Pháp phục của Phật giáo Việt Nam từ triều Lý tới nay

Đạo Phật từ Ấn Độ theo con đường thương mại trên biển vào nước ta từ đầu Tây lịch, tính đến nay cũng đã ngót 2.000 năm. Tuy nhiên, phẩm phục của các tu sĩ Phật giáo Bắc tông từ đó đến nay như thế nào là một vấn đề cần sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Phật giáo.

trieuly-1.jpg

Đức Phật ngày xưa mặc như thế nào?

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh thời sinh hoạt, hành động thế nào, nay không thể biết rõ được. Song cứ góp nhặt các việc tản mạn trong kinh sách mà suy luận ra thì cũng có thể tưởng tượng cách sinh hoạt, hành vi của Phật đại khái như sau: "sáng dậy sớm, khoác ao cà sa (kashaya), tay cầm bình bát ra ngoài thành hay vào trong xóm làng, đi từng nhà một để khất thực".

Cà sa, (kasàya - y phục), từ điển Phật học(1) định nghĩa như sau: Tên gọi đầy đủ là cà sa duệ… Pháp y của Tỳ kheo có ba loại: đại, trung và tiểu; tránh dùng năm màu chính: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, mà lại dùng pha trộn các màu đó, nên theo sắc mà gọi là cà sa. Ba loại áo đại, trung, tiểu cũng có tên riêng. Loại nhỏ gọi là An đà hội (antarvasaka), còn có tên là áo năm mảnh (ngũ điều y); áo loại trung gọi là Uất đa la tăng (yttaarasamha), còn gọi là áo bảy mảnh (thất điều y); áo loại lớn gọi là Tăng già lê (samhati) cũng gọi là áo chín mảnh (cửu điều y). Theo Lục vật đồ, cà sa có 12 tên gọi: 1. Cà sa; 2. Đạo phục, áo của người tu đạo Phật; 3. Thế phục, áo của người xa rời cách biệt thế tục; 4. Pháp y, áo theo đúng pháp quy định; 5. Ly trần tục, áo xa rời cách biệt lục trần; 6. Tiêu sấu phục, áo có khả năng trừ phiền não; 7. Liên hoa phục, áo như hoa sen không nhiễm bùn hôi; 8. Gián sắc phục, áo không dùng 5 màu chính, 5 màu nguyên, mà đã nhuộm cho biến màu đi; 9. Từ bi phục, áo của người thực hành đức từ bi; 10. Phúc điền phục, áo cà sa do nhiều miếng vải nhỏ chắp lại, như từng thửa ruộng trên cánh đồng; cũng lại như phúc điền (ruộng phúc lộc); 11. Ngọa cụ, được dùng như cái nệm để nằm; 12. Phu cụ, được dùng như cái chăn để đắp. Kinh Tâm địa quán nêu 10 điều có lợi của áo cà sa, gồm có: 1. Che thân khỏi thẹn ngượng; 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét; 3. Biểu thị các tướng của Sa môn; 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật); 5. Khi mặc, nảy sinh bảo tháp tướng, diệt mọi tội; 6. Màu không thắm tươi rực rỡ, nảy sinh lòng không tham muốn; 7. Cà sa là áo thanh tịnh của Phật, vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, phát sinh mọi sự tốt lành, như thửa ruộng tốt cho bội thu; 8. Tiêu trừ tội lỗi, phát sinh mười điều thiện; 9. Như nơi đất tốt, có thể nảy nở mầm Bồ đề; 10. Như áo giáp, mũi tên độc phiền não không làm hại được, vì thế mà chư Phật ba đời đều mặc.

Khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền theo hướng Nam (Nam truyền) và hướng Bắc (Bắc truyền) thì cà sa của các tu sĩ Phật giáo giữa hai phái cũng có sự khác nhau về màu sắc (tu sĩ Ấn Độ và Nam truyền thường dùng màu vàng nghệ; Trung Quốc dùng cà sa màu đỏ pha đen, Nhật Bản dùng màu trà sẫm). Ở Ấn Độ chỉ có ba loại cà sa trên, không còn thứ áo nào khác; Trung Quốc và Nhật Bản khí hậu lạnh, cho nên trong mặc thêm các thứ áo quần, ngoài khoác áo cà sa.

