Khóm mặc lan

Sáng nay, thức dậy lúc sao mai chênh xế nóc nhà, ông giáo già lụi cụi nấu nước sôi, chế trà rồi độc ẩm, thưởng trà cùng với sương sớm. Ông ngồi xếp bằng thế hoa sen, thẳng lưng, bưng chung trà cả hai tay, xoay xoay rồi nhắp từng ngụm nhỏ. Chậm rãi, cẩn trọng... ông uống trà, đồng thời, ông uống luôn cái vị, cái khí, cái không gian thanh bình, tĩnh lặng của miền quê cố đô yên ả... Mùa đông mà trời lạnh nhẹ, khá khô ráo, cũng lạ. Thời tiết đất Thần kinh mấy năm nay thay đổi khá thú vị; cái mưa dầm thối đất, sụt sùi, sủng nước, không biết nó đã di trú nơi nào, hay đã theo chân mù phương những người xa Huế? Cũng nhớ...

Ông đã qua bình trà thứ hai. Cái trà “Phổ nhĩ”Vân Nam  này, vị không đậm mà ngọt hậu. Cũng rứa thôi, cũng như Thiết quan âm, Ô long, chẳng ngon gì! Ông đã quen với trà tuyết, lại thích chè xanh cây nhà lá vườn hơn. Vị nể ông bạn lai tàu nên mua uống thử. Trà nào mà không thanh nhiệt, lợi tiểu, sáng mắt...! Bày đặt quảng cáo, sinh ra dị ứng tất thảy! Nhưng khóm mặc lan được mang về từ đó – học trò ông biếu tặng - hoa đang nẩy chồi, là một giống lạ; nó không có hai đường chỉ trắng trên mép lá - trông khác với mặc lan cổ xưa Huế, có lẽ ta nên để dành để dâng thầy thưởng xuân... Ông cúi đầu xuống, lòng rưng rưng...

Trời ửng sáng. Ông bước ra hiên. Không gian đùng đục. Sương mù lất vất, mơ hồ. Ông đưa mắt nhìn những chậu địa lan ngồi an bình, lưu niên trên dãy giả đôn đầu voi trắng: Bạch ngọc, đại kiều, tiểu kiều, mặc lan... lá xanh ngời như có thể soi mặt được. Ông gật gù, mỉm cười. Đấy là thành quả từ công phu vuốt lá, ngày này sang ngày khác của ông và con trai. Cái hơi người - nhân điện- và tình cảm của người trồng chính là yếu tố quan trọng nhất. Thời này, chẳng còn ai chăm chút tỉ mỉ như vậy. Người ta không có thì giờ, kể cả không có thì giờ để thở! Tội nghiệp! Ông vui thầm trong bụng, ta tỉ mỉ chăm chút để bảo tồn vốn cổ, là cái mỹ học của cha ông đó chứ! Ai mà biết, phải không?

