lời mỉa mai vô lễ: "Bạch Ðức Thế Tôn, bởi Ðức Thế Tôn là bậc Giáo chủ, nên Ngài cần phải nhẫn nại. Vậy xin Ngài chẳng nên bận lòng, cứ tĩnh tọa an hưởng hạnh phúc; chúng tôi gây gổ, cải vả, xung đột, xin để chúng tôi chịu lấy trách nhiệm.” Nghe qua mấy lời, Ðức Phật tự nghĩ: "Kẻ ngu ngốc này đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng, hết còn biết phải quấy!” Rồi Ngài ôm bát vào rừng, sống với một con khỉ đột và một con voi chúa đoàn. Voi và khỉ cũng vì sự quấy rầy của bầy dả thú, chán nản tìm nơi thanh vắng tịnh cư an nhàn. Ðồng một cảnh ngộ cô độc, như Vị chúa đoàn của loài người, voi và khỉ hết lòng săn sóc nuôi dưỡng Ðức Phật, để hưởng lấy sự mát mẻ an vui bên cạnh Ngài.

Hay tin các Thầy Tỳ kheo xung đột chia rẻ nhau vì một nhân nhỏ mọn, đã không vâng lời khuyên nhủ lại còn vô lễ với Ðức Phật, Tín đồ Kosambi hợp lại quyết định không bố thí vật thực cho các Thầy ấy nữa. Biện pháp cương quyết này làm cho các Thầy không còn sức lực để tranh chấp nhau nữa. Các Thầy phải xuống nước kêu gọi Tín đồ: "Chúng tôi đã ăn năn và hòa thuận nhau rồi; các ông, các bà nên hoan hỷ hộ độ chúng tôi cho qua ba tháng hạ này. Chúng tôi đói khát còn da bọc xương, các ông các bà đành bỏ chúng tôi chết đói hay sao?” Thấy vậy, thiện tín không nỡ làm lơ, trở lại hộ độ cầm chừng và ra điều kiện: "Các Thầy phải tìm cho được Ðức Phật, sám hối tội lỗi và thỉnh Ngài trở lại, thì chúng tôi sẽ cung cấp đầy đủ vật thực như xưa.” Túng thế, các Thầy yêu cầu Ðại đức Ananda đi tìm thỉnh giùm Ðức Phật trở về cho họ sám hối. Ðại đức Ananda nói rằng Ngài không dám lãnh sứ mạng ấy; hơn nữa Ngài không được phép bỏ hạ ra đi, chờ mãn hạ sẽ hay. Các Thầy phải cam chịu mọi sự thiếu thốn; xanh xao, ốm gầy, trông cho mau hết mùa hạ đặng đi tìm Ðức Phật.

Tiếng đồn đến thành Savatthi, Ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc) và Bà Visakhà nóng lòng lo sợ cho Ðức Phật phải sống khổ cực trong rừng. Vừa ra hạ, Ông Cấp Cô Ðộc và Bà Visakhà thỉnh Chư Tăng nhập hạ tại Kỳ Viên cấp tốc lên đường sang qua thành Kosambi, hiệp cùng Ðại Ðức Ananda tìm thỉnh Ðức Phật về Savatthi. Một phái đoàn 500 vị Tỳ kheo đến Kosambi đi cùng Ðại Ðức Ananda tìm gặp Ðức Phật ở giữa rừng. Hỏi lại thì trong hạ, Ðức Phật nhờ con voi chúa đoàn và một con khỉ cung cấp đủ loại trái cây và mật ong, nên Ngài vẫn khỏe mạnh. Ðại Ðức Ananda chuyển lời thỉnh cầu của Ông Cấp Cô Ðộc và Bà Visakhà lên Ðức Phật. Khi Ðức Phật ra đi, voi chúa đoàn và con khỉ tỏ vẻ buồn rầu, đứng ra cản đường, ra dấu yêu cầu Ðức Phật ở lại. Ðức Phật vuốt ve an ủi chúng nó an phận ở rừng và Ngài cũng không thể đem chúng nó theo Ngài từ xứ này sang xứ nọ. Ra tới mé rừng, Ðức Phật an ủi chúng nó một lần nữa, bảo rằng vì mang lốt thú, chúng nó không thể sống chung chạ với loài người, khuyên chúng nó trở lại. Hai con thú buộc lòng từ biệt Ðức Phật và hết sức đau khổ vì cảnh chia lìa nên ngã ra chết rục giữa rừng.

Hai thế kỷ sau, Hoàng đế Asoka (A Dục) đến chiêm bái chỗ Ðức Phật chung sống với voi và khỉ và có cho xây một trụ đá kỷ niệm, trên ấy có khắc chiếu chỉ nghiêm cấm sự chia rẽ trong Tăng già.

J. Từ Kosambi trở lại Savatthi

135. Ra khỏi rừng, Ðức Phật và Chư Tăng có trở lại Kosambi không?

Ðức Phật và đoàn tùy tùng trực chỉ về Savatthi vì có lời thỉnh cầu của Ông Cấp Cô Ðộc và Bà Visakhà.

136. Các Thầy Tỳ kheo ở Kosambi tính sao?

Hay tin Ðức Phật ngự về Savatthi, các Thầy liền lên đường đến đó, để xin sám hối tội lỗi.

Nghe vậy, Ðức Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) vào Kỳ Viên Tinh xá yết kiến Ðức Phật và bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, Trẫm nhất định cấm các Thầy Tỳ kheo đã phạm tội chia rẽ và vô lễ với Ðức Thế Tôn tại Kosambi, để chân vào lãnh thổ Kosala của Trẫm, xin Ðức Thế Tôn biết cho.” Ðức Phật can gián: "Tâu Ðại Vương, các Thầy ấy đã biết lỗi, ăn năn, Ðại Vương nên rộng lượng cho họ đến đây sám hối với Như Lai.”

Nghe lời Từ bi khoan hồng của Ðức Phật, Vua Pasenadi cảm động, vâng lời.

137. Thái độ của Tín đồ Savatthi đối với các Thầy ấy ra sao?

Khi các Thầy đến trước cổng Kỳ Viên Tinh xá, người gác cổng, khoá cổng không cho vào vì có lệnh của Ông Cấp Cô Ðộc. Ðức Phật hay tin cho mời Ông Cấp Cô Ðộc đến khuyên lơn: "Này Ông Trưởng giả, các Thầy Tỳ kheo xứ Kosambi đã lỡ lầm gây ra tội lỗi, nay họ đã ăn năn cải hóa, Ông cũng nên hoan hỷ cho họ vào gặp Như Lai, để họ sám hối.”

Không dám cãi lời Ðức Phật, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc buộc lòng cho họ vào; nhưng khi các Thầy Tỳ kheo Kosambi vừa đến thềm cửa, thiện nam tín nữ giả vờ rộ lên hỏi: "Bạch Ðức Thế Tôn, những Thầy Tỳ kheo nào ngoan ngạnh, vô lễ với Ðức Thế Tôn và đã chủ trương sự chia rẻ Tăng chúng tại Kosambi, xin Ðức Thế Tôn hoan hỷ giới thiệu cho chúng con biết với.”

Ðức Phật trỏ tay chỉ ra cửa: "Ðó, các Thầy đương bước vào đó.”

Các Thầy tủi nhục, không dám ngước mặt lên, ríu ríu vào lạy dưới chân Ðức Phật, tỏ lời thiết tha xin ân xá tội lỗi. Ðức Phật vui vẻ tha thứ và để lời phủ vụ: "Các Thầy, từ nay phải cố gắng trau giồi hạnh kiểm, trước tỏ ra xứng đáng với lòng sùng mộ của hàng thiện nam tín nữ, sau chuyên lo tu học, để mạnh tiến trên đường Giác ngộ.”

Tín đồ xầm xì: "Họ báo hại cho Ðức Cha lành của chúng mình phải liên đới chịu mọi sự thiếu thốn trong hạ này; chẳng thấy Ngài để lời quở trách, lại còn nhỏ nhẹ an ủi. Cao cả thay lòng Từ bi vô lượng của Bậc Chí Tôn.”

138. Ðức Phật còn tại tiền mà có những Thầy Tỳ kheo quá quắt như vậy; nhờ đâu mà Phật Pháp còn tồn tại tới ngày nay?

Sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn, Phật Pháp còn tồn tại tới nay, trước nhờ ảnh hưởng của các vị Thánh Tăng, ẩn dật nơi rừng núi, duy trì đạo quả Tứ Thánh và các vị Chân tu nơi chùa chiền, sau nhờ sự sáng suốt và tâm nhiệt thành của các nhà lãnh đạo, kế đó nhờ số Tín đồ chánh kiến. Nơi nào không có hai hạng Tín đồ hộ pháp như Ðức Vua Pasenadi, như Ông Trưởng giả Anathapindika, như Bà tín nữ Visakhà, kế tiếp như hàng thiện tín chùa Kosambi và chùa Jetavana, thì nơi ấy không còn Thánh Tăng và cũng không còn Chánh Pháp.

Khi con người đã xuống dốc tội lỗi rồi, tâm của họ hết rung động trước lời thức tỉnh chân chánh của Ðức Phật. Ðối với họ phải dùng biện pháp cứng rắn như các vị thiện nam tín nữ ở Kosambi và Savatthi, mới có thể đem họ trở lại lẻ phải.

Bài học ở Kosambi cho thấy rằng, dầu trong thời kỳ Ðức Phật còn tại thế, hoặc trong những thế hệ hậu lai, những người gánh vai trò quan trọng trong sự duy trì Chánh Pháp, là hàng Tín đồ chân chánh, dám hy sinh và bất chấp dư luận tà vạy, cương quyết thực hành đúng theo lẽ phải.

139. Hành động cứng rắn quá đối với các Thầy Tỳ kheo, sợ e mang tội chăng?

Hành động theo lẽ phải, để đánh thức kẻ mê lầm, trở về với Chánh Pháp, sao gọi là cứng rắn, là tội lỗi?

Cương quyết bỏ đói và làm cho hổ thẹn các phần tử ngỗ nghịch, không kỷ luật, không hạnh kiểm, cố tâm gây mầm chia rẽ, các Ông thiện nam xứ Kosambi và Savatthi đã giúp một cách đắc lực Ðức Phật cứu vớt họ khỏi vòng đọa lạc; ấy là thi ân cho họ, là bảo tồn Phật Pháp. Ðây là một bài học đáng ghi nhớ cho toàn thể Phật giáo đồ.

Ngày nay, những Tín đồ nào cương quyết bài trừ hành động xấu xa của các Thầy Tỳ kheo, đều bị các Thầy khép vào tội: khi Tăng, dứt Qui, phá Ðạo. Bài trừ tật xấu để nâng cao giá trị Tăng già là có tội, người Phật tử nghĩ sao, trước những lời hăm dọa ngông nghênh ấy? Không lẽ vì sợ tội mà phải xúm nhau cung cấp đủ mọi nhu cầu cho các Thầy Tỳ kheo giả dối, ngụy thiện, ích kỷ, không kiêng nể Giới luật, không ghê sợ tội lỗi; giúp đủ phương tiện cho người bất chánh tự do thao túng, lập phe chia đảng, tranh dành địa vị, nuôi mộng lập giáo?

So sánh lại hai cách hành động kể trên, rồi mới thấy rõ ai là kẻ mang tội: khi Tăng, dứt Qui, phá Ðạo.

K. Từ Savatthi sang qua Rajagaha

140. Ở Savatthi lâu ngày, Ðức Phật tính đi đâu?

Ðức Phật trở lại Rajagaha, vì có tin bất tường thấu đến tai Ngài.

141. Tin chi mà gọi là bất tường?

Tại Rajagaha, là nơi Ðức Phật lập nền tảng vững chắc cho Ðạo của Ngài, nhờ Vua Bimbisara hết lòng ủng hộ. Nhưng lâu ngày phải có sự thay đổi; vì một tiền nghiệp ác nghiệt của chúng sanh, mà Ðức Phật phải cam chịu mất người hộ pháp nhiệt thành; Vua Tần Bà Sa đã bị Hoàng tử Ajàtasatta (A Xà Thế) đoạt ngôi, hạ ngục và bỏ đói đến chết. Tội giết cha làm cho Hoàng tử trở thành kẻ thù địch với Ðức Phật. Người bỉnh cán cho Hoàng tử A Xà Thế giết Vua cha là một Thầy Tỳ kheo trong Giáo hội. Kẻ ác độc này cố ý mượn tay Hoàng tử A Xà Thế thủ tiêu Vua Tần Bà Sa, để mưu toan cướp Ngôi Giáo chủ của Ðức Phật. Khi tước vị Ðế vương rồi, vua A Xà Thế dùng uy quyền ủng hộ Thầy nọ thi hành thủ đoạn dã man của Thầy. Trong triều đình, ai lộ vẽ tin tưởng Ðức Phật đều bị tử hình. Ông Ngự y Jivaka nhiệt thành sùng mộ Ðức Phật, củng phải ôm lòng nín chịu.

