Đạo Phật và đời sống

image


Phần đông chúng ta khi đứng ở ngoài mà nhìn đạo Phật, nghe nói những danh từ mà không thực hiểu ý nghĩa như xuất gia (bỏ nhà), xuất thế (ra khỏi đời), Niết bàn tịch diệt… rồi nhìn thấy những vị đại diện cho đạo Phật ở thế gian là những vị Tăng, các vị ăn mặc khác với đời, sinh hoạt khác với đời… thì chúng ta dễ hiểu đạo Phật là một cái gì xa cách với đời sống, thậm chí đạo Phật là một cái gì đối lập với đời sống, hủy diệt đời sống.

Đạo Phật có phải là một cái gì xa cách, đối lập và hủy diệt đời sống không?

Sau khi có 60 đệ tử đạt đến trạng thái tịch diệt gọi là Niết bàn, đức Phật cho các ngài đi truyền bá giáo pháp và nói với các vị ấy như sau: “Cũng như Như Lai, các con đã thoát khỏi mọi sự trói buộc dầu ở cảnh người hay cảnh trời. Hãy ra đi, các Tỳ khưu, đem hạnh phúc đến cho nhiều người.

Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngả. Này các Tỳ khưu, hãy hoằng dương chánh pháp, hoàn hảo ở đoạn đầu, hoàn hảo ở chặng giữa, hoàn hảo ở đoạn cuối, hoàn hảo trong cả hai, ý nghĩa và văn tự.

Hãy công bố đời sống thiêng liêng và cao thượng, vừa toàn thiện vừa trong sạch”.

Qua lời nhắn nhủ về việc truyền bá đạo Phật, chúng ta cũng thấy đức Phật dùng những ngôn từ tích cực, “thoát khỏi mọi trói buộc khổ đau” , “đem lại sự tốt đẹp” , “đem hạnh phúc đến”, “lợi ích cho số đông” , “hoàn hảo ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối”, và nhất là “Hãy công bố đời sống thiêng liêng cao thượng, vừa toàn thiện vừa trong sạch”.

Đạo Phât không gì khác hơn là cái đời sống thiêng liêng cao thượng, toàn thiện và trong sạch này. Niết bàn không gì khác hơn là “đời sống thiêng liêng cao thượng, tịch diệt mọi ràng buộc khổ đau” đó.

Bởi thế, chúng ta thấy đức Phật và các đệ tử A La Hán, một khi đã đạt đến Niết bàn, các vị có chết đi mất đâu, mà trái lại, các vị sống, sống toàn hảo, luôn luôn mỉm cười, luôn luôn từ hòa vui vẻ, luôn luôn sống cái đời sống đích thực nhất, tích cực nhất.

Và khi thân xác này rời rã, các vị an vui từ bỏ xác thân, không tùy thuộc vào hình tướng, không tùy thuộc vào sự có mặt hay không có mặt của vũ trụ này.

Còn chúng sinh chúng ta, luôn luôn sống trong lo sầu phiền não, luôn luôn đảo điên khổ sở, luôn luôn chập chờn giữa hy vọng và thất vọng, luôn luôn buồn phiền cho tới chết. Chúng ta không thể lìa bỏ phiền não, lìa bỏ khổ đau, vì phiền não và khổ đau là chính chúng ta; cái mà chúng ta tự gọi là mình, là cái ta, chỉ là một khối khổ uẩn, bỏ nó chúng ta không còn gì để sống.

Chúng ta sợ phải lìa bỏ phiền não và khổ đau, vì phiền não và khổ đau là cái tạo thành chính chúng ta. Bỏ đi cái cuộn chỉ rối rắm không lối thoát ấy, chúng ta không muốn, vì chúng ta sợ mất chính mình.

Đạo Phật kêu gọi sự lìa bỏ phiền não và khổ đau, nghĩa là lìa bỏ ta và cái của ta, để sống đời sống thiêng liêng cao thượng, nên chúng ta sợ đạo Phật, cho nó là yếm thế, chán đời.

Đạo Phật kêu gọi diệt khổ, kêu gọi ta phải lìa bỏ cuộc đời phiền não không xứng đáng ta đang ôm ấp , cho nên để ôm giữ khối khỗ uẩn của mình, chúng ta cho đạo Phật là bi quan, trốn đời.

Nhưng cũng vì sợ phải lìa bỏ phiền não khổ đau đã tạo ra chính chúng ta, bởi thế để duy trì cái ta của mình, mà phiền não tiếp nối phiền não, khổ đau tiếp nối khổ đau, triền miên không dứt.

Giữa hai đời sống, đời sống tạo bởi những mắt xích phiền não không bao giờ toại nguyện nối nhau của chúng ta và đời sống diệt tận gốc khổ đau và phiền não, đời sống thiêng liêng cao thượng của đạo Phật: cái gì cũng tích cực, thuần túy chân thật và cái gì là tiêu cực, giả tạo, chúng ta hẳn phải thấy rõ.

*

Trong thực chất, đạo Phật nhắm đến kinh nghiệm thực sự về đời sống và đạo Phật chính là  kinh nghiệm chân thật về đời sống. Kinh nhiệm  đó có thể là Khổ, Vô thường, Vô ngã và Niết bàn tịch tịnh của Nam tông hay Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Bắc tông.

Cái mà tất cả mọi tông phái Phật giáo dầu ở Nam tông hay Bắc tông nhắm đến là thực tướng của vạn pháp, nghĩa là cái kinh nghiệm thật sự về toàn bộ đời sống.

Đức Phật không nói ngài tạo ra chân lý, mà nói Ngài chứng ngộ chân lý. Nói theo sự diễn tả của ĐĐ Narada Thera trong cuốn Đức Phật và Phật pháp, thì “đạo sĩ Cô Đàm, lúc ấy 35 tuổi, tiêu diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái, và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật”.

Đạo Phật không chống đối với đời sống. Chống đối lại đời sống, chối bỏ đời sống, đó là con đường khổ hạnh mà đức Phật đã từ bỏ trước khi giác ngộ. Đạo Phật “tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái” về một đời sống giả tạo, để cho đời sống chân thực hiện bày.

Chúng ta thấy đời sống chân thực đó giản dị và trang nghiêm biết bao nhiêu, thanh tịnh và an bình biết bao nhiêu, như trong đoạn mở đầu của kinh Kim Cang đã diễn tả.

Chúng ta cũng thấy một khi mọi tham ái ô nhiễm trói buộc đã bị tận diệt, cái thực tướng của vạn pháp, khuôn mặt thực của đời sống hiện ra rực rỡ biết bao nhiêu, như sau khi giác ngộ, trong tuần lễ thứ nhì của 49 ngày sau khi đạt đến Niết bàn, đức Phật đã “đứng một khoảng xa để nhìn cây Bồ đề trọn một tuần không nháy mắt” (Đức Phật và Phật pháp, Chương 4).

Chính nhờ tận diệt mọi nhiễm ô mà các vị Thiền sư đã chứng ngộ được “đời sống thiêng liêng cao thượng, vừa toàn thiện vừa trong sạch”.

Với chúng sinh khô khát trong sa mạc đời, các Ngài chỉ dạy cho cái thấy của các Ngài: toàn pháp giới là nước. Với chúng sinh đói trong cuộc đời không thực phầm cho tâm hồn, các Ngài nói: toàn thể pháp giới đều là cơm. Trong Thiền tông, các Ngài hay dùng từ ngữ “tự thọ dụng”.

Quả  thật, nếu đạo Phật không có “cái đời sống thiêng liêng cao thượng vừa toàn thiện vừa trong sạch” đó, thì khi phủ nhận cái đời sống thường tục giả tạo này, đạo Phật chỉ là một triết lý đoạn diệt. Mà đạo Phật thực sự thì luôn luôn rời bỏ chấp đoạn lẫn chấp thường.

*

Đạo Phật chính là sự sống, sự sống đích thật. Một ví dụ để chúng ta thấy đạo Phật không phải gần với sự đoạn diệt đời sống, gần với cái chết, mà trái lại gần với sự sống hơn, đối với người bình thường đó là công việc thiền định.

