HOẰNG PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP

altLời Nói Đầu:

Hoằng pháp là gì? Truy tìm một định nghĩa đầy đủ để rút ra một câu trả lời trong ý nghĩa ngôn từ thật khó khăn, chúng ta có thể nói một cách tổng quát, hoằng pháp nghĩa là mang ánh sáng giác ngộ đến với tất cả chúng sanh. Trở về con đường hoằng pháp của đức Thế Tôn, chúng ta biết rằng sau khi chứng quả dưới cội Bồ đề, đức Phật đã xác định công việc hoằng pháp trước hết và suốt trong 49 năm giáo hóa, bằng nhiều phương tiện khác nhau, Ngài đã không mệt mỏi và xao lãng một giây phút nào. Đức Phật không những đích thân làm công việc của mình, Ngài còn sách tấn hàng đệ tử hãy vận dụng khả năng của mình để làm lợi ích cho chúng sanh. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, hoằng pháp là một hành động cụ thể chứ không phải đơn thuần là một lý thuyết, lý thuyết thì không thể nào diễn tả hết công việc này. Do vậy, trong phạm vi bài viết này, ban Hoằng pháp tỉnh Khánh Hòa xin đề cập đến khía cạnh hành động của công việc hoằng pháp trong thời hội nhập và phát triển.

I/ Nhận Định Chung:

Những năm gần đây, Phật giáo Việt nam đã có chuyển biến rõ nét, đánh dấu nhiều bước ngoặt quan trọng trong sự hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhiều sự kiện Phật giáo quốc tế đã được tổ chức tại Việt nam, nhiều tông phái và quốc gia Phật giáo vào Việt nam giao lưu tìm hiểu. Phật giáo Việt nam là thành viên trong các tổ chức lớn của Phật giáo thế giới, đó là dấu hiệu tiếng nói của Phật giáo Việt nam ngày càng lớn mạnh và có vị thế đứng trong cộng đồng loài người. Đây là hệ quả tất yếu trong xu hướng phát triển và hội nhập toàn cầu. Thế giới đang luôn mở, nếu một quốc gia nào đó tự khép mình, không hội nhập đồng nghĩa với sự chấp nhận nghèo nàn, lạc hậu cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Phật giáo là một cá thể trong một tập thể xã hội cũng không thể đứng ngoài quy luật toàn cầu hóa.

Hoằng pháp là một nghành trong nhiều lãnh vực của xã hội Phật giáo, tuy nhiên công việc hoằng pháp là công việc hết sức quan trọng, là tiếng nói, là nhân tố, hành động để quyết định sự tồn tại và phát triển của ngôi nhà chung. Chức năng hoằng pháp được vận dụng tối đa thì ảnh hưởng vào xã hội vô cùng phong phú. Lời dạy của đức Phật được lưu truyền rộng rải trên toàn thế giới hiện nay và được tiếp nhận một cách trân trọng từ nhiều thành phần trong xã hội, chính là hành động hoằng pháp thiết thực của hàng Phật tử.

Sự đa dạng và phong phú trong việc hoằng pháp, chúng ta học được khá nhiều từ nơi đức Thế tôn. Đối tượng hoằng pháp không chỉ là con người, đức Phật cũng đã hướng đến các loài chúng sanh khác, từ súc sanh cho đến chư thiên, long thiên và loài người. Ngôn ngữ hoằng pháp của đức Thế tôn không giới hạn một ngôn ngữ chung. Phương pháp hoằng pháp của Ngài không chỉ là lời nói, hành động mà cả sự im lặng cũng là sự giáo hóa. Tâm niệm hoằng pháp là tâm tinh tấn không mệt mỏi. Tình thương được vận dụng hoằng pháp của Như lai là tình thương vô hạn và sức nhẫn nại kiên cố…. Có thể nói rằng, đây là đặc thù hoằng pháp của đức Thế Tôn cách thời đại chúng ta gần 3000 năm. Trải qua thời gian, tùy quốc độ, phương tiện hoằng pháp mỗi nơi mang nhiều cung cách khác nhau, nhưng phải nói rằng những bài học từ đức Thế tôn là những bài học được xem là kim chỉ nam cho mọi thời đại.

