ĐẠI LỄ PHẬT GIÁO KỶ NIỆM 1.000 NĂM THĂNG LONG – HÀ NỘI

alt

Vào lúc 8 giờ ngày 28 tháng 7 năm 2010, tại khu di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long, Thủ đô Hà Nội, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam – Bộ Ngoại giao trọng thể tổ chức Lễ khai mạc tuần lễ Đại lễ Phật giáo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội và tuần lễ văn hóa dân tộc và Kiều bào Việt Nam hướng về Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.

Đến chứng minh và tham dự có Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam; HT. Thích Thanh Tứ - Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS; HT. Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS; TT. Thích Bảo Nghiêm – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Tp. Hà Nội; chư Tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, Ban Trị sự các tỉnh, thành hội Phật giáo và hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước tham dự.

Buổi lễ với sự hiện diện của bà Trương Mỹ Hoa – nguyên Phó Chủ tịch nước CHXHCNVN; ông Nguyễn Thanh Sơn – Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài; quý ông, bà đại diện các Bộ, ngành Trung ương và Tp. Hà Nội; hơn 100 kiều bào Việt Nam đại diện cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và học tập tại các nước trên thế giới.

Được biết, sau khi lên ngôi hoàng đế, với sự góp ý của các bậc Quốc sư, Thiền sư và các đại thần, vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay) về thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Với tầm nhìn chiến lược của bậc nhân quân, thành Đại La có vị thế rồng chầu hổ phục, địa thế thuận lợi nhiều mặt để xây dựng đất nước Đại Việt ổn định chính trị, phát triển kinh tế, xã hội phồn vinh, quân sự vững mạnh để ngăn chặn các cuộc xâm lăng và mở mang bờ cõi về phương Nam.

1.000 năm đã đi qua, Thăng Long – Hà Nội luôn là cái nôi của đất nước, là thủ đô của nhiều vương triền phong kiến Việt Nam và nước Cộng hòa Xã hội Chu nghĩa Việt Nam hiện nay. Để tưởng nhớ vị anh minh, tài đức vẹn toàn Lý Công Uẩn, các bậc tiền nhân, các vị Quốc sư, Thiền sư đã có nhiều công đức cho việc xây dựng một vương triều Lý hùng mạnh mọi mặt; tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị Lãnh tụ tài ba của dân tộc, các anh hùng liệt sĩ đã giữ vững đất nước, độc lập, tự do của tổ quốc qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại cũng như cầu cho quốc thới dân dân an, nhân dân an cư lạc nghiệp, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Tổ chức một lễ kỷ niệm ngay nơi hoàng thành thuở trước để các thế hệ con cháu Vua Hùng tự hào về 4.000 năm văn hiến Việt Nam, tự hào về 1.000 Thăng Long – Hà Nội, nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, tự hào về những bản anh hùng ca bất diệt trong dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc Việt Nam ở trong nước và nước ngoài qua các giai đoạn lịch sử, thời chiến cũng như thời bình.

alt

 

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN phát biểu khai mạc Đại lễ Phật giáo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Diễn văn khai mạc có đoạn viết:

“Hôm nay trong bầu không khí trang nghiêm và hội tụ hùng khí linh thiêng của dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng toàn thể các tầng lớp nhân dân có tín ngưỡng Phật giáo thuộc các dân tộc Việt Nam, hội tụ tại Hoàng Thành Thăng Long lịch sử để sửa soạn lễ nghi, cử hành Đại Lễ tri ân công đức các bậc tiền nhân đã có công lao to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, cầu nguyện quốc thái dân an hùng cường vững mạnh, thế giới hoà bình, người người an lạc.

Từ thời vua Hùng dựng nước, đất Phong Châu rộng lớn oai hùng, luôn luôn hướng về đồng bằng châu thổ Sông Hồng mầu mở phì nhiêu, định hướng tiến cho dân tộc và mở mang bờ cõi về phương Nam và Biển Đông rộng lớn.

Đến thời đại Giao Châu, Tống Bình một thuở, thành Đại La xuất hiện hình thành, định vị Trung tâm Nước Việt. Dù có lúc Vạn Xuân tươi đẹp muôn năm, Long Biên – