GIÁO LÝ KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ VÀ NIỀM AN TRÚ HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

 

DẪN NHẬP

1.  Ý Nghĩa Và Lý Do Chọn Đề Tài:

Từ xưa đến nay, khi nhận thức của nhân loại phát triển thì những vấn đề lớn của con người được đặt ra. Sống trong kiếp người với bao ưu phiền, khổ lụy, người ta luôn khao khát tìm ra một lẽ sống thích hợp để được an vui, hạnh phúc hơn. Rất nhiều nhà tư tưởng, trí thức của xã hội đã đưa ra những học thuyết, lý luận, cách sống tiến bộ, khoa học nhằm giúp ích cho con người. Tuy nhiên những học thuyết, lý lẽ ấy đều chưa thể đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của nhân loại, do còn bị hạn chế bởi tri giác hữu ngã, thiên kiến và còn bị bó buộc trong những khung mốc thời gian, không gian nhất định.

May mắn thay, Đức Phật đã xuất hiện ra nơi đời, Ngài đã xuất gia tu  hành, thành đạo và đã chuyển vận bánh xe Pháp nơi trần thế. Với bài Pháp đầu tiên Đức Phật đã trình bày về bốn chân lý cao thượng hay còn gọi là Tứ Thánh Đế bao gồm: Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế và Đạo Thánh Đế. Bốn chân lý này đã chỉ rõ thực trạng khổ đau hiện hữu nơi thế gian này, nguyên nhân của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ và con đường tu tập để được hết khổ. Giáo lý của Tứ Thánh Đế được xem là giáo lý căn bản, là khởi điểm, là khuôn khổ luân lý của Phật giáo vì được chính Đức Thế Tôn chứng nghiệm, tuyên thuyết sau khi đắc đạo, và suốt trong bốn mươi lăm năm còn lại, bước chân du hoá của Đấng Từ Tôn đã rãi khắp mọi miền cũng là để chỉ ra cho mọi người thấy rõ khổ và con đường thoát khổ.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, chư vị Tổ sư truyền thừa tuy có nhiều điểm sai biệt nhau về nhận thức và quan điểm tu tập, nhưng ai ai cũng công nhận rằng giáo lý Tứ Thánh Đế là cốt tuỷ, là nền tảng của Đạo Phật.

Thế nhưng, vì ngay chân lý đầu tiên, Đức Phật đã đề cập đến khổ đế, xem khổ đau như là sự kiện hiển nhiên luôn luôn hiện hữu trong mọi kiếp sinh tồn, điều nay dễ làm cho nhiều người lầm tưởng Đạo Phật là đạo tiêu cực, bi quan, chán đời. Tuy nhiên, Đức Phật không chỉ dừng lại ở đấy, mà Ngài còn chỉ ra nguyên nhân và phương pháp tu tập để vượt lên trên mọi khổ đau, đạt đến cảnh giới giải thoát, Niết Bàn tức là Diệt Đế. Với tâm nguyện tự độ, độ tha, cần cầu tu học, người viết rất thao thức mong được tìm hiểu và thấm nhuần trong tinh thần an vui, giải thoát của Đạo Phật, ngõ hầu làm hành trang cho mình trên bước đường "Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa lợi ích chúng sanh", do vậy người viết chọn đề tài này để nghiên cứu.

2. Phạm Vi Đề Tài:

Khi nói đến an vui giải thoát, tức là sự từ bỏ mọi tham ái, đắm nhiễm, dục vọng, đó là trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, tức là Diệt Đế, Niết Bàn. Thế nhưng Niết Bàn phải được đạt đến bằng sự tu tập, thể nghiệm, chứ không thể dùng ngôn từ, tư duy, phán đoán mà có thể hiểu được. Hơn nữa, giáo lý Diệt Đế thì rất sâu rộng, đây là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong hầu hết những lời dạy của Đức Phật, lại là cảnh giới thân chứng, thâm diệu vô cùng nên không thể nào sử dụng ngôn từ hữu hạn mà có thể diễn tả được hết ý nghĩa của cái khôn cùng, cho nên trong phạm vi bài viết này người viết chỉ tập trung tìm hiểu những nét đặc trưng của chân lý Diệt Thánh Đế và tính chất thiết thực của nguồn giáo lý ấy trong đời sống tu tập tâm linh.

3. Phương Pháp Nghiên Cứu:

Chân lý về con đường Diệt Khổ - Diệt Thánh Đế đã được xây dựng trên cơ sở suy ly ù: đau khổ có ra là do tham ái, thế nên hễ hết tham ái thì tất yếu đau khổ cũng không còn. Để hiểu rõ thêm  về những điểm trọng yếu của vấn đề, con đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để nghiên cứu và trình bày trong tập luận văn này.

4. Cơ Sở Tài Liệu:

Để tìm hiểu và hoàn thành Tập Luận Văn này, con đã dựa trên các tài liệu chủ yếu như sau:

- Kinh Trung Bộ, quyển III, bản dịch của HT. Thích Minh Châu.

- Thuyết Bốn Đế của Giáo sư Minh Chi

- Giáo trình giảng dạy của Giáo sư bộ môn, cùng những tài liệu khác nằm rãi rác trong các kinh, sách báo, các bài giảng thuyết.

Mặc dù đây chỉ  là một bài Luận Văn Tốt Nghiệp, nhưng dẫu sao cũng nói lên thành quả tu học trong những năm qua, vì thế trước khi đi vào nội dung chính của bài con xin thành kính đảnh lễ tri ân Hoà Thượng Viện trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, Hội Đồng Điều Hành Học Viện, chư vị Giáo sư và đặc biệt là Giáo sư hướng dẫn bộ môn này,  người đã tận tình giảng dạy và cung cấp những kiến thức cần thiết để con có thể hoàn thành Tập Luận Văn này.

Với kiến thức còn hạn hẹp, lại là lần đầu tiên thực tập nghiên cứu, nên dù đã cố gắng hết sức, con vẫn không sao tránh khỏi những thiếu sót, ngưỡng mong chư Tôn Đức, chư Giáo sư, chư Pháp hữu hoan hỷ chỉ giáo.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 :  KHÁI QUÁT VỀ TỨ THÁNH ĐẾ

1.1 Nhân duyên Phật nói pháp Tứ Đế:

Sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn suy nghĩ đến giáo lý mà Ngài chứng ngộ được thật cao siêu, thâm diệu, mà chúng sanh thì lại chìm đắm trong ngũ dục, thích thú dục lạc, rất khó khai ngộ, do vậy Ngài cảm thấy do dự, không muốn thuyết Pháp và định nhập Niết Bàn. Phạm thiên Sahampati, lúc bấy giờ đọc được tư tưởng của Thế Tôn, sợ rằng chúng sanh sẽ càng thêm đoạ lạc, nếu không nghe được chánh Pháp, bèn đến cung thỉnh Ngài hãy thương tưởng đến muôn loài mà ở lại nơi đời để thuyết pháp giáo hoá.

Khi vị phạm thiên cung thỉnh đến lần thứ ba, Đức Thế Tôn liền dùng huệ nhãn quán sát thế gian. Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tính khác nhau, cũng ví như trong một hồ sen có nhiều loại, có loại sống dưới nước, có loài sống ngang mặt nước, có loài vươn lên khỏi mặt nước không bị bùn nhơ làm ô nhiễm. Cũng vậy, trong thế gian có hạng chúng sanh có nhiều thiện tâm, có thể lãnh hội được chân lý. Nghĩ như thế, Ngài bèn quyết định truyền bá giáo pháp, cứu độ quần sanh.

Trước khi lên đường du hoá, Đức Thế Tôn quan sát: "Ai là người sẽ lãnh hội mau chóng giáo pháp ?". Ban đầu Ngài nghĩ đến hai vị thầy cũ của mình là Alarakamala và Uddaka, nhưng cả hai vị này đều đã qua đời. Sau đó, ngài nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia, hiện đang ở vừơn nai, thuộc xứ Isipatana, gần thành Banares và Ngài khởi hành đến đó.

Tại đây, với bài pháp đầu tiên, Đức Phật khuyên các vị tu sĩ hãy tránh xa hai cực đoan là tham đắm dục lạc và khổ hạnh ép xác. Vì cả hai lối tu này đều đưa đến khổ đau, không lợi ích. Rồi Ngài giảng về bốn chân lý cao thượng, hay còn gọi là bốn sự thật chân chánh, hay Tứ Thánh Đế, bao gồm: Khổ, Tập, Diệt. Đạo.

1.2. Sơ lược nội dung Tứ Thánh Đế :

1.2.1. Khổ Thánh Đế :

Khổ Đế hay còn gọi là Khổ Thánh Đế, là một sự kiện hiển nhiên, phổ biến trong cuộc đời. Gọi là Khổ Thánh Đế vì sự thật này được chứng nghiệm bởi chính trí tuệ của Đức Phật.

Đức phật khẳng định khổ là một thực trạng bi đát mà con người không sao tránh khỏi được, dù là kẻ khôn ngoan trí thức hay kẻ hèn hạ khó nghèo. Kinh Trung Bộ III Đức Phật dạy: "Thế nào là khổ thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, uư, não là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ" (Đế Phân Biệt Tâm Kinh) [2, 470]

Ngoài ra, Khổ Thánh Đế còn được hiểu là trạng thái bức bách, dao động, phiền não, bất an về các mặt như : vật lý, tâm lý và triết lý.

Khổ về vật chất : chính là sự đau đớn khó chịu và thiếu thốn của thân xác. Như khổ sanh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết.

Khổ về tinh thần :là sự không thoả mãn những mong muốn, là sự thất vọng về những điều trái ngược nhau giữa những ảo giác và thực tại cuộc sống.. như thương yêu mà phải xa lìa, người mình không ưa mà phải gặp gỡ, điều mình mong cầu mà không đạt được.

Khổ về vấn đề triết lý: là do sự chấp thủ 5 uẩn. Trong Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật dạy :

"Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Thảy đều y như nhau

Thảy đều là vô ngã

Thảy đều chịu khổ đau.

(Bản dịch của Ni Trưởng Huỳnh Liên)

Qua lời dạy này, chúng ta thấy tất cả các pháp là vô thường, vô ngã, nhưng vì chúng sanh mê muội, tham đắm, chấp thủ năm uẩn nên  sanh ra đau khổ. Đây là hình thức trọng yếu nhất của sự khổ.

1.2.2. Tập Thánh Đế :

Tập là chứa nhóm, tích tụ, chiêu cảm. Tập đế chính là những nguyên nhân hiển nhiên hội tụ tạo thành năng lực đưa đến những nỗi thống khổ của chúng sanh. Các nguyên nhân này chính là những phiền não, lậu hoặc đã được tích trữ trong nhiều kiếp sống, nó luôn luôn thúc bách sai sử, khiến cho chúng sanh phải trôi lăn thống khổ trong các nẻo luân hồi.