II/ Hội nhập và phát triển:

Tưởng cũng nên xác định lại tư tưởng “ truyền thống và phát triển” trong cộng đồng Tăng già trước khi chúng ta bàn về việc “hội nhập và phát triển”. Có rất nhiều ý kiến được bảo lưu từ xưa cho đến hôm nay, những gì cần bỏ, giữ lại bổ sung và những gì cần sáng tạo và phát triển. Đây là, những ý kiến được trăn trở qua mọi thời đại. Điều gì cần bỏ và điều gì cần bổ sung. Chắc chắn rằng, chúng ta chưa có một hội đồng đủ thẩm quyền để thẩm định nghiêm túc và được bàn luận. Có chăng cũng là tùy thuận cá nhân không phải là cộng đồng chấp thuận.

Có rất nhiều truyền thống trong Phật giáo mà nội dung của chúng mang tính bất biến, tùy biến thuộc về hình thức. Điển hình, sự truyền và thọ lãnh giới pháp, nội dung thì bất biến, nhưng hình thức tùy thuộc vào quốc độ. Nội dung truyền thống Phật giáo, chúng ta thử tạm chia thành nhiều cấp độ. Những truyền thống bất biến của Phật giáo chúng ta tạm gọi là truyền thống cấp độ I. Ngoài ra, những truyền thống Phật giáo đã được pha trộn tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa, đây là truyền thống cấp độ II. Truyền thống cấp độ III của Phật giáo là những truyền thống được sáng tạo để phù hợp với trào lưu và xu thế hòa quyện bởi tính đa truyền thống, bên cạnh có những nét truyền thống không có dấu tích trong lời dạy của đức Phật. Và cũng có thể còn nhiều cấp độ khác nữa, nhưng nơi đây chúng ta thử vạch định ba cấp độ trên.

Xét về khía cạnh truyền thống, thì truyền thống cấp độ I và II sẽ được sự quan tâm. Cấp độ I nếu tùy biến thì Phật giáo sẽ không còn là Phật giáo, vì dần sẽ mất đi tính nguyên thủy. Cấp độ II không tùy duyên thì không thể hội nhập, đặt biệt trong xu thế toàn cầu hóa xã hội. Lịch sử cho chúng ta thấy Phật giáo đến đất nước nào cũng nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa bản địa để tồn tại và phát triển. Cấp độ III thì chúng ta phải cân nhắc, sàng lọc để giữ vững tinh thần trong sáng nguyên thủy lời dạy của đức Thế tôn. Phật giáo đã là một tôn giáo của khoa học và là tôn giáo của toàn cầu thì những hình thức phi Phật giáo chúng ta cần nên loại trừ. Văn minh còn có nghĩa là những hành vi phù hợp với thực tế và cuộc sống hiện tại lành mạnh được đông đảo quần chúng cổ vũ.

Một nền văn hóa mà thiếu tính truyền thống thì nền văn hóa đó lai căn, mất gốc và có khả năng sẽ bị tiêu hủy, văn hóa Phật giáo cũng thế. Một nền văn hóa toàn là cổ xưa và cổ hủ thì có văn hóa nhưng thiếu văn minh cũng dễ dàng bị loại trừ và không phù hợp với thời đại.

Hội nhập và phát triển được cụ thể hóa như một hành động của con người đang ở trong ngôi nhà bước ra bên ngoài. Muốn tồn tại trong thế giới luôn biến chuyển thì người đó cần mở cửa và bước ra thế giới. Đóng cửa ở trong nhà thì không thể nói là hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, cách hội nhập và phát triển mang lại hiệu quả thì cần phải cân nhắc và sàng lọc. Đặc biệt, cá thể và tập thể đó phải biết tùy duyên nhi bất biến, tinh thần này là bài học lớn mà đức Thế tôn đã để lại cho chúng ta từ lâu.