Ông nhớ, ông đã học được kỹ thuật trồng địa lan của một cụ Nghè. Địa lan của cụ ấy trồng nổi tiếng một thời, đến đổi cậu Cẩn cũng phải ghen tỵ. Nhìn những chậu địa lan ngời ngời xanh mướt, láng lẩy, chồi hoa tuy gầy nhưng ẩn chứa một sinh lực khoẻ khoắn, ông tò mò hỏi tưới phân chi? Cụ Nghè cười cười trong ánh mắt lấp lánh, rồi hỏi ngược lại, chú giáo, chú tưởng địa lan phàm phu tục tử lắm hay sao mà phải ăn phân này, phân nọ? Ông mở tròn mắt. Cụ Nghè ha hả cười, nắm tay ông kéo lên hiên, vào ngôi từ đường hương khói thời gian, sai bày bàn trà... Trong không gian cổ kính; mùi trầm, mùi văn chương thi phú, mùi của cốt cách tao nhã; mùi của nếp sống thư hương, kẻ sĩ... một lần ấy thôi; mà nó đã ngấm đẫm tâm hồn ông cả nửa cuộc đời còn lại. Phân chi ư? Cái đó là bí truyền, phải dấu kín. Hằng ngày, nó ăn và uống nước trong vắt, có than hoạt tính khử phèn. Tôi quý địa lan ở phong cách đó. Nó cho hương sắc, nhưng mà rất khiêm nhường. Sắc nó màu âm, màu lạnh; không phô trương, ồn ào như lan ngoại. Lại càng không rực rỡ, trình diễn ngoại hình thời trang như hoa hồng. Nó rất lặng lẽ, khiêm cung, từ tốn... Hương thì sâu, kín – đúng như chữ  u hương trong Đường thi! Tôi không trồng hoa mà tôi trồng một bài thơ Đường! Nói xong, cụ Nghè cười sảng khoái! Suốt đời ông, có lẽ ông không bao giờ quên được nụ cười kỳ lạ của cụ Nghè. Một đời bình-sinh-thanh-cao-cốt-cách, nếu có được một nụ cười phiêu-diêu-khoát-hoạt; cùng lắm, cũng chỉ bằng nụ cười hôm ấy mà thôi! Thế còn địa lan Đà Lạt? Một hôm khác, ông hỏi. Cụ Nghè cất giọng xẵng, địa lan Đà Lạt! Không phải, cái đó là thổ lan, gọi địa lan là phỉ báng địa lan! Cái thổ lan ấy là cái giống Tây, bậm bạp, cao to, chắc khoẻ, uống ăn dung tục; rồi cứ nhón gót mà nở, cứ vỗ ngực mà nở... ồn ào, hỗn láo như một cậu thanh niên hippy hoa hòe hoa sói! Làm sao sánh được với cốt cách văn vật cao nhã cố đô!

... Những ngày nắng to, ông ra sau hè, đánh trần, xắn quần xuống ao vớt bùn non – chỉ là bùn non thôi - chuyển lên phơi trên một đám đất cao ráo. Nếu thiếu, ông đặt mua các ao đầm chỗ này, chỗ kia. Đứa con trưởng- lúc ấy đang là giáo sư chủ nhiệm phân khoa dân tộc học - trong giờ rãnh rỗi, thấy vậy ra tay phụ giúp với ông. Nó hỏi, cha làm chi mà vất vả rứa, sao không thuê người làm? Ôâng cười ruồi, tao đang thật sự nghỉ ngơi ấy chứ! Sự nghỉ ngơi của một con ngựa già, đã mỏi mệt sau những cuộc đua đường trường, một đời, lao nhọc! Đứa con dòng máu đại khoa, gène trí thức, nó kính trọng vị cha già có một vài phút giây tự mãn dễ thương; nó gật đầu mỉm cười, hỏi tiếp- thế cha sẽ dùng bùn này vào việc gì? Bí mật, ông đáp, tao trân trọng lời hứa thiêng liêng với một linh hồn cũ xưa ( cụ Nghè đã mất); nó đẹp như câu chữ của Đường thi, con không hiểu đâu! Quả thật, con ông không thể hiểu được! Thời đại này chúng không thể nào hiểu được cái tầng văn hoá ẩn mật trong cục đất, cục bùn, cục tâm nơi những chậu hoa địa lan; mà ở đó, chúng chan chứa cái đẹp của nhân văn, cái mỹ diệu của nghệ thuật sống; cái ân nghĩa vô lượng với cuộc đời, với thiên nhiên ngoại vật!

