Những đồ pháp khí, hiệu lệnh

Vào thời thượng cổ có hóa mà không giáo; hóa không đủ nên lễ nhạc hình thành để tán ca, không như bản cửu thành. Cái chén để uống, không như cái men say Ngũ Tề. Nhưng người có văn đối chất nên nghĩ tới gốc.

Các bậc thánh nhân Thiên Trúc (Ấn Độ) ban đầu chỉ hóa, có nghĩa là mọi người ai cũng giác hết, vốn không phàm thánh, mọi vật đều toàn chân không có dơ sạch! Không mượn tu chứng, cũng chẳng cần dụng công mà kẻ mê đương nhiên tự mất, nếu có người điếc ở chỗ tùy cơ dạy bày. Gõ kiền chùy (kiểng, kẽng) để tập họp chúng tới nghe pháp hoặc tu tập thiền quán. Suốt 49 năm Phật giáo hóa đến cuối đời. Tiếng Phạn kiền chùy dùng loại đất nung, gỗ, đồng, sắt làm ra tiếng kêu. Như chuông, khánh, nạo bạt, trống, chùy bảng, loa bái (ốc tù và)… cho tới nay tòng lâm chế tạo và dùng mấy thứ đó để cảnh báo, làm hiệu lệnh dẫn người bê trễ mà hòa với thần nhân. Nếu luận đại định thường thích hợp, trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng, nghe chẳng nghe, biết cũng chẳng biết. Vừa đánh vừa thúc kêu gió chỉ sáng người sử dụng, vô tư vô ý hóa ngày tự dài ra hòa hòa kêu tới thành nhân thọ, phố Thanh Thái.

1.1 Chuông

Chuông có lớn, nhỏ nhiều cở khác nhau. Tiêu biểu là đại hồng chung. Tòng lâm làm hiệu lệnh khởi đầu trong ngày. Buổi sáng gióng lên thời phá tan đêm dài, báo thức tĩnh ngủ, đồng thời cũng đánh thức người nông phu trong làng dậy chuẩn bị ra đồng làm việc, trong khi chiếc đồng hồ báo thức chưa chế tạo như ngày nay. Buổi tối nghe tiếng chuông u minh cảnh tĩnh bao người say mê trong hơi men đời, những tâm hồn mê đắm, cũng như giục dậy những cô hồn vất vưỡng không nơi nương thân. Người thủ chuông gióng khoan thai, hòa huởn, mạnh tay để cho tiếng ngân kéo dài. Hễ gióng ba hồi chậm rãi mỗi hồi 18 tiếng đầu khoan thai, cộng chung thành 108 tiếng, đuôi hồi chuông phải khẩn nhặt và chấm dứt mỗi hồi cho thật rõ ràng.

Phàm hô chuông, phải đọc bài kệ, sau mỗi câu thỉnh một tiếng chuông, như:

Buổi tối niệm: Nam mô A Di Đà Phật 
Buổi sáng niệm: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
Nguyện tiếng chuông này vượt ngoài pháp giới
Núi Thiết Vi u ám thảy đều nghe
Nghe chuông lòng thanh tịnh chứng viên thông
Hết thảy chúng sanh đạt thành chánh giác.

Nghe chuông ngân lòng nhẹ lâng
Trí huệ phát bồ đề tâm
Lìa địa ngục, thoát lửa hầm
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.

Phá địa ngục chân ngôn: 
Án, già ra đế da ta bà ha (3 lần).
Chuông gióng lên đợt đầu
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục
Nam mô Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.

Chuông gióng lên đợt hai
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục
Nam mô Bồ Tát Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài rộng thênh.

Chuông gióng lên đợt ba
Niệm kệ báu nâng cao
Trên thông vào thiên đường
Dưới thấu tường địa ngục.
Nam mô Địa Tạng Vương
Giáo chủ cõi U Minh
Cứu bạt khổ chúng sinh
Đại nguyện Ngài viên thành.

Ngưỡng chúc Phật pháp mãi rạng ngời
Bánh xe pháp đời đời chuyển vận
Gió hòa, mưa thuận thấm nhuần
Dân an, nước thịnh khắp cùng nơi nơi
Trong ba cõi, bốn loài
Mỗi mỗi thoát luân hồi
Trong mười loại hữu tình
Ắt lìa khổ ngục hình.

Năm tháng thuận gió mưa
Khỏi gặp năm đói khát
Đông nam sống hòa lạc
Thời Nghiêu Thuấn thái bình.

Thôi chấm dứt chiến tranh
Tử nạn những thương vong
Đều siêu sanh Tịnh độ
Đất lành, người hoàn hảo.

Loài chim bay, thú chạy
Không bị lưới, bẫy giăng
Kẻ lưu lãng, cô thân
Sớm quay về hương quán.