Nguyên nhân của khổ đau rất nhiều, nhưng gần gũi và dễ thấy nhất chính là tham ái. Tham ái được dịch từ phạn ngữ Tanhà, là chỉ cho trạng thái khát khao, ước muốn, dục vọng, đam mê… tham ái cũng chính là một năng lực tinh thần rất mạnh mẽ, nó có khả năng tạo nên đời sống và hình thành thân sau.

Khi tham ái phát sanh thì con người dễ trở thành nô lệ cho nhục dục, cho cảm thọ, và cho những đam mê của chính mình. Chính tham ái này chi phối mọi tâm lý, hành động của chúng sanh ; do tham ái nên muốn thu gom về cho bản ngã tất cả  những thứ vừa ý, từ đó tâm chấp thủ khởi lên, và do tâm ái thủ quá mạnh nên đôi khi chúng ta cũng biết rằng bản chất của cuộc sống vốn vô thường, biến đổi nhưng chúng ta vẫn thích bám víu, giữ gìn những sắc thái và hiện trạng của đời sống, chứ ít khi chịu chấp sự thật như chúng đang hiện hữu. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của đau khổ chính là vô minh, thiếu trí tuệ. Vì vô minh nên không thấy rõ bản chất  của tất cả mọi sự vật một cách sáng suốt, từ đó mới khởi tâm tham ái.

Thế nên muốn thoát khỏi khổ đau, phải vận dụng trí tuệ quán sát các pháp đúng như thật, để phá dần ý niệm tham muốn, chấp thủ, viễn ly các khổ ách của đời sống.

1.2.3. Diệt Thánh Đế :

Diệt Đế hay Diệt Thánh Đế là sự chấm dứt phiền não, khổ đau hay những nguyên nhân dẫn đến khổ đau, tức ái diệt, đó là trạng thái an lạc, tịch tĩnh của tâm hồn. Khi tham ái được dập tắt thì sự chấp thủ cũng không còn, dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não … cũng diệt và vô minh, hành, thức… đều diệt, tức không còn chịu sự thống khổ nữa, tâm được thanh thản nhẹ nhàng, giải thoát hay còn gọi Niết bàn. Nhưng Niết bàn là phải do tự thân tu tập, chứng nghiệm chứ không thể dựa vào ngôn từ hay hình ảnh mà biết được. Vì thế, khi nói đến Niết bàn các kinh điển thường sử dụng những từ ngữ có tính chất phủ định như vô vi, tịch tĩnh, ái diệt, khổ diệt, giải thoát … nhằm nói lên trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn do từ bỏ mọi đam mê dục vọng.

1.4. Đạo Thánh Đế :

Đạo đế hay đạo thánh đế là con đường dẫn đến sự diệt khổ. Vậy tất cả những pháp môn tu tập đưa đến diệt khổ đều là đạo đế. Đạo đế nói cho đủ thì gồm có 37 phẩm trợ đạo, nói gọn lại thì đó là Bát Thánh Đạo hay còn gọi là Bát Chánh Đạo. Đây là tám phương pháp tu tập mầu nhiệm để giúp con người diệt trừ tất cả các lậu hoặc, nghiệp chướng, khổ đau. Bát Thánh Đạo chính là :

1.4.1 Chánh Kiến : Là sự nhận thức đúng đắn, chân chánh, phù hợp với chân lý, nhận thức rõ về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến sự diệt khổ.

1.4.2. Chánh Tư Duy : Là sự suy nghĩ, suy xét mọi vấn đề một cách đúng đắn. Chánh tư duy là không suy nghĩ đến những điều tà vạy, mà chỉ hướng đến những thiện pháp như ly dục, vô sân, bất hại …

1.4.3. Chánh Ngữ : Là lời nói chân thật, đúng đắn, đưa đến lợi ích, an lạc và hạnh phúc cho người nghe. Chánh ngữ là không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói thô tục, không nói phù phiếm.

1.4.4. Chánh Nghiệp : Là hành vi đúng đắn nhờ có sự nhận thức và suy nghĩ đúng đắn. Chánh nghiệp thuộc về thân nghiệp như : không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm …

1.4.5. Chánh Mạng : Là nuôi dưỡng mạng sống bằng những phương tiện chân chánh, lương thiện, không sống bằng những nghề phi pháp bất chánh, lừa đảo, dối trá, gây hại cho người khác.

1.4.6. Chánh Tinh Tấn : Là sự chuyên cần không thối chuyển để thành tựu các thiện pháp. Chánh tinh tấn giúp cho người tu tập luôn luôn cố gắng thực hành những điều thiện, nổ lực đoạn trừ các điều ác, giữ gìn thân, khẩu, ý trong sạch.

1.4.7. Chánh Niệm : Là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nhớ nghĩ đến mục đích tu tập của mình, nghĩ đến sự vô thường, vô ngã của thân, tâm và các pháp. Người có chánh niệm  tâm luôn được an tịnh, sáng suốt, không bị trần cảnh chi phối.

1.4.8. Chánh Định : Là sự tập trung tư tưởng đúng đắn, không để tâm tán loạn, luôn an trú tâm trong thiền định. Nhờ đó mà tâm của người có chánh định dần dần được thuần tịnh, trong sáng, tuệ giác hiển lộ. Khi đã có tuệ giác, hành giả thấy rõ được thật tướng của các pháp, không còn mê vọng tạo nghiệp, thoát ly sanh tử khổ đau.

Như vậy, Bát Thánh Đạo là con đường tu tập chánh đáng, có khả năng đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh một cách hữu hiệu. Đây cũng là con đường phát triển Tam Vô Lậu (Giới-Định-Tuệ). Nhưng ở đây nhân tố Tuệ được đặt lên trên tất cả. Tuệ gồm chánh kiến, chánh tư duy; Giới gồm chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; Định gồm chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Sở dĩ Tuệ được đề cập trước tiên vì trí tuệ là yếu tố căn bản, là sự nghiệp chính đáng của người tu tập "Duy tuệ thị nghiệp" để đoạn trừ vô minh, thoát ly các khổ ách. Ơũ đây, mặc dầu Bát Thánh Đạo có sự phân chia thành tám chi phần hay ba vô lậu nhưng tất cả không tách rời nhau, mà luôn có sự quan hệ chặt chẽ  và hỗ trợ cho nhau trên tiến trình tu tập của hành giả. Qua đó giúp cho người tu tập có được sự an vui, giải thoát ngay trong đời sống hiện tại.

1.3. Truyền thống chuyển bánh xe pháp của chư Phật :

Mục đích ra đời của chư Phật là vì lợi ích, an vui cho chúng sanh, vì muốn cho chúng sanh thoát khỏi mọi mê lầm, đạt được trí tuệ giác ngộ viên mãn. Mỗi vị Phật đều có những phương tiện thiện xảo riêng biệt trên bước đường hoá độ nhưng đều nhằm vào mục đích làm cho chúng sanh khai tâm mở trí, có sự nhận thức đúng đắn về thân mình, cũng như mọi hiện tượng xung quanh để từ đó xác định cho mình một thái độ sống sao cho phù hợp, tích cực, ngõ hầu có thể "ly khổ đắc lạc", đạt được giác ngộ giải thoát. Chính vì thế, chuyển bánh xe pháp sau khi thành đạo là việc làm thiết yếu, là truyền thống quý báu, là hạnh nguyện cao cả của chư Phật. Chư Phật quá khứ đã làm như vậy, chư Phật hiện tại đang làm như vậy và chư Phật vị lại cũng sẽ làm như vậy.

Đức Thích Ca Mâu Ni cũng vì một đại nguyện mà sanh vào cõi Ta Bà ngũ trược này để cứu khổ chúng sanh. Ngài đã vạch ra một lối đi đúng đắn, thánh thiện để cho chúng sanh biết nẻo quay về, cải hoá tự tâm, tìm lại chân như thanh tịnh của chính mình. Ngài đã nối tiếp truyền thống quý báu của chư phật, đã chuyển pháp luân nơi trần gian này với bài pháp đầu tiên đó là Tứ Đế.

Tứ đế là giáo lý truyền thống mà ba đời chư Phật sau khi thành đạo đều thuyết giảng như là bài pháp đầu tiên, điều này đã được ghi rõ trong kinh Pháp Hoa :

"Như các Phật đã nói

Suy nghĩ việc đó rồi

Liền đến thành Ba Nại

Các tướng pháp tịch diệt

Bèn dùng sức phương tiện

Vì năm Tỳ kheo nói

Đó gọi chuyển pháp luân

Bèn có tiếng Niết bàn"

(Phẩm Phương Tiện)  [13, 86]

1.3.1. Tứ Đế là giáo lý căn bản đi đến quả vị Phật :

Giáo lý Tứ Đế là nền tảng của toàn bộ hệ thống giáo lý Đạo phật. Bốn chân lý này đã được tự thân Đức  phật chứng nghiệm và truyền dạy lại. Có thể nói Tứ Đế không chỉ là bài pháp đầu tiên mà đây là tư tưởng chính yếu, xuyên suốt trong 45 năm hoằng hoá độ sanh của Đức Phật, và chính Ngài đã lặp lại rất nhiều lần trong các tạng kinh Nikaya và Ahàm rằng : "Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ"  [11, 274]

Đức Phật đã vận dụng lý Nhân quả- bao gồm thế gian và xuất thế gian- để phân tích cuộc sống, khổ não là quả sinh ra từ nhân tham ái, chấp thủ, vô minh. Niết bàn là quả sinh ra từ nhân Bát Chánh Đạo. Bát chánh đạo là tám nguyên tắc sống chân chánh, đem lại an vui và hạnh phúc cho con người. Tám điều kiện này giúp cho cuộc sống của mỗi con người ngày càng trở nên trong sạch và lành mạnh, có công năng hỗ trợ con người từ bỏ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, có thể giải thoát khỏi các triền phược, nhiễm ô, xa lìa các dục. Trong Bát Chánh Đạo chánh tri kiến vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm then chốt nhất. Chánh tri kiến là sự nhận thức đúng đắn, là trí tuệ. Nhờ có trí tuệ, con người mới có thể phân biệt được đâu là thiện pháp, đâu là ác pháp. Nhờ có trí tuệ mới đoạn trừ được các ác pháp, các lậu hoặc, các kiết sử … và quan trọng hơn hết là nhờ có trí tuệ mới có thể tuệ tri được về Khổ-Tập-Diệt-Đạo một cách đúng đắn.

Ngoài ra, Bát Chánh Đạo còn có mối liên hệ mật thiết với ba môn học thù thắng của Đạo Phật, đó là Giới-Định-Tuệ. Ba môn học này là ba yếu tố chính giúp cho hành giả đoạn trừ phiền não, lậu hoặc, tâm được an nhiên tự tại đi vào Thánh Đạo với các quả vị tương ứng.