... Đất bùn non gom lại, phơi khô đúng một năm nắng, ông lại lụi cụi đập nhỏ, sàn, rây cho mịn... Ôâng con trí thức, lại hỏi, cha làm gì thế này, nghỉ tay một chút, vào góp ý giúp con về cái đề cương mà con đã phác thảo về bảo tồn vốn cổ của dân tộc... Ôâng ngước đầu lên, lấp lánh niềm vui trong ánh mắt, ừ, tốt, con đã không phụ lòng kỳ vọng của tiên tổ. Tốt, tốt... Rồi ông lại cúi xuống, đập, sàn, rây...Ôâng nói, tao cũng đang bảo tồn vốn cổ của dân tộc đấy chứ! Tao đang cặm cụi với hồn đất, hồn văn đó thôi! Ôâng nhướng mắt lên, cái kiếng trệ xuống, những công trình hiện vật cổ xưa, tìm, điều nghiên thì sẽ còn, kể cả các giá trị phi vật chất; nhưng bí quyết trồng một bài thơ Đường thì sẽ thất truyền, xót xa lắm, con ơi! Ông con nói, cha lại nhạo con rồi! Thế cha không góp ý giúp con à? Ôâng cất tiếng như giảng bài, nhưng giọng trầm ấm, xúc động, con là thanh niên thuộc thời đại mới- thời của Inte rnet- mà chân bước đi không hỏng đất, mắt không đắm cái hào nhoáng, óc không lây uế những giá trị ảo, trí không nhiễm thói kiêu căng, hãnh tiến; sở học đã không coi thường vốn cổ của cha ông, mà còn có những công trình tầm cỡ để gìn giữ, bảo tồn nữa. Tốt, rất tốt! Người con có vẻ phân trần, giải thích- công trình của con nó rất quan trọng, sẽ được đọc trong cuộc hội nghị khoa học toàn Châu Á, do Unesco tổ chức- người con nói tiếp, giọng buồn, ở Huế này chỉ có cha mới có thể đọc, hiểu và góp ý ở những chỗ bất cập... còn, thưa cha, con biết tìm ai nữa đâu! Ôâng tháo mắt kiếng, lấy vạt áo màu nâu bạc chùi bụi, con nói thế, biết bao nhiêu là giáo sư tiến sĩ thời đại mới; cha dẫu có chút học hàm, học vị nhưng già rồi, kiến thức thì quê mùa, lạc hậu rồi! Người con nói, giáo sư, tiến sĩ thời này ấy à- xì một tiếng, cười lạt- còn tệ hơn tiến sĩ giấy, tiến sĩ bù nhìn thời Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... ! Con ông chợt cất giọng bùi ngùi, con không có bạn, thưa cha! Thầy, cũng vậy, con chỉ có cha thôi, ngoài ra, chẳng có ông thầy nào là xứng đáng cả! Ôâng bất đồ đứng thẳng lưng dậy, quăng dụng cụ, giận dữ - Không thầy à? Không ai xứng đáng à? Không thầy đố mầy làm nên. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Con mà còn nuôi dưỡng ý tưởng kiêu mạn ấy thì sẽ làm ô nhiễm tâm hồn, ô nhiễm các giá trị thiêng liêng, con có biết không?

Ông con, giáo sư, hôm ấy, biết mình lỡ lời, sợ hãi, khép nép, im thin thít. Từ nhỏ, ông giáo huấn con rất nghiêm khắc; ông sử dụng rất ít kiến thức sách vở, không thích dùng lý luận biện chứng sáo mòn; mà chỉ nói chừng mực, vừa phải - cốt gợi ý về đời sống cụ thể, giữ gìn tác phong, nhân cách và tâm thái văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, công việc... Sớm nào ông cũng cùng con nấu nước sôi, chế trà, pha trà... Cả hai tập chờ đợi, tập để tâm rỗng rang, tĩnh lặng; thưởng thức không gian và môi trường sống với thiên nhiên hoa cỏ ở xung quanh. Ông trao đổi với con, nói về bản lãnh của kẻ sĩ là phải thể hiện cho bằng được đời sống tinh thần không bị nhiễm ô, đừng bị vấy bẩn bởi khói, bụi và các loại chất độc vi tế... Nghệ thuật sống là phải biết quán niệm, lắng nghe và tự chủ ngay từ hơi thở đầu tiên trong ngày... Và cũng từ tách trà sớm tinh sương ấy, nó sẽ duy trì sinh lực để vô hiệu hoá những tư tưởng hèn yếu, bạc nhược - mà chúng thường lý luận rất hay ho để thoả hiệp với những cái dung tục của đời thường... Ôâng đã mãn nguyện khi đãõ định hướng cho con ông đi theo con đường bảo vệ những giá trị truyền thống... Bây giờ, con ông bảo là không có ai xứng đáng là thầy! Nó không phải sai. Nó có cái lý của nó. Hoặc do nó buồn về tình trạng tha hoá, tụt dốc phẩm chất, khuyết tật kiến thức của quá nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ... thời nay! Nhưng không nên phủi tay tuốt tuồn tuột như thế! Vong ân bội nghĩa quá! Thế hệ ông khác, một chữ cũng là thầy. Nó đâu có biết rằng... thế gian này có biết bao nhiêu là ông thầy!

... Bùn rây xong, ông nhờ mấy o mấy mệ hàng xóm xin nước luộc nghêu, ốc, hến rồi hì hục bóp, nhồi, nhồi cho thật nhuyễn; trộn thêm với than hoa cỡ hạt đậu, hạt bắp. Xong, dùng bay, ông trải đất ra trên tấm ni-lông, san bằng, chà láng, dày chừng năm phân; lại dùng bay, dùng thước cắt ngang, xén dọc từng tấm hình vuông đều đặn tương tợ mặt bằng với từng ô ươm thuốc lá... Con ông lại hỏi, cha làm gì nữa đó? Giờ thì không bí mật nữa, cha chuẩn bị chất trồng đó con! Đợi đất khô, xắn ra từng tấm, từng tấm đặt vào lò nung, nung thủ công, nung sao đừng chín quá như gạch vồ, cũng đừng non quá, dễ vỡ! Địa lan được trồng với chất trồng này, quanh năm chỉ cần tưới nước sạch, nó sẽ phát triển xanh tốt, không cần một loại phân nào khác... Công phu quá, ông con giáo sư nói, phải cần có niềm vui, tâm tĩnh lặng, không còn vướng bận chuyện đời mới làm được. Ừ, con nói đúng! Là cái thú điền viên của người xưa đó con! Người con nói, hóa ra địa lan thích phân ngầm, như dồn tụ phẩm chất vào bên trong, thấm đẫm trong đất; rồi nó ăn một lần thôi! Ừ, ông khen, con nói hoàn toàn chính xác, dồn tụ phẩm chất vào bên trong, hay lắm; rồi ăn một lần thôi, hay lắm, ăn nhiều quá, dung tục quá thì còn gì là “an bần lạc đạo”nữa! Người con hiểu, gật gù, lẩm bẩm, ông già lúc nào cũng triết lý, không độc nhưng cay và sâu... thì ta cũng phải nói năng cho có trọng, có lượng một tí chứ!

Mặc lan Vân Nam lá dài, dày, to... chắc hẳn chồi hoa sẽ đậm đạp, mập ú, vươn cao. Nó có cái đẹp riêng của nó. Cái đẹp của một đế quốc đầy bản ngã, đầy kiêu căng, đầy tự hào nền văn hóa dày sâu nhiều ngàn năm của mình - nên cái gì cũng to, cũng lớn, cũng vĩ đại... cái gì cũng đại, họ quý chữ đại...! Ngược lại, ở ta, ở cái xứ đầu cứng mà bụng lép này, cái gì cũng bé, cũng nhỏ; mặc lan cổ xưa Huế bé nhỏ, xinh xắn, trông thanh nhã hơn nhiều. Lại còn thơm đậm, bền... Nói cho rôm rang chữ nghĩa một chút: nó bàng bạc, khinh diêu và du viễn, tuyệt!  Mặc lan Vân Nam thô tháo, phàm tục quá, ta sẽ tặng thầy khóm mặc lan sáu chồi quý nhất, cốt cách nhất đất thần kinh này! Cứ quyết định vậy đi...

... Này con, hôm kia, ông nói, lúc cụ Nghè mất, bao nhiêu chậu địa lan quý nhất, ông sai con cháu mang biếu tặng các ngôi chùa và các bậc cao tăng mà ông quý trọng... Cái thanh khiết phải tặng cho người thanh khiết... Tâm nào cảnh nấy... chắc con hiểu chứ?

Ôâng con hiểu quá mà, nên khóm mặc lan, công phu và tâm huyết của cha... Ừ, ông nói, giọng bùi ngùi... Cái gì quý mới cúng, mới thờ... Con ông lại một lần nữa không hiểu ẩn ý đằng sau câu chữ...

Lúc sương đã nhẹ hều trên cây lá, đã thoáng rạng giữa mây trời; ông đã chuẩn bị mọi thứ đâu đó xong xuôi. Hôm nay, lao chao giữa sương mù, có một vài mảng nắng ấm; ông đội mũ, chống gậy, mang giày thể thao, khóm mặc lan trong xách tay, lên đường. Ôâng con, giáo sư, thấy vậy hỏi, cha đi đâu, xa lắm à? Chừng mươi cây số đường núi, cũng gần thôi, ông đáp, chiều tối hoặc sáng mai, ta sẽ về! Hay là con đi cùng cha cho vui, ông con nói, con cũng muốn vận động thể thao một chút! Cũng được, con sẽ có dịp thấy tận mắt  một loại lan khác; lan này, đặc biệt, có cái hương sắc dịu dàng và tĩnh lặng vô cùng! Lại khó hiểu! Ông già muốn triết lý gì nữa đây! Người con nghĩ thầm.

Thế rồi, cả hai người bắt đầu rời xa xóm làng, men theo chân núi, đi mãi, nhà cửa thưa thớt dần... Ôâng bước từng bước dài. Ôâng con đã hụt hơi. Cha khoẻ thiệt! Ông cười hề hề, ta có khí công và thiền định, con bì sao được. Tuổi trẻ của các con không biết mượn khí của trời đất, cũng không biết sử dụng năng lực của tâm. Yếu đuối và bạc nhược là căn bệnh của thời đại... Văn minh vật chất cùng các tiện nghi của nó là giúp cho con người ngày càng làm biếng, lười suy nghĩ, khô cứng cảm xúc đi... thiệt là tệ hại!

Người con thấy cha chỉ nói đúng hơn một nửa, nhưng không dám nói xen vào. Đi thêm một đoạn, đến cạnh một rừng tre, ông bảo nghỉ để ông con dưỡng cặp cẳng thư sinh. Một lát, ông nói, thiên nhiên, ngoại vật, cái gì cũng có cái đức của nó. Nếu biết nhìn, lắng nghe, chiêm nghiệm... thì dẫu có học một đời cũng không hết đó con! Vâng, thưa cha, con hiểu! Ừ, tốt, vậy con thử nói đi? Dạ, nhìn núi, ta học được sự an nhiên và vững chãi. Nhìn nước, ta học được sự nhu nhuyến, mềm dẻo, hoàn cảnh nào cũng trôi chảy, linh động, thích nghi được... Ôâng cười vui- Đúng vậy! Người con nói tiếp, cố ý phê bình thử - điều cha nói, lần này cũng là tư tưởng cũ, chẳng mới mẻ gì! Ông giáo già không giận, nói, tưởng là thế mà không phải thế đâu con, cái biết của con là cái biết thuần tuý kiến thức... Xin cha nói rõ hơn. Này nhé, ông nói, học an nhiên, vững chãi, mà con đã từng tu tập cho được an nhiên, vững chãi chưa? Người con ngớ ra! Kiến thức suông, chưa đủ, mà cần phải tu tập, cần phải hành trì; tri phải có hành, con biết chứ! Rất lâu, người con dè dặt nói, có lẽ con cũng hành được. Ừ, biết vậy là tốt, mà cũng không đơn giản đâu con. Bây giờ, nhìn khóm tre kia, con học được gì? Thưa cha, trúc ruột rỗng, tiết thẳng... Dẫu hoàn cảnh nào, kẻ sĩ trong đời cũng phải giữ gìn tiết tháo ngay thẳng, không cúi luồng, không xu phụ, không nịnh bợ trước bất kỳ một uy lực nào... Đúng, đúng, ông gật, còn ruột rỗng. Dạ, tâm không, ruột rỗng là bao dung, rộng lượng, buông xả, không chấp trước điều gì... Ôâng con chợt ngẫu hứng đọc vài câu cổ thi - phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh... Ừ, con đọc sách nhiều, dẫn chứng đâu đó thông thạo cả... lại còn căn bản Hán Nôm, thi phú nữa; nhưng mà này con, ông nói, nhà sư có trồng một bụi trúc, sáng nào ông cũng uống trà nơi cái chòi lá cạnh bụi trúc... Thế mà, có một lần, ông nói với ta, hơn ba mươi năm học cái đức của trúc, đến gần cuối đời, nhìn trúc ông mới không hổ thẹn... Hơn ba mươi năm, con nhớ đấy! Ngưòi con thấy mình lấm tấm đổ mồ hôi hột, sợ hãi... cái hành này thì quả thật, chàng phải tu tập cả đời!