III/ Góp ý hành động:

Như trên chúng tôi đã nói, hoằng pháp muốn mang lại hiệu quả thì phải hành động. Trong mấy năm gần đây, ban Hoằng pháp cũng như nhiều ban ngành khác của giáo hội, từ TW xuống tỉnh thành đã có rất nhiều chương trình khả thi, nhưng phần lớn vẫn còn nằm trong những trang giấy, nếu có hành động cũng chỉ là tạm thời, chưa đứng vững, ăn sâu gốc rễ, để đủ sức sinh trưởng hoa lá. Nhiều kỳ hội thảo, được sự quan tâm rộng lớn của Tăng Ni Phật tử, rất nhiều ý tưởng sáng tạo được đề xuất, nhưng cũng còn rất nhiều việc chưa có thể làm được, có thể bị tác động bởi chủ quan và khách quan. Chúng ta cần kiểm định lại và mạnh dạn hành động. Đúng với tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi. Ví như những vấn đề:

- Nhân sự thực hiện:

Con người là yếu tố quan trọng, xây dựng được con người để thực hiện một chương trình cụ thể thì sự thành công đã đến hơn 70%. Ở đây, chúng ta thấy nơi nào thiếu nhân sự thì nơi đó công việc hoằng pháp trở nên yếu kém. Một đoàn Giảng Sư TW cũng đã được thành lập, có vài tỉnh thành cũng đã có đoàn giảng sư. Chức năng của đoàn giảng sư là mang giáo pháp phổ cập vào quần chúng, đem ánh sáng giác ngộ đến với tất cả mọi người. Đặc biệt, là những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, chúng ta thấy các đoàn giảng sư vẫn đang tập trung ở các tỉnh thành lớn và còn trên giấy trắng, các địa phương xa xôi, hẻo lánh vẫn chưa có cơ hội để cung tiếp những đoàn giảng sư đó. Tổ chức đoàn giảng sư vẫn chưa đồng bộ và thiếu sự hỗ trợ của các cấp chức năng. Có người có tâm huyết, nhưng lại thiếu phương tiện, thiếu sự phân phối hợp lý và điều kiện vật lực để họ thực hiện tâm lực. Ban Hoằng Pháp nên chú trọng đến vấn đề đạo tạo con người và đặt biệt là có những chương trình cụ thể dài hạn, ngắn hạn để đáp ứng với nhu cầu thực tế, từng địa phương và từng thời điểm. Cách đào tạo chung chung như hiện nay đã không còn phù hợp, mặc dầu mỗi năm chúng ta có thể đào tạo hàng trăm giảng sư cao cấp và trung cấp đi nữa, vẫn thiếu hụt và vẫn dư thừa.

- Truyền thông đại chúng:

Toàn cầu hóa mang thêm một ý tưởng thế giới này là một, cũng có nghĩa sự giao lưu giữa con người với con người, quốc gia này và quốc gia khác trong sự cộng đồng. Sợi dây để kết nối và truyền đạt với nhau trên toàn cầu hiện nay đã được công nghệ thông tin hỗ trợ rất nhiệt lực. Phật giáo Việt nam sở dĩ ít được biết đến trong tâm khảm của quần chúng Phật tử trên thế giới, chính là thiếu cổng thông tin này. Phật giáo Việt Nam hiện nay chưa có một kênh truyền hình, truyền thanh để giới thiệu Phật giáo ra ngoài thế giới. Ngay trong đất nước cũng chỉ đơn thuần báo giấy và rất ít mạng lưới website. Tuy nhiên, những hoạt động thông tin này nếu có cũng nằm trong phạm vi địa phương và tầng lớp người trên, chưa thật sự phổ cập quần chúng. Chúng ta cần nên khai triển và tận dụng trợ thủ đắc lực này để ánh sáng đạo Phật đi vào tất cả mọi miền đất nước và quần chúng nhân dân. Tiếp đến là thế giới bên ngoài.