Hơn nữa, trong Tương Ưng Bộ Kinh V, Đức Phật cũng có dạy rằng :

"Cho đến khi nào, này các Tỳ kheo ! trong bốn Thánh Đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỳ kheo, cho đến khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài người, Ta không chứng tri đã thành vô thượng chánh đẳng chánh giác". (Phẩm Chuyển Pháp Luân)  [5, 613]

Như vậy, Tứ Thánh Đế là pháp môn căn bản mà Đức Phật đã từng tu tập và chứng ngộ; Chư vị Thánh đệ tử và các vị Tổ sư từ xưa đến nay  cũng đã từng nương theo pháp này mà tu tập và chứng đắc đạo quả. Do vậy, bốn chân lý cao thượng này được xem là bốn chân lý tu tập căn bản để tiến đến quả vị Phật.

1.3.2. Tứ Đế là phương pháp diệt trừ đau khổ đưa đến an lạc :

Đức Phật đã xây dựng giáo lý Tứ Đế trên nguyên lý thực nghiệm và trị liệu để trị tâm bệnh cho chúng sanh. Trước hết Ngài chỉ ra cho mọi người thấy rõ căn bệnh của mình(Khổ), nguyên nhân đưa đến căn bệnh ấy (Tập), sau đó Ngài diễn tả trạng thái khoẻ mạnh, hết bệnh (Diệt) và cách thức trị bệnh (Đạo).

Khổ là một thực trạng hiển nhiên bao trùm lên tất cả mọi số phận, mọi chúng sanh từ vua quan cho đến thường dân, từ người giàu có sang trọng cho đến kẻ nghèo hèn, từ người khôn ngoan lanh lợi cho đến kẻ đần độn … đều có những nỗi khổ riêng. Khổ vốn đã là căn bệnh trầm kha mà không ai có thể tránh khỏi, tuy nhiên mức độ còn tuỳ thuộc vào tâm lý, thái độ, cách tiếp nhận cuộc sống của riêng mỗi người.  Cuộc sống luôn luôn biến thiên, thay đổi, vô thường. Con người đã sanh ra thì phải lớn lên, nên quá trỉnh sanh già bệnh chết là một lẽ tất yếu. Đó là định luật tất nhiên mà mọi sự vật hiện tượng cho đến con người đều không tránh khỏi. Thế nhưng, do bởi tâm lý luyến ái, thích đeo bám vào những thứ mình vừa lòng thoả ý, không chịu chấp nhận sự thật, nên con người cảm thấy khổ đau.

Như vậy, nguyên nhân gây ra sự đau khổ là do sự thiếu hiểu biết, dẫn đến tham ái và chấp thủ. Khi tham ái và thủ không được thoả mãn -bởi cuộc sống vốn dĩ vô thường - thì con người càng khao khát về nó, từ đó càng lún sâu vào khổ luỵ.

Niết bàn là cảnh giới an vui, tịch tĩnh, vắng bặt mọi khổ đau, không còn bị phiền não, tham, sân, si chi phối. Đây là một cảnh giới thực tại, vượt khỏi mọi tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ, chỉ có ai tu tập thực nghiệm mới hiểu được, như người uống nước nóng hay lạnh thì chỉ người ấy mới có thể tự cảm nhận. Để đạt được cảnh giới niết bàn chỉ có một con đường duy nhất, đó là tu tập Đạo đế, mà căn bản là thực hành Bát Chánh Đạo. Đây là tám cửa ngõ để dẫn dắt chúng sanh từ địa vị phàm phu tiến lên bậc thánh, là tám yếu tố căn bản giúp cho mọi người thanh lọc tâm tư và hành động ngày càng trở nên lành mạnh, giản dị, hướng thượng và đầy đủ trí tuệ, để từ đó kiến tạo cho mình một đời sống an vui, hạnh phúc ngay tại thế gian này.

Đức Phật là Bậc Đại Y Vương đã biết rõ chứng bệnh khổ đau của chúng sanh và đưa ra phương thuốc điều trị hữu hiệu, vấn đề còn lại là tự thân mỗi người có chịu uống thuốc để được lành bệnh hay không. Mỗi người đã thấy được nỗi khổ đau của đời mình chính là do vô minh, tham ái, chấp thủ gây ra thì cần phải tinh tấn tu tập. Theo Bát Thánh Đạo, chúng ta phải tích cực bồi dưỡng trí tuệ giải thoát của mình ngày càng sâu dày, để không còn bị bóng tối của vô minh che lấp. Chúng ta lại càng biết rằng tâm lý ái thủ không phải tự nhiên mà có, lại càng không phải là bản chất của con người, mà nó chính là kết quả của một chuỗi vận hành tương tục (Vô minh- hành- thức- danh- sắc- lục nhập- xúc- thọ- ái … ). Vì thế, khi vô minh hết, thì ái thủ cũng không còn và những nỗi khổ đau của con người cũng được giải phóng. Đến lúc này đời sống của con người  sẽ trở nên hài hoà, yên tĩnh và tràn đầy hạnh phúc.

 

CHƯƠNG 2 :

KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ, Ý PHÁP CĂN BẢN TRUYỀN THỐNG

 

2.1. Khổ Diệt Thánh Đế qua các kinh :

2.1.1. Tạng Nikaya (pali) :

-Kinh Trung Bộ III, Đức Phật dạy rằng :

"Này chư Hiền, và thế nào là Khổ Diệt Thánh Đế ?

Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (Tham ái) ấy.

Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ Diệt Thánh Đế"

(Bài Đế Phân Biệt Tâm Kinh) [2, 473]

- Kinh Tương Ưng Bộ,tập V, có ghi lại :

" Và này các Tỳ kheo, thế nào Thánh Đế Khổ Diệt? Chính là sự đoạn tận, ly tham, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước. Này các Tỳ kheo, đây gọi là Thánh Đế về Khổ Diệt"

(Phẩm Kinh Chuyển Pháp Luân)  [5, 617 ]

Qua hai bài kinh trên, chúng ta thấy Đức Phật đã nói rõ về Khổ Diệt Thánh Đế chính là trạng thái thanh tịnh, vắng bặt mọi phiền não khổ đau do đã diệt trừ được mọi tham ái, bám víu vào các dục. Đây chính là kết quả tất yếu , là mục đích cứu cánh của sự tu tập. Cho dù Đức Phật có nói ra hay không nói thì chân lý vẫn tồn tại cùng khắp, ngoài sự thấy biết vọng kiến của con người. Đây chính là biểu hiện của một đời sống an vui, giải thoát ngay tại thế gian này.

2.1.2 Tạng Ahàm (Sanskrit) :

- Kinh Trung Ahàm, tập I :

"Này chư Hiền, thế nào là ái diệt, Khổ Diệt Thánh Đế? Nghĩa là chúng sanh quả thật có tham ái sáu xứ bên trong, nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ, chúng sanh ấy nếu giải thoát. Không nhiễm, không trước, đoạn bỏ hoàn toàn, không còn dục, diệt tận, tịch tĩnh, đó gọi là khổ diệt"

(Bài Kinh Phân Biệt Thánh Đế)  [4, 388 ]

- Kinh Tạp Ahàm, quyển VII :

"Lúc bấy giờ, Phật dạy các Tỳ kheo: có hai cảnh giới Niết bàn : Cảnh giới Hữu Dư Niết Bàn và cảnh giới Vô Dư Niết Bàn. Thế nào là cảnh giới Hữu Dư Niết Bàn? Vị Tỳ kheo diệt năm kiết sử hạ phần, không trở lại đời này nữa, đó gọi là Hữu Dư Niết Bàn. Và thế nào là cảnh giới Vô Dư Niết Bàn? Vị tỳ kheo đoạn tận phiền não, trở thành vô lậu, cuối cùng được giải thoát, trí tuệ được giải thoát, tự thân chứng ngộ, tự do tự tại, sanh tử đã tận, phạm hạnh đã thành, không còn thọ sanh nữa, biết thực như vậy, đó là Vô Dư Niết Bàn"

(Đại Chính 579)  [3, 68 ]

2.1.3. Tạng kinh Đại thừa phát triển (Hán tạng) :

- Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tập II , Đức Phật dạy về Diệt Đế như sau : "Này thiện nam tử, thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Niết Bàn thấy Diệt cùng thấy Diệt Đế? Chính là dứt trừ tất cả phiền não đã dứt thời gọi là thường. Dứt lửa phiền não thời gọi là tịch diệt. Vì phiền não diệt nên đặng thọ hưởng chơn lạc. Chư Phật và Bồ Tát chẳng nguyện cầu nên gọi là Tịnh, chẳng còn thọ thân trên hai mươi lăm cõi nên gọi là xuất thế. Do xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, nam, nữ, sanh, trụ, diệt, khổ, lạc, bất khổ, bất lạc đều chẳng chấp lấy tướng mạo nên gọi là rốt ráo tịch diệt chơn đế. Đây gọi là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại Thừa Đại Niết bàn quan sát Diệt Thánh Đế" (Phẩm thứ 19, Thánh Hạnh) [12, 434]

2.2. khổ Diệt Thánh Đế qua các bộ Luận :

- Theo Luận Trung Quán, Bồ Tát Long Thọ cho rằng :

"Niết bàn là cảnh giới siêu việt mọi ngôn ngữ, tư duy, cho nên dùng toàn những từ phủ định để nói về Niết bàn.

Vô đắc diệc vô chí

Bất đoạn diệc bất thường

Bất sanh diệc bất diệt

Thị thuyết danh Niết bàn  (Trung Luận)

Nghĩa là :

Không được gì không đến đâu

Bất đoạn cũng bất thường

Bất sanh cũng bất diệt

Đó gọi là Niết bàn.

Vô đắc là không nắm bắt được. Vô chí là không đến đâu cả. Bởi lẽ Niết bàn là cảnh giới nội tâm. Chỉ cần tâm ta đoạn trừ hết phiền não, thoát khỏi mọi phân biệt đối đãi, mọi vọng tưởng thì cảnh giới Niết bàn sẽ có ngay hiện tiền, không cần đi đâu, đến đâu, tìm đâu" [3, 70]

- Theo Luận Thành Duy Thức, Niết bàn có bốn :

1. "Hữu Dư Y Niết Bàn : Đã hết phiền não sở tri, không còn ngã chấp, pháp chấp, nhưng còn thân ngũ uẩn, còn sinh. Lão, bệnh, tử, khổ đau chi phối trên thân Dị thục quả một lần sau cùng.

2. Vô Dư Y Niết Bàn : Không những không còn ngã chấp, pháp chấp, phiền não và sở tri chướng mà đến thân ngũ uẩn sanh y cũng không còn, nghĩa là đã nhập diệt (Niết bàn).

3.         Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn : Bản thể thanh tịnh sẵn có của chúng sanh từ vô thỉ đến nay, dù bị sanh tử luân hồi vô lượng kiếp, bị phiền não vô minh chi phối nhưng không thay đổi.