Ðấng Từ bi Vô lượng, đã từng nếm đủ mùi cay đắng trên đường thực hiện các pháp Ba la mật và biết rằng nợ oan trái của chúng sanh phải vay trả là thường, nên Ngài thản nhiên đón rước nghịch cảnh.

Thầy Tỳ kheo ác độc đương ngấm ngầm hảm hại Ðức Phật, chính là Thầy Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða), anh ruột của Công chúa Yasodhara (Da Du Ðà La). Thầy quen tánh kiêu căng, mục hạ vô nhân, đầy tham vọng, nặng mang chứng bệnh trầm kha rất phổ thông và nguy hiểm, là bệnh Ái dục, mặc dầu Thầy đã đắc Tứ Thiền và các pháp thần thông. Thầy chỉ thua Ðức Phật vài ba tướng tốt; về giai cấp xã hội, Thầy cũng ngang hàng với Ðức Phật; Thầy cũng được Tín đồ tôn kính.

Vì đó Thầy xin Ðức Phật để cho Thầy thay thế chưởng quản Giáo hội Tăng già. Ðức Phật không thể làm vừa lòng Thầy. Ngài đã không tính phó thác trọng trách ấy cho hai vị đại Ðệ tử xứng đáng là Ðại đức Sariputa (Xá Lợi Phất) và Moggalàna (Mục kiền Liên), thì lẽ nào Ngài lại khứng giao quyền bỉnh cán chư Tăng cho một người mà Ngài dư biết có tánh đê tiện tật đố như Ðề Bà Ðạt Ða.

Không được toại nguyện, Thầy Devadatta tìm chiến lược khác. Trong Tăng già có nhiều Thầy Tỳ kheo còn tin tưởng nơi hiệu lực của lối tu khổ hạnh. Thầy Devadatta thấu hiểu tâm lý ấy thường khen tặng cách tu hành của phái Lục Sư và chỉ trích thuyết trung đạo của Ðức Phật. Nhờ tài giả dối ngụy thiện, Thầy Devadatta chinh phục được một số người và lập ra một nhóm gọi là nhóm "Thanh nghiêm tu sĩ.”

Ngày nọ, giữa Ðại hội, Thầy Devadatta, nhân danh nhóm Thanh nghiêm tu sĩ, đứng ra yêu cầu Ðức Phật tái lập thủ tục khổ hạnh cổ truyền, bắt buộc các Thầy Tỳ kheo, từ nay về sau phải: ẩn dật nơi thanh vắng, đi xin ăn mỗi ngày, mặc y bằng giẻ rách chầm vá, ở nơi không che lợp và kiêng cữ thịt cá.

Là người yêu chuộng tự do chủ nghĩa, Ðức Phật nhất quyết để cho các Thầy Tỳ kheo tùy thích áp dụng cùng không năm qui tắc của Thầy Devadatta đề nghị.

Thầy Devadatta cũng chưa chịu thua. Nhờ một đồ đệ đầy tham vọng lại có tánh sàm báng, tên Kokàlika, giúp sức, lợi dụng sự từ khước của Ðức Phật, khoe khoang với mọi người rằng Thầy Devadatta là người chỉnh túc nghiêm trang; nhờ đó Thầy dụ dỗ được 500 người từ Vesali mới đến, vừa được Ðức Phật cho phép xuất gia. Hay tin các vị Tỳ kheo này cuốn gói theo Thầy Devadatta. Ðức Phật phái hai vị Ðại đệ tử Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến thuyết phục họ. Nhận rõ mình là bầy chiên đi lạc, họ kéo nhau trở về với Ðức Phật.

Devadatta càng tức giận thêm, nhất định phải hạ sát cho được Ðức Phật. Thầy liền vào kể lể công ơn với Vua A Xà Thế và xin giúp thế lực cho Thầy chiếm đoạt ngôi vị của Ðức Phật. Ðược sự ủng hộ của nhà vua, Thầy Devadatta tổ chức liên tiếp ba cuộc mưu sát Ðức Phật. Ðầu tiên Thầy muợn bọn côn đồ thích khách Ðức Phật. Nhưng khi bọn ấy đến nơi bị Ðức Phật bắt gặp và đem lời đạo đức thức tỉnh; chúng nó liền bỏ gươm đao mọp lạy, xin xuất gia theo Phật.

Kế đó Thầy Devadatta chực đón Ðức Phật trên đường lên núi Kỳ Xà Quật, xeo một tảng đá to lớn, từ trên chót núi lăn xuống cho nát thây. Rất may, chỉ có một mảnh đá nhỏ va chạm nhằm bàn chân Ðức Phật, làm cho rướm máu.

Ðến lượt thứ ba, Thầy Devadatta cho thả voi Nalagiri, là một con voi hung dữ đệ nhất của Vua A Xà Thế, đón chà đạp Ðức Phật, giữa lúc Ngài đi trì bình trong thành Vương Xá (Rajagaha). Voi này được phục rượu cho hăng thêm, vừa gặp Ðức Phật nó ngóng vòi, vảnh tai, cong đuôi, xốc tới. Mọi người kinh hải chạy trốn, kêu réo Ðức Phật, bảo Ngài mau mau tạm lánh trong một nhà kế cận. Ðức Phật thản nhiên đi tới và rải tâm Từ bi cho voi. Con vật hung ác này liền tỉnh trí, mọp quì dưới chân Ðức Phật, chịu cho Ngài vuốt tay lên trán, như rước lấy pháp qui y tế độ, để rồi từ đó trở nên hiền lành; về sau có câu phương ngôn:

Người ta chế ngự loài voi,

Bằng cày, bằng móc, bằng roi, bằng xiềng;

Tay không khí giới, thản nhiên,

Ðức Phật chỉ lấy Ðức hiền thắng voi.

Lúc ấy chỉ có Ðức Phật thấu rõ mưu sâu kế độc của Thầy Devadatta. Ngài không nói ra và Ngài cũng biết kẻ thù của Ngài chưa chịu dừng bước trên đường tội lỗi. Ngài thương hại Devadatta, nhưng chẳng biết làm sao cứu rỗi Thầy, vì tham vọng mà Thầy quá đổi si mê cuồng nhiệt.

142. Tại sao Ðức Phật cảm hoá được bọn côn đồ đến thích khách Ngài và voi Nalagiri, mà Ngài không độ được Thầy Devadatta, là vị Thầy tu đã đắc tứ Thiền và các phép thần thông?

Trường hợp của bọn côn đồ và voi Nalagiri khác với cảnh ngộ của Thầy Devadatta. Bọn côn đồ không có ác tâm giết Ðức Phật, họ chỉ vì tiền bạc thôi. Voi Nalagiri có thú tánh hung dữ, gặp ai giết nấy, không phải cố tâm thù oán Ðức Phật. Thầy Devadatta tham lam vô độ, cố ý thủ tiêu Ðức Phật, để đoạt ngôi giáo chủ, như Hoàng tử A Xà Thế cũng vì ngôi vua mà nỡ lòng giết cha.

Ác tâm của Thầy Devadatta, của Vua A Xà Thế, làm cho họ si mê, không phân biệt phải quấy, không ghê sợ tội lỗi, nên những lời đạo đức không có năng lực cảm hóa họ được.

Thầy Devadatta, mặc dầu nhờ Ðức Phật chỉ dạy đường lối tu hành, đắc được tứ Thiền và các pháp thần thông; nhưng còn nặng mang bẩm tính sâu độc, Thầy không chứng Tuệ giác để diệt tận Tham, Sân, Si, cùng các ác pháp trầm nịch ẩn khuất trong tiềm thức. Khi ác tâm của Thầy phát khởi, thì Thiền định của Thầy đã đứt mất, các pháp thần thông cũng tiêu ma. Ðã không tự tỉnh ăn năn, lại còn muốn sánh với Ðức Phật, muốn làm Thầy các bậc phàm Tăng và Thánh Tăng. Bên trong có bọn tà sư ca tụng kích thích, bên ngoài có nhóm mê tín sùng bái cúng dường, nên càng ngày Thầy càng đi sâu vào đường tội lỗi.

Sẵn tánh tự đắc ngã mạn, Thầy Devadatta thấy sự tu hành được phát triển tốt đẹp, càng hãnh diện tự cao, lầm tưởng rằng không ai bằng mình; chẳng dè tâm xấu xa ấy là nhân che lấp con đường Niết bàn và cũng là nhân thiêu hủy những kết quả của Thầy đã gieo trồng. Không tìm trở lại được những phàp lành trong Thiền định, các pháp thần thông cũng không còn linh nghiệm, Thầy Devadatta đã trở thành người thất vọng cuồng si. Càng thất bại trong mưu mô chia rẻ Tăng chúng và hãm hại Ðức Phật, tâm của Thầy càng ác độc thêm lên.

Do đó, có tục truyền rằng Thầy Devadatta có kết oan trái với Ðức Phật từ khi còn làm vị Bồ tát trong vô lượng tiền kiếp và trong các kiếp luân hồi, mối oan trái ấy càng tăng bồi thêm mãi, vì mỗi khi Thầy Devadatta ra tay rửa thù, thì Bồ tát sẵn có phước báu Ba la mật che chở được bình yên vô sự. Vì đó mà Thầy Devadatta căm hận, nhất nguyện phải trả thù cho được mới thôi. Ác ý sâu độc ấy đưa đẩy hai bên gặp nhau trong mỗi kiếp. Ðến kiếp cuối cùng, mối thù của Thầy Devadatta đã biểu lộ từ thuở thiếu niên, trong những lúc chơi đùa trửng giỡn, đến những buổi tập luyện võ nghệ với Hoàng tử Sĩ Ðạt Ta. Một đàng thì khoan dung hỷ xả, đàng khác tiểu mọn cố chấp, càng thận trọng nhau, mối thù càng thêm nguy hiểm.

L. Từ Rajagaha Ðức Phật trở lại Savatthi

143. Thầy Devadatta còn tính hại Ðức Phật bằng cách nào nữa?

Thất bại trong ba cuộc mưu sát Ðức Phật, Thầy Devadatta còn tìm kế hoạch khác. Lúc ấy Ðức Phật lên đường trở qua Savatthi (Xá Vệ), cư ngụ tại Tinh xá của Ông Cấp Cô Ðộc.

Mưu kế sắp đặt xong, Thầy Devadatta và Thầy Lokàlika theo qua Xá Vệ, giả bộ ăn năn, đi tìm Ðức Phật để sám hối, chờ lúc vào mọp lạy, với móng tay tẩm thuốc độc, sẽ quào cho rách chân Ðức Phật. Mưu chước sâu độc của kẻ tiểu nhân, muốn tiêu diệt một bậc Chánh đẳng Chánh giác không dễ gì thành tựu được.

Hay tin Thầy Devadatta đã hồi đầu hướng thiện, đến xin yết kiến Ðức Phật để sám hối tội lỗi, ai ai cũng hoan hỷ, mong từ nay trong nội bộ Tăng già sẽ được yên vui hòa thuận. Chẳng dè một chập sau có tin báo cáo rằng hai Thầy trò của Thầy Devadata vừa bị đất sụp chôn thây dưới vực thẩm. Nghiệp lực nặng nề đã đến lúc phát hiện, để lôi kéo kẻ hiểm độc đi đền tội trong muôn đời.

Trải qua 25 thế kỷ, dưới sức tàn phá của thời gian, chùa Kỳ Viên của Ông Cấp Cô Ðộc hiện nay chỉ còn chút ít nền gạch để làm di tích, trái lại cái hố sâu đã vùi thân Thầy trò Devadatta dưới tro bụi vẫn còn nguyên vẹn; dường như tạo vật muốn cho thập phương du khách, trong các thế hệ về sau, đem cái bản án về ba cái trọng tội của Thầy Devadatta (xúi Thái tử A Xà Thế giết cha đoạt ngôi, chia rẻ Tăng chúng, hãm hại Ðức Phật) nêu lên sách vở, hầu cảnh tỉnh các Thầy Tỳ kheo trong bốn phương vũ trụ, chẳng nên nuôi mộng lập giáo, làm tổ sư để thống trị Tăng đồ và Tín đồ.

144. Hành động xấu xa của Thầy Devadatta có gây ảnh hưởng chi trong Phật giáo chăng?

Ảnh hưởng của Thầy Devadatta được nhiều nơi hấp thụ và lưu truyền, cho nên khi Thầy Pháp Hiển (thế kỷ thứ bảy) sang Ấn Ðộ còn gặp trong hai miền thượng và hạ lưu sông Găng nhiều nhóm trung thành với chủ nghĩa Thanh nghiêm của Thầy Devadatta và bỏ Phật Thích Ca, thờ Phật quá khứ. Do khởi nguyên thờ phượng trái lý và chủ nghĩa Thanh nghiêm ấy mà nảy sanh ra nhiều loại kinh sách không thích hợp với tôn chỉ của Ðức Phật Thích Ca.