Núi tiếp núi, chập chùng. Bò bình yên gặm cỏ. Người lác đác gánh củi. Họ lội qua những khe nước đầy, đá rêu trơn... Chốn này ít người qua lại, người con nói, cha đi thăm thầy, ông thầy nào mà ở xa hút trong rừng sâu thế? Ừ, dầu chẳng thâm sơn cùng cốc gì lắm, nhưng cũng tàm tạm lìa xa bớt cái hợm hĩnh, phù phiếm của chốn quan trường; ẩn trốn được cái ranh ma, xảo quyệt quá quắt của con người văn minh đô thị! Ông con nói, ngôn ngữ của cha hôm nay léo lắt như có lửa cháy! Ừ, trời lạnh, có lửa cháy mới ấm chứ con! Biết mình nguỵ biện, ông cười hì hì rồi tìm chỗ ngồi nghỉ chân cạnh cụm đá tảng nơi triền núi. Cả hai lấy nước ra uống. Cha chưa hề nói chuyện với con về  vị thầy này? Thầy ra sao? Là một nhà sư chăng? Ừ, ông gật đầu, một lão sư; ông gân guốc, quắc thước, xương kính như tùng, như trúc... Nhân duyên thầy trò như thế nào rứa cha? Cũng chẳng là nhân duyên chi ghê gớm lắm! Hồi xưa, nhà sư và cha là bạn đồng nghiệp... Sau ba mươi năm, gặp lại, qua câu chuyện, ta học được nơi nhà sư rất nhiều điều, ở ngoài sách vở, hoặc từ sách vở mà ông đã tiêu hoá kỹ, rất kỹ!

Họ lại lên đường. Người con nói, cha kể cho con nghe với chứ. Ừ, hôm đó ta hỏi, đang dạy học ngon lành rứa, buồn chuyện chi mà ông đi tu? Nhà sư cất giọng nhẹ nhàng, nhẹ tợ làn gió xao qua cành liễu, hoá ra, trong óc ông chỉ có chuyện vui, chuyện buồn thôi sao? Cha ngớ ra, lát sau, hỏi tiếp, ông đi tìm cứu cánh tối hậu là giải thoát, niết-bàn, có phải? Niết-bàn, giải thoát ấy ở mô trên mây xanh, nói thử nghe coi? Nhà sư lại cười, ông bạn nói giải thoát, nhưng giải thoát là giải thoát cái chi chi mới được chứ? Cha lại bí, bực quá, không hỏi nữa... Mấy năm sau, cái thời mà xã hội bức xúc nhất, quá nhiều chuyện buồn, ta lại bị gậy lội bộ lên núi. Nhà sư đãi ta cơm độn khoai và canh rau muống, ôi, ngon quá là ngon. Chúng ta uống nước lá rừng giữa trăng, sao, giữa thiên nhiên bình yên, mát mẻ. Một giấc ngủ ngon, bao nhiêu bực bội dường như tiêu tan cả, nhưng ta cũng nói, cũng hỏi. Đại khái là các giá trị đức lý, những cái phi lý khoác mặt nạ hữu lý, sự quẫy lộn giữa các ý thức hệ ... vân vân... quằn quại quá, quẫn quá, phiền não quá... vân vân... Ông đi tu là giỏi đấy! Nhà sư ngồi yên lặng, chăm chú, rất chăm chú lắng nghe, thái độ đầy hiểu biết và đầy cảm thông... Sau đó, ông hướng dẫn ta cách ngồi, cách thở... Thế nào là thở của khí công, thế nào là thở của thiền định, thế nào là thở của thiền quán... Nó khác nhau nhiều lắm đó con! Thế phiền não của cha, nhà sư trả lời ra sao? Người con tò mò hỏi, ông nói, thuở đó ta rất bực vì dường như nhà sư giả đò, giả lơ đi, không đáp!