Chúng ta đều thấy trong những cấp bậc thiền định, càng đi vào thiền định sâu hơn, người ta càng chứng nghiệm một đời sống bao la rộng rãi hơn, một sự sống sinh động hơn, một sự sống tràn đầy năng lực hơn.

Măc dầu đó chưa phải là cái đời sống thiêng liêng cao thượng là Niết bàn, Niết bàn thì không còn một dụng công tìm kiếm gì vế Giới, Định, Huệ nào nữa cả.

Thế nhưng người bình thường chỉ nhìn thấy người ngồi thiền định lúc đó y như chết, bất động, hầu như không còn thở, cho rằng tu hành là “gần với cái chết”, đâu biết rằng, khi đó, người ấy đang sống mãnh liệt nhất, sung mãn nhất.

Chúng ta có thể nói thêm rằng: Niết bàn không phải là sự tịch diệt đơn thuần, mà trái lại, Niết bàn là trái tim thuần khiết của đời sống, hay nói theo Bắc tông, khuôn mặt thật của đời sống sanh tử khổ đau chính là Niết bàn.

Đến một lúc nào, chúng ta sẽ tự hỏi có thể nào đời sống này nằm ngoài đạo Phật, có thể nào đời sống có thể sống được mà không cần có đạo Phật ?

Và đến một lúc nào, chúng ta hẳn phải tin chắc rằng, nếu không có đạo Phật, thì lấy cái gì cứu vớt đời sống phiền não khổ đau bế tắc này ra khỏi nhiễm ô ràng buộc để trả lại cho đời sống cái nguyên trạng của nó, với tất cả sự thuần khiết, rực rỡ, trang nghiêm và trong suốt vốn là của nó?

Uống một tách trà, để thưởng thức được hương vị của nó, chúng ta cũng cần có một ít giới nào đó, một ít định nào đó. Không ai có thể thưởng thức một tách trà khi vừa ăn phở vừa nói chuyện tầm phào, hay bụng đã no vì một thức uống khác và đầu óc thì đang loạn xạ.

Quả thật, phải có một ít “điều thân”, một ít “điều tâm” nào đó để thực sự thưởng thức chỉ một tách trà. Một nhà nghệ sĩ, có thể trong đời sống thường nhật rất phóng tứng, nhưng khi sáng tác, cầm cây bút vẽ, cầm cây viết, người ấy không thể không ở trong một trạng thái giới định huệ nào đó.

Một nhà khoa học, không có giới định huệ, không thể nào phát minh được gì cả. Mặc dầu những giới định huệ này chỉ là những giới định huệ hạn hẹp, nông cạn mà đạo Phật gọi là giới định huệ thế gian.

Nhìn trong mọi mặt của đời sống, chúng ta thấy những nguyên lý của đạo Phật chính là những nguyên lý của đời sống.

Ví dụ năm 1995, năm Đại hội đồng Liên hiệp quốc kêu gọi là năm của lòng Khoan dung. Khoan dung là một yếu tố nằm trong  Bốn vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả của Phật giáo và đã được một phần lớn Phật tử sống theo từ hơn 2500 năm nay.

Thế mà trên con đường đi của nhân loại cái nguyên lý “Hận thù không thể xóa bỏ hận thù, chỉ có tình thương mới chấm dứt hận thù” nhân loại vẫn còn phải học, vẫn phải mãi mãi hướng theo để sống cho ra con người.

Tất cả những sự tiến bộ mà con người có  được đều dựa trên nguyên lý Phật giáo. Chúng ta có thể nói rằng đạo Phật là khoa học về đời sống hạnh phúc, đời sống an lạc. Đạo Phật là khoa học làm cho con người có bản chất người hơn, nhân bản hơn, nghĩa là an vui hơn và làm cho con người toàn diện hơn và hoàn thiện hơn, nghĩa là hết phiền não và hạnh phúc hơn.

