Về những tấm biển gỗ tại chùa Bút Tháp

Bút Tháp là một ngôi chùa cổ, có tên chữ Hán là Ninh Phúc thiền tự  寧 福禪 寺, cón có biệt danh là Thiếu Lâm tự 少 林寺 . Chùa nằm tại địa phận xã Nhạn Tháp huyện Siêu Loại phủ Thuận An xứ Kinh Bắc xưa. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Trần, nhưng đến bái vọng cảnh chùa hôm nay chúng ta chỉ gặp một quần thể kiến trúc từ thời Lê trung hưng đến Nguyễn, đậm đặc nhất là kiến trúc thời Hậu Lê thể kỷ XVII. Đây có lẽ là một trong số rất ít các ngôi chùa còn giữ được khá nguyên vẹn các bố cục kiến trúc, hệ thống tượng pháp, đồ thờ tự và các minh văn trên gỗ, đá từ thời Lê.

VỀ NHỮNG TẤM BIỂN GỖ TẠI CHÙA BÚT THÁP

THUỲ VINH

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Bút Tháp là một ngôi chùa cổ, có tên chữ Hán là Ninh Phúc thiền tự  寧 福禪 寺, cón có biệt danh là Thiếu Lâm tự 少 林寺 . Chùa nằm tại địa phận xã Nhạn Tháp huyện Siêu Loại phủ Thuận An xứ Kinh Bắc xưa. Tương truyền chùa được khởi dựng từ thời Trần, nhưng đến bái vọng cảnh chùa hôm nay chúng ta chỉ gặp một quần thể kiến trúc từ thời Lê trung hưng đến Nguyễn, đậm đặc nhất là kiến trúc thời Hậu Lê thể kỷ XVII. Đây có lẽ là một trong số rất ít các ngôi chùa còn giữ được khá nguyên vẹn các bố cục kiến trúc, hệ thống tượng pháp, đồ thờ tự và các minh văn trên gỗ, đá từ thời Lê.

Theo các nguồn sử liệu và minh văn được khắc trên bia đá, biển gỗ tại chùa Bút Tháp thì chùa được xây dựng lại vào đầu thế kỷ XVII do một nhóm quý tộc trong triều đình Lê Trịnh đứng ra hưng công, được chúa Trịnh Tráng chuẩn y cho phép. Người ta vẫn thường gọi chùa Bút Tháp là chùa quí tộc bởi toàn bộ kinh phí xây dựng tu bổ chùa đều do những người trong hoàng tộc đóng góp như Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, các lão Cung tần, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên, các Quận Chúa. v.v. Đặc biệt phải kể đến lệnh chỉ của Chúa Trịnh Tráng đã cho phép dân xã Nhạn Tháp được thu lấy toàn bộ số thuế ngạch của xã và lộc điền của Công chúa Ngọc Duyên để sung vào làm kinh phí xây dựng trùng tu chùa và lễ Phật. Vì thế ở một phương diện nào đó có thể coi chùa Bút Tháp ở giai đoạn thể kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII là quốc tự. Đây là nơi tu hành của Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc - con gái của Chúa Trịnh Tráng, vợ Vua Lê Thần Tông và con gái bà là Công Chúa Lê Thị Ngọc Duyên. Sau đó một số Quận Chúa khác cũng đã về tu hành tại ngôi chùa này.