145. Ðức Phật là bậc Tuệ giác Viên Minh, cớ sao Ngài cho bọn hung ác vào hàng ngũ Tăng già làm chi cho chúng âm mưu phản bội và cũng không thấy Ngài dùng biện pháp nào để ngăn ngừa?

Ðức Phật, thấu rõ quá khứ hiện tại vị lai, thông suốt ba giới bốn loài, biết trước sẽ có nhiều chướng ngại trong sự hoằng dương đạo giáo của Ngài, do oan trái của chúng sanh tạo ra những nghiệp lực không thể tránh được. Bởi thế, trước khi rời khỏi rừng Uruvela, Ngài đã xem xét đủ mọi khuynh hướng tín ngưỡng của dân chúng, cân phân lợi hại và lập một chương trình châu du khai đạo. Cửa chân lý đã rộng mở cho người hữu duyên, nhưng chẳng vì đó mà không đón tiếp kẻ bạc phước. Dầu vô duyên xấu phước mà biết phân biệt chánh tà, ghê sợ tội lỗi, cũng có thể tiến đến nơi Giác ngộ.

Ðức Phật thường tuyên bố rằng Ngài chỉ là người hướng đạo dẫn đường, không có quyền năng sửa đổi luật Nhân quả để cứu vớt những kẻ gây nhân tạo nghiệp, dầu cho kẻ ấy là môn sinh hay thân nhân quyến thuộc của Ngài.

Những biện pháp để ngăn ngừa các Thầy Tỳ kheo hư hỏng là những điều răn cấm trong Giới bổn, nhưng chỉ có một số ít người tu hành chân chánh tuân theo.

146. Người ta thường nói xuất gia để gieo duyên Niết bàn là nghĩa sao?

Ðây là nói về những bậc xuất gia có chí nguyện giải thoát. Trọn đời nghiêm trì Giới luật, tinh tấn tu hành, nếu kiếp này chưa đắc đạo quả tứ Thánh, cũng là một đoạn đường tiến lần đến mục đích cứu cánh. Nhờ nền tảng sẵn tạo ấy, trong các kiếp vị lai mới nhớ được mà tiếp tục xây dựng thêm mãi mãi, cho đến khi đạo đầy quả đủ, gặp Phật khai sáng, chứng ngộ chân lý. Như thế gọi là gieo duyên Niết bàn. Nhưng nói thì dễ, mà làm thật rất khó. Bởi nói dễ, nên có nhiều người xuất gia. Bởi làm khó, nên không có người đắc đạo.

Có kẻ lại lầm hiểu rằng miễn là xuất gia có đủ y bát có sắc tướng Tỳ kheo, là gieo duyên Niết bàn.

Xuất gia cho có cái dạng bề ngoài là một việc mà ai ai cũng làm được; nhưng chí nguyện giải thoát, tu hành chân chánh, là một điều rất cao thượng mà hàng thức giả không dám liều lĩnh nghe theo những lời rủ ren ngọt ngào, khi họ chưa làm chủ được tâm họ, nhất là khi họ chưa gặp được bậc giới đức để làm nơi nương nhờ. Cạo đầu mặc áo cà sa, làm Thầy Tỳ kheo, ăn không ngồi rồi, hưởng của thập phương bá tánh, mà không cố gắng tu hành cho xứng đáng với sự cúng dường của thí chủ, tâm còn quyến luyến theo trần tục, tham danh trục lợi, muốn có đệ tử cho nhiều, muốn gầy dựng chùa chiền cho đồ sộ, nếu chẳng phải với mục đích lợi dụng Phật Pháp để khuếch trương sự nghiệp, thì cũng không đúng với đường lối giải thoát. Như thế không phải là gieo duyên Niết bàn, mà chính đó là mở nẻo đi đến nơi đọa lạc.

147. Còn những người nào đã gieo duyên Niết bàn, được Ðức Phật tế độ như Angulimàla chăng?

Trọn 45 năm châu du hoằng pháp, Ðức Phật tế độ toàn những người có gieo duyên Niết bàn ít nhiều. Những người ấy thường gọi là người hữu duyên được tế độ.

Trong hạ thứ 16, nhầm lúc Ðức Phật ngự tại Tinh xá Cấp Cô Ðộc (Savitthi), có chỗ nói tại xứ Lichavi. Ngài soi thiên nhãn biết nơi xứ Alavì (không biết thuộc về hướng nào) một đứa trẻ con sắp bị một con Dạ xoa (Chằng tinh) ăn thịt. Ðứa trẻ ấy là Hoàng tử Alavi có duyên đắc quả A na hàm; con Dạ xoa tên Alavaka, lại cũng có duyên đắc quả Tư đà hàm. Nếu Ðức Phật không thân hành đến tế độ kịp thời, thì hai chúng sanh ấy mất cơ hội giải thoát và cũng nhờ duyên lành của họ sẵn có, nên đúng thời giờ, nhân duyên đưa đẩy họ gặp Ðức Phật.

Số là 12 năm về trước, Vua xứ Alavì, trong một cuộc săn bắn, vì mê rượt thịt, lạc vào rừng sâu, bị Dạ xoa Alavaka bắt, tính ăn thịt. Ðức vua yêu cầu xin tha và hứa mỗi ngày sai quân lính dẫn đến nạp cho một người và một mâm cơm, để chuộc mạng. Dạ xoa bằng lòng cho về, Vua trọng lời hứa, ban đầu bắt tù tử hình đem nạp, lần lần tới trọng tội, nhẹ tội. Tiếng đồn không còn ai dám phạm tội, khám đường bỏ trống. Vua ra lệnh bắt những người già cả, kế đến con nít nhỏ. Dân chúng sợ hãi, bế con trốn ra khỏi xứ; chỉ còn Hoàng tử Alavì là trẻ con; vua phải đành chịu cho quân lính dẫn con đem nạp cho Dạ xoa.

Trước khi Hoàng tử Alavĩ bị đưa tới chỗ chết, Ðức Phật thân hành đến tận nơi lâu đài của Dạ xoa. Thừa lúc Dạ xoa vắng mặt, Ðức Phật vào thẳng bên trong, ngồi chờ giữa nhà. Dạ xoa trở về gặp một Ông Sa môn liều lĩnh đến nạp thịt, lại còn cả gan chiếm chỗ ngồi của mình, liền hóa phép bắt Ðức Phật; nhưng Ðức Phật vẫn ngồi bình yên. Dạ xoa tức giận đem hết phép tắt ra chiến đấu với Ðức Phật; nào là binh ma tướng quỉ, mưa đá, mưa tro, mưa lửa, Ðức Phật thản nhiên ngồi xem, chẳng một phép nào va chạm đến Ngài. Hết phép rồi, Dạ xoa nghĩ rằng Ông Sa môn này ắt có tu pháp nhẫn nhục cao siêu, nên khó bề thắng nổi. Dạ xoa định thí nghiệm pháp nhẫn nhục của Ðức Phật, nên kêu bảo rằng: "Sa môn kia, ngươi phải đi ra khỏi chỗ này.” Ðức Phật đứng dậy đi ra. Dạ xoa kêu: "Sa môn kia, ngươi hãy trở vô.” Ðức Phật trở vô. Ra vô ba lượt, đến lượt thứ tư, Ðức Phật nhất định không ra và bảo Dạ xoa: "Ngươi còn phép nào đem ra thử nữa đi; nếu Như Lai thua. Như Lai mới đi ra.”

Vô phương thắng Ðức Phật, Dạ xoa đem lòng cảm phục, dùng lời nhỏ nhẹ, đem những câu phương ngôn của ông cha truyền lại, nhờ Ðức Phật trả lời, để nhóng xem Trí tuệ của Ngài: "Này Ông Sa môn, nếu Ông trả lời đúng lý những câu hỏi của tôi, tôi sẽ cảm phục ông:

1. Cái chi là của quí báu nhất trên thế gian?

2. Cái chi đem lại sự an vui hơn hết?

3. Cái chi có mùi vị ngon lành hơn hết?

4. Sống cách nào mới gọi là sống cao thượng hơn hết?"

Ðức Phật đáp:

1. Ðức tin là của quí báu nhất trong đời.

2. Thiện pháp đem lại an vui hơn hết.

3. Lời nói chân thật có mùi vị ngon hơn hết.

4. Sống bằng Trí tuệ là sống cao thượng hơn hết.”

Dạ xoa thỏa mãn, yêu cầu Ðức Phật giảng đạo cho nghe; rồi xin qui y thọ giới.

Sáng ngày, quân lính đem Hoàng tử Alavì nạp cho Dạ xoa. Vì đã qui y thọ giới nguyện làm tôi Ðức Phật, Dạ xoa không còn ăn thịt người nữa; nên bồng Hoàng tử trao cho Ðức Phật, yêu cầu Ngài giao trả lại cho đức Vua. Từ đó, Hoàng tử có cái biệt hiệu là Hattaka Alavaka, nghĩa là người được Dạ xoa Alavaka ẵm trên tay, trao trả lại cho Ðức Phật.

Dạ xoa bắt đầu tu hành theo Chánh Pháp, chẳng bao lâu đắc quả Tư đà hàm. Hoàng tử lớn lên xuất gia đầu Phật, tu đắc A na hàm đạo quả.

M. Ðức Phật Ngự Đến Vesali

149. Ðức Phật còn ngự đến xứ nào khác chăng?

Một đoạn lịch sử nói về cuộc châu du của Ðức Phật tại xứ Licchavi, nhưng không ghi rỏ vào thời kỳ nào. Xứ Licchavi ở vào hướng Bắc xứ Magadha, thuộc quyền cai trị của nhiều vị Tiểu vương; kinh đô là thành Vesali (Tỳ Da Ly), nằm trên tả ngạn sông Găng (bên hữu ngạn là thành Pataliputta, kinh đô mới của xứ Magadha), rất giàu có thạnh mậu. Nơi đây hiện giờ còn nhiều di tích của Ðức Phật, nhất là thạch trụ của vua A Dục.

Tục truyền rằng trong kiếp chót, tiền thân của Ðức Phật đã sanh trưởng tại Vesali và Bồ tát có thọ giáo với Thầy Ðạo sĩ Aràdà Kàlàma. Kiếp này, sau khi thành Phật, Ngài được thỉnh đến Vesali tẩy trừ một bệnh dịch khí đã giết hại rất nhiều dân chúng. Thuở ấy, cũng như hiện giờ ở khắp thôn quê, ôn binh tà quái là vi trùng của bệnh dịch. Khi Ðức Phật được thỉnh đến Vesali, Ngài sai Ðại Ðức Ananda tới trước, trọn ba canh, đi ba vòng thành, tụng Ân đức của Phật Pháp Tăng, cho Chư Thiên và dân chúng phát tâm trong sạch, hướng về Ba Ngôi quí báu, cải ác tùng thiện, đem lòng Từ bi thương xót lẫn nhau. Nhờ oai lực Tam Bảo và lòng từ thiện phát sanh trong từng lớp dân chúng mà thành Vesali trở lại bình an và phồn thịnh như xưa.

Ðể tỏ lòng sùng kính Ðức Phật, các vị Tiểu vương xứ Licchavi dâng cho Ngài một vuông rừng, nằm về hướng Bắc thành Vesali. Chính nơi đây Bà kế mẫu Gotami của Ðức Phật đến yêu cầu nhiều lượt xin cho hàng phụ nữ xuất gia làm Tỳ kheo ni. Cũng tại Vesali, Bà đắc Ðạo Quả A la hán và Niết bàn.

Theo lịch sử, Ðức Phật đến viếng Vesali hai lượt.

Thuở ấy, tại thành này có nàng kỳ nữ tên Ambapàlì, đẹp đẻ, yêu kiều, màu da tuyệt mỹ, có thiên tài về ca xướng nhạc vũ, khiến cho hàng Vương tôn Công tử tứ phương đến tìm mua vui với nàng. Chính nhờ nàng mà thành Vesali càng ngày trở nên hào hoa lộng lẫy.

Các vị Tiểu vương Licchavi tướng mạo oai phong lẫm liệt ăn mặc rất sang trong; bọn tùy tùng cũng vận sắc phục lộng lẩy.

