Phương pháp niệm Phật

Xem hình

Pháp môn niệm Phật vốn xuất phát từ chữ Phạn “Phật Đà Na Tức Lặc Đế”, ý là nhớ niệm đức Phật, chuyển dần thành phương pháp tu trì quán tướng hảo Phật, xướng danh hiệu Phật v.v… Tại các tông phái Đại thừa Phật giáo Trung Quốc, ngoài các Thiền sĩ phái Tam Luận (Trung Quán) cho đến bộ phận tông Lâm Tế ra, không một phái nào không học pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ Cực lạc phương Tây.

1. Niệm Phật là pháp tu cộng đồng đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc

Phật giáo Đại thừa dù là hiển hay mật gần như đều xiển dương pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà. Mật giáo có nghi quỹ tu trì của họ. Hiển giáo chủ yếu y cứ vào kinh điển như ba bộ kinh nói về Tịnh độ là:

1. Phật thuyết A Di Đà Kinh.

2. Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, cũng gọi là Thập Lục Quán Kinh.

3. Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, lại còn gọi là Đại A Di Đà Kinh. Kinh này từ đời Hán đến đời Tống trước sau cộng có 12 bản dịch, từ Tống Nguyên về sau chỉ còn 5 bản, Cư sĩ Vương Nhật Hưu triều Tống, y cứ vào bốn bản dịch trong số đó, tổng hợp thành “Phật thuyết Đại A Di Đà Kinh”. Năm Dân Quốc thứ 35 (1946) lại có Cư sĩ Hạ Liên Cư tập hợp năm bản dịch đời Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống thành Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh tổng cộng 48 chương. Kinh này giới thiệu rất tường tận y chính trang nghiêm, nhân quả sự lý đối với pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà.

Lại có học giả Tịnh độ khác như đại sư Ấn Quang cho rằng, chương Đại Thế Chí Bồ Tát niệm Phật viên thông trong kinh Lăng Nghiêm, cho đến phẩm Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện trong kinh Hoa Nghiêm cũng thuộc kinh điển trọng yếu hoằng dương pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà. Do đó, cùng với ba kinh trên hợp lại gọi là năm kinh Tịnh độ.

Tại Trung Quốc các tông phái Đại thừa Phật giáo, ngoài các thiền sĩ phái Tam Luận (Trung Quán) cho đến bộ phận tông Lâm Tế ra, không dùng pháp môn niệm Phật Tịnh độ, còn lại những nhà khác gần như không một phái nào không học pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ Cực lạc phương Tây. Do đó đủ biết niệm Phật là pháp tu cộng đồng đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc.

2. Phương pháp niệm Phật trong kinh A Hàm

Pháp môn niệm Phật vốn xuất phát từ Phạn ngữ Phật Đà Na Tức Lặc Đế (Buddhanusireti), ý là nhớ niệm đức Phật, chuyển dần thành phương pháp tu trì quán tướng hảo Phật, xướng danh hiệu Phật v.v… Trong kinh Tạp A Hàm thứ 33, niệm Phật thuộc về pháp môn lục niệm. Trong kinh Tăng Nhất A Hàm thứ 2 thuộc về pháp môn thập niệm, phương pháp niệm Phật ấy là:

“Thân ngay ý chính, ngồi thế kiết già, buộc niệm phía trước, không nghĩ gì khác, chuyên tinh niệm Phật, quán hình tướng Phật, chưa từng rời mắt. Đã không rời mắt, lại còn nhớ công đức của Như Lai.

Thể của Như Lai, do kim cương tạo thành, đầy đủ thập lực, tứ vô sở úy, dũng kiện trong chúng. Diện mạo Như Lai, đoan chính vô song, nhìn không biết chán, thành tựu giới đức, cũng như kim cang, không thể hoại được.

Thanh tịnh không tỳ vết, cũng như lưu ly. Tam muội Như Lai, chưa từng có giảm, đã thường tịch tịnh, không một niệm khác, kiêu mạn hung tàn, các thứ lo sợ, ý muốn oán giận, tâm ngu mê hoặc, đều được trừ hết. Huệ thân Như Lai, trí không ngằn mé, chẳng còn chướng ngại.