Tư liệu thành văn còn lại trong chùa và trên các tháp mộ quanh chùa được khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ có rất nhiều ý nghĩa, đó là nguồn sử liệu chứa đựng nhiều thông tin về ngôi chùa. Hiện tại chùa Bút Tháp còn lưu giữ được 17 văn bia thời Lê, một văn bia thời Nguyễn, một minh văn trên chuông thời Nguyễn niên đại Gia Long và nhiều bức đại tự bằng gỗ. Văn bia có niên đại sớm nhất tại chùa Bút Tháp là bia Phụng lệnh chỉ 奉 令指   tạo năm Phúc Thái 4 (1646), nhưng những tấm biển gổ để khắc đại tự treo ở chính giữa gian thiêu hương còn có niên đại sớm hơn cả bia đá. Đây là trường hợp rất hiếm gặp tại các di tích cổ. Bởi vì chất liệu gỗ rất khó bảo quản lâu bền như chất liệu đá, chúng thường bị thời gian làm cho mục ruỗng. Vậy mà hiện nay tại chùa Bút Tháp vẫn còn ba tấm biển gỗ có niên đại Dương Hoà 8 (1643), là bằng chứng sớm nhất có văn bản khắc xác nhận ngôi chùa. Hai tấm biển được treo tại gian đầu tiên của chùa, một tâm khắc những dòng chữ Hán sau:

        敕 建

               寧 福 禪 寺

               陽 和 八 年 歲 次 壬 午 仲 夏 榖日

               吁 江 散 衲 在 在 清 源 居 士 書

Phiên âm:

Sắc kiến

Ninh Phúc thiền tự

Dương Hoà bát niên tuế thứ Nhâm Ngọ trong hạ cốc nhật.

Hu Giang tán nạp Tại Tại Thanh Nguyên cư sĩ thư.

Nghĩa là:

Sắc cho xây dựng thiền tự Ninh Phúc.

Niên hiệu Dương Hoà thứ 8 (1643) năm Nhâm Ngọ giữa mùa hạ ngày lành.

Thanh Nguyên cư sĩ Tại Tại đến từ Hu Giang viết chữ.

Một tấm biển khác khắc theo kiểu chữ triện, hiện chúng tôi vẫn chưa giải mã hết.

Còn đây là biển gỗ treo chính giữa toà thiêu hương:


                  
大 雄寶 殿(御 製 )

                   陽 和八 年 歲 次 壬 午 孟 冬 榖 旦 重 興

                   清 源山 人 佛 弟 子 歐 體 真 熏 沐 書

Phiên âm:

Đại hùng bảo điện (ngự chế )

Dương Hoà bát niên tuế thứ Nhâm Ngọ mạnh đông cốc đán trùng hưng

Thanh Nguyên sơn nhân Phật đệ tử Âu Thể Chân Huân Mộc thư.

Nghĩa là: Điện quí Đại hùng (chữ Vua ban)

Trùng hưng vào ngày tốt giữa mùa đông năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hoà thứ 8 (1643).

Thanh Nguyên sơn nhân, đệ tử của Phật là Âu Thể Chân Huân Mộc viết chữ.

Như thế qua hai biển gỗ cho chúng ta biết chùa Ninh Phúc được Vua ban sắc cho xây dựng vào giữa mùa hạ năm Nhâm Ngọ niện hiệu Dương Hoà thứ 8 (1643). Nhưng ở đây còn có thể hiểu là chùa được xây dựng từ trước đó, đến năm Dương Hoà 8 thì hoàn thành và người ta cho khắc chữ lên biển gỗ. Cách hiểu nay theo chúng tôi là hợp lý hơn vì ngày tháng ghi trên biển gỗ để xác định mốc thời gian viết chữ, còn nếu như muốn khẳng định đó là thời gian dựng chùa thì phải ghi rõ hơn như trên biển gỗ thứ hai. Tấm biển này ghi: điện quí Đại Hùng được trùng hưng tạo dựng lại vào giữa mùa đông năm Dương Hoà. Và như thế chúng ta có thể hình dung sau khi xây dựng xong Ninh Phúc thiền tự thì người ta lại tiếp tục xây dựng lại điện qúi Đại Hùng, đặc biệt bốn chữ Đại Hùng bảo điện lại là chữ của nhà Vua ban cho. Trong một bài văn bia viết năm Phúc Thái 5(1647) đặt tại chùa Bút Tháp, nhà sư Minh Hành cũng đã nhắc tới điện Đại Hùng như sau:

Đại Hùng bảo điện lâm giang chử.

