Ngày Đại Lễ Muôn Điều Hòa Ca

altTrong những hình ảnh rực rỡ, kỳ diệu nhất trong sự kiện thị hiện của Phật, đó là hình ảnh “Phật đản sanh”.

Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày. Chim chóc ríu rít reo ca trên các vòm cây bên đường, trong vườn nhà và trên mái chùa; chúng tíu tít bay về đông hơn thường lệ. Cây lá mơn man đong đưa trong gió lành. Ánh nắng dịu êm như qua lớp lọc. Vạn vật cùng nhân loại hân hoan chào đón ngày kỷ niệm đại lễ Đản sanh của đức Từ phụ Bổn Sư siêu tuyệt ra đời!

Thái tử Tất Đạt Đa vừa Đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni đã bước đi bảy bước với nghi dung một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, Ngài tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Ngay lúc đó, vị rồng đã phun nước tắm Thái tử. Cõi đất rúng động sáu cách, lâu đài của ma vương rung chuyển liên hồi như sắp xiu đổ. Vua các cõi trời cùng chư thiên giáng hạ rưới hương hoa, và đàn hát những bản nhạc trời tuyệt khúc để tán thán sự ra đời của vị Bồ-tát vừa xuất hiện thế gian.

Sự kiện cười lớn rồi khóc to của tiên A Tư Đà chứa đầy ý nghĩa. Tiên ông cung kính đưa hai tay bồng thái tử. Sau khi chiêm ngưỡng tôn nhan, tiên ông cười lớn, tiếng cười giòn vang biểu lộ tâm trạng tràn đầy niềm hân hoan và lòng ngưỡng vọng. Sự sung sướng và hạnh phúc tuyệt cùng trong tự tâm ông được nhân đến vô hạn lượng cho khắp chúng sanh, hứa hẹn rồi đây đấng cha lành sẽ dương cao ngọn đuốc trí tuệ soi đường dẫn dắt vô lượng chúng sanh ra khỏi vòng vô minh, ái nghiệp. Bỗng tiên ông lại khóc to, tiếng khóc cũng vang dội làm kinh ngạc mọi người không kém. Dòng lệ này hòa trộn niềm vui, sự ngưỡng mộ, lòng yêu kính vô vàn như trong đời ông chưa từng yêu kính ai như vậy. Sự hiện diện rực rỡ vừa qua, tự tâm ông lại trổi dậy niềm hối tiếc khôn nguôi, vì sực biết mình đầu đã bạc, răng đã long, không còn kịp đợi nghe lời hy hữu tỏa ra từ kim khẩu của vị đại Đạo Sư để tu học và chứng đắc vào các quả vị giải thoát.

Tiếng cười, tiếng khóc này vẫn còn vang vọng mãi theo tiếng hải triều và vẫn mãi là nguồn cảm hứng vô biên, làm xiu động kinh ngạc biết bao, chẳng những riêng tiên ông, mà cho hầu hết những người con Phật từ lúc Ngài xuất hiện cho đến bây giờ và mãi về sau.

“…Duy ngã độc tôn-Chơn ngã-Chơn tâm-Chân lý tối thượng-Như Lai-Thiên nhân sư-Phật”. Bức thông điệp ngắn gọn, dứt khoát và siêu tuyệt nhất, đã nói lên bổn danh cùng sứ mạng: Phật sinh ra đời vì đại sự nhân duyên nên mới xuống nhà lửa cũ mục này chỉ vì sự giác ngộ cho hết thảy chúng sanh; “khai-thị-ngộ-nhập tri kiến Phật” cho hết thảy chúng sanh.

Bốn mươi chín năm nói pháp, đức Phật thường dùng mọi phương tiện chỉ cho đồ chúng rằng: Còn là chúng sanh thì phải phá “ngã”. Vì “cái ngã” của chúng sanh là “ngã” sinh ra từ tâm lý, nó là vô thường, khổ, không; nó đầy vô minh và vọng động, phải tu tập để phá dẹp, đốn ngộ tận cùng vô minh điên đảo và đạt cho kỳ được Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh, tức là “duy ngã độc tôn”.

Chúng con thành kính về nương Phật, đầu mặt lạy chân Ngài và dâng lên lời tán thán:

Muôn ngàn kiếp dùng đầu đội Phật
A tăng kỳ kiếp dùng vai mang
Cũng không sao đền đáp thâm ân
Tâm chúng con kính ngưỡng vô vàn.

 

Quang Tuệ