Thân của Như Lai, thành tựu giải thoát, dứt bặt các đường, không sinh trở lại, vì nguyện độ sinh, mới sinh trở lại. Thân của Như Lai, vượt thành tri kiến, biết căn cơ người, nên độ hay không, chết đây sinh kia, xoay vần qua lại, trong khoảng sinh tử, có người giải thoát, người không giải thoát, đều biết rõ hết. Cho nên, tu hành niệm Phật, sẽ được khen ngợi, thành quả báo lớn, điều lành đều đến, được cam lộ vị, đến chỗ vô vi, thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, đến nơi Niết bàn”.

Phương pháp niệm Phật này là buộc tâm nhớ niệm, chuyên tâm quán tưởng công đức vô lượng của Phật, bao quát quán tưởng thân thể, nhan sắc của Phật và năm phần pháp thân Phật như: giới đức, tam muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nếu có thể theo đó mà tu hành pháp môn niệm Phật, thì được thành tựu quả báo lớn, cho đến tự đến Niết bàn, tự được giải thoát. Đây là pháp môn niệm Phật của Tiểu thừa.

3. Phương pháp niệm Phật trong kinh Ban Chu Tam Muội

Nếu y theo Hành Phẩm trong kinh Ban Chu Tam muội đã nêu thì: “Trì pháp nào được vãng sinh Cực lạc quốc? Phật A Di Đà nói rằng: “Muốn sinh về nước kia, nên niệm danh hiệu ta, không lúc nào dừng nghỉ, thì sẽ được vãng sinh”. Phật lại nói rằng: “Chuyên niệm thì sẽ được vãng sinh.

Thường nhớ thân Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, quang minh chiếu suốt, đoan chính không thể sánh, ở trong Bồ tát Tăng mà nói pháp… Muốn thấy được mười phương chư Phật hiện tại nên nhất tâm niệm cõi Phật kia, không được nghĩ khác, như thế sẽ thấy được”.

Qua kinh Ban Chu Tam Muội ta thấy, phương pháp tu hành là niệm danh hiệu Phật, niệm thân Phật tướng hảo quang minh, niệm tưởng cõi Phật. Nếu thành tựu được Tam muội, thì sẽ thể nghiệm được “Điều ta hằng tâm niệm là thấy tâm thành Phật.

Nếu tâm tự thấy biết chính nó thì tâm ấy chính là Phật, tâm Phật ở ngay nơi thân của ta. Nếu tâm còn thấy Phật (bên ngoài), thì tâm ấy không tự biết không tự thấy chính mình, tâm mà có tưởng thì đó là si tâm. Tâm không có tưởng chính là Niết bàn”. Đó là pháp môn Đại thừa từ niệm Phật mà thật chứng chân như thật tướng.

4. Phương pháp niệm Phật trong kinh Vô Lượng Thọ

Căn cứ vào quyển hạ kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ có nói rằng: “Có chúng sinh nào, nghe danh hiệu Phật A Di Đà, tín tâm hoan hỷ, cho đến một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sinh, trụ nơi bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ ngũ nghịch hủy báng chính pháp”.

Theo kinh này thì điều kiện vãng sinh cõi nước Cực lạc rất giản đơn, không giống như kinh Ban Chu Tam Muội cần phải niệm danh hiệu Phật không được dừng nghỉ mới được vãng sinh Phật quốc. Chỉ cần nguyện sinh cõi nước kia, ngoại trừ người phạm tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng) và người hủy báng chính pháp Đại thừa, thậm chí chỉ cần một niệm tin nguyện đều có thể vãng sinh về cõi kia.