- Quốc độ hoằng pháp:

Đã có hơn ba triệu Việt kiều đang sinh sống và học tập, làm việc ở nước ngoài, hầu như nơi đâu cũng có người Việt, và con số này tăng lên mỗi ngày. Nhu cầu tìm hiểu và tu học của kiều bào không thua kém gì Phật tử trong nước. Người dân Việt luôn luôn muốn gìn giữ bản sắc Việt, người Phật tử việt nam cũng luôn muốn tu học theo truyền thống việt nam, mặc dầu trên căn bản Phật giáo dù ở truyền thống và quốc gia nào chăng nữa nội dung vẫn không mấy khác biệt, mang sứ mạng hoằng pháp, chúng ta không thể bỏ lỡ cơ hội này. Đối tượng trao truyền đã có, thì chủ thể trao truyền rất dễ dàng thực hiện. Kiều bào luôn mở rộng tiếp nhận giáo lý Phật đà, thì đó chính là mảnh đất màu mỡ mà người hoằng pháp đã có thuận duyên. Ngoài ra, dù con người ở đâu, quốc tịch đâu chăng nữa thì theo như đức Phật cho rằng tất cả họ đều có Phật tánh. Thế thì, không trao truyền Phật pháp đến cho họ, thì thiếu xót cả về chất và lượng.

Vùng sâu, vùng xa, cao nguyên, hải đảo tại quốc gia cũng là địa điểm mà ban Hoằng pháp cần phải lưu tâm. “Nơi nào cần chúng ta đến, nơi nào không cần chúng ta đi” đây là câu nói của một danh tăng thời hiện đại đã nhắc nhở chúng ta trong công việc hoằng pháp. Nơi đô thị, trung tâm văn hóa, chắc chắn là không thiếu, bởi vì họ có đủ điều kiện để tiếp cận nhiều nguồn thông tin. Do đó, ban Hoằng pháp cũng không phải đầu tư nhiều công sức vào những nơi này.

Để làm được việc này, ban Hoằng pháp phải có chương trình hành động cụ thể, có tuyển chọn, đào tạo, và tổ chức, cũng như tạo một hành lang pháp lý vững chắc, để tài trợ theo bước chân của người dấn thân hoằng pháp. Tự phát theo kiểu cá nhân mỗi chùa, mỗi tăng sĩ vẫn làm được, nhưng chắc chắn rằng kết quả không lớn, bằng sự hợp tác và tổ chức. Chúng ta chưa có những khóa đào tạo những Tăng sĩ hoằng pháp quốc tế, thì làm sao chúng ta hoằng pháp ra thế giới bên ngoài được. Ngay bây giờ chúng ta nên hành động. Hành động chính là tiếng nói thiết thực trong công cuộc hội nhập và phát triển.

IV/ Kết Luận:

Chúng tôi xin được mượn lời văn của Hòa Thượng Thích Chơn Thiện viết trong Tiếng Hót Ca Lăng Tằng Già, về triết lý tùy duyên nhi bất biết của đạo Phật để kết thúc tham luận này: “Đức Phật đã dạy trong kinh tạng Nikaya rằng “Phật đến một hội chúng nào thì ứng xử theo cung cách, ngôn ngữ của hội chúng đó”: Nói chuyện với bác tiều phu, đức Phật dùng ngôn ngữ thường nhật gần gũi với bác tiều phu. Không phải vì thế mà đức Phật đánh mất mình, đánh mất giá trị của mình. Sự thật hệt như một đấng trượng phu: Ứng xử với vợ con thì khác với bàng dân thiên hạ, khác với cung cách mô phạm đứng trên bục giảng, cũng khác với thái độ ứng xử với bạn bè, thượng cấp……”.

 

Thích Huệ Giáo

(Tham luận của Ban Hoằng Pháp tỉnh Khánh Hòa tại Hội thảo và Tập huấn Hoằng pháp viên toàn quốc 2010 tại Kiên Giang)