Xế trưa, hửng nắng, ai cũng toát mồ hôi, con đường mòn bây giờ lại vắt qua một sườn núi, sâu hun hút... Câu chuyện được tiếp tục, ta muốn nhà sư giúp ta một lời khuyên. Nhà sư nói, chẳng ai khuyên ai được điều gì cả. Sao thế, ta nói, ít ra cũng giúp giải quyết được một vài bế tắc chứ? Không có, nhà sư nói, giải quyết vấn đề chính là cố tạo thêm vấn đề cho phức tạp hơn! Không đồng ý, ta nói, vậy là cứ để yên như thế sao? Nhà sư lại cười, ông xem: Bên trong, bên ngoài, có cái gì đứng yên được đâu! Thệ giả như tư phù... mà! Con ơi! Thế là ta lại thua nhà sư một keo nữa!

Câu chuyện giữa hai người khá là thú vị, tuy ông giáo sư trẻ không ngạc nhiên gì lắm; triết lý, thiền học nào cũng nói về điều ấy; nhưng dường như nhà sư này thò tay chỉ đúng huyệt đạo của ông già! 

Bây giờ là con đường sâm si lau lách, đá cỏ chen chúc nhau dẫn vào một thung lũng, cây cối tươi xanh như một bài thơ mùa xuân. Tiếng suối chảy róc rách  từ khe rảnh hang hốc nào đó ở dưới thấp; chim và mây và gió chao lượn đâu đó ở trên cao. Hương thông thơm ngát. Không khí như không dính một mảy trần. Con biết không, ông cúi đầu bước đi, tiếp tục, có cái gì đó bình thường, rất bình thường nhưng không phải thế tục, tỏa ra nơi con-người-nhà-sư, mà ta không nắm bắt được. Có lần, ta hỏi, Đức Phật giúp chúng sanh gỡ thoát phiền não, tôi cậy ông, thế mà ông lại quá hờ hững, tôi chê ông “ bất cận nhân tình”đấy!  Bất chợt, nhà sư cười lớn tiếng, ông vu oan cho Đức Phật rồi; ngài không cứu khổ, cứu nạn; không gỡ phiền não cho ai cả; ông bị kinh sách đầu độc, đích thị là như vậy! Con à, cha lại lúng túng. Nhà sư nói tiếp, hôm qua, trong giấc ngủ ngon, ông đã tự xả bỏ phiền não rồi, sáng ngày, tự ông, ông đã đeo mang nó lại, liên hệ gì đến Đức Phật của tôi? Hãy nuốt lưỡi đi! Người con nghĩ, cái này cũng không mới, là tuệ tri như thực – là tặng phẩm của thiền quán Vipassanà đó thôi! Nhưng mà cách nói của nhà sư thì rất đúng bệnh, đúng thuốc!