Chẳng qua kinh này dạy vãng sinh nước Cực lạc có ba hạng người thượng trung hạ, hai hạng thượng và trung điều kiện niệm Phật vãng sinh là “chuyên niệm một hướng, đức Phật Vô Lượng Thọ”, điều kiện niệm Phật vãng sinh của bậc hạ là “chuyên ý một hướng, cho đến mười niệm, niệm đức Phật Vô Lượng Thọ… thậm chí một niệm niệm đức Phật kia, dùng tâm chí thành, nguyện sinh về nước của Phật A Di Đà, người này lúc lâm chung, mộng thấy đức Phật A Di Đà cũng được vãng sinh”. Từ “chuyên niệm một hướng” đến “thậm chí một niệm”, đều có thể vãng sinh nước Phật. Vậy phải niệm Phật như thế nào? Phải chí thành tưởng nhớ Phật, buộc tâm vào danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ (Phật A Di Đà).

Nguyện thứ 18 trong 48 nguyện của kinh này tại quyển thượng có nói: “Khi ta được thành Phật, chúng sinh trong mười phương, chí tâm tín nguyện, muốn sinh về nước ta, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, ta không thành Chánh giác”.

Lúc đức Phật A Di Đà phát nguyện này, vẫn còn ở giai đoạn hành đạo Bồ tát. Nay đã thành Phật, nguyện lực của Ngài đương nhiên biến thành sự thật, cho nên khuyến khích chúng sinh, chỉ cần mười niệm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nhất định vãng sinh về cõi Phật, nhưng kinh này cũng hai lần nêu thêm “thậm chí một niệm” cũng được vãng sinh nước Phật.

5. Phương pháp niệm Phật trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và các kinh khác

Căn cứ theo yêu cầu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đầu tiên là: “Cột niệm quán kỹ tịnh nghiệp của cõi Cực lạc”, kế đến dạy: “Cột niệm một chỗ, tưởng cõi Tây phương”. Rồi tưởng mặt trời, tưởng nước, tưởng đất, tưởng bảy hàng cây, tưởng ao nước bát công đức, tổng quán cây báu, ao báu cõi nước kia, quán y báo trang nghiêm của Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ tát, quán thân pháp giới của chư Phật Như Lai nhập trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh (quán tưởng thành tựu, ngay trong đời hiện tại, được niệm Phật tam muội, tức là thân chứng thật tướng). Quán ánh sáng thân Phật Vô Lượng Thọ, quán Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí, quán ngồi ở trong hoa sen và tưởng hoa sen khép nở, quán thân tướng Phật Vô Lượng Thọ một trượng sáu đang đứng trên ao nước.

Phần trên là tiêu chuẩn niệm Phật quán tưởng, niệm Phật quán tượng, niệm Phật thật tướng, kế đến kinh này lại nói pháp môn niệm Phật vãng sinh chín phẩm, trong đó đề cập chỗ niệm Phật có:

1. Thượng phẩm thượng sinh, tu hành lục niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thiên, niệm giới, niệm thí) hồi hướng phát nguyện một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh.

2. Bậc Hạ phẩm thượng sinh, nghe được đầu đề của 12 bộ kinh Đại thừa, trừ được ngàn kiếp ác nghiệp cực nặng, lại dạy: “Hai tay chắp lại xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, xưng danh Phật rồi”. Phật A Di Đà dùng hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, đến trước người ấy nghinh tiếp vãng sinh về cõi Phật.

3. Bậc Hạ phẩm hạ sinh, “Hoặc có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, ngũ nghịch thập ác, đủ các điều bất thiện”, đến lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức vì người ấy nói diệu pháp, chỉ dạy niệm Phật, nếu chúng sinh này bị khổ bức bách, “không thể niệm đức Phật kia, nên xưng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ chí tâm niệm Nam mô A Di Đà Phật, niệm liên tục không dứt, đầy đủ mười niệm, xưng danh hiệu Phật rồi, ở trong mỗi niệm trừ được tội nặng trong đường sinh tử 80 ức kiếp… ở trong khoảng một niệm liền được vãng sinh thế giới Cực lạc, ở trong hoa sen mãn 12 đại kiếp hoa sen mới nở”. Thấy được hai vị đại Bồ tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí vì người ấy mà nói pháp.