Mỗi khi các Vị Tiểu vương Vesali đến yết kiến Ðức Phật, từ xa thấy họ đến, Ngài thường nói với các vị Tỳ kheo: "Thầy nào chưa từng thấy 33 Vị Trời ở cung Ðạo Lợi, nên dòm các vị Tiểu vương kia kìa.” Các Vị Tiểu vương này và nàng Ambapàlì thường tranh nhau thỉnh Ðức Phật về nhà thọ thực. Ngày nọ, nàng Ambapàlì đến thỉnh Ðức Phật, trên đường về gặp xe giá các vị Tiểu vương , nàng khoe rằng:" Tâu cùng Chư Ðại Vương, thiếp rất hân hạnh được Ðức Thế Tôn và Chư Tăng nhậm lời ngày mai đến thọ trai tăng tại tệ xá.”

Các Vị Tiểu vương cũng tính vào Tịnh Xá thỉnh Ðức Phật, nghe vậy mới đề nghị rằng:

- "Này cô Ambapàlì, cô nhường buổi trai tăng ấy cho chúng tôi đi; chúng tôi sẽ chịu cho cô 1.000 đồng.”

Nàng Ambapàlì đáp lại:

- "Xin Quí Ngài tha thứ cho, dầu Quí Ngài cho trọn cả thành Vesali, thiếp cũng không thể hồi bửa trai tăng ấy để nhường lại cho Quí ngài.”

Các vị Tiểu vương thất vọng, búng tay nói:

- "Quả thật chúng ta bị thua một người đàn bà yếu nhược.”

Sau buổi trai tăng này, nàng Ambapàlì dâng cho Ðức Phật một vườn xoài, trong ấy có cất một vọng tháp tốt đẹp, nằm về hướng Ðông Bắc thành Vesali.

N. Ðức Phật sang qua thành Rajagaha

150. Từ Vesali Ðức Phật còn đi đâu nữa?

Qua mùa thu, Ðức Phật trở lại Rajagaha, cư ngụ nơi vườn xoài của Ông Jìvaka (Ngự y của vua Bimbisara), dưới chân núi Kỳ xà Quật. Tình hình xứ Magadha lúc bấy giờ đã thay đổi, không còn ảnh hưởng xấu xa của Thầy Devadatta. Vua Ajàtasattu (A Xà Thế) bị lương tâm cắn rứt vì tội giết cha cướp ngôi, rất hối hận và lo sợ ngày sau con mình là Hoàng tử Udayibhadda lớn lên sẽ giết trở lại mình.

Một đêm nọ, dưới ánh trăng thu, vua A Xà Thế ngự cùng các quan trên nóc lầu bằng để thưởng nguyệt; cảm thấy trong lòng nao nao buồn thảm, thở ra và định ý đi tìm một vị Bà la môn cùng vị Sa Môn nào để tỏ bày tâm sự, cầu xin chỉ dạy một đường lối nào cho cõi lòng được thơ thới an tịnh.

Các vị đại thần đề nghị đi viếng sáu Ðạo sĩ, giáo chủ của phái Lục sư; nhưng vua A Xà Thế đã dư biết trình độ của họ nên không nhận lời. Riêng ông Jìvaka, là vị cựu thần, ngồi làm thinh; chờ Vua phán hỏi, ông liền khuyên Vua nên đi yết kiến Ðức Phật, đương ngự tại vườn xoài của ông với 1.200 vị Tỳ kheo: "Tâu Ðại Vương, nếu Ðại Vương gặp được Ðức Thế Tôn, ắt Ðại Vương sẽ cởi mở được những nổi khổ trong lòng.” Ðức vua liền nhận lời, truyền lệnh thắng voi cùng đi với Cung phi và triều thần đến tịnh xá của Ông Jìvaka. Ðường sá quanh co theo triền núi, càng vô sâu chừng nào càng thấy quang cảnh vắng lặng rùng rợn. Ðức vua sanh nghi, phát run sợ tự hỏi: Phải chăng Ông Jìvaka muốn gạt trẫm vào sào huyệt để hại trẫm? Dầu là ở giữa rừng núi, nhưng gần nơi cu hội của trên cả ngàn người, mà sao không có một chút ồn ào, khua động, cho đến một tiếng ho khạc cũng không nghe. Ông Jìvaka đoán biết, nên đến gần trấn tĩnh Ðức vua và trỏ tay chỉ nơi xa xa phía trước có lập lòe ánh đèn, từ trong ngôi nhà tròn lớn mà ông đã cất để làm giảng đường cho Ðức Phật thuyết pháp dạy đạo hằng ngày.

Vua đến nơi được Ðức Phật ân cần tiếp rước. Sau khi lễ bái Ðức Thế Tôn, Vua A Xà Thế xin phép hỏi một câu, chưa ai từng nghe, để mở đường sang qua mục đích của sự viếng thăm hôm nay: "Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ðức Thế Tôn hoan hỷ giải cho trẫm cùng bá quan có mặt nơi đây những diều lợi ích lớn nhỏ mà người ly gia thoát tục có thể thu hoạch được trong phạm hạnh của bậc xuất gia.”

Ðức Phật vui vẻ thuyết nhiều pháp về phạm hạnh của bậc xuất gia, từ sự lợi ích của tư cách ăn mặc, đi đứng, nằm ngồi, chuyện vản, suy tưởng cho đến những sự lợi ích về tư cách thu thúc lục căn, chế ngự dục vọng, gìn giữ lòng an tịnh, khai thông Trí tuệ, chứng ngộ chân lý, tận diệt Vô Minh, siêu thoát luân hồi. Rồi Ðức Phật hỏi: "Ví như Ðại vương có một người bộ hạ đã xuất gia thực hành đúng theo phạm hạnh như thế. Ðại vương có thể nào muốn cho người ấy trở lại làm bộ hạ để chìu lụy phục vụ Ðại vương chăng?" Bạch Ðức Thế Tôn, nếu người bộ hạ của trẫm đã xuất gia tu hành đúng đắn theo phạm hạnh, trẫm sẽ nghiêng mình chào hỏi, mời ngồi và cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men và cam đoan sẽ bảo hộ, che chở cho xứng đáng theo bậc có đầy đủ phạm hạnh.

Sau khi thỏa mãn hiếu kỳ của Vua A Xà Thế, Ðức Phật lần lần khôn khéo mở đường cho người đương nặng mang trọng tội giết cha, gieo sâu đức tin trong Phật Pháp, phát tâm vui thích muốn vào gần ngôi Tam Bảo, để tìm phương giải lấy oan nghiệp.

Vua A Xà Thế rất thỏa thích, liền xin qui y làm người cận sự nam và tỏ lời sám hối: "Bạch Ðức Thế Tôn, trong cơn điên dại, mù quáng vì tham muốn ngôi vua, đệ tử đã phạm tội sát phụ; cúi xin Ðức Thế Tôn nhận lời thú tội của đệ tử, hầu từ nay về sau đệ tử ăn năn cải hối, không còn tái phạm trong tội ác nữa.”

Ðức Phật đáp: "Tâu Ðại vương, thật vậy, do một oan trái ác nghiệt trong tiền kiếp, Ðại vương đã gây ra trọng tội thảm khốc, hôm nay Ðại vương đã thú nhận và hối ngộ ăn năn, Như Lai hoan hỷ chứng minh cho Ðại vương. Tâu Ðại vương, chính đó là quan điểm của một kỷ luật cao thượng, dành để cho người biết nhìn nhận tội lỗi, tỏ dấu ăn năn, hầu diệt mầm oan trái trong ngày vị lai.”

Vua A Xà Thế cảm thấy lòng được nhẹ nhàng thơ thới, hết sức vui mừng, liền bái tạ Ðức Phật trở về hoàng cung.

151. Tại sao Ðức Phật không cứu độ Vua Bimbĩsara, là người có công giúp cho Phật giáo được thạnh hành trong xứ Magadha, cũng không tế độ Hoàng tử Ajatasattu, để tránh tội giết cha, cũng như Ngài đã độ tướng cướp Angulimala khỏi tội giết mẹ?

Thật vậy, Vua Bimbisara, cũng như Vua Pasenadi xứ Kosala, là một vị Quốc vương đồng tuổi với Ðức Phật, thông hiểu Phật Pháp, tinh tấn giữ đạo với Ðức Phật từ buổi khai đạo; lẽ thì Ðức Phật đã tìm mọi phương thế cứu độ cho khỏi bị Thái tử A Xà Thế phế ngôi, hạ ngục, không cho ăn uống cho đến bỏ mình trong ngục thất. Nhưng vì bởi oan trái của vua Bimbisara đã gây ra trong tiền kiếp với Thái tử A Xà Thế, nay đúng giờ phút phải trả quả đền tội; Ðức Phật không thể sửa đổi luật Nhân quả, đành cam chịu mất một người tín đồ nhiệt thành và cũng là người bạn thân mến. Tuy nhiên Ðức Phật đã độ vua Bimbisara (Tần Bà Sa) chấm đứt oan nghiệp và tiến bước khá sâu vào đường giải thoát: Khi Thái tử A Xà Thế nghe lời Thầy Devadatta, mang gươm vào cung nội, tính hạ sát vua cha, bị bại lộ, vua đã không bắt tội, lại còn nhường ngôi cho Thái tử. Ðược tức vị rồi, vua A Xà Thế cũng còn nghe lời Thầy Devadatta, hạ ngục vua cha, bỏ đói đến chết cho Thầy rãnh tay hạ sát Ðức Phật. Trong ngục thất, vua Tần Bà Sa nhờ biết đạo, không oán giận con, cam lòng chịu trả cho dứt mối oan nghiệt tiền khiên, nên khi qua đời được siêu thoát về cõi yên vui.

Cũng vì oan trái mà nghiệp lực đưa đẩy Thái tử A Xà Thế sanh làm con Vua Bimbisara, chờ đúng giờ khắc, ác tâm phát sanh, hết biết tình cha nghĩa con, hành động mù quáng của Thái tử giúp cho mối thù xưa thực hiện, y theo quả báo mà hai bên đã cố tâm gieo trồng.

Chớ chi Thái tử A Xà Thế theo một đường lối với Vua cha, thông hiểu được Phật Pháp, biết luật Nhân quả tự mình biết sửa đổi nghiệp lực của mình, không làm bạn với kẻ ác Devadatta, thì chẳng những Ðức Phật có thể cứu độ khỏi tội giết cha, lại còn dìu dắt Thái tử trên đường Thánh đạo. Cho nên sau khi Vua A Xà Thế nghe pháp, qui y và sám hối tội lỗi, Ðức Phật liền bày tỏ cho các Thầy Tỳ kheo biết rằng, mặc dầu Ðức vua đã thành thật ăn năn, nhưng nếu không có cái trọng tội sát phụ, thì đã được chứng ngộ chân lý (đắc quả Thánh) giữa lúc Ngài thuyết pháp cho nghe.

Tướng cướp Angulimala và Vua Ajatasattu ở trong hai hoàn cảnh khác nhau; người trước là kẻ mới vay nợ; người sau là chủ nợ đến đòi lời vốn. Angulimala phạm tội giết người, quả báo chưa phát sanh kịp thời, nhờ hiểu Phật Pháp, tự mình sửa đổi đường hướng phát triển tinh thần, để tiến đạo quả Niết bàn.

152. Sau khi qui y, Vua Ajatasattu đối xử với Ðức Phật như thế nào?

Vua A Xà Thế hết lòng tôn kính và tin tưởng Ðức Phật, như Vua cha khi trước. Mỗi khi triều đình có việc quan trọng phải giải quyết, Vua thường đến thỉnh giáo Ðức Thế Tôn.

Một ngày nọ, Vua A Xà Thế sanh lòng tham, muốn đem binh chiếm xứ Videha, bên tã ngạn sông Găng, thuộc của bên ngoại, để tiện bề chinh phục cã vùng kế cận rất giàu có thịnh mậu của dòng Vajjis và Licchavis. Vua bèn phái vị Ðại thần Vassakara đến núi Kỳ Xà Quật đem lời khôn khéo dọ hỏi ý kiến Ðức Phật về mưu chước nói trên.

Khi nghe vị Ðại thần Vassakara dỉ hơi về ý định xăm lăng của Vua A Xà Thế, Ðức Phật liền bắt qua nói chuyện khác với Ðại Ðức Ananda để giáng tiếp trả lời cho vị khách của Ngài:

- "Này Ananda, ngươi có nghe dân tộc Vajjis đối xử với nhau bằng cách nào mà xứ sở họ được hùng mạnh giàu có chăng? "

- "Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử thường nghe rằng người Vajjis, từ bậc Vua chúa đến hàng thứ dân đều áp dụng chánh sách rất khôn ngoan, để bảo tồn vĩnh viển bờ cõi và sự phồn thịnh của họ.”

"Thật vậy Ananda, dòng Vajjis có lập bảy nguyên tắc căn bản để duy trì đất đai và sự giàu có cho xứ sở họ:

1. Thường nhóm họp nhau để giải quyết những vấn đề lợi ích cho quốc gia dân tộc.

1. Ðoàn kết hòa thuận với nhau.