4.         Vô Trụ Xứ Niết Bàn : Tự tánh bình đẳng bất sanh bất diệt, không có phiền não diệt, không có Niết bàn chứng đắc. Do đó, không trụ phiền não sanh tử, không trụ Niết bàn, tự tánh hành xử theo sự vận hành của từ bi và trí tuệ"  [9, 188]

Như vậy, chúng ta thấy rằng Khổ Diệt là tư tưởng xuyên suốt trong hệ thống giáo lý của Đạo Phật, dù là kinh điển của Phật Giáo nguyên thuỷ, hay các thời kỳ bộ phái, cho đến Đại thừa phát triển đều có nói đến tư tưởng này. Mặc dầu ở mỗi thời đại, mỗi bộ phái có sự nhận thức và khai triển khác nhau nhưng hầu như không ngoài mục đích chỉ rõ về cảnh giới an vui, giải thoát, đã diệt trừ hết mọi khổ đau. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì trong suốt 45 năm hành đạo, Đức Phật chỉ nói lên một điều, đó là khổ và con đường diệt khổ. Do vậy, sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, chư vị Thánh đệ tử vẫn tiếp tục kế thừa, phát huy và ứng dụng nguồn giáo lý cao thượng ấy vào trong đời sống tu tập, xem như đây là kim chỉ nam hướng dẫn mọi người trên tiến trình tu tập để được giải thoát tất cả mọi khổ đau.

 

CHƯƠNG 3

KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THIẾT THỰC

3.1. Vài nét về Khổ Diệt Thánh Đế :

Nói đến Khổ Diệt Thánh Đế là nói đến sự chấm dứt hoàn toàn ái dục, an trú Niết Bàn. Đây chính là mục đích tối hậu của sự tu tập. Thế nhưng để đạt được cảnh giới này, hành giả cần phải tự  thân nổ lực tu tập, tự thân chứng nghiệm chứ không thể dựa vào lý thuyết hay suy tưởng mà có thể biết được.

Kinh Trung Bộ III, Đức Phật đã dạy rằng : "Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm, (Tham ái) ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ  Diệt Thánh Đế" (Bài Kinh Phân Biệt Về Sự Thật) [2, 564].

Như vậy, Diệt Đế chính là kết quả tất yếu, là mặt đối lập của khổ đau trong cùng một tiền đề. Một khi không còn ái dục thì khổ đau cũng không còn.  Tuy nhiên, ái dục ấy phải được diệt tận hoàn toàn tận gốc rễ, nghĩa là hành giả phải thấy rõ được bản chất và tác động của ái dục vốn nguy hiểm và tệ hại như thế nào. Từ đó mới có thể cố gắng nổ lực tu tập, đoạn trừ ái dục.

Khi ái dục đã được đoạn trừ, xả bỏ một cách không luyến tiếc thì con người được giải thoát, được thong dong tự tại, vượt thoát mọi nhiễm ô trầm lụy. Như vậy, ái dục quả là một gánh nặng mà do thiếu hiểu biết mà con người đã dại dột tự nguyện vác nó trên vai, để rồi từ đó phải cưu mang nó một cách khổ sở trong suốt hành trình của đời sống từ kiếp này đến kiếp khác. Chính do lòng khát ái triền miên, vô tận và sai biệt của con người trước cuộc sống, khiến cho 12 chi phần nhân duyên vận hành liên tục, tạo nên những chuỗi dài sanh tử, nối tiếp nhau như những dòng thác  lôi cuốn và nhận chìm con người mãi trong những đợt sóng sanh tử khổ đau.

Khi nói rằng ái dục là nguồn gốc của khổ đau, chắc hẳn sẽ có nhiều người không đồng tình và cho rằng Phật Giáo thiếu xót vì thiếu sự trãi nghiệm, bởi vì ái dục là yêu thích những điều mình ham muốn, mà đã ham muốn thì người ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi đạt được nó. Như vậy, bản thân ái dục cũng đem đến cho con người vị ngọt. Đức Phật cũng không phủ nhận đời sống thế tục có nhiều niềm vui, nhưng do thế gian luôn luôn biến đổi, vô thường nên những niềm vui rất mong manh, tạm bợ, không bền vững, nên đem lại cho con người bao nỗi lo sợ, thất vọng và khổ đau. Những niềm vui của thế gian quả thật không đem lại lợi ích gì cho sự phát triển tâm linh. Do vậy, Đức Phật khuyên dạy chúng ta không nên bám víu hay chấp thủ về những điều đó.

3.2. Khổ Diệt Thánh Đế- phương pháp loại trừ đau khổ :

Như chúng ta đã biết, khổ vì sanh, già bệnh, chết là những nổi khổ rất căn bản không thể tách rời khỏi thân phận con người. Khổ vì mong cầu mà không được toại nguyện, khổ vì thương yêu mà phải xa lìa, khổ vì phải gặp gỡ những điều mình chán ghét … Tất cả những nỗi khổ ấy luôn luôn nung nấu tâm can con người trong suốt đời sống thường nhật. Tuy nhiên, những nổi khổ đau ấy sẽ không thật sự có ý nghĩa  gì đối với những người đã trực nhận được chân lý của cuộc sống, đã có sự nhận thức đúng đắn về những quy luật của thiên nhiên, vũ trụ. Và chính bản thân mình từ đó xác định cho mình một lối sống thích nghi, phù hợpỉ, có lợi ích cho tự thân và xã hội.

Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi con người ta cảm thấy đau khổ là vì thiếu sự hài hoà, quân bình giữa ý chí, ước vọng của bản thân mình với thế giới khách quan. Như một người từ nhỏ không lo học hành, chỉ thích ăn chơi, hưởng thụ, khi lớn lên anh ta lại muốn có danh vọng, được thăng quan tiến chức và có được địa vị cao trong xã hội. Vì những mục đích ấy nên anh ta đã tìm mọi cách lo lót để có thể đạt được mục đích của mình mà bất chấp tất cả. Thế nhưng vì thiếu trình độ, thiếu đạo đức bởi không trãi qua quá trình học tập và rèn luyện, nên anh ta đã phạm phải hết sai lầm này đến sai lầm khác, thậm chí dẫn đến tù tội. Đến lúc này thì bản thân anh ta phải chịu đựng cùng một lúc cả hai nỗi khổ: khổ về thể xác lẫn tâm hồn. Thân thì phải bị tù đày, tâm thì dằn vặt, tức tối, oán hận… Nếu lúc ấy anh ta bình tĩnh suy xét lại chính mình để thấy rằng mình là người kém tài kém đức và còn nhiều khiếm khuyết, sai lầm cần phải được học hỏi trao dồi… thì chắc chắn nổi khổ đau của anh ta sẽ được vơi đi. Ngược lại, nếu anh  ta suy nghĩ một cách hồ đồ, thiếu sáng suốt và không thấy được lỗi lầm của chính mình thì anh ta càng thêm đau khổ hận thù. Với tâm lý này dễ khiến cho anh ta bị nội kết nặng nề, và có thể dẫn đến những hành động oan trái về sau.

Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng nhận thức của mỗi người rất quan trọng, nó có thể khiến cho người ấy được thanh thản, nhẹ nhàng hay nung nấu khổ đau. Nhận thức đúng ở đây chính là thấy biết đúng, đây là yếu tố đầu tiên của Bát Thánh Đạo. Đối với một người khi đã thấy biết đúng về bản thân mình, về tâm tư tình cảm của mình và hoàn cảnh xung quanh, thì người ấy sẽ không còn bị hệ lụy vào một cái "tôi" hữu ngã, người ấy sẽ không bị những ảo tưởng về tình cảm chi phối và không bị mê hoặc bởi những tướng trạng giả huyễn của cuộc sống. Đối với người ấy, con đường giải thoát đã thênh thang mở rộng ra. Nói giải thoát, trước hết là nhằm gỡ mình ra khỏi những đau khổ trước những cám dỗ của cuộc sống - tức là nhứng thứ dễ kích động, dễ làm cho tâm  ham muốn khởi lên như danh vọng, tiền tài, ăn uống, ngủ nghĩ … Khi tiếp xúc với những thứ này, nếu người nào khởi tâm tham đắm thì chắc chắn sẽ bị hệ lụy, bị dẫn dắt theo con đường bất chánh khó mong tìm được lối ra.

Hàng ngày chúng ta luôn bị tác động bởi năm thứ dục lạc này, sự tác động của chúng đối với tâm thức ta tuy vi tế nhưng rất nguy hiểm. Chúng luôn luôn trực chờ cơ hội để dụ dỗ, để dẫn dắt con người đi vào con đường sa đọa. Chính trong những lúc ấy, nếu lý trí không đủ sức suy xét phán đoán, phân biệt chánh tà, chơn ngụy thì tâm sẽ bị thất thủ, bị ngũ dục thâm nhập hoành hành, xô đẩy vào nẻo ác.

Như chúng ta đã biết, vô minh là cội gốc của mọi điều bất thiện. Vì vô minh không hiểu được thực trạng vô thường luôn luôn hiển hiện trong bản thân của mỗi sinh vật nên hay sanh khởi nhiều dục vọng, tìm đủ mọi cách để thoả mãn bản thân mình. Thế nhưng khó có ai đạt được ước vọng của mình một cách hoàn toàn. Bỡi lẽ, vạn vật vốn dĩ đã vô thường và tâm con người cũng vô thường thì làm gì có một cái "ta" thực thể để được thỏa mãn? Chẳng qua đó chỉ là những ảo giác mà con người tự đặt để ra để có được khái niệm về tên gọi. Từ đó vì lầm chấp, ta quên mất rằng bản chất của nó vốn là vô ngã. Như vậy, khi ta khởi tâm tham đắm cái vô thường, mong muốn được thỏa mãn cái vô ngã thì thật là mê muội, điên rồ. Bởi khi tham muốn mà không đạt được thì dễ khởi tâm sân giận, mà đã giận dữ thì sẽ mất hết lý trí, tức bị si mê, đã si mê thì đâu còn biết phải trái, tội lỗi gì nữa, do vậy dễ tạo ra bao nhiêu nghiệp chướng, để rồi cứ phải lận đận suốt đời chìm nỗi trong cảnh phiền não, khổ đau.

Ngày nào mà con người còn bị tham, sân, si chi phối thì ngày ấy con người chưa thể thoát khỏi địa ngục trần gian, chưa thể thoát khỏi những  đau khổ và con người ấy vẫn chỉ là một con người mê muội, chấp ngã, vị kỷ, chỉ biết có mình, không còn biết đến người khác, con người ấy sống hoàn toàn đơn độc giữa mọi người. Tham, sân, si là ba yếu tố rất nguy hại, chúng luôn đầu độc đời sống con người và xã hội, làm cho con người điên đảo, gia đình bị xáo trộn, tổ chức mất hoà khí, xã hội loạn ly.