Cho nên người thành thực nghiêm túc ắt phải tự hỏi không có đạo Phật làm sao có thể sống cho ra một con người với tất cả ý nghĩa phong phú của nó.

Ấy là chưa nói đến “cái đời sống thiêng liêng cao thượng, toàn thiện và trong sạch” chính là cái định mệnh tất yếu mà mỗi người phải thực hiện, nếu không muốn mãi mãi làm bạn với bất toại nguyện, phiền não, khổ đau, hoại diệt và hèn kém. Người ấy ắt có thể mường tượng được điều mà đạo Phật khẳng định: Đời sống chỉ đáng sống khi nằm trong giới- định – huệ, đời sống chân thực viên mãn, hạnh phúc viên mãn chỉ có thể đạt được trong sự tròn đủ của Giới Định Huệ và sự thành tựu tròn đủ Giới Định Huệ chính là đời sống đó.

*

Đạo Phật không chống đối lại cuộc đời, không lật đổ đời sống, mà trái lại, đạo Phật “dựng đứng lại” cuộc đời bị ngã đổ, làm “chánh” lại cuộc đời bị vặn xoắn cong queo bởi phiền não, nhiễm ô.

Chữ “Chính” này nằm trong cụm từ Bát chính đạo. Tám con đường (bát đạo) này bao gồm toàn bộ đời sống và Tám chánh đạo có nghĩa là làm chánh lại toàn bộ đời sống.

Sự  soi sáng cho thế giới tối tăm, sự dựng đứng lại cho đời sống bị ngã đổ là ý nghĩa chữ Pháp trong Tam Bảo : Phật Pháp Tăng. “Pháp”  mang một tầm vóc vũ trụ (pháp giới), bao trùm cả ba cõi.

Pháp là những nguyên lý của  đời sống vũ trụ và là ý nghĩa của toàn bộ đời sống. Khi dùng chữ Pháp để chỉ tất cả những giáo lý của mình, đạo Phật không tự giới hạn mình như một triết lý, một tôn giáo, một đường lối thực hành tâm linh, mà đạo Phật chính là đời sống đích thực của toàn bộ ba cõi.

Không có sự soi sáng của Pháp, không có sự  dựng đứng lại của Pháp thì tất cả đời sống nằm trong tối tăm, ngã đổ, đảo điên và “rối như một cuộn chỉ”.

Có thể nói Pháp của  đạo Phật là ánh sáng đem lại sự sáng tỏ  cho đời sống, là sự sống thật của chính đời sống. Không có đạo Phật thì thế giới sẽ ngả nghiêng không có xương sống, không có đạo Phật thì cũng không có ý nghĩa của thế giới, vì đời sống vẫn nẳm trong bóng tối của vô minh.

Cho nên có thể kết luận, đạo Phật không chối bỏ, không từ bỏ đời sống. Trái lại, một nguyện vọng sâu xa nhất của đạo Phật là vĩnh viễn thường trụ ở đời, không phải cho chính mình, mà đem lại ánh sáng, ý nghĩa và sự sống chân thật cho chính cuộc đời.

Và chúng ta hãy lập lại một lần nữa lời dặn dò của đức Phật, lời dặn dò không chỉ có ý nghĩa với riêng một thời đại nào, mà có ý nghĩa vĩnh viễn ngày nào còn có chúng sanh và thế giới, lời dặn dò phải được lập đi lập lại mãi suốt mọi thời gian, suốt mọi chu kỳ lịch sử:

Hãy ra đi, các Tỳ khưu, đem lại sự tốt đẹp cho mọi người, đem hạnh phúc đền cho mọi người. Vì lòng từ bi, hãy dem lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngả.

Này các Tỳ khưu, ãy hoằng dương giáo pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở chặng giữa, toàn hảo ở đoạn cuối, toàn hảo trong cả hai, ý nghĩa và văn tự.

Hãy công bố đời sống thiêng liêng cao thượng, vừa toàn thiện cừa trong sạch. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp siêu việt.

Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được như vậy, là các con đã hoàn thành nhiệm vụ”.

 

Nguyễn Thế Đăng

Theo: Tuần báo Giác Ngộ