Phẩm phục của tu sĩ Phật giáo Việt Nam thời trước

1- Triều Lý

Sau khi lên ngôi vào cuối năm 1009, Lý Công Uẩn: "Ban áo mặc cho hàng Tăng đạo"(2). Tuy nhiên sách không nói rõ có bao nhiêu loại áo và màu sắc cụ thể.

Trong sách Thiền uyển tập anh(3), đoạn chép về Quốc sư Thông Biện (? - 1134) thế hệ thứ VII dòng thiền Vô Ngôn Thông, ghi rằng: "… Năm 1096, sư được Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng thái hậu (tức Nguyên phi Ỷ Lan, mẹ vua Lý Nhân Tông) phong làm Tăng thống, ban áo cà sa màu tía, ban hiệu là Thông Biện Đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ vinh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm Quốc sư để tham vấn". Còn đoạn viết về Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) ghi rằng: "Trụ trì chùa Bảo Phúc, quận Mỹ Lăng (huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay)… Chẳng mấy chú ý đến bản thân, sư thường ăn vận đồ sô gai, hàng tơ lụa không bao giờ dùng đến, năm này qua năm khác cứ giữ một mực như thế".

trieuly-2.jpg

2- Triều Trần

Phật hoàng Trần Nhân Tông, thống nhất ba dòng thiền: Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường thành Thiền phái Trúc Lâm mang đậm nét Phật giáo Việt Nam, tuy nhiên không thấy Ngài quy định thống nhất y phục tu sĩ Phật giáo.

3- Thời Lê - Trịnh

Có lẽ, từ triều Trần trở đi cho tới triều Lê - Trịnh y phục các nhà sư Bắc tông chỉ gồm hai loại như triều Lý: Áo cà sa dùng trong các buổi lễ và bộ nâu sồng dùng thường ngày.

4- Các chúa Nguyễn và triều Nguyễn

Các chúa Nguyễn rất quan tâm đến Phật giáo. Chúa Nguyễn Phúc Chu từng mời Hòa thượng Thạch Liêm (Quảng Châu, Trung Quốc) sang hoằng pháp ở Đàng Trong và được Hòa thượng ban hiệu cho là Thiên Túng Đạo nhân. Một hôm (năm 1695), Chúa hỏi Hòa thượng Thạch Liêm: "Đệ tử từ bé nghe hai chữ Phật pháp đã sinh tâm kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam tức thì hoan hỷ, chẳng biết kiếp trước là ai? Làm phúc nghiệp gì? mà nay sinh ra làm vua ở đây? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên nghiệp trước, đội đức từ bi vô lượng"(4).

Đoạn văn trên cho ta biết, đến thế kỷ XVII, ngoài cà sa và áo nâu, áo lam đã là y phục của tu sĩ Phật giáo Đàng Trong.

5- Từ thế kỷ XX tới nay

Có lẽ do cách mặc khác như vậy mà tháng 5 năm 1927, được tin phong trào chấn hưng Phật giáo ngoài Bắc có người khởi xướng và một số sơn môn ủng hộ thực hiện, được báo chí cổ động, Hòa thượng Lê Khánh Hòa cử Giáo thụ Thiện Chiếu ra Bắc bắt liên lạc với các Tổ đình ngoài đó để xúc tiến thành lập Tổng hội Phật giáo (tức thống nhất Phật giáo ba miền). Sư Thiện Chiếu ra Hà Nội đến chùa Bà Đá (Linh Quang tự) yết kiến Hòa thượng Đỗ Văn Hỷ rồi xin phép lên động Tiên Lữ, Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên để gặp sư Tâm Lai. Vì Thiện Chiếu "đột ngột ăn mặc một cái lối khác sư Bắc kỳ đến, lại không đưa pháp giới cho Sư ông Lai xem" nên sư Tâm Lai lo ngại, không bộc bạch hết tâm sự về chấn hưng Phật giáo với Thiện Chiếu, cuộc gặp không thành công.