2. Thi hành đúng theo luật pháp chế định.

3. Tôn kính bậc Trưởng thượng.

4. Kính nể hàng phụ nữ.

5. Bảo tồn các đền thờ trong xứ.

6. Sùng bái các bậc Thánh nhân.”

Nhờ áp dụng trung thành bảy nguyên tắc ấy,mà chẳng có cuộc ngoại xâm nào thắng họ được.

Vị sứ giả Vassakara, già dặn về môn chánh trị, tiếp lời kết luận: Nếu quả thật vậy thì chẳng nên mạo hiểm xâm chiếm đất đai của dòng Vajjis. Còn muốn thắng họ, thì trước nhất phải tìm cách làm cho họ chia rẻ, thù ghét lẫn nhau. Dứt lời, ông bái tạ kiếu từ Ðức Phật và hứa khi rảnh việc sẽ trở lại thỉnh giáo cầu đạo. Trên đường về, Ông Vassakara lập tâm phá rối sự đoàn kết của dân xứ Vajjis.

Khi Sứ giả Vassakara vừa xuống núi Kỳ Xà Quật, Ðức Phật hội Chư Tăng lại, dạy Bảy pháp cần thiết để duy trì Giáo hội cho được lâu dài:

1. Các Thầy Tỳ kheo phải sống một đời sống tập đoàn và thường hội họp để học hỏi cùng nhau.

2. Các Thầy Tỳ kheo luôn luôn phải hòa hảo trong đời sống tập đoàn, trong lúc hội họp và trong khi hành Tăng sự.

3. Các Thầy Tỳ kheo chẳng nên sửa đổi hoặc phế bỏ các điều học, mà phải nghiêm trì cho đầy đủ.

4. Các Thầy Tỳ kheo phải tôn kính và vâng lời các bậc trưởng lão có nhiều kinh nghiệm.

5. Các Thầy Tỳ kheo không nên để cho lòng tham muốn chi phối.

6. Các Thầy Tỳ kheo phải vui thích nơi thanh vắng.

7. Các Thầy Tỳ kheo phải biết tự chủ, biết dìu dắt đàn em có tài đức, đến chỗ an vui hạnh phúc.

O. Ðức Phật sang qua thành Vesali

153. Ðức Phật còn châu du nơi nào khác chăng?

Sau khi ở Rajagaha (Vương xá) một thời gian khá lâu, Ðức Phật và đoàn tùy tùng lên đường trở lại Vesali.

Chặng đầu, Ngài ghé vào vườn xoài Ambalatthika của vua A Xà Thế, là nơi Ngài đã đến hai lần, để thuyết pháp nhắc nhở tín đồ nông trang tu hành.

Kế đó, Ðức Phật ngự đến làng Nalanda, chỗ sanh đẻ của Ðại đức Sariputta (Xá Lợi Phất). Về sau, Vua xứ Magadha có lập nơi đây một trường Phật học để đào tạo Tăng tài. Trường ấy trở thành một Ðại học đường sản xuất nhiều triết học gia danh tiếng, trong thời trung cổ. Thầy Huyền Trang, lúc đến Ấn Ðộ, có xin vào học môn triết lý và khảo cứu tài liệu về Phật giáo Ðại thừa, trong nhiều năm.

Ðến chặng thứ ba, Ðức Phật ghé làng Pàtali, trên một ngã ba rạch, vựa mé sông Găng, thuận tiện buôn bán nên có nhiều dân cư và cũng là một địa thế về chiến lược quân sự, nên Vua A Xà Thế định dời kinh đô lại đây, lấy tên là Pàtaliputta (hiện nay là Patna), để ngăn ngừa dân Vajjis và Licchavis và cũng để mưu toan đô hộ dân ấy.

Ðến đây dân chúng tổ chức tiếp đón Ðức Phật rất trọng thể và kết thuyền đưa Ðức Phật và Chư Tăng qua sông, vì nhằm cuối mùa xuân, tuyết rả từ trên núi chãy xuống ngập bờ. Cũng nơi đây, trên đường hành trình đầu tiên, từ rừng Uruvela qua vườn Isipattana (Lộc Giả), Ðức Phật muốn qua sông mà không có tiền, tên đưa đò không chịu đưa. Túng thế, Ngài phải dùng thần thông bay qua; chừng ấy tên chèo đò ăn năn hối hận, vì mất dịp làm phước đến Vị Thánh nhân. Câu chuyện này thấu tai Vua Bimbisara, nên Ngài hạ lệnh cấm chủ đò thâu tiền các vị Thầy tu qua sông.

Ðức Phật vừa đến Vesali thì các Vị Tiểu vương Licchavis và nàng Ambapàli đua nhau thăm viếng cúng dường.

154. Ðức Phật đến Vesali kỳ này có việc chi xảy ra khác thường chăng?

Ðức Phật đến viếng xứ Licchavis lấn nấy là lần cuối cùng.

Mùa mưa sắp tới, Ðức Phật dạy các Thầy Tỳ kheo lựa nơi nhập hạ, trong các làng kế cận. Riêng Ngài, Ngài sang nhập hạ tại làng Beluva. Vừa an cư, Ðức Phật lâm bệnh nặng, thân thể đau nhức, tứ chi rủ liệt, nhưng Ngài gom tâm định thần, nín chịu không rên siết. Lúc ấy, Ðức Phật nghĩ: "Nếu Như Lai bỏ xác mà không tỏ lời vĩnh biệt với những môn đệ, đã hết lòng lo lắng cho Như Lai, hầu an ủi họ và không cho Giáo hội Tăng chúng biết trước, thì thật là một việc không hay. Vậy Như Lai phải dùng năng lực của ý muốn, để chế ngự căn bệnh và tạm giữ sự sống lại.” Nói rồi, Ngài thực hiện theo ý muốn, nên chứng bệnh chấm dứt. Vừa phục hồi sức khỏe, Ðức Phật đứng dậy, bước ra ngồi dưới bóng mát, ngoài thềm tịnh thất.

Ðại đức Ananda đến gần đảnh lễ rồi ngồi kề bên thỏ thẻ:

"Ðệ tử thấy Ðức Thế Tôn đã lành mạnh rồi; lúc Ðức Thế Tôn lâm bệnh, thân thể của đệ tử đã thất thần, thị lực của đệ tử tán loạn, nhưng đệ tử được an ủi khi tưởng rằng, trước khi viên tịch, Ðức Thế Tôn còn phải cho biết ý định của Ngài về Giáo đoàn Tăng chúng.”

- "Này Ananda, Giáo đoàn Tăng chúng còn muốn gì nữa? Như Lai đã truyền dạy đầy đủ Giáo pháp rồi; Như Lai không phân biệt bên trong, bên ngoài; chân lý đã chỉ dạy cặn kẻ không thiếu sót chỗ nào. Này Ananda, kẻ nào cố ý muốn thống trị Giáo đoàn Tăng chúng, hoặc muốn cho Giáo đoàn Tăng chúng phải chịu đặt dưới quyền cai quản của họ, thì kẻ ấy cứ ban huấn lệnh cho Giáo đoàn; điều ấy không phải là tư tưởng, là ý muốn của Như Lai đâu. Như Lai đã già yếu rồi, đã đến mức cuối cùng rồi, tuổi thọ của Như Lai đã tám mươi rồi. Này Ananda, bởi thế, từ nay hoặc sau khi Như Lai nhập diệt rồi, người nào biết tự làm cây đuốc để soi đường, tự nương nhờ lấy, không nương nhờ nơi đâu khác hơn, tự lấy Pháp bảo làm đuốc soi đường, chẳng tìm nương nhờ nơi nào khác hơn, kẻ ấy sẽ là đệ tử cao thượng của Như Lai, sẽ tiến đến nơi giác ngộ.”

Nói rồi Ðức Phật mang bát vào thành Vesali trì bình; trở về thọ thực xong, Ngài vào rừng ngồi nghỉ dưới cội cây, chuyện vãn với Ðại đức Ananda:" Này Ananda, người nào đã vun trồng và thực nghiệm sâu xa bốn pháp 'Nguyện Vọng Pháp Mầu' (Iddhipàda: Tứ Căn Thông hay Tứ Thần Túc), nếu muốn, có thể sống lâu trọn một kiếp, hoặc nhiều hơn một kiếp; bậc Chánh đẳng Chánh giác cũng vậy.” Ðức Phật lập lại ba lượt, Ðại đức Ananda ngơ ngẩn không hiểu ý Phật, ngồi lặng thinh. Ðức Phật bảo Ông Ananda đi nghỉ dưới cội cây khác ở kế cận. Mara (Ma vương) liền hiện đến gần Ðức Phật, nhắc lại lời thỉnh cầu Ngài vào an nghỉ trong Niết bàn, từ buổi Ngài mới thành Phật dưới cội Bồ đề. Lúc ấy Ðức Thế Tôn từ chối không chịu nhập diệt, vì đạo pháp chưa được truyền bá; ngày nay Ngài đã đào tạo rất nhiều Tăng chúng kế nghiệp Giáo pháp của Ngài cũng đã được phổ cập cùng khắp mọi nơi; đệ tử đến đây thỉnh Ðức Thế Tôn nhập Vô lượng thọ Niết bàn.

Ðức Phật đáp:" Này Ma vương, ngươi chớ nên âu lo, ngươi khỏi cần chờ đợi; giờ nhập diệt của Như Lai sắp đến; trong ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập Niết bàn.” Ma vương vui mừng biến mất. Ðức Phật liền định từ nay là ngày trăng tròn tháng Tư, Ngài sẽ vào Niết bàn. Quả địa cầu bổng nhiên rung động, sấm sét nổ vang giữa bầu trời thanh bạch, làm cho mọi người kinh khủng. Ðại đức Ananda chợt tỉnh, sực nhớ lại những lời Ðức Phật đã thốt ra lúc giờ ngọ. Ông đâm ra lo sợ, và khi mặt trời lặng đến giờ Tăng chúng tựu họp lại nghe pháp, ông đến gần Ðức Phật hỏi duyên cớ của hiện tượng phi thường vừa xảy ra lúc xế chiều. Ðức Phật giải thích cho Ông nghe rằng Ngài đã nhận lời thỉnh cầu nhập diệt của Ma vương, và khi Ngài định ba tháng nữa sẽ từ biệt thế gian vào Niết bàn, quả địa cầu rung động như thế ấy. Ông Ananda liền quì lạy thỉnh cầu Ðức Phật ở lại trọn kiếp thế gian. Ðức Phật trả lời: "Này Ananda, bậc Chánh đẳng Chánh giác chỉ nói một lời, Như Lai không thể vì ngươi mà thất hứa với Ma vương.”

Vì Ông Ananda không thỉnh Ðức Phật lưu lại thế gian, lúc ban trưa, khi Ngài cho Ông biết rằng Bậc Chánh đẳng Chánh giác, nhờ bốn pháp Thần túc, có thể sống thêm một kiếp hoặc hơn một kiếp, nên sau lại người ta khép Ông Ananda vào cái đại tội "để cho Ðức Phật nhập Niết bàn quá sớm.”

Ðại đức Ananda, trọn 25 năm trường, đã hy sinh tận tụy, hầu hạ, săn sóc Ðức Phật từ giờ khắc, đã không được ban thưởng, lại còn phải gánh trách nhiệm về ý định nhập Niết bàn của Ðức Phật, thật là bất công. Ðúng ra không ai phiền trách Ông Ananda, về sự xao lãng của Ông, bởi xét kỹ; việc nào đến, nó phải đến và Ðức Phật cũng thường dạy: "Có sanh thì phải có diệt.”

Kế tiếp, Ðức Phật xây qua dạy các Thầy Tỳ kheo: "Này Chư môn đệ, các con rán học cho thông suốt Giáo pháp của Như Lai, và phải thực hành, rèn luyện, tiến tới hầu duy trì cho lâu dài đời sống Thánh nhân, đem lại sự tấn hóa cho nhiều người; vì lòng thương nhân loại, ban bố hạnh phúc an vui cho trời và người. Giáo pháp của Như Lai đã truyền dạy cho các môn đệ như thế nào?