Con đường được nới rộng, không gian như được mở ra... Sắp tới rồi đó con, nhưng để ta kể tiếp; chiêm nghiệm, ta thấy nhà sư nói đúng, ông không dạy gì cho ta cả, nhưng mà ông đã xoáy, đã xoáy sâu vào óc não và kiến thức hàn lâm, một thời, đã đóng cục đóng hòn ở nơi ta! Thế rồi, nó bung vỡ lần lần. Ta thấy ánh sáng lần lần... Lần gặp sau nữa, nhà sư nói, ông bạn già, hôm nay, có bao nhiêu phiền não, khổ đau trên cuộc đời, ông bạn hãy mang hết ra đây, chúng ta cùng nhìn xem mặt mũi nó ra sao, nó như thế nào- mà làm cho thế gian bận lòng đến thế! Con biết không, ta tìm, ta tìm, ta tìm mãi mà chẳng thấy cái phiền não, khổ đau nào cả! Có lẽ nhà sư biết, biết rất rõ, nên ông cười, này, không có gì hết phải không? Đúng vậy, vì tất thảy chúng đều là không tính! Sung sướng quá con ơi, ta đại ngộ tức thì. Từ đấy, ta coi nhà sư như là bậc thầy vĩ đại của ta! Con thấy đó, bao nhiêu năm nay, ta không còn một mảy may phiền não; nói như kiểu của Nam Tuyền lão sư là ta đã tìm được cái bình thường, bình thường tâm thị đạo. Người con im lặng rất lâu. Cái kia cũng chẳng mới mẻ gì, nhà sư lặp lại câu chuyện giữa Đạt Ma và Huệ Khả, nhưng hay và thiết thực ở chỗ là đúng lúc, đúng thời! Người đạt ngộ, sống thiền, họ có thể nói lặp lại nhưng không sống lặp lại. Nhà sư vô danh này cũng là tay khả thủ đây! Ôâng giáo sư trẻ nghĩ thầm mà không dám nói với cha, trứng nào dám khôn hơn vịt! Nhưng mà kỳ diệu làm sao, một vài vấn đề tâm linh nơi chàng tự dưng phơi phới sáng tỏ...

Một am tranh xơ xác, tiêu điều; một bụi trúc lơ phơ, lá vàng rơi đầy...  Người con mon men bước tới... vắng tanh, vắng ngắt... Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng – bất chợt, người con nhớ đến một bài thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở, mây trắng bước vào ra, phù sinh chừ rỗi việc, rong chơi suốt bốn mùa... Một cảm xúc vô danh tuôn trào, ông giáo sư lặng lẽ đến ngồi xuống nơi bàn đá lạnh lẽo... một tâm hồn cổ xưa nào đó dường như còn lãng vãng xung quanh đây!

Có lẽ nhà sư đã đi du hoá phương xa, con à, bây giờ con hãy phụ ta một tay, trồng khóm mặc lan rồi chưng nơi bàn đá này để cho nhà sư đón Tết... Mặc lan Huế u hương, thanh nhã, khinh diêu, du viễn, có nhà sư hay không có nhà sư thì hoa vẫn thanh thản đón xuân...

Lát sau, người cha đứng vòng tay, trầm tư bên chậu mặc lan đã trồng xong. Người con đi quanh... cả một đồi lau trắng, quạnh hiu... Rồi ông bước vào am, thò tay kéo cái “bùng”, lấy thanh tre chống lên. Răn rắc... bụi mọt bay mịt mù. Ôâng nhắm mắt lại một lát. Trống không, nơi này không có người ở đã lâu. Duy nhất, chính giữa nền đất, áp sát phên nứa là một tấm toạ cụ bằng nệm rơm đã meo mốc. Một bát nhang hờ hững, xiêu đổ mấy cọng hương...

Người cha bước vào, ba cây hương trên tay; rồi ông quỳ rất lâu, mắt hoe hoe đỏ... Ông con chắp hai tay đứng lặng, kính ngưỡng một tâm hồn thiên cổ... Ra sân, người con cũng đứng lặng rất lâu, nhìn ngắm bụi trúc duy nhất - bụi trúc, tâm không tiết trực, một đời học làm người! Khóm mặc lan - u hương sâu kín, một đời học làm người! Và ông đã hiểu thêm, ở nơi này, một loại lan rừng- ăn móc uống sương, cũng một đời học làm người! Tất cả đều có thật.

Thôi, về con, ra giêng Tết có nắng ấm, chúng ta lại lên thăm nhà sư, lúc ấy, chắc khóm mặc lan đã tàn hoa, nhưng hương thơm khinh diêu, du viễn vẫn còn... còn mãi giữa bồng bềnh khói sương cuộc lữ...  

 

Huyền Không Sơn Thượng

Minh Đức Triều Tâm Ảnh