Vô biên thế giới
Đất rộng trời cao
Thí chủ gần xa
Phước thọ dồi dào.

Thiền môn hưng thịnh
Phật pháp phát huy
Thổ địa, long thần
Hộ tăng an tịnh.

Cha mẹ cùng thầy học
Còn mất đều lợi lạc
Tổ tiên bao đời trước
Cùng nhau được siêu thoát.

Nam mô Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
Nam mô Đức Phật Lô Xá Na
Nam mô Đức Phật Thích ca Mâu Ni
Nam mô Đức Phật Di Lặc từ tôn
Nam mô Đức Phật A Di Đà cõi Cực Lạc
Nam mô mười phương ba đời các đức Phật 
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Thế chí
Nam mô Ðức Bồ Tát Già Lam Thánh chúng.
Mười phương ba đời 7 đức Như Lai
Cùng tám mươi tám Phật trên liên đài
Chúng sanh sáu đường mong thoát khổ
Chín cõi, mười loài khỏi trần ai.

Chuông ngân dồn dập lại gióng lên
Chùa viện chúng tăng hãy nhớ ghi
Tu tập bốn thời tuân qui chế
Xuống giường cất bước giữ oai nghi.

Trăm tám tiếng chuông hướng Phật tiền
Trên thông dưới thấu thảy an nhiên
Sáu đường chúng sanh mong thoát khổ
Chín cõi mười loài hết lụy phiền
Nam mô siêu lạc độ Bồ Tát ma ha tát.

* Ghi chú: có thể tụng chú Đại Bi, Kinh Di Đà, Bát Nhã, niệm Phật, Hồi hướng, phục nguyện, tự quy y và cuối cùng đọc đoạn chót trên đây.

** Cần chú ý: chuông bảng ở chùa rất hệ trọng, chỉ người có trách nhiệm phụ trách đúng giờ giấc, không được sai trể làm động chúng.

- Chứng nghĩa ghi rằng, đại hồng chung buổi sáng, tối mỗi lần thỉnh 108 tiếng do sự hiển lý. Đó là do 108 phiền não ngu si nên nghe mỗi tiếng chuông liền thức tĩnh. 108 thiền định, mỗi dùi nện mạnh vào phát ra tiếng vang kéo dài lan xa để cho mọi người, loài vật đều nghe.

Trước đây ngài Chí Công mượn đạo nhãn vua Lương Võ Đế thấy tướng khổ địa ngục, hỏi làm sao để chấm dứt? Chỉ nghe chuông cảnh khổ địa ngục liền dứt.

Vua nghe thế bèn mời các tự viện lại và nói rằng: phàm gióng thỉnh chuông phải từ từ khoan thai ra tiếng, lúc hô nên tụng hoặc niệm Phật. Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi rằng, như lúc gióng chuông nguyện cho những sự khổ ở đường ác đều dứt sạch. Nếu nghe tiếng chuông có luôn chú Phật thời trừ hết được tội nặng 500 ức kiếp sanh tử. Ngoài ra, Kim Lăng Chí ghi rằng, Dân bị chết uất, ở âm ty, thấy 5 tội buộc lên cây chỉ đó bảo rằng, Ta là Nam Đường tiên chủ, là binh của Tống tề bị giết lầm cùng binh lính ở Châu Hàng cả hơn nghìn người như thế, mỗi lần nghe chuông ta liền tạm được dứt khổ. Xin ông làm ơn về thưa Từ quân vì ta mà tạo chuông. Dân tĩnh lại sau khi nghe tiếng chuông. Nhân đó, vua tạo đại hồng chung để tại chùa Thanh Lương có khắc chữ “tiến cúng liệt Tổ - Hiếu Cao hoàng đế - vượt khỏi u ám, thoát hiểm nạn”. Ngoài ra, sách Văn Thê Sùng Hành lục ghi: đời Tùy có vị tăng là Trí Hưng ở chùa Đại Trang Nghiêm, phụ trách việc thỉnh chuông. Năm Đại Nghiệp thứ 5 có vị tăng cùng ở chung là Tam Quả, vị này có người anh ruột theo xe vua bị mất. Vợ anh ta ban đêm mộng thấy chồng về báo rằng: anh tới Bành Thành bịnh và mất, đọa trong địa ngục. Chùa Đại Trang Nghiêm hô chuông tiếng vang thấu địa ngục nên anh thoát khỏi, muốn báo ân này có thể dâng cúng 10 hộc lúa. Người vợ đem lúa cúng chùa. Hưng lấy chia cho chúng. Chúng hỏi thỉnh chuông làm gì cảm được như vậy ?