Ấy là:

- Tứ Niệm Xứ (Satipatthãna)

- Tứ Chánh Cần (Samappadhãna)

- Tứ Thần Túc (Iddhipàda)

- Ngũ Căn (Indriya)

- Ngũ Lực (Bala)

- Thất Bồ Ðề Phần (Bojjhanga)

- Bát Chánh Ðạo (Atthangikamagga)

Các pháp ấy Như Lai đã tìm và đã truyền đủ cho các con rồi. Như Lai cũng thường dạy rằng mọi sự vật trên thế gian đều Vô thường, các con hãy bền chí tranh đấu. Còn chẳng bao lâu Như Lai sẽ nhập diệt; từ nay đến ba tháng nữa, Như Lai sẽ vào Niết bàn. Ðời sống của Như Lai sấp đến mức cuối cùng. Như Lai sẽ đi, các con ở lại; chỗ của Như Lai đã dọn sẵn rồi. Các con hãy thức tỉnh, đừng xao lãng, hãy sống luôn luôn theo bậc Thánh nhân, cương quyết gìn giữ tâm trí sáng suốt. Thầy Tỳ kheo nào không thối chuyển, bền chí, trung thành sống theo chân lý, Thầy ấy sẽ thoát khỏi vòng sanh tử, sẽ đến nơi diệt khổ.”

P. Ðức Phật từ giã Vesali đi Kusinara

155. Ðức Phật có định nhập Niết bàn tại đâu chăng?

Ðức Phật không cho biết trước. Sáng ngày Ðức Phật vào thành Vesali khất thực. Khi trở về, Ngài ngoái mặt nhìn thành Vesali và nói với Ðại Ðức Ananda: "Này Ananda, Như Lai ngắm xem thành Vesali lần cuối cùng, Như Lai sẽ không còn trở lại đây nữa.” Về đến chỗ ngụ, thọ, thực. Ðức Phật và đoàn tùy tùng lên đường, trực chỉ về hướng Kusinara. Tín đồ theo khóc lóc đưa đón, không muốn rời Ðức Phật. Ngài khuyên giải nhiều lượt, họ mới chịu trở về.

Sau khi trải qua nhiều chặng đường, ngày nọ Ðức Phật đến thành Pàvà, vào tạm trú một đêm trong vườn xoài của người thợ rèn tên Cunda. Người chủ vườn hay tin, lật đật đến xin yết kiến chào mừng Ðức Phật và thỉnh Ngài cùng Chư Tăng bữa sau đến nhà thọ thực.

156. Bữa trai tang nơi nhà người thợ rèn có chi đặc biệt chăng?

Ðây là bữa cơm cuối cùng trước giờ nhập diệt của Ðức Phật. Khi thọ thực rồi, Ðức Phật bị kiết lỵ, làm cho Ngài mệt nhọc vô cùng. Tuy vậy, Ðức Phật cũng ráng sức lên đường cho kịp đến Kusinara.

157. Tại sao Ðức Phật gắp đến Kusinara và trong cơn bệnh hoạn đi đường có xảy ra điều chi chăng?

Ðức Phật đã sắp đặt cuộc hành trình của Ngài, từ Vesali đến Kusinara, và định phải đến nơi nội buổi xế chiều ngày ấy, để kịp giờ nhập diệt.

Thân già yếu đi bộ ròng rã trong ba tháng trường, ngày thì lần bước theo đường gồ ghề xuyên qua đồng ruộng, rừng núi, vượt suối lên đèo, đêm thì ẩn náu dưới cụm tre chòm xoài, dãi nắng dầm sương, tránh sao cho khỏi lao thân mệt xác, nên đi được nửa đường, Ðức Phật đuối sức, dừng chân tạm nghỉ dưới một cội cây, và bảo Ðại đức Ananda mau kiếm nước cho Ngài dùng đỡ cơn trầm trọng của chứng bệnh. Ông Ananda bạch cho Ðức Phật biết vừa rồi có 500 cổ xe thương mại qua suối, nước nổi cặn bùn và yêu cầu Ðức Phật rán đi thêm một đỗi nữa đến rạch Kudhãnadĩ, có nước trong trẻo, tắm rửa và giải khát chẳng muộn chi. Ðức Phật cố gắng đè nén căn bệnh, nhưng vì mệt nhọc quá sức, tứ chi rủ liệt, bảo Ông Ananda cho uống nước, rồi mới tiếp tục lên đường được. Ông Ananda không đành cho Ðức Phật uống nước cặn đục, nhưng vì bị thúc dục ba luợt, Ông buộc lòng ôm bát xuống khe; tới nơi, thấy nước đã lóng trong lại, Ông vui mừng mút một bát đem dâng cho Ðức Phật.

Vừa lúc ấy, có một vị Hoàng tộc tên Pukkusa, dòng Malla xứ Kusinara, đi ngược chiều về hướng Pàvà, thấy Ðức Phật ngồi nghỉ dưới cội cây, ông dừng bước chào hỏi và truyện trò với Ngài. Chính Ông Hoàng Pukkusa này cũng đồng thọ giáo, như Ðức Phật lúc mới đi tìm đạo với Vị Ðạo sĩ Alãra Kàlàma. Ông thuật lại cho Ðức Phật nghe một chuyện phi thường của Ðức Thầy chung: "Ngày nọ, Ðức Thầy Alãra Kàlàma ngồi nhập định dựa mé lộ, có 500 cổ xe đi ngang qua, mà Thầy không hay biết chi cả. Chừng xuất định, thấy bụi đóng một lớp dày trên thân mình, mới biết đã có rất nhiều đoàn xe đi qua.”

Ðức Phật cũng thuật cho Ông Hoàng một chuyện tương tợ: "Ngày nọ, tại làng Atumã, Như Lai nhập đại định trong một chòi tranh giữa đồng, trời phát giông tố, mưa đổ tầm tả, sét nổ đánh chết hai anh em người nông phu và bốn con trâu, kế cận Như Lai. Như Lai cũng không hay biết.”

Nghe vậy, Ông Hoàng Pukkusa tỏ lòng kính phục Thầy Cồ Ðàm, liền xin qui y làm thiện nam và kêu người tùy tùng đem vào hai sấp vải thượng hạng, màu vàng sặc sỡ chói ngời, dâng cho Ðức Phật. Ngài thọ một sấp và cho Ông Ananda một sấp. Ông Hoàng bái từ Ðức Phật, lên đường về hướng Pàvà.

Ông Ananda lấy sấp vải mặc cho Ðức Phật; Ông rất kinh ngạc thấy toàn thân của Ðức Phật bây giờ lại lóng lánh chiếu ngời một màu vàng rực rở, làm cho sắc vàng của sấp vải kia mất hết vẽ đẹp sáng chói của nó. Ông hỏi duyên cớ, Ðức Phật giải rằng thân của bậc Chánh đẳng Chánh giác ửng vàng một cách phi thường trong hai thời kỳ: trước giờ Thành đạo và trước giờ nhập Niết bàn.

Liền đó, Ðức Phật đứng dậy lên đường. Ðến rạch Kudhànadi, Ngài xuống tắm rửa, giải khát để lấy sức lại, nhưng dường như Ngài đã gần kiệt lực. Tạm nghỉ một chập rồi Ngài chậm rãi lần bước tới sông Hiranyavàti. Sông cạn phơi bày những rãnh nước trong, giữa bãi cát trắng, chỉ xăn y bước qua, nhưng tứ chi rủ liệt, Ðức Phật không thể lội qua sông được.

Nhờ thanh khí bờ sông, vừa khỏe được đôi chút, Ðức Phật hối hả đứng dậy, kêu Ông Ananda nói: "Ráng một đoạn chót nữa Ananda, bên kia sông Hiranyavàti là rừng Salas, vườn thượng uyễn của Vua Mallas, thuộc địa phận thành Kusinara, nơi Như Lai sẽ nhập diệt."

 

Có sách ghi rằng từ chỗ gặp Ông Hoàng Pukkusa tới sông Hiranyavàti, Ðức Phật phải nghỉ chân hai mươi tám lượt; nhờ pháp Tứ thần túc đè nén căn bệnh và chủ trì xác thân, nên Ngài vững lòng từ từ tiến tới, mặc dầu sức lực tiêu mòn gần đến cực độ.

 

Vừa qua sông, Ðức Phật đã kiệt quệ, hối Ông Ananda dọn chỗ nằm, giữa hai cây Salas và nói: "Như Lai đã mệt lắm rồi, kíp lấy y cà sa trải cho Như Lai nằm nghỉ.”

158. Có xảy ra điều chi khác thường tại Kusinara và trước giờ nhập Niết bàn, Ðức Phật có để lời di chúc chăng?

Ðại Ðức Ananda hối hả trải y trên tảng đá, giữa hai cây Song long thọ. Vừa xong Ðức Phật lên nằm, nghiêng mình bên phải, tay mặt lót đầu làm gối, mặt nhìn về hướng Tây, đầu day qua phương Bắc, thì bông Sala rớt trên mình Ngài như mưa, và từ không trung nhạc trời reo trỗi.

Ðức Phật kêu Ông Ananda phán rằng:" Thân Như Lai bao phủ đầy bông, mặc dầu không phải mùa hoa trổ; Chư Thiên tấu nhạc cúng dường Như Lai. Này Ananda, còn một sự kính mến, sùng bái, tôn thờ, chiêm ngưỡng Như Lai bằng cách khác: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thiện nam, Tín nữ nào thực hành đúng theo Giáo pháp của Như Lai, chuyên tu phạm hạnh sống một đời Thánh nhân, kẻ ấy mới thật là kính mến, sùng bái, tôn thờ, chiêm ngưỡng Như Lai bằng cách cao thượng vậy. Bởi thế, Ananda, ngươi nên cố gắng thực hành đúng theo Giáo pháp của Như Lai, chuyên tu phạm hạnh và sống cao thượng theo bậc Thánh nhân.”

Ông Ananda quá cảm động, bước ra ngoài, dựa vào gốc cây than khóc: "Ta còn phải tu học rất nhiều mà Thầy ta lại sắp nhập diệt; Ngài có lòng Từ bi thương xót ta nhiều: Rồi đây ta biết nương nhờ nơi ai?"

Ðức Phật thấy vắng Ông Ananda, liền cho gọi vào an ủi: "Này Ananda, đừng đau khổ than khóc nữa: Như Lai đã từng nói rằng ở thế gian này có lúc phải xa lìa nhân vật yêu mến; có sanh phải có diệt, không sao tránh khỏi. Ananda ôi, bấy lâu nay những hành động, lời nói và tư tưởng của ngươi đối với Như Lai, đã chứng tỏ rằng ngươi là một môn đệ tận tâm trung thành và đáng thương. Ngươi đã tạo nhiều công đức, chỉ thêm một chút cố gắng nữa, ngươi sẽ tiến đến đạo quả Niết bàn.”

Ðức Phật xoay qua các Thầy Tỳ kheo dạy rằng: "Các Thầy, Chư Phật quá khứ và Vị lai không có một nghĩa đệ nào ưu tú như Ananda. Ananda có tài tổ chức những buổi tiếp tân của Như Lai, được mọi người vừa lòng cảm phục.

Ðối với Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thiện Nam, Tín nữ, Vua chúa cùng các quan đại thần, các Ðạo sĩ Bà la môn, Ananda đã tỏ ra khôn khéo lịch duyệt.”

Kế đó, Ðúc Phật sai Ông Ananda làm sứ giả vào Hoàng cung tâu cho Ðức Vua Mallas hay ý định của Ngài nhập diệt tại rừng Salas nội đêm nay. Ông Ananda vội vã ra đi. Ðến hoàng cung gặp lúc Vua cùng bá quan đương hội yến đông vầy; Ông xin vào chầu Vua Mallas và tâu rằng: "Tâu Ðại Vương, Bần tăng vâng lệnh Ðức Thế Tôn đến báo tin cho Ðại Vương rõ, Ngài vừa ngự đến rừng Salas và định nhập Niết bàn tại đó vào canh chót đêm nay.”

Khi hay được tin ấy, Vua và Triều thần đồng cảm động: "Ðức Gotama là dòng Vua sang cả; vì thương xót chúng sinh, chẳng nài lao khổ, băng rừng lướt bụi, rày đây mai đó để cứu vớt sanh linh, nay phải cam chịu bỏ xác giữa rừng, thật đáng cho chúng ta lễ bái cúng dường.” Vua và bá quan đồng rơi lụy và đồng nhau đến rừng Salas xin vào yết kiến Ðức Thế Tôn. Ðức Phật để lời khuyên nhủ Vua Mallas cùng bá quan nên lấy đạo đức và lòng Từ bi dìu dắt dân chúng hướng thiện tu hành, dọn đường thẳng tiến đến nơi hạnh phúc yên vui.

Tin buồn được loan báo cùng khắp kinh thành, dân chúng mủi lòng than tiếc, kéo nhau đến vườn Salas bái yết Ðức Phật. Ðến cuối canh một mới rảnh khách; nhưng Ðức Phật và Ông Ananda không nghỉ ngơi được.