Đại Hùng bảo điện cạnh ở bờ sông.

Điều đáng lưu ý là hai người viết chữ trên hai biển gỗ ấy đều là người Trung Quốc. Người thứ nhất xưng danh là Thanh Nguyên cư sĩ Tại Tại đến từ Hu Giang. Đây chính là nhà sư Minh Hạnh Thích Tại Tại đã đến tu ở chùa Ninh Phúc cùng với Hoà thượng Chuyết Công. Theo văn bia Sắc Tôn Đức tháp khoán thạch 敕 尊 德 塔 券 石   tạo năm Đức Nguyên1 (1674) thì ông sang Đại Việt vào năm Đức Long 5 (1633) theo sư Phổ Giác đi hành giáo. Năm Phúc Thái 2 (1644) ông được thu y bát và mất năm Vĩnh Thọ 2 (1659) tại chùa Ninh Phúc, thọ 64 tuổi. Hoà thượng Minh Hành được ngợi khen là người có đạo cao đức trọng, giới hạnh nhẫn nhục, khiến cho vật vô tri cũng phải cúi đầu cảm phục. Ông cũng là người góp phần làm cho chùa Bút Tháp trở nên nổi tiếng, khi mất ông được ban sắc cho xây tháp giữ nhục thân, và được sư nữ Diệu Tuệ tức Công Chúa Lê Thi Ngọc Duyên mua ruộng cúng giỗ cho thầy. Như nội dung trên biển gỗ đã ghi cho ta biết năm Dương Hoà 8 (1643) ông vẫn còn đang là một cư sĩ, chưa được thụ y bát. Phải chờ thêm một năm nữa tức năm Phúc Thái 2 (1644) ông mới được truyền thụ. So sánh giữa nội dung văn bia với những thông tin trên biển gỗ chúng ta có thể biết khi ông đến viết chữ trên biển gỗ treo tại chùa Ninh Phúc là năm ông đã 48 tuổi và đã sang Đại Việt được 11 năm. Chắc rằng lúc này ông đã về chùa Ninh Phúc và có quan hệ mật thiết với nhà chùa nên mới được mời viết chữ trên biển gỗ ghi lại sắc chỉ của nhà Vua cho phép xây dựng lại chùa Ninh Phúc.

Còn người viết chữ thứ hai trên biển gỗ tạo vào mùa đông năm Dương Hòa 8(1643) là Âu Thể Chân Huân Mộc cũng là một người Trung Quốc, ông là tác giả của bài văn bia Hiển Thuỵ am Báo Nghiêm tháp 顯 瑞 庵 報 嚴 塔   được tạo dựng tại chùa vào năm Phúc Thái 5(1647).

Như thế là sau khi xây dựng lại chùa Ninh Phúc và điện Đại Hùng, vào năm Dương Hoà 8 (1643) người ta mới chỉ kịp khắc chữ ghi lại vào mấy tấm biển gỗ để treo. Đến năm Phúc Thái 4 (1664) lệnh chỉ của Chúa Trịnh đã được khắc vào bia đá, đó là văn bia Phụng lệnh chỉ 奉 令 指   của Chúa Trịnh Tráng cho phép dân xã Nhạn Tháp được thu lấy toàn bộ số thuế ngạch chi dùng vào việc đèn hương lễ Phật. Năm Phúc Thái 5 (1647) có thêm bốn văn bia ghi lại quá trình xây dựng và trung tu chùa.

Với những tấm biển gỗ có niên đại gần bốn trăm năm còn giữ được tại chùa Bút Tháp đã tôn lên giá trị cổ kính của ngôi chùa và là sử liệu vô cùng quí giá giúp cho các học giả nghiên cứu về ngôi chùa này trên nhiều phương diện khác nhau.

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.619-624