Theo kinh văn đã nêu, trừ ba loại niệm Phật quán tưởng, quán tượng và thật tướng, đối với chúng sinh phàm phu nói chung vẫn có thể dùng pháp môn lục niệm, xưng danh niệm Phật, đặc biệt đối với chúng sinh vãng sinh Hạ phẩm nên dùng xưng danh niệm Phật là thích hợp nhất.
Phương pháp xưng danh niệm Phật, như phẩm Phương tiện trong kinh Pháp Hoa có nói: “Chỉ xưng Nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo”. Lại nói: “Tiếng vi diệu rất tịnh,
xưng Nam mô chư Phật”.

Trong kinh Phật Thuyết A Di Đà thì nói: “Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân nào, nghe nói Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu của Ngài” một ngày cho đến bảy ngày đạt đến trình độ “nhất tâm bất loạn” thì lúc lâm chung, liền được Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng đến trước người ấy tiếp dẫn vãng sinh về cõi Cực lạc. Cho nên, có người dùng tâm ghi nhớ niệm Phật, xưng danh hiệu Phật, trì danh niệm Phật đều gọi là pháp môn niệm Phật.

6. Phương pháp niệm Phật từ một niệm đến mười niệm

Trong nhiều đời các vị đại sư ở Trung Quốc, người tuyên dương pháp môn niệm Phật tương đối nhiều, vả lại mỗi vị tự đề xuất phương pháp cụ thể niệm Phật sinh Tịnh độ.

Đại sư Đàm Loan thời Bắc Ngụy, chú giải “Vãng sinh luận” của ngài Thế Thân giải thích mười niệm vãng sinh như sau: “Tâm không nghĩ gì khác, nhất tâm tương tục, niệm Phật A Di Đà đủ mười số gọi là mười niệm”. Lại nói: “Niệm mười niệm này, dùng ghi nhớ niệm làm nghĩa, duyên theo tướng hảo của Phật, xưng danh hiệu Phật, dùng tâm niệm mười niệm tương tục, chuyên tâm vào Phật A Di Đà, rất là quan trọng”.

Trong An Lạc Tập quyển thượng của đại sư Đạo Xước triều Đường có nói: “Chỉ nhớ niệm Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng, tùy duyên mà quán, thẳng tắt mười niệm, không xen tạp niệm khác gọi là mười niệm”.

Tập “Vãng Sinh Lễ Tán Thích Bổn Nguyện Văn” do đại sư Thiện Đạo triều Đường viết có nói: “Mười phương chúng sinh xưng danh hiệu ta, cho đến mười tiếng, nếu không được vãng sinh, ta không thành chính giác”. Tức là dùng miệng niệm mười tiếng Phật, để giải thích phép tu mười niệm.

Trong “Vô Lượng Thọ Kinh Tông yếu” của đại sư Tân La Nguyên Hiểu, giải thích mười niệm tức là xưng niệm danh hiệu, duyên theo tướng hảo, không tạp niệm khác, không chút gián đoạn, niệm đủ mười số. Thuyết này với thuyết của ngài Đàm Loan giống nhau.

Học giả Nhật Bản cận đại là Vọng Nguyệt Tín Hạnh khảo sát chữ niệm dùng trong niệm Phật bằng chữ Phạn ý là tâm niệm (chữ Phạn là Citta), ở trong kinh Vô Lượng Thọ nói chỗ của ba hạng niệm Phật vãng sinh, chữ niệm trong niệm Vô Lượng Thọ Phật ý là Tùy niệm (chữ Phạn là Anusmrti) hoặc có ý là tư duy (chữ Phạn là Mansikr).

Đủ chứng tỏ chữ niệm trong mười niệm cho đến một niệm vốn là tâm ghi nhớ, tư duy thêm vào xưng danh niệm hoặc trì danh niệm, tức là trong miệng tuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, đồng thời ở trong tâm cũng biết rõ là đang tuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, trong tâm rõ ràng không có vọng tưởng tạp niệm, chỉ biết từ trong miệng mình đang tuyên xưng danh hiệu Phật, một tiếng Phật hiệu này cũng là một niệm niệm Phật, trong miệng niệm liên tục không gián đoạn cho đủ mười tiếng, trong tâm không có xuất hiện tạp niệm nào khác, đó là mười niệm tương tục cũng là niệm Phật mười niệm.

 

TT Thích Chân Tính