Ðạo sĩ Subhadda đến xin ra mắt Ðức Phật. Ông biết rằng trong thế gian ít có Phật ra đời; ông vừa hay tin Phật Tổ Gotama sắp nhập Niết bàn, ông hy vọng gặp Ngài để cầu xin giải giùm những mối hoài nghi. Ba lượt Ông Ananda từ chối: "Này Hiền huynh, Ðức Thế Tôn mệt nhọc lắm, xin Hiền huynh để Ngài an nghỉ.” Ðức Phật nghe liền kêu Ông Ananda dạy rằng: "Thôi Ananda, đừng cản trở Ðạo sĩ Subhadda. Ý ông muốn thỉnh giáo nơi Như Lai, chẳng phải muốn làm rộn Như Lai đâu.”

Ông Ananda buộc lòng phải cho Ông Subhadda vào. Ðến trước Ðức Phật, ông đảnh lễ, tỏ lời viếng an rồi xin phép hỏi đạo:

- "Bạch Thế Tôn, các vị Lục Sư tự cho là bậc Trí tuệ cao thượng, nên được nhiều người sùng bái kính phục; xin Thế Tôn cho biết họ quả thật là bậc Trí tuệ uyên thâm chăng?"

- "Subhadda này, chẳng nên bàn luận đến Giáo pháp của người khác. Nếu ngươi nuốn nghe giáo lý của Như Lai. Như Lai sẽ giảng giải cho ngươi.”

"Bạch Thế Tôn, xin Ngài Từ bi chỉ giáo.”

- "Này Subhadda, đạo của Như Lai là phương pháp thực nghiệm có tám chi, con đường duy nhất đưa người đến nơi tận diệt Phiền não. Người nào hành đúng theo, thì ắt sẽ được chứng quả Tứ Thánh chẳng sai. Ngoài giáo lý của Như Lai, chẳng có Bốn hạng Thánh nhân ấy. Nếu trong cõi đời này, có người hành đúng theo lời chỉ dạy của Như Lai, thì người ấy sẽ chứng đạo quả A la hán.”

Ông Subhadda được thỏa mãn, xin Ðức Phật cho xuất gia.

Biết người có duyên lành, Ðức Phật dạy Ông Ananda làm lễ xuất gia cho Ông Subhadda và bảo ông kiếm chỗ thanh vắng tham Thiền nhập định, trong giây lát ông đắc quả A la hán. Ông là người đệ tử cuối cùng của Ðức Phật.

Chính tại Kusinara, nơi rừng Salas này, trong vô lượng tiền kiếp, khi Ðức Phật còn là một vị Bồ tát, cũng đã cứu độ người đệ tử chót này rồi. Thuở nọ, Bồ tát sanh làm chúa đoàn một bầy nai. Một ngày kia bị một trận lửa rừng kinh đởm, bầy nai chạy ra mé rạch, tìm lối thoát thân. Nước đổ như thác, tuy rạch nhỏ nhưng không thể lội qua bên kia bờ được. Lửa cháy gần tới mé rạch bầy nai sợ hãi xăn văn chờ chết. Bồ tát liều thân, nổ lực cõng từ con nai, lội ngằm dưới nước đưa qua bờ kia. Con nai cuối cùng được cứu khỏi hỏa hoạn, trước khi Bồ tát bị giòng nước cuống mất, chính là tiền thân của Ông Subhadda.

Ðêm đã gần tàn, Ðức Thế Tôn kêu Ông Ananda lại dạy: "Này Ananda, sau này ắt có nhiều người tưởng rằng lời nói của Như Lai đã mất rồi, họ không còn Thầy Tổ nữa. Này Ananda, chẳng nên tưởng như thế. Giáo pháp và Giới luật của Như Lai di truyền, để noi theo đó mà sống một cuộc đời trinh khiết, chính là Thầy của các ngươi, sau khi Như Lai tịch diệt.”

Rồi Ðức Phật day qua hỏi hàng Tăng chúng:" Này các Thầy Tỳ kheo, các Thầy còn hoài nghi điều chi về Giáo pháp của Như Lai, các Thầy cứ nói đi, Như Lai sẽ giải thích cho.” Hỏi ba lượt, chẳng có một ai trả lời, Ðức Phật tiếp thêm: "Như Lai đã thường dạy các Thầy rằng trong đời có sanh thì phải có diệt; vậy các Thầy hãy cố gắng tu hành đến nơi giải thoát, chớ nên dãi đãi, dễ duôi.” Ðó là lời di huấn tối hậu của Ðức Thế Tôn.

159. Giờ nào Ðức Thế Tôn mới nhập diệt?

Từ đó, Ðức Phật lặng thinh, nhập diệt, từ Sơ Thiền Hữu Sắc đến Tứ Thiền Vô Sắc, đến Diệt thọ tưởng định kế trở lần xuống Sơ Thiền Hữu Sắc, rồi trở lên đến Tứ Thiền Hữu Sắc, rồi nhập Vô lượng thọ Niết bàn. Lúc ấy trời vừa rạng đông, nhằm sáng ngày 16 tháng Vesakha.

Quả địa cầu rung động và nhạc trời tiêu trổi từ không trung.

Trời Phạm Thiên Sahampati cất tiếng bi ai:

"Ô hô! chúng sanh trong hoàn vũ

 Ngày kia sẽ bỏ xác lại thế gian;

 Cũng như Ðức Thế Tôn, Ðấng Từ Hàn Ðại giác

 Ðã vào chốn an lạc Niết bàn.”

Trời Ðế Thích Sakka tiếp lời:

 "Các pháp Hữu vi Vô thường biến đổi,

 Hết sanh đến diệt, diệt rồi lại sanh;

 Diệt được pháp hành mới hết sanh diệt,

 Hết sanh, hết diệt mới thật yên vui.”

Hàng Tăng chúng có nhiều người khóc lóc than tiếc:

"Hỡi Ðức Thế Tôn, sao Ngài vội nhập Niết bàn?"

"Ô hô! Con mắt thế gian đã nhắm lại rồi. Riêng các bậc đã thấu lý Vô thường của vạn vật, các vị Ðại A la hán, đều bình tĩnh lặng thinh.”

160. Ai lãnh nhiệm vụ lo phần nghi thức tẩn liệm và an táng Thánh thể của Ðức Thế Tôn?

Sáng ngày Ðại Ðức Anurudha phái Tôn giả Ananda vào cung báo tin cho Vua Mallas hay Ðức Thế Tôn đã viên tịch lúc sao mai vừa mọc. Vua chúa và triều thần cảm xúc rơi lụy. Dân chúng được lệnh đem trầm hương, bông hoa, nước thơm và nhạc lễ đến cúng dường Ðức Phật tại vườn Salas.

Vua Mallas đích thân đứng ra đảm đương công việc tẩn liệm Thánh thể của Ðức Thế Tôn, theo nghi thức dành riêng cho một Vị Ðế Vương: Dùng một ngàn cây lụa trắng bao bọc Thánh thể, liệm vào hòm sắt, sơn vàng; quàn lại bảy ngày đêm cho toàn thể dân chúng đến chiêm bái cúng dường.

Ðức Vua cho thiết lập hỏa đài tại cửa Nam thành Kusinara. Ðến giờ đi linh cửu ra hỏa đài, tám vị lực sĩ tắm rửa sạch sẽ, sắc phục chỉnh tề vào động quan, nhưng không thể đở hòm lên nổi. Vua Mallas ngạc nhiên, hỏi Ðại Ðức Anurudha. Ngài bảo rằng Chư Thiên Vương tỏ ý muốn thỉnh Thánh thể Ðức Thế Tôn vào thành Kusinara do cửa Bắc, đến trung tâm thành phố trở qua cửa Ðông, thẳng tới Hoàng điện "Tôn Vương", rồi sẽ cử hành lễ trà tỳ tại đó.

Ðức Vua phải ra lệnh dời hỏa đài qua cửa Ðông. Chừng ấy tám lực sĩ thỉnh hòm ra đi nhẹ nhàng. Từ không trung nhạc trời reo trổi và bông Mạn thù rớt xuống như mưa, mùi thơm bát ngát.

Hòm đặt xong trên hỏa đài, bốn vị Quốc sư, tay cầm bốn cây đuốc, từ từ bước đến châm vào bốn góc. Ðuốc tàn mà lửa không cháy. Vua Mallas hỏi Ðại Ðức Anuradha. Ngài dạy rằng Chư Thiên Vương tỏ ý yêu cầu chờ Ðại Ðức Maha Kasappa (Maha Ca Diếp) sắp đến trong giây lát. Lễ hỏa táng phải tạm ngưng.

Ðại Ðức Maha Kasappa, cùng 500 đồ đệ, từ thành Pàvà sang Kusinara; vì mệt mỏi Thầy trò dừng chân nghỉ mát. Kế có người đi đường, từ hướng Kusinara đến, trên tay có cầm một bông Mạn thù, Ðại Ðức Ca Diếp kêu hỏi: Từ Kusinara đến, Ông có biết tin tức của Vị Ðại Sa Môn Cô Ðàm ra thế nào chăng? Ông Sa Môn Cô Ðàm đã viên tịch từ bảy ngày qua; hôm nay Ðức Vua Mallas làm lễ hỏa táng, chính bông Mạn thù này tôi lượm được tại hỏa đài.

Vừa nghe tin buồn ấy, nhiều Thầy Tỳ kheo ré lên khóc lóc thảm thiết. Lúc ấy có ông Tỳ kheo tên Subhadda (trùng tên với Vị đệ tử cuối cùng của Ðức Phật) đứng ra khuyên giải; Các Thầy khóc lóc làm chi. Ông Cồ Ðàm đã ra người thiên cổ, không còn ai la rầy quở trách, bắt buộc chúng ta phải nghiêm trì Giới luật, bực bội khó khăn. Từ nay chúng ta sẽ được tự do hành động, các Thầy khóc nổi gì?

Ðây là nguyên nhân đầu tiên, làm cho Chánh Pháp sai lạc, Phật giáo phải suy đồi.

Ðại Ðức Maha Ca Diếp nghe Thầy Subhadda thốt lời đê tiện, rất lo ngại cho tiền đồ Phật giáo. Vì sắp lên đường đến Kusinara cho kịp lễ hỏa táng Ðức Phật, nên Ngài giả lơ, nhưng cũng để tâm ngăn ngừa kẻ cố tâm phá hoại.

Vừa đến nơi, Ðại Ðức Maha Ca Diếp đi vòng quanh hỏa đài ba lượt, rồi đến ngay giữa quì lạy ba lạy. Ðoàn tùy tùng của ngài, tùy hạ cao thấp, lần lượt vào lạy trước hòm vàng.

Ðại Ðức Maha Ca Diếp và 50 vị Tỳ kheo vừa làm lễ xong, thì hòm vàng phựt hào quang sáng rỡ, lửa tự nhiên bóc cháy, làm mọi người kinh ngạc. Ngọn lửa vừa hạ, Vua Mallas lấy nước thơm tưới thêm cho thiệt nguội để thỉnh những mãnh xương còn lại đem về thờ. Tất cả gồm có: Một mãnh xương trán, 2 khúc xương vai, 4 răng nhọn, 5 cân xương nhỏ bằng hột bắp, 6 cân bằng hột gạo và 5 cân bằng hột mè, đều được để vào ô vàng, cung nghinh về hoàng cung, thiết lễ cúng dường.

161. Ðức Phật có cho biết vì lý do nào Ngài định nhập diệt tại Kusinara chăng?

Vừa đến Kusinara, Ðại Ðức Ananda thấy địa thế không mấy thích hợp, nên có yêu cầu Ðức Phật chọn nơi khác thuận tiện hơn, để nhập diệt:

"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ðức Thế Tôn chớ vội nhập Niết bàn trong chốn đồng áng thôn quê này. Ðức Thế Tôn có thể lựa những đô thành lớn khác như Rajagaha, Savatthi, Champa, Kosambi hoặc Bénarès, vì nơi ấy có nhiều bậc Vua chúa, nhiều nhà quí phái, Bà la môn, trưởng giả rất trung thành với Ðức Thế Tôn; họ sẽ lo phần hoả táng xứng đáng hơn.”

Ðức Phật trả lời:

- "Ðừng nói thế, Ananda. Trong tiền kiếp, lúc Như Lai còn là một Vị Chuyển luân Vương, Như Lai đóng đô tại đây. Kusinara thuở ấy là kinh thành Kusavati, to lớn và phồn thạnh đệ nhất trên hoàn cầu. Vì đó, Như Lai chọn lựa nơi đây làm chỗ tịch diệt.”

Còn một lý do khác Ðức Phật không nói ra, nhưng sau rồi người ta mới biết Ngài đã dự liệu đủ mọi điều để tránh tai họa về sau.