Để có được cuộc sống an vui, hạnh phúc, thoát khỏi những hệ lụy  khổ đau, con người cần phát huy trí tuệ đến mức cao nhất để tự giác ngộ, tự giải thoát cho mình trong cuộc sống, phải tin ở khả năng của chính mình, biết rằng mình thật sự có thể làm chủ bản thân trong mọi suy nghĩ, tạo tác, không can tâm làm nô lệ cho dục vọng của mình, không để cho con người tham, sân, si của mình phát khởi, luôn luôn giữ gìn nếp sống đạo hạnh, giản dị, hướng thượng, phát huy giới hạnh và trí tuệ. Đến lúc ấy dục vọng sẽ không còn chỗ để nương tựa, để sanh khởi nữa, thì làm sao có thể xâm chiếm, gieo rắc khổ lụy cho con người được nữa? Bấy giờ con người sẽ được tự do tự tại, bình tĩnh, sáng suốt, sống một đời sống tự nhiên, hài hoà, trãi rộng tấm lòng thương yêu, nhân hậu đến tất cả mọi người. Người ấy há chẳng đã xây dựng cho mình một cảnh giới cực lạc ngay tại thế giới này hay sao?

3.2.1 Con đường đoạn tận tham ái:

Không ai có thể phủ nhận rằng mọi người đều có khát vọng hạnh phúc, tuy nhiên hạnh phúc đối với mỗi người đều khác nhau. Có người cho rằng có được xe to, nhà lớn, tiện nghi đầy đủ là hạnh phúc, cũng có người bảo  rằng có được vợ đẹp, con xinh, công việc thuận lợi là hạnh phúc hoặc có quyền cao chức trọng, mọi người kính nễ là hạnh phúc… Và như thế, hạnh phúc hiện ra dưới nhiều sắc thái khác nhau tùy theo lòng mong cầu của mỗi người. Ty nhiên, tất cả những hạnh phúc mà mọi người tìm kiếm đó thường chỉ mang đến phiền muộn, khổ đau thêm cho kiếp sống của con người, bởi vì lòng ham muốn của con người không có chỗ dừng nghĩ, do đó không bao giờ có thể được thỏa mãn. Lúc nào chúng ta cũng cảm thấy thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Lúc nào chúng ta cũng cảm thấy có cái gì đó tốt hơn, đẹp hơn, thích thú hơn để chiêm ngưỡng, để xúc chạm và để sở hữu. Chính điều này đã khiến cho ta trở nên vất vả, chộn rộn, tất bật hơn trong cuộc sống, làm cho tâm ta lúc nào cũng bất an, cho dù là khi đang hưởng thụ niềm vui, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn ta vẫn tiềm ẩn một nỗi khổ rất mơ hồ, để rồi khi cuộc vui qua đi thì nỗi khổ ấy dấy lên, thôi thúc chúng ta tiếp tục kiếm tìm, và cứ như thế, càng tìm kiếm hạnh phúc, con người càng vướng vào khổ đau.

Thông thường trong cuộc sống chúng ta thường có ý niệm phải dựa vào tình cảm, hoặc sự che chở bảo bọc của người khác, phải nương tựa vào gia đình, người thân, bạn bè để được nuôi dưỡng, thương yêu, chăm sóc. Tất cả những suy nghĩ đó đã tạo nên một sợi dây luyến ái vô hình nhưng rất bền chặt, có thể cột trói người nọ người kia lại với nhau từ đời này sang đới khác. Sợi dây ấy cứ mãi quấn lấy con người ngày càng rối rắm, chằng chịt khó có thể thoát ra. Và rồi hệ quả tất yếu mà con người không thể tránh khỏi, đó là chủng tử nghiệp ái đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, khiến cho người ta cảm thấy đó là chuyện bình thường và không thể thiếu trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu giữa người với người chỉ có tình thương vô điều kiện - tình thương không nhuốm màu vị kỷ thì cuộc sống sẽ tràn đầy an lạc, hạnh phúc. Từ xưa đến nay, cuộc sống vẫn rất cần những tấm lòng rộng mở, những tấm lòng biết thương yêu, biết san sẽ, cảm thông với mọi người. Những nỗi niềm khát khao về tình người rộng lớn, chan  hoà, đã kết tinh lại thành hơi thở, tiếng nhạc dâng tặng cho đời. Thế nên đâu phải ngẫu nhiên mà Trịnh Cộng Sơn đã nói rằng: "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Diễm xưa), hay nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng nhắn nhủ với mọi người rằng: "Con người ơi hãy thương lấy con người" (Ở nghĩa trang Văn Điển).  Cuộc sống sẽ thiếu xót biết bao nếu thiếu vắng những tấm lòng, những trái tim đồng cảm. Trái tim ta cần phải được rèn luyện được thương yêu, một thứ tình thương không chấp thủ và không cần được đáp lại, tình thương lúc này không còn là tình thương đơn thuần nữa, mà đó là lòng từ bi vộ lượng. Chính nhờ tình thương cao cả này đã làm tăng thêm sức mạnh cho con người để có thể làm lắng dịu những ngọn sóng tình cảm như buồn phiền, lo âu, sợ hãi, hối hận… Khi những tâm trạng ấy lắng xuống thì con người sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, và những tình  cảm tốt đẹp dễ phát sanh.

Thế nhưng phần đông vì sự nhận thức chưa thấu đáo nên thường bị các ảo tưởng về một cái ngã đánh lừa, khiến cho tâm tham ái phát sanh và ngày càng tăng trưởng. Chính tâm tham ái này đã làm hoen ố, khiến cho tình thương thuần khiết bị biến dạng, tình thương lùc này đã trở thành sự bám víu, đam mê, ích kỷ… thứ tình thương vị kỷ này sẽ chẳng bao giờ đem đến hạnh phúc thật sự cho con người. Một khi ta bám víu vào một đối tượng nào đó chắc chắn ta sẽ bị đau khổ, lo lắng, sầu muộn,  không phải với đối tượng mà với chính cái ý tưởng hay suy diễn của mình, sợ rằng rồi đến một lúc nào đó ta sẽ mất họ. Với ý nghĩ này, tâm ta sẽ tràn đầy lo lắng, ngờ vực, và sợ hãi, không hề có được một chút an vui.

Thật vậy, nếu tình thương có kèm theo sự bám víu, sở hữu quả là một món nợ dai dẳng, rất khó trả dứt. Thế nên trong 14 điều Đức Phật dạy - được xem như là những điều tâm niệm - có ghi rằng : "Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm". Đây chính là những bi kịch, những tấn tuồng đời, mà mỗi chúng ta ít nhiều điều vướng phải.

Một người khi bị tham ái chi phối thì tâm trí không còn sáng suốt nữa, người ấy bị cuốn hút bởi lòng ham muốn và nghĩ rằng không có điều gì khác có thể quan trọng hơn. Người ấy luôn nghĩ đến sự ham muốn và tìm mọi cơ hội để được thoả mãn. Tuy nhiên, lòng ham muốn bao giờ cũng mang lại phiền muộn, tham muốn càng nhiều thì khổ não càng nhiều, như khi ta thương một người nào đó thì ta luôn luôn muốn được gần gũi, được quan tâm, chăm sóc cho người ấy và mong muốn người ấy chỉ thuộc về mình, người ấy sẽ thương yêu, thân thiết, lo lắng cho mình giống như vậy. Nếu người kia không thương trả lại, hoặc đối xử với ta không được tốt, ta lập tức phản ứng lại, ta đắn đo suy nghĩ xem có nên tiếp tục dành tình cảm  cho người kia nữa không, hoặc ta thất vọng, buồn khổ, có khi rơi vào trạng thái trầm uất.

Tuy nhiên, nếu ta đạt được mong muốn, nghĩa là được người kia thương lại, lúc ấy ta sẽ cảm thấy vui vẽ, hạnh phúc. Thế nhưng, sự toại ý ấy không thể kéo dài mãi, Bởi đã có được tình thương rồi, ta phải lo lắng tìm mọi cách để gìn giữ, trong khoảng thời gian ấy ta luôn sống với tâm rạng sợ mất người kia, sợ không gian và thời gian làm ngăn cách, sợ lòng người dễ đổi thay… tâm trạng lo lắng, sợ hãi ấy chính là một dạng của khổ đau. Con người dẫu có gần gũi thân thiết đến đâu thì một lúc nào đó cũng phải xa cách "Con người trước sau gì cũng phải xa nhau, qua cái chết hay qua sự thay đổi tình cảm, tư tưởng" [1, 50]. Khi tình cảm đã thay đổi thì con người ta không còn muốn gần gũi nhau nữa, và tất cả những gì ta yêu thích trước kia thuộc về người ấy giờ đây đã trở nên xa lạ. Đôi lúc nó làm cho ta cảm thấy bực bội, chán chường và khó chịu, như ông bà ta thường nói : "Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo" hay "Thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tôn ty họ hàng". Do vậy, khi tình cảm thay đổi, người ta thường có khuynh hướng phải tách rời nhau và thế là sớm muộn gì họ cũng phải xa nhau.

Đối với tư tưởng ta cũng vậy, tư tưởng là yếu tố rất quan trọng, nó có thể quyết định nhân cách của một con người. Một tư tưởng lành mạnh, hướng thiện thì không thể nào có sự đồng cảm với một tư tưởng xấu ác. Vì vậy, khi tư tưởng thay đổi thì người ta sẵn sàng rời bỏ nhau để ra đi, để hành động theo chí hướng của riêng mình

Còn về sự chết làm cho người ta xa nhau là điều mà ai cũng thấy, cũng biết. Sống trên cõi đời này không ai có thể trách khỏi sự chết, chỉ có thể là sớm hoặc muộn mà thôi. Con người có hoà hợp thì ắt sẽ có sự chia ly, có gần nhau rồi cũng phải xa nhau. Đến lúc ấy ta lại phải chịu đựng thêm một lần đau khổ nữa. Như vậy, suy cho cùng thì suốt một tiến trình của tình cảm, từ khi khởi sự cho đến lúc kết thúc, hầu như lúc nào tâm ta cũng bất an. Khi chưa có được tình cảm thì ta phải xoay sở, tìm kiếm để có được, lúc có được rồi thì phải gìn giữ nhọc nhằn, và đến hồi kết thúc thì lại phải ngậm ngùi tiễn biệt với biết bao nỗi niềm tiếc nuối, đắng cay "… đầu tình nào đến biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng vẫn tiếc nuối …"  (Lời bài hát). Tình cảm của con người quả thật là một vấn đề nan giải, xót xa !

Với những người tâm lý tham ái nặng nề thì sự sân hận cũng dễ phát sanh, họ cảm thấy tức tối, đau đớn khi bị tổn thương hay mất mát. Có những trường hợp khi bị phản bội, do không kiềm chế được lòng sân hận, họ đã phản ứng lại một cách quá quắt, họ phải làm cho ngưới kia đau khổ, bị tổn thương nhiều hơn. Thế mới hay tình thương ích kỷ thật nguy hiểm, thương yêu bỗng chốc lại hoá ra hận thù. Hoặc lại có những người khi bị mất mát, bị thất bại trong chuyện tình cảm, họ đã đánh mất niềm tin trong cuộc sống, đôi  khi họ trở nên uất hận và tự dày vò mình, lâu dần họ bị chứng nội kết, bệnh hoạn, thiếu nghị lực và không còn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống nữa. Đối với những người này, chúng ta thấy họ thật tội nghiệp. Không có gì dại dột hơn là tự mình làm khổ mình.