Tuy nhiên ngọn lửa chấn hưng vẫn âm ỉ và bùng phát vào những năm 1930, mở đầu là sự thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (8-1931), rồi Hội An Nam Phật học ở Trung kỳ (1932) rồi Hội Phật giáo Bắc kỳ (11-1934).

Chúng ta hãy điểm qua điều lệ, quy tắc của một số Hội Phật giáo xem các Hội đó đề cập đến vấn đề y phục tu sĩ Phật giáo ra sao.

a) Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học

Hội thành lập năm 1931. Nhưng điều lệ của Hội thông qua ngày 28-12-1929 có 4 chương, 19 điều và Quy tắc riêng của Hội thông qua ngày 21-9-1931 gồm 2 chương, 51 điều đều không có điều nào quy định về y phục của Tăng sĩ.

Tới Đại hội lần III họp ngày 8 tháng 1 năm 1933, thông qua quy tắc thiền môn, gồm 36 điều, trong đó điều 33 quy định:

Các vị Tăng già đã vào hội thì phải mặc y phục, đã định hôm kỳ Đại hội ngày 8 tháng 1 năm 1933 như sau đây:

Hòa thượng, Yết ma và Giáo thọ, thì mặc áo tràng màu thâm, còn Tăng chúng thì mặc áo nhật bình cùng màu thâm, quần và dù màu trắng, và đầu chẳng đặng bịt khăn (nghĩa là đầu không được bịt khăn - NĐĐ).

Như có đám chí, thì các vị tăng già cũng phải dùng y phục của Hội đã định trên đó(5).

b) Hội An Nam Phật học (Phật học Trung Kỳ)

Hội thành lập năm 1932. Điều lệ Hội ban hành ngày 15-7-1938 do Khâm sứ đại thần Trung Kỳ phê duyệt có 80 điều; kèm theo là Quy tắc An Nam Phật học hội có 17 điều, cả hai văn bản này đều không có điều nào nói về y phục Tăng sĩ của Hội.

c) Hội Phật giáo Bắc kỳ (Hội Việt Nam Phật giáo)

Tại lễ suy tôn Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh ngày 12 tháng 1 năm 1936 (18 tháng Chạp năm Ất Hợi) tại chùa Quán Sứ, 73 phố Richaud: "Tổ Vĩnh Nghiêm ngoài 90 tuổi, da mồi tóc bạc, thân gầy mắt lõm, đeo cặp kính đồi mồi, mình bận chiếc áo rộng điều, đầu đội mũ ni, do hai vị sư kính cẩn xốc hai bên nách, nhẹ nhàng bước từng bước một tiến lên, theo sau có hai vị sư ở Huế ra, mình bận áo cà sa màu vàng, đầu đội mũ miến chỉ vàng".

Tại lễ đặt móng chùa Hội quán Trung ương sáng ngày 26 tháng 6 năm 1938 (20-5-Mậu Dần): "…8g30, Sư tổ Liên phái kỳ túc nhất mặc mũ áo Thiền gia Pháp chủ và 4 vị Kỳ túc Đạo sư mặc xa đàn cùng chư Tăng lên Tam bảo cúng Phật, viên đá mỏng thứ nhất đặt trước Tam bảo…".

Báo Đuốc tuệ số 89 ra ngày 15-7-1938 có trưng cầu ý kiến về vấn đề cải cách trong Phật giáo, nêu 5 vấn đề trong đó vấn đề thứ tư: "Phục sức của Tăng Ni và lễ phục của cư sĩ nên chế ra thế nào?".