- Hưng nói: Tôi thỉnh chuông cầu nguyện rằng: nguyện chư Thánh Hiền cùng nhập đạo tràng, bèn gióng ba tiếng thỉnh ba hồi dài; lại chúc rằng: nguyện các cõi ác nghe tiếng chuông của tôi bèn dứt hết khổ não. Mùa đông lạnh buốt tê cóng da thịt, tay chân co ro máu như ngưng tụ, vẫn thỉnh chuông không từ khổ nhọc. Nếu làm như thế có thể cảm thấu cõi u minh thọ lãnh được lời chú nguyện.

Cho nên chuông gọi là tụ hội dùng để nhóm chúng nhằm ý nghĩa này.

1.2 Bảng

Bảng có bảng bên trong nhà và bảng treo ở ngoài khác nhau; chất liệu tạo khác nhau như gỗ, gang, sắt, thép v.v… dứt chuông câu sang bảng mà cách thức sử dụng tùy mỗi phái qui định.

Tại thiền đường đều có bảng nhỏ bên trong, phía ngoài bảng lớn gọi là báo bảng (báo hiệu chúng) lúc vào thiền đường làm hiệu nhóm chúng. Tuần chúng ban đêm cũng báo hiệu bảng gỗ, nhà bếp lo xong thức ăn đã lên mâm sẵn sàng cũng gõ bảng báo cho Ban Hành đường biết - bảng lớn bằng sắt - điểm tâm. Buổi ngọ trai đều dùng bảng lớn gõ một hồi 3 tiếng, nếu xa chúng phải gõ 3 hồi 3 tiếng mới nghe rõ.

1.3 Mỏ con cá

Mõ tròn bằng gỗ khắc hình con cá mở mắt dùng để tụng kinh, bởi vì loài cá ban đêm thường mở mắt được khắc sâu trên mõ để tụng kinh gõ lên cảnh thức người mê và dẫn chúng hòa âm theo đều. Mõ hình con cá dài treo ở trai đường để làm hiệu hai bửa ăn, cho thời kinh Tịnh Độ và cho nhà trù, mời chúng tập họp… Song việc xử dụng cũng còn tùy theo mỗi phái có khác, nên biết tùy nghi cho thích hợp.

1.4 Kiền chùy

Kiền chùy là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là khánh. Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi rằng, A Nan thăng tòa giảng pháp thường gõ kiền chùy. Đây là tiếng làm tin của Như Lai vậy. Ngoài ra, các kinh, luật, luận đều luận loại kiền trùy hay kiền chùy. Trùy đọc âm là đất; sách Yết Ma sớ nói là kiền địa. Luật Ngũ Phần ghi rằng, tùy theo có các loại như đất, gỗ, đồng, sắt có tiếng kêu đều gọi là Kiền địa. Do cái nhìn như vậy nên hễ vật nào phàm phát ra thành tiếng tập họp chúng đều dùng tạo nên được cả. Cho đến lên chánh điện, thuyết pháp trước phải gõ khánh mà từ quen gọi là bạch chùy. Lời bạch như sau: pháp diên hoàn bị, đại chúng nên quán đệ nhứt nghĩa, nói xong nhịp khánh gọi là kết chùy.

Xưa Đức Thế Tôn một hôm thăng tòa, đại chúng tọa thiền, ngài Văn Thù bạch chùy rằng: lắng nghe Pháp Vương nói pháp, Pháp Vương nói pháp. Sau khi Phật nói xong Ngài xuống tòa, đây gọi là kết chùy.

1.5 Khánh

Khánh tròn dùng dẫn lễ, xướng tụng đầu khóa lễ và cuối khóa, do Duy Na chủ trì. Phàm Phương Trượng, bậc tôn túc, quan chức, thí chủ v.v… lạy Phật đều phải gõ hồi khánh.

Khánh dẹp hình như đám mây gọi là vân bảng treo phía ngoài hành lang chỗ Thầy trụ trì, nơi khách dễ trông thấy. Lại có khánh cầm tay như đã nói trên, muốn rõ chi tiết xem chương đại chúng. Phụ giới điều còn ghi thêm: lại có não bạt (chụp chõa hay phèng la) linh v.v… dùng xướng tụng cúng Phật đều phải hòa nhã đừng cho động chúng mất thanh tịnh.

1.6 Trống

Trống lớn gọi là đại pháp cổ cùng với đại hồng chung khua lên sớm tối, thỉnh 3 hồi lại 4 tiếng. Bài kệ thủ chuông trống Bát Nhã như sau:

Bát Nhã hội/ Bát Nhã hội/

Thỉnh Phật/ thượng đường//

Đại chúng cùng nghe

Bát nhã âm/ Bát nhã âm//

Nhập Bát Nhã Ba La Mật/ nhập Bát Nhã Ba La Mật.