Khi chúng ta thiếu sự cảnh giác thì rất dễ bị xúc cảm làm cho vướng mắc, ta dong ruỗi theo những tình cảm vui buồn, thương yêu, hờn giận… để rồi lại để cho những tình cảm đó tàn phá tâm tư  "Tình cảm mặc dù không có mắt, mồm và bao tử, nhưng chúng vẫn có khả năng tiêu hao năng lượng chúng ta, thôi miên chúng ta, tàn phá trạng thái hài hoà tự nhiên của chúng ta. Cảm xúc có khả năng dẫn chúng ta lạc vào một vương quốc cảm giác giả tạo, có thể chế ngự những năng lượng tích cực của chúng ta. Cảm xúc cũng là một nhu cầu của con người, như là cần muối để nêm nếm thức ăn vậy. Nhưng cảm xúc là nguy hiểm và bất thường, bởi vì cái bắt đầu là niềm vui, thường xuyên lại kết thúc  bằng đau khổ"   [10, 77 ] . Có những lúc ta cảm thấy bị suy sụp, thất vọng và thấy trong lòng sao quá trống vắng, ta muốn tìm kiếm một thứ gì đó để khoả lấp như bạn bè, người thân, công việc, hoặc là những tư tưởng, những ước đoán, hy vọng… những thứ này cũng có thể tạm thời giúp ta quên đi những bức xúc trong  một khoảng thời gian nào đó. Tuy nhiên, chính bản thân những thứ này cũng không bền vững, chúng sẽ luôn thay đổi theo thời gian, điều đó sẽ khiến cho ta cảm thấy thất vọng và thế là cái khoảng trống nhỏ bé trong lòng ta vẫn không thể lấp đầy. Đôi khi người ta tìm kiếm những thú vui để giải trí, hoặc đi du lịch để thoát ra khỏi tâm trạng phiền não, bức bách. Thế nhưng khi thoát khỏi các phiền não này thì các phiền não khác lại dấy khởi, khi các thú tiêu khiển vừa chấm dứt, cuộc vui vừa tàn thì sự chán nản, phiền muộn lại đến  "Năng lượng của chúng ta bị vướng vào một loạt những bức xúc tình cảm, khiến chúng ta cảm thấy mê hoặc, mệt mỏi, căng thẳng, và lô âu" [10,77 ]. Chính trong những giờ phút mà ta lo âu, căng thẳng là những giờ phút ta sống trong tâm trạng khổ đau.

Trong cuộc sống đời thường, lòng khát ái của con người, nếu thiếu sự kiểm soát của đạo đức và trí tuệ khi nó sinh khởi lên, thì thật vô cùng nguy hiểm, nó có thể đưa đến những hậu quả khôn lường. Ngày nay, qua những phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài … chúng ta thấy có rất nhiều trường hợp loạn luân trong gia đình và xã hội. Có những bé gái tuổi còn rất nhỏ đã trở thành nạn nhân của lòng khát ái vô độ của chính những người thân của mình. Thật là tồi tệ ! lòng khát ái vô đạo đức đã khiến cho con người mất hết lý trí, chỉ còn biết hành xử theo bản năng, thế thì có khác chi cầm thú ?

Trong một xã hội mà nhân cách, đạo đức, luân thường đạo lý không cón được coi trọng thì con người ta sẽ trở nên liều lĩnh, bất chấp tội lỗi, dẫn đến xã hội bị xáo trộn và thác loạn. Một khi lòng khát ái không được chế ngự thì con người cũng có thể trở thành thú, người thân hoá ra kẻ oán thù, và từ đó dẫn đến những bi kịch tội ác, khổ đau. Lòng khát ái càng mạnh thì con người càng muốn được hưởng thụ và ra sức tìm kiếm cơ hội để thoả mãn các dục lạc thấp hèn. Khi ái dục được thoả mãn, người ta chìm sâu vào các cảm giác khoái lạc đó và muốn cho nó kéo dài mãi ra. Thế nhưng, ước muốn ấy nào có đạt được,  cảm giác nào rồi cũng qua đi, và rồi ta lại ra sức truy tìm niềm vui mới. Đa số chúng ta thường bỏ phí cả cuộc đời mình để đi tìm, để nắm giữ và duy trì các cảm thọ vừa ý. Thế nhưng tất cả việc làm ấy đều phí công vô ích, vì mọi cảm thọ rồi cũng thay đổi trong từng giây phút hiện tại. Aùi dục khi không được thoả mãn thì con người càng khao khát về nó, chính sự khao khát này làm cho con người càng tăng thêm sự tham muốn và dục vọng càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn con người.

Trên con đường phát triển tâm linh, ái dục là kẻ thù nguy hiểm đáng sợ nhất và cũng là kẻ khó nhận diện nhất. Aùi dục đã tiềm ẩn từ trong sâu thẳm tâm trí con người ngay những giờ phút ban sơ. Do vậy,  khi sinh ra, mỗi người đã mang trong mình chủng tử nghiệp ái, rồi lớn lên học hành, làm việc, tạo lập gia đình … tất cả chỉ để thoả mản cái ham muốn của chính bản thân mình. Trong xã hội ngày nay, vấn đề được hầu hết mọi người, mà đặc biệt là giới trẻ quan tâm nhiều nhất đó là nghề nghiệp, công việc làm ăn và tình yêu hôn nhân gia đình. Một người được xem là thành đạt trong cuộc sống phải là một người có công ăn việc làm tốt, hoặc có địa vị trong xã hội và phải có một gia đình ấm êm, hạnh phúc. Xu hướng chung của tất cả mọi người là tìm kiếm hạnh phúc bằng tình yêu thương giữa nam và nữ, là thương yêu và được thương yêu. Đó chính là một trong những hành trạng của tham ái. Tuy nhiên, theo Đạo Phật, ái dục không chỉ có nghĩa hạn hẹp giữa tình cảm nam nữ, mà nó còn tiềm ẩn trong những tình cảm vi tế nhất, như tình thầy trò, tình mẫu tử, tình bằng hữu … chúng ta thường thấy trong một gia đình, lúc nào người cha cũng thương yêu con gái nhiều hơn, và người mẹ rất thương con trai. Tương tự, tình cảm giữa thầy trò, đôi lúc cũng giống như vậy, rồi cũng có nhiều người chỉ sau một vài lần gặp gỡ mình đã đem lòng cảm mến. Đây chính là do nhân duyên nghiệp quả tiền kiếp, ái nghiệp còn đọng lại trong tiềm thức, nên khi hội đủ nhân duyên nó lại phát khởi ra dưới nhiếu hình thức khác nhau. Nhưng cho dù dưới những hình thức nào đi nữa, tham ái cũng gây nên phiền não, khổ luỵ cho con người.

Khi đã biết ái dục là nguyên nhân của đau khổ thì cần phải từ bỏ nó để thoát khỏi khổ đau. Đức Phật đưa ra nguyên lý về sự khổ không phải để khuyên bảo con người can tâm nhận lấy số phận không thể tránh khỏi của mình. Ngài đã chỉ rõ nguyên nhân và đưa ra con đường diệt khổ, để tìm đến an vui hạnh phúc cho con người. Đức Phật đã đặt hết lòng tin vào khả năng tu tập và giác ngộ của con người, chỉ có giác ngộ con người mới biến thực tại khổ đau thành cảnh giới an vui, tức thoát khỏi mọi phiền não. Nhưng để làm được điều này là cả một quá trình tu tập lâu dài với tất cả nổ lực một cách sáng suốt, chứ không thể bằng suy nghĩ hay bằng lời nói suông trong một sớm một chiều mà có thể thực hiện được. Đây chính là một quá trình rèn luyện không ngừng để nâng cao trí tuệ và trao dồi đạo đức để sống sao cho thuận tình hợp lý mà không bị mọi dục vọng chi phối. Trong Đạo Phật, trí tuệ là yếu tố quan trọng, là sự nghiệp duy nhất mà mỗi người tu tập cần phải tạo dựng cho mình, chỉ có trí tuệ mới giúp con người thoát khỏi mọi đau khổ, bởi trí tuệ có công năng phá vỡ vô minh, giúp cho con người hiểu rõ về bản thân mình và môi trường xung quanh, tất cả đều do nhân duyên hội tụ, chúng sẽ biến đổi và ly tán khi nhân duyên không còn. Do thấy biết như vậy, người ta không còn ảo tưởng về tự ngã, và không còn bám víu vào bất cứ người hay sự vật nào khác. Nhờ vậy tâm được tự tại, an nhiên, không bị chi phối trước sự đổi thay của cuộc đời.

Có trí tuệ cũng chính là có chánh kiến, nhờ có chánh kiến con người mới có thể nhận thức đúng về những sự việc xảy đến với mình. Người ấy hiểu rõ về nghiệp, hiểu rõ rằng mình đang sống trong cõi dục này chính là do nghiệp nhân vô minh - ái- thủ mà có ra, ngoại trừ những bậc Bồ Tát do nguyện lực nên sanh vào. Đã có thân ắt có khổ, nên con người tất phải tự nhận lấy trách nhiệm về tất cả những gì xảy đến cho mình, không đổ lỗi cho hoàn cảnh hay người nào khác. Người ấy biết rằng mình có đau khổ, có tham ái, nhưng mình cũng có trí tuệ, có chánh kiến để có thể nhận biết được nghiệp quả của mình, từ đó có thể thay đổi chyển nghiệp, để không còn phải khổ đau nữa. Tuy nhiên, việc chuyển nghiệp có thể chuyển đổi được hay không còn phụ thuộc vào khả năng nhận thức và hành động của mỗi con người, bản thân của mỗi con người phải tự tìm giải thoát cho chính mình thông qua việc tìm hiểu, thực nghiệm giáo lý và rút kinh nghiệm từ những khổ đau trong quá khứ, để có thể mạnh dạn từ bỏ ái dục, từ bỏ mọi ý niệm chấp thủ về "Tôi" và những thứ "của tôi". Do ái dục hình thành ngã "Ngã", do đó khi từ bỏ ái dục là từ bỏ những cái nhìn định kiến về "Ngã", từ bỏ mọi tham vọng, mọi ước muốn của một cái "tôi" vô minh- ái- thủ. Từ bỏ ở đây không có nghĩa rằng ta  phải xa lánh những người thân, vứt bỏ mọi sự sở hữu, mà chủ yếu ta phải đoạn trừ tâm lý ưa thích, bám víu, chấp thủ của ta đối với người khác, vật khác. Thay đổi hoàn cảnh sống không phải là tốt nhất, mà cốt yếu là phải thay đổi về thái độ, nhận thức và hành động của chúng ta trong đời sống hằng ngày sao cho thiết thực, lợi ích và có ý nghĩa.

Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy : "Người nào sống trong hạnh phúc viên mãn là con người đã dứt trừ được mọi dục vọng và đã đạt được tâm thanh tịnh". Dứt trừ mọi dục vọng chính là dứt trừ mọi vọng tưởng điên đảo về sự tham ái đối với mình và người, bởi vì ái dục không chỉ là yêu thích người khác, mà yêu thích chính bản thân mình cũng là ái dục. Do yêu thích bản thân mình nên mới nảy sinh ra mọi ham muốn nhằm để thoả mãn, để tô bồi cho tự ngã. Do vậy, tâm trí lúc nào cũng bận rộn suy tính đủ điều, thì làm sao có được sự thư thái, an tịnh. Khi mọi dục vọng đã được đoạn trừ thì con người ta sẽ đạt được trạng thái thanh tịnh của tâm hồn, khiến cho cuộc sống trở nên an vui và hạnh phúc.

3.2.2. Con đường đoạn tận sầu muộn :

Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy :

"Do ái sinh sầu ưu

Do ái sinh sợ hãi

Ai thoát khỏi tham ái

Không sầu, đâu sợ hãi"  (câu 212)

Chính do lòng tham ái là nguyên nhân trực tiếp, gần gũi gây ra mọi sầu ưu và sợ hãi cho con người. Ví tham ái nên con người luôn muốn gìn giữ, bám víu vào những gì mình ưa thích. Thế nhưng, khi không đạt được ước muốn ấy thì con người ta sẽ cảm thấy buồn rầu, đau khổ. Do vậy, khi người ta quyết tâm từ bỏ ái dục thì không còn phải lo sợ, buồn phiền, sầu muộn nữa.

Hằng ngày chúng ta có thể hiểu được giáo lý, có thể nói pháp cho người khác nghe, nhưng đôi khi chúng ta vẫn cảm thấy đau khổ, đó là chúng ta sống với cảm tính quá nhiều. Chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ trên cõi đời này hễ có sinh thì sẽ có diệt, hễ có hội hợp thì chắc chắn sẽ có ly tan. Thế nhưng khi đứng trước những biến đổi của cuộc đời, ta vẫn cảm thấy khổ đau. Với tâm lý ái thủ, chúng ta thường lo sợ những sự thay đổi, thế nhưng cuộc sống sẽ như thế nào nếu  như mọi vật lúc nào cũng vẫn y nguyên như cũ? chúng ta ít khi nào chịu chấp nhận thực tại như chúng đang hiện hữu, mà thường hay nuối tiếc, hoài vọng về quá khứ, hoặc ảo tưởng về tương lai, nên ta không nắm bắt được thực tại, khiến cho những cơ hội tốt đẹp luống qua và ta sẽ đau khổ nhiều hơn khi phải đối diện với thực tại không vừa ý.

Mỗi giây phút của cuộc đời rất quý, thời gian trôi qua đi không tìm lại được. Người trí thì tận dụng thời gian làm nhiều việc có lợi ích, kẻ phàm phu thì để thời gian trôi qua một cách uổng phí, tuy rằng họ vẫn tất bật làm rất nhiều việc, nhưng tất cả việc làm của họ đều nhằm tô bồi cho tự ngã. Họ ăn uống, ngủ nghĩ, làm đẹp … chỉ là để thoả mãn những ước vọng, những nhu cầu của bản thân. Họ không ý thức được rằng : "Thân này là cái thành xây bằng xương cốt và tô quét bằng máu thịt, để cất chứa sự già và chết, ngã mạn và dối gian" (Pháp Cú 150). Do không hiểu được như vậy nên người ta dễ rơi vào bệnh chấp ngã, đồng nghĩa với u mê. U mê ở đây chính là vô minh, là thiếu trí tuệ, là không tỉnh giác, đến lúc ấy thì gặp bất cứ việc gì cũng bị vướng mắc khổ đau.

Chẳng những thân người là mong manh, giả tạm, mà cả đến tâm thức cũng luôn sanh diệt, đổi thay. Phút trước ta nghĩ thế này, nhưng phút sau ta lại nghĩ thế khác, từng niệm tưởng luôn nối đuôi nhau sanh khởi như một dòng thác tương tục không ngừng. Thế nên những suy nghĩ, nhận thức của con người cũng thay đổi theo thời gian, không gian và hoàn cảnh, do đó những tình cảm của con người không tồn tại lâu dài, mà nó luôn biến động, nổi trôi theo ngoại cảnh. Chính tâm mình cũng vô thường, thì làm sao ta lại trách người khác khi họ đổi thay, tại sao ta lại buồn rầu đau khổ ? và khi tình cảm đã thay đổi thì sẽ khiến cho người ta xa  nhau, cũng có khi thân ở gần nhau mà tâm  hồn dường như xa lạ, mỗi người có một thế giới riêng, trong thế giới ấy đầy dãy những nỗi niềm trắc ẩn, buồn đau nhưng lại được bao bọc, nguỵ tạo bởi sự hào nhoáng của danh vọng, địa vị, bạc tiền, của những sự hưởng thụ vui chơi. Thế nhưng, tất cả những thứ ấy chỉ có thể giúp con người xoa dịu bớt những bức xúc nội tâm, chú không thể dứt trừ được đau khổ, để rồi khi những cuộc vui qua đi thì người ta lại trở về với trạng thái bất an sầu muộn.

Muốn thoát khỏi mọi sầu khổ chỉ có một cách tốt nhất là tu học Phật pháp, bồi dưỡng trí tuệ, trao dồi thân tâm ngày càng trở nên thuần tịnh. Mỗi người phải tự sửa đổi chính mình, phải tự gạn lọc tâm tư, để giữ gìn cho nội tâm được trong sáng. Chỉ khi nào nôị tâm được an bình, tĩnh lặng thì mọi sự vật xung quanh sẽ trở nên thanh tịnh, bởi tất cả mọi trạng thái đều xuất phát tự nội tâm. Tâm an tịnh thì cảnh nào cũng an tịnh, ngược lại tâm bất tịnh thì cảnh cũng trở nên bất tịnh. Khi tâm không thanh tịnh là khi nó chứa đựng mọi ý niệm, tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn… chính lúc ấy tự tâm đã đầy dãy khổ đau thì làm sao có thể cảm nhận được những điều tốt đẹp từ bên ngoài. đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng nói rằng : "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", nỗi buồn của con người xuất phát từ nội tâm và phát khởi ra bên ngoài, khiến cho người ấy nhìn thấy cảnh vật đâu đâu cũng hiển bày một hiện trạng thê lương ảm đạm. Vì vậy, nội tâm là quan trọng hơn hết, là yếu tố quyết định giá trị đời sống con người. Ta không thể tìm đâu được nơi trú ẩn bình an cho tâm hồn. Ngoại cảnh có thể tốt đẹp, có thể mang lại cho ta cảm giác thích thú, dễ chịu, đôi khi nó còn làm cho ta tham đắm, chứ ít khi giúp ta chuyển hoá nội tâm. Chỉ có sự chuyển đổi trong tâm thức mới đem lại cho ta niềm an vui thật sự, như Dhammananda đã nói : "Bạn không thể nào thay đổi thế giới theo mong muốn của mình nhưng bạn có thể thay đổi tâm tính mình để đạt được hạnh phúc"  [6, 59] . Tâm tánh mỗi người hoàn toàn có thể thay đổi được nếu người ấy có sự quyết tâm và kiên trì thực hiện. Phần đông chúng ta đều có khuynh hướng chiều theo những ý muốn, những sở thích của chính mình, cho dù đó là những ý muốn bất thiện, để rồi khi gánh lấy hậu quả khổ đau thì ta mới biết ăn năn hối hận. Thế nhưng, với người có trí tuệ thì không như vậy, trước khi làm một việc gì người ta đều suy xét đến hậu quả của nó và ý thức được việc nào nên làm, việc nào không nên làm, không xuôi theo sự sai sử của bản năng, mà còn tìm cách chuyển hoá chúng. Nhờ biết chuyển hoá những tâm lý tiêu cực thành những tâm lý tích cực, khiến cho người ấy thoát khỏi mọi sự sợ hãi lo âu. Ngay lúc ấy tâm vị ấy sẽ trở nên trong sáng, lành mạnh, an vui, giải thoát, không còn bóng dáng của khổ đau sầu muộn.

 

3.3.  Khổ Diệt Thánh đế- con đường đạt đến an lạc tối thượng :

3.3.1.Tịnh hoá tâm hồn :

Đức Thế Tôn có dạy rằng : "Không lửa nào bằng lửa tham dục, không ái nào bằng ái sân hận, không khổ nào bằng khổ ngủ uẩn và kông vui nào bằng vui Niết bàn" (Pháp Cú 202). Thật vậy, khi ngọn lửa tham dục bùng lên thiêu đốt tâm can con người thì dễ khiến cho con người trở nên điên đảo, mê vọng, không còn một chút tỉnh táo và gây nên biết bao khổ cảnh cho thế gian. Chỉ có những người nào dứt trừ được ái dục một cách trọn vẹn thì mới không còn vướng vào sầu khổ nữa, người ấy sẽ thoát khỏi tâm trạng lo âu, sợ sệt, tham lam, sân hận, tâm hồn được an tịnh, đạt đến trạng thái tốt đẹp hoàn toàn thanh tịnh của tâm, tức Niết bàn hiện hữu. Niết bàn là trạng thái vắng bặt mọi khổ đau, dục vọng, dứt hết mọi tư duy, khái niệm, chấp trước. Niết bàn vẫn luôn hiện hữu khắp mọi nơi, nhưng sở dĩ chúng ta không nhìn thấy được là vì chúng ta còn bị giới hạn bởi cái nhìn của ngã sở, ngã ái và cứ đắm mãi trong tư duy hữu ngã.

Khi một người đã cắt đứt mọi khát ái, chấp ngã thì sẽ dứt hết thảy mọi buộc ràng, chẳng còn tham đắm, lo sợ, khổ đau, người ấy an nhiên tự tại, sống giữa cuộc đời mà không bị cuộc đời chi phối, tâm tư bình lặng như đất bằng không hề sợ gió lốc ngũ dục xoay chuyển, dù sống nơi thâm sơn cùng cốc hay chốn thị thành, vị ấy cũng sống trong niềm an vui, tịch tĩnh. Vị ấy thường quán sát tướng sanh diệt của các pháp, đạt được chánh trí giải thoát, dứt sạch các lậu hoặc. Do vậy, khi tiếp xúc với ngoại cảnh, tâm không bị dao động, nên vị ấy dễ dàng đi vào cuộc đời để độ sanh mà không hề bị vướng mắc, như chim bay giữa hư không mà không để lại dấu vết.