Tuy nhiên, cho tới năm 1945, chưa thấy có ý kiến nào góp ý về y phục của Tăng sĩ đăng trên báo Đuốc Tuệ(6).

d) Giáo hội Tăng già (GHTG) Việt Nam

Đại hội thành lập GHTG toàn quốc họp từ ngày 7 - 14-9-1952 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội đã ra Bản quy chế về phẩm phục của chư Tăng toàn quốc thi hành toàn cõi Việt Nam:

Về phẩm phục có sự thay đổi như sau:

Pháp phục bình thường:

- Thượng tọa bộ: áo tràng bảy thân, tay rộng;

- Đại chúng bộ: áo tràng bảy thân, tay hẹp.

- Sa di: áo nhật bình tay hẹp;

- Hình đồng: áo cài khuy cổ đứng, năm thân;

- Hạ y: quần cũng toàn dùng màu nâu thẫm;

Áo mặc thường ngày của Ni giới thì kiểu may như 4 bộ của Tăng giới nhưng dùng toàn màu mực (khói hương).

Về lễ phục:

- Tăng giới: cà sa toàn dựng màu vàng, áo tràng rộng màu mực khói hương;

- Ni giới: cà sa và áo tràng rộng đều dùng màu nâu.

Từ ngày 10-12-1952 (14-10 năm Nhâm Thìn) chư Tăng chùa Quán Sứ, Hà Nội và chùa Vọng Cung, Nam Định đã bận lễ phục mới theo đúng quy chế của Hội nghị GHTG toàn quốc ấn định. Lễ phục của Tăng giới là áo cà sa toàn màu vàng, áo tràng rộng bằng màu mực (khói hương) và thường phục dùng toàn màu nâu thẫm. Bên Ni giới, lễ phục là áo cà sa và áo tràng rộng dùng toàn màu nâu thẫm. Theo quy chế thường phục của Ni giới phải là màu khói hương, nhưng phần đông Ni chúng ở Nam và Bắc có gửi thư xin dùng màu lam để tránh đồng với sắc áo lễ của chư Tăng, nên Hội đồng Trị sự GHTG Việt Nam đã đồng ý để Ni chúng được dùng thường phục màu nâu như trước.

e) Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPG)

Thành lập tháng 11 năm 1981 và Ban hành Hiến chương GHPG Việt Nam. Tính tới Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Hiến chương đã được tu chỉnh 3 lần qua các kỳ Đại hội II (1987), Đại hội III (1992), Đại hội IV (1997), có 11 chương, 48 điều, không có điều nào quy định về y phục của Tăng sĩ. Điều này có nghĩa GHPG Việt Nam đồng ý với quy định của GHTG Việt Nam năm 1952.

Kết luận

Cho đến nay, trải qua những thời kỳ khác nhau, nhiều tổ chức Phật giáo khác nhau trong hệ thống Bắc tông Phật giáo đều tuân theo quy định nói trên.

Tuy nhiên, từ năm 1952 đã ngót 60 năm, việc thực hiện Quy chế Phẩm phục đã có sự thay đổi về màu sắc, về y phục, về lễ phục (ngày nay lễ phục chư Ni có màu vàng), các tu sĩ mặc trong ngày lễ không thống nhất,…

Thiết nghĩ, GHPG Việt Nam cần nghiên cứu và có quy định thống nhất trong cả nước về phẩm phục của tu sĩ, sao cho vừa hội nhập được với Phật giáo quốc tế, Phật giáo khu vực, vừa giữ được bản sắc truyền thống Phật giáo Việt Nam.

Nguyễn Đại Đồng

(1) Từ điển Phật học của Phân viện NCPHVN tại Hà Nội, do Nhà xuất bản KHXH ấn hành năm 2004. (2) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, Nxb Giáo Dục, 2007. (3 )Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn Hoạc, 1990 (4) Dẫn theo Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Vân Thanh, trang 158, Phật học viện và các chùa xuất bản năm 1974. (5) Xem Từ bi âm số 1, ra ngày 1-1-1931. (6) Các Hội Phật học khác như Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội Thiên Thai Thiền giáo tông liên hữu hội v.v… đều không có quy định về y phục tu sĩ.