Nhập Bát Nhã Ba La Mật...///////

Đón các bậc tôn túc, quan chức, các lễ vía Phật, Bồ Tát đều dùng chuông trống Bát Nhã cho long trọng. Ngoài ra còn có trống loại trung, trống nhỏ dùng vào việc tán tụng, nhất là tán bài Thượng lai… vào thời công phu khuya. Trống nhỏ nhất đường kính cỡ 30cm, gọi là trống cơm, tiếng kêu nghe tung tung lạ tai không như hai loại trước.

Nói chung người thủ tay trống phải nhuần nhuyễn, giữ khoan thai, hòa huởn ăn nhịp với chuông mõ, thời kinh mới thanh tịnh, làm toát ra tiết tấu âm nhạc Phật giáo, là một trợ lực của pháp khí vậy.

Chứng nghĩa ghi Kinh Kim Quang Minh, Tín Tướng Bồ Tát đêm nằm mộng thấy trống vàng mà hình dạng to lớn, ánh sáng nó phát ra tỏa rạng như mặt trời, trong lằn ánh sáng ấy thấy được 10 phương chư Phật, ngồi tòa lưu ly dưới các cây báu có trăm nghìn quyến thuộc vây quanh vì họ mà nói pháp. Có một người giống như Bà La Môn dùng trống khua vang phát ra âm thanh lớn, trong âm thanh ấy phát ra kệ sám hối của Bồ Tát Tín Tướng. Bồ Tát tĩnh dậy đi đến chỗ Phật kể rõ trong mộng thấy trống vàng và kệ sám hối. Liền đọc kệ cho Phật… Ngoài ra, kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, A Nan: ông lắng nghe nơi vườn Kỳ Viên này sau bửa ăn xong lại có tiếng trống. Chúng nghe trống nhóm họp trống vang ra trước sau không dứt. Nên biết từ đó trở đi tòng lâm đều dùng âm thanh mà làm Phật sự.

Phần sau cùng là tên các vùng đất, các tỉnh… xưa của Trung Quốc, lược bỏ không dịch, vì thấy không thông dụng. Có tất cả là 36 trang chữ Hán, từ trang 859 đến trang 894

Bản do Phật Giáo xuất bản xã ấn hành

 

Tháng 6 năm THDQ thứ 71 (1982) tại Taipei - Đài Loan
Dịch xong ngày rằm tháng 5 năm Đinh Hợi
Nhằm ngày 29 tháng 6 năm 2007
Tại tu viện Đa Bảo - Campbelltown
Úc Đại Lợi
Cẩn bút

Sa môn Thích Bảo Lạc


Trích BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY

Sách Tham Khảo

1)             Kinh Kim Quang Minh
2)             Kinh Kim Cang Vô Lượng Thọ
3)             Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới, H.T Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế ấn hành 1985.
4)             Luật Tứ phần: Pháp sư Huệ Luật, giảng đường Văn Thù tại Cao Hùng, Ðài Loan ấn hành 1996.
5)             Kinh Kim Quang Minh tối thắng vương
6)             Kinh Pháp Hoa Trì Nghiệm Ký
7)             Kinh Kim Cang Trì Nghiệm Ký
8)             Tỳ kheo giới Kinh, PHVQT (Hoa Kỳ) ấn hành 1984, HT Thiện Hòa dịch.
9)             Kinh Ðịa Tạng
10)         Kinh Ðại Quán Ðảnh
11)         Kinh Bi Hoa
12)         Sơn Am tạp lục
13)         Cao Tăng truyện
14)         Tống Cao tăng truyện
15)         Vân Thê Sàng hành lục
16)         Ngu Am Chích Cổ
17)         Lục Tổ Ðàn Kinh, Pháp sư Tâm Ấn, Từ Vân Sơn Trang, Tam Huệ Học xứ ấn hành 1996
18)         Giới Ðàn Tăng, H.T Thiện Hòa dịch, PHVQT ấn hành 1986
19)         Thiền Tông bí yếu
20)         Phật Tổ Thống Kỷ
21)         Sa di luật giải H.T Hành Trụ dịch, PHVQT (H.K) ấn hành 1985
22)         Thiền Lâm bảo huấn
23)         Du Già sư địa luận
24)         Sa di luật nghi yếu lược
25)         Tố lưu tầm nguyên
26)         Kinh Tăng Nhất A Hàm
27)         Thiền môn nhựt tụng: Hong Kong Buddhist Book distributor, 1980.
28)         Ðại Trí Ðộ Luận, H.T Thiện Siêu dịch, Viện NCPHVN ấn hành 1997
29)         Ngũ đăng hội nguyên, Phổ Tế đại sư Trung Hoa Thư cuộc, x.b tại Bắc Kinh 1984.
30)         Từ điển Phật học Hán Việt. Viện nghiên cứu Phật học VN. Xuất bản năm 1994.
31)         Phật học từ điển của Ðoàn Trung Còn do chùa Khánh Anh (Pháp) tái bản không đề năm.