3.3.2. Nguồn an lạc vô biên :

Khi nói đến Khổ Diệt Thánh Đế là Đức Phật hoàn toàn tin tưởng vào khả năng tu tập giải thoát của con người. Ngài đã khẳng định rằng tất cả chúng sanh đều có phật tánh và Ngài còn cho rằng mỗi người đều có thể nâng cao trình độ hiểu biết cuả mình về cuộc sống, về chân lý, về các phương diện tu tập, giải thoát. Đức Phật nhận định đời là khổ nhưng ngài không nói thế để khuyên bảo con người cam tâm tình nguyện chịu đựng đau khổ như thể khổ đau là định mệnh áp đặt cho con người, mà Ngài đã chỉ ra  con đường diệt khổ cho mọi người, con đường đó chính là Đạo đế, là Bát Thánh Đạo mà căn bản là phát huy trí tuệ chân chánh, khi đã đạt được trí tuệ sáng suốt rồi thì sẽ trực nhận được các pháp thế gian là vô thường, giả tạm. Nhờ vậy, chúng ta sẽ không còn khởi tâm tham đắm, chấp thủ đối với bất cứ thứ gì ở đời. Khi không còn tham đắm chấp thủ nữa, tất nhiên con người sẽ được tự tại giải thoát.

Ở đây, chân lý này đã mở ra một lối đi quang đãng, an lành để đưa mọi người vế đến bờ bình yên. Trên lối đi ấy, mỗi người đều có thể vững vàng bước đi nếu biết tự củng cố cho mình đầy đủ niềm tin về con đường diệt khổ và khả năng đạt được giải thoát của chính bản thân mình. Lòng tự tin không phải là sự tự phụ, mà là sự tin tưởng chính đáng vào bản thân mình, nghĩ rằng mình hoàn toàn có thể làm chủ vận mệnh cho chính mình. Tuy nhiên, để có được lòng tự tin ấy, con người cần phải có nội lực sâu dày nhờ vào sự tư duy thiền quán về bản chất của tự thân và cuộc sống. Nhận thức được không có gì trong cõi đời này đáng cho ta bám víu, ham muốn, do vậy tâm không còn lăng xăng chạy theo ngoại cảnh với những buồn vui, lo âu, sợ sệt. Lúc ấy tâm trở nên an tĩnh, nội lực càng kiên cố và lòng tin càng sâu sắc hơn. Có như vậy ta mới có thể tự gỡ mình ra khỏi mọi đam mê, dục vọng của đời sống, vượt lên trên mọi cảm xúc thường tình, đi ngược lại với dòng chảy bản năng, thoát ly sanh tử. "Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục ! giữa những người tham dục ta sống không tham dục" (Pháp Cú 199)

 

KẾT LUẬN

 

Đến đây chúng ta đã thấy rõ rằng Tứ Thánh Đế là giáo lý căn bản trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Đạo Phật. Trong đó, chân lý Khổ Diệt Thánh Đế là tiêu biểu hơn hết. "Chân lý căn bản đệ nhất nghĩa theo lời Phật dạy trong kinh Thắng Man chính là Diệt Đế : Sự tiêu diệt khổ một cách triệt để, hay Niết bàn- một cảnh giới không còn bóng dáng tăm hơi của khổ. Nhưng muốn tiêu diệt hoàn toàn cái khổ thì phải thấy cái khổ ấy một cách toàn diện đầy đủ mọi khía cạnh, chi tiết. Như nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, diệt khổ cũng vậy, phải biết rõ tất cả gốc rễ mầm móng hình trạng của nó, mới có thể diệt trừ được nó một cách toàn vẹn, triệt để. Chỉ có Đức Phật mới thấy đựoc toàn diện khổ đế, do đó mới biết toàn diện tập, tức sự tích tụ, tập hợp những nhận thức mâ lầm và những hành động của thân, miệng, ý. Nhờ sự biết rõ tập này một cách toàn diện mà Ngài mới tu Đạo Diệt Khổ một cách toàn diện và chứng Diệt Đế  toàn diện, Niết bàn thực sự"  [7, 45].

Như vậy, Diệt đế hay Niết bàn là mục tiêu cứu cánh, là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình tu tập, đây là cảnh giới hoàn toàn an vui, giải thoát, chấm dứt tất cả mọi hình thức của khổ đau do từ bỏ mọi luyến ái. Đức Phật với sự thấu triệt toàn diện về Diệt đế, Ngài muốn cho tất cả mọi người cũng được an vui, giải thoát như Ngài, nên phương tiện giả lập ra ba đế còn lại để cho mọi người có thể dễ dàng nhận biết và tu tập.

Trong tất cả bốn đế, chỉ có Diệt Đế - Niết Bàn- là chân lý duy nhất, ba đế kia chỉ là các pháp phương tiện, là cửa ngõ để đi vào cảnh giới giải thoát. Khi thực hành tu tập, để đạt được cứu cánh, chúng ta không thể không nương vào phương tiện, nhưng nếu chấp vào phương tiện, thì tất nhiên ta sẽ dính mắc, không thể đi đến đích được. Có nhiều người khi nghe nói đến khổ đế vội vàng cho rằng Đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, chán đời và cửa Phật chỉ là nơi nương thân của những người thất tình lỡ vận, những người già yếu bơ vơ không nơi nương tựa, nghĩ như vậy thật quá ư sai lầm ! Và cũng có rất nhiều người nghe Phật nói Khổ Đế là một sự thật hiển nhiên trong đời sống, bèn xem khổ đau như một định mệnh áp đặt lên số phận con người, không thể hoán đổi đựơc. Với Tập Đế cũng vậy, mặc dầu Vô minh- Aùi- Thủ là nguyên nhân của đau khổ, nhưng bản thân chúng cũng là giả, chúng chỉ là những yếu tố nằm trong chuỗi vận hành của Mười Hai Nhân Duyên và hoàn toàn có thể đoạn trừ được nhờ tu tập Đạo Đế. Thế nhưng, khi nghe nói đến Tập Đế, có người cho rằng tham ái vốn là bản chất của con người thì làm sao từ bỏ được? Do suy nghĩ như vậy, nên người ta không hướng đến sự tu tập giải thoát, và cứ mãi say sưa trong dục ái buộc ràng để rồi vẫn cứ mãi khổ đau.

Đối với những người đã biết rõ về khổ và thật sự muốn thoát khổ thì cần phải hiểu rằng Đức Phật chỉ dạy một chân lý duy nhất là Diệt Đế, sự diệt khổ, chứng Niết bàn, thành Phật. Như trong kinh Pháp Hoa, Ngài đã dạy: “Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện  ra đời, đó là chỉ cho chúng sanh tri kiến Phật để ngộ nhập”.  Tri kiến Phật đó là thấy rõ chỉ có một cái duy nhất chân thật là Niết Bàn, ngoài ra đều là giả dối hư huyễn. Chứng Diệt Đế, Niết Bàn có nghĩa là thấy rõ Khổ. Thấy rõ đây là thấy rõ nó không thật, chỉ hiện hữu một cách huyễn hoá, không thật. Vì khổ không thật có nên mới có thể đoạn trừ dễ dàng, nếu khổ là thật thì đoạn  trừ cũng uổng công vô ích mà thôi. Khổ không thật có, nhưng ta vẫn thấy rõ ràng có khổ là vì sao? Tìm nguyên nhân, ta được biết cái sai lầm căn để là do ở lối nhìn của ta về thân, tâm, vũ trụ, một lối nhìn lệch lạc, bệnh hoạn đã thành tập quán nhiều đời nhiều kiếp. Vậy chỉ cần sửa cái nhìn lại cho đúng, cũng như hư không vốn không có hoa đốm mà người tự thấy ra có hoa đốm là vì mắt bị bệnh. Tập đế- nguyên nhân của khổ là nói về lối nhìn sai lạc ấy, căn để là thấy thật có cái tôi, sở hữu của tôi, thấy có một tự ngã tiếp tục. Muốn đoạn trừ lối nhìn sai lạc ấy cần chữa cái bệnh của con mắt, theo phương pháp của Phật dạy là Bát Chánh Đạo, đó phần thứ tư trong Tứ Diêu Đế. Vì lối nhìn quan trọng như thế nên đứng đầu Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến tức là thấy cho đúng như thật. Thấy đúng như thật thì Niết Bàn chân thật được hiển lộ, Khổ, Tập tự tiêu tan, như khi mắt đã được chữa lành lặn bình thường thì bệnh mắt hết, mắt hết bệnh thì không còn thấy hoa đốm lăng xăng giữa hư không.” [7, 57]

Là đệ tử Phật, chúng ta hãy lắng nghe, hãy suy gẫm lời đức Phật dạy về Khổ, về nguyên nhân của khổ, để từ đó diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc hiện ở ngay nơi tầm tay, nếu ta biết buông bỏ đau khổ thì chắc chắn sẽ nắm bắt được hạnh phúc. Hạnh phúc không tùy thuộc vào những thế lực ngoại lai, mà nó ở ngay trong tâm của mỗi người, tâm ấy là tâm thuần tịnh, trong sáng, không ái nhiễm, không hệ luỵ, và cũng không mê mờ.

Với giáo lý Tứ Thánh Đế, đức Phật đã chỉ rõ về khổ và con đường diệt khổ một cách khá đầy đủ, vậy muốn thoát khổ thì mỗi người phải tự dấn thân trên con đường ấy.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

[1].Ayya khema, Diệu Đạo dịch, Vô Ngã Vô Ưu, Thiền Quán Về Phật Đạo

[2]. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ, Tập III, Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh, 1975.

[3].Minh Chi, Thuyết Bốn Đế, Giáo trình giảng dạy TNS-HVPGVN Tại TPHCM,1996.

[4].Đại Tạng Kinh VN, Trung A Hàm

[5].Đại Tạng Kinh VN, Tương Ưng Bộ, Quyển V, NXB Tôn Giáo, 2002.

[6]. Dhammananda, Nhuận Châu dịch, Làm Sao Tránh Khỏi Sự Sợ Hãi Và Lo Lắng, NXB Tổng Hợp TPHCM.

[7].Trí Hải, Bóng Nguyệt Lòng Sông, NXB Tôn Giáo, 2004.

[8].Trí Hải, Từ Nguồn Diệu Pháp, NXB Tôn Giáo, 2004.

[9].Thích Thiện Nhơn biên soạn, Đại Cương Luận Thành Duy Thức,Giáo trình giảng dạy TNS- HVPGVN Tại TPHCM, 2004.

[10].Tarthang Tulku, Minh Chi dịch, Những Yếu Tố Căn Bản Để Sống Thanh Thảnh Và Nhẹ Nhàng, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2004.

[11].Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận, NXB TPHCM,1999.

[12]. Thích Trí Tịnh dịch, Đại Bát Niết Bàn, Quyển I, NXB TPHCM,1999.

[13]. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Pháp Hoa, THPG TPHCM,1989.

[14]. Thích Thiện Siêu dịch, Kinh Pháp Cú, NXB Thuận Hoá-Huế, 1996.

 

Luận Văn tốt nghiệp

 Thích Nữ Quảng Quý


Nguồn: dentutraitim.com


alt