Xương của Ðức Phật gọi là Sarira Dhàtu (Xá Lợi) được tất cả Phật tử xem như vật kỷ niệm vô giá, trân châu quí báu trong đời không thể sánh bằng, nên các Vị Quốc vương đều muốn có một phần, để lập đền thờ công cộng, cho bá tánh thường ngày đến lễ bái cúng dường, như lúc Ðức Thế Tôn còn tại thế. Cho nên vừa hay tin Ðức Phật nhập Niết bàn tại Kusinara, các Vị Quốc vương liền phái Sứ thần đến xin lãnh một phần Xá Lợi về thờ. Cả thảy có bảy Vị Ðại diện cho Vua xứ Magadha, Vesali, Kapilavastu, Savatthi, Allakappa, Ramagama, Veddhadipaka, rần rộ kéo binh mã đến đóng trại ngoài thành Kusinara.

Ban sơ Vua Mallas nhất định không chia Xá Lợi cho các Sứ thần; nhưng các vị này cố nài nỉ và tỏ rằng Ðức Phật là dòng cao thượng, chính họ cũng thuộc dòng cao thượng, muốn có Xá Lợi đem về xứ lập đền thờ vật kỷ niệm vô giá của Ðức Phật. Họ nhẫn nại nhưng tỏ ý cương quyết xin chia cho được Xá Lợi mới chịu trở về xứ.

Phần Vua Mallas lại tưởng rằng Ðức Phật tìm đến nhập diệt tại Kusinara, cốt yếu giao phó nhiệm vụ cho dòng Mallas bảo tồn Xá Lợi, hầu ngày kia xứ Kusinara sẽ trở nên giàu có thịnh vuợng lâu dài.

Thấy sự gây cấn có thể kết liểu bằng một cuộc chiến tranh tàn khốc, mà xứ Kusinara là một nước nhược tiểu, không thể chống trả với bảy đạo hùng binh đương bố trí chung quanh, Ông Dona, vị Quốc sư của Vua Mallas xin đứng ra hòa giải: "Ngoài dòng Sakya tại xứ Kapilavastu, chúng ta không phải quyến thuộc thân nhân của Ðức Thế Tôn; sở dĩ các Vị Quốc vương muốn có Xá Lợi của Ðấng Trọn Lành để lập đền thờ, là vì xứ nào cũng nhìn nhận Ðức Gotama là vị Giáo Chủ của đạo Từ bi cứu khổ. Bởi lòng sùng mộ nên xứ nào cũng muốn có Ngọc Xá Lợi để tiêu biểu Ðức Từ bi Vô lượng, mong nhờ ảnh hưởng của Ðấng Từ Tôn hầu phát tâm tu hành, trước tự độ, sau xây dựng hạnh phúc an vui cho đời và duy trì Chánh giáo cho được bền vững lâu dài. Xưa kia Ðức thế Tôn thường dạy chúng ta dứt bỏ oan trái, oán thù, đoạn tuyệt Tham, Sân, Si, chẳng nên giết hại lẫn nhau, phải thương yêu, hòa thuận, đoàn kết, hầu dìu dắt nhau trên đường giác ngộ. Nếu chúng ta thật tâm yêu chuộng giáo lý của Phật Ðà và có lòng tôn thờ Ngài là Ðấng Giáo Chủ, thì chúng ta nên hoan hỷ đem Xá Lợi ra chia tám phần đồng nhau cho mỗi xứ đem về lập đền thờ, cho dân chúng chiêm ngưỡng cúng dường, phát tâm trong sạch thực hành đúng theo kinh luật di truyền. Như thế ấy chúng ta mới thật là người xứng đáng làm đệ tử của Ðức Cồ Ðàm.”

Nghe được lời hòa giải đúng lý, Vua Mallas và bảy Vị Sứ thần đều tỏ lòng hòa thuận, giao cho Quốc sư Dona lãnh trách nhiệm phân chia Xá Lợi ra tám phần đồng nhau. Mỗi Vị Sứ thần lãnh một phần, đặt trong một bình vàng, để trên một thớt tượng to lớn, mở đường đi trước, binh mã rần rộ theo sau, lên đường về xứ với tấm lòng hân hoan sùng kính. Quốc sư Dona xin cây cân vàng dùng để chia Xá Lợi, làm vật kỷ niệm cho riêng phần ông.

Các xứ nhỏ ở xa xâm phái đại diện đến trể, chỉ thỉnh được một mớ tro tàn đem về thờ.

Nếu Ðức Phật nhập diệt trong một xứ nào hùng cường, như xứ Magadha chẳng hạn, thì các xứ nhỏ khó bề xin cho được Ngọc Xá Lợi về thờ. Ðức Phật đã tiên đoán, biết thế nào cũng sẽ có sự tranh dành, nên Ngài nhất định nhập diệt tại Kusinara. Vua Mallas tự biết không đủ binh lực để thắng bảy xứ kia, kết cuộc cũng phải nhượng bộ hoà giải.

Các phần Xá Lợi được tám Vị Quốc vương thỉnh về lập đền thờ công cọng, giữa kinh đô cho thập phương bá tánh, hằng ngày đem nhang đèn, bông hoa, nước thơm đến cúng dường.

Tám tháp đầu tiên đều xây bằng gạch, hình bán cầu như vòm trời, trên những đồi cao. Nơi chót đỉnh có một cây tàng che, chung quanh có hàng rào và một hoặc bốn cửa vô.

Hai thế kỷ sau, Vua Asoka (A Dục) rất sùng mộ Phật Pháp, góp tất cả Xá Lợi, chia ra 84.000 phần, xây tháp thờ cùng khắp lãnh thổ Ấn Ðộ, để tiêu biểu đức lành của Bậc Vĩ nhân, cho dân chúng chiêm bái và tự tỉnh tu hành. Các cổ tháp ấy, lâu đời bị hư đổ; hiện nay Chánh phủ Ấn Dộ đương lo sùng tu, kiến thiết; nhất là bốn nơi Ðộng tâm:

Tại:

- Lumbini (Lâm Tỉ Ni): Chỗ Ðức Phật giáng sanh

- Buddha Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng): Chỗ Ðức Phật Thành đạo

- Isipatana (Lộc Giả): Chỗ Ðức Phật thuyết pháp lần đầu tiên, độ Năm Thầy Kiều trần Như

- Kusinara (Câu Thi): Nơi Ðức Phật nhập Niết bàn.

162. Hành trạng của Ðức Phật có thể tóm lược như thế nào?

Ðức Phật là một người như mọi người khác. Ngài đã qua đời vì có sanh phải có tử.

Ngài nhập diệt ở giữa trời, cũng như lúc Đản sanh, lúc Thành đạo và cũng như Ngài thường sống từ buổi xuất gia tìm đạo đến giờ viên tịch. Ngài chết vì bệnh, trong tuổi già và chỉ nhờ đệ tử của Ngài, nhất là Ðại Ðức Ananda chăm nom săn sóc.

Ðức Phật chết và không trở lại, như ngọn đèn cạn dầu hết tim. Tín đồ cảm phục Ân đức chí thiện của Ngài, kính mộ lòng Từ bi vô lượng của Ngài, nhưng không còn mong mỏi được trực tiếp tế độ. Mặc dầu như thế, trải qua trên 2.500 năm, tín đồ chẳng bao giờ quên Ðức Phật. Ðời còn đau khổ, lòng sùng kính của họ vẫn còn. Nhân loại luôn luôn nhớ đến Vị Y Vương đã tìm thuốc cứu rỗi tâm hồn. Ánh sáng của Ngài vẫn còn chiếu rọi vĩnh viễn; môn đệ của Ngài truyền nối đời đời.

Ðức Phật vừa là một nhà đạo đức, vừa là một nhà tự do tư tưởng. Ngài không dụ dỗ ai theo Ngài và cũng không bắt buộc ai phải có một đức tin mù quáng.

Mặc dầu giáo lý của Ngài không nhìn nhận có linh hồn trường cửu, không nhìn nhận có tạo hoá, nhưng cũng đã có 500 triệu tín đồ trên khắp mặt địa cầu, và số ấy càng ngày càng tăng thêm mãi mãi. Ðiều ấy không chi lạ, vì ai ai cũng công nhận đời là Vô thường Khổ não; và nhờ Ðức Phật chỉ dạy con đường diệt khổ, thoát khỏi luân hồi, đến nơi yên vui tuyệt đối là Niết bàn. Người Phật tử không xem sự diệt tắc luân hồi là một cảnh trạng bi quan, lại còn tin tưởng rằng là một sự may mắn hy hữu, một thắng trận vinh quang.

Muốn tiến nhập Niết bàn, Ðức Phật dạy phải xuất gia, để sống một cuộc đời rảnh rang, khỏi bận lo đến gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Bởi tùy thuộc nơi kẻ khác là một điều khổ; tùy thuộc nơi mình là hạnh phúc, tự do như chim sổ lồng, sống không thù oán giữa kẻ thù oán, không dục vọng giữa kẻ dục vọng, không tham lam giữa kẻ tham lam, vui thú với cảnh cô độc, tự tại nơi thâm sơn cùng cốc, với cảnh vật thiên nhiên mà người thế không thể nếm được.

Trải qua vô lượng kiếp luân hồi, Ðức Phật đã làm nhiều công đức lợi tha, nên đến kiếp chót Ngài đã vượt khỏi sự xấu xa ích kỷ của loài người. Khi Thành đạo quả Vô thượng Chánh giác, Ngài tiếp tục làm tròn sứ mạng phổ tế quần sanh.

Ðức Phật không phải là một nhà vô thần luận, bởi Ngài tin có các Vị Trời, nhưng Ngài không cho rằng các Vị Trời có một quyền lực nào trong nguồn máy của vũ trụ, hoặc trong số mạng của loài người. Như thế Ðức Phật cũng không phải là một nhà hữu thần luận.

Ðức Phật không phải là người tạo ra cảnh giới Cực lạc, bởi tôn chỉ đạo đức của Ngài không đem lại sự vui sướng mà chỉ tìm sự diệt khổ.

Ðức Phật không chối cải cái Ta, nhưng Ngài không cho rằng nó là một thực thể, bởi nó Vô thường biến đổi.

Ðức Phật không dạy thuyết định mệnh, tuy rằng mọi người sanh do nghiệp lực cấu tạo từ trước, nhưng ai ai cũng có quyền định đọat cho tương lai của mình. Ngài cũng không phải là một nhà cách mạng xã hội, bởi Ngài chỉ áp dụng sự đồng đẳng trong Giáo hội Tăng lữ của Ngài thôi.

Ðức Phật có nghệ thuật biện luận mềm mại, khôn khéo, làm cho kẻ vấn nạn Ngài ngạc nhiên khó nghĩ. Khi thấy họ bối rối, Ngài đem họ trở lại vấn đề và giải thích cho họ nghe bằng lời lẽ dịu ngọt. Luôn luôn Ðức Phật tỏ ra người nhã nhặn, đoan trang, lễ độ. Hoàn toàn lánh tục, nhưng không câu nệ chấp nhất, ai mời thỉnh đi thọ trai nơi Thiền thị, Ngài cũng vui vẻ nhận lời.

Ðức Phật nặng mang nhiệm vụ đối với đời; mỗi ngày sẵn sàng thuyết pháp giảng đạo cho mọi người nghe; giờ rước khách không kể ngày đêm, không kể mệt nhọc. Ngoài ra Ngài còn đi vào làng mạc thôn quê tìm người tế độ.

Ðối với các Thầy Tỳ kheo, Ðức Phật dạy phải lễ nghi đoan chính, phải hòa thuận cùng nhau, để nêu gương tốt cho tín đồ. Ngài không cho các Thầy sống cuộc đời buông lung; luôn luôn Ngài khuyên các Thầy phải học, phải hành, phải đem đạo lý giảng giải cho tín đồ. Sống nhờ vật thực thuốc men của bá tánh, các Thầy phải nổ lực tu hành và đem lợi ích cho đời.

Công trình giáo dục của Ðức Phật không ngừng nghỉ. Có kẻ trách Ngài chỉ ở không đi xin ăn, trong lúc mọi người phải cày cấy mới có gạo; Ngài vui vẻ trả lời rằng chính Ngài trồng tỉa từng giờ, từng phút; tối ngày Ngài chỉ rảnh rang được đôi chút để nghỉ ngơi tham Thiền. Thật vậy, Ðức Phật là người hăng hái hoạt động duy nhất ở thế gian.

Ðức Phật được người ta thương nhiều hơn là sợ. Ngài dạy chúng ta diệt bỏ tham lam ích kỷ, là nguồn cội của tội ác và khuyên đem lòng từ thiện, thương yêu trợ giúp lẫn nhau, để chữa trị những nổi thống khổ trong đời.

Tóm lại, Ðức Phật là Bậc Chí Tôn Chí Thánh, Ðấng Trọn Lành duy nhất ở thế gian, đáng cho Chư Thiên và Nhân loại lễ bái cúng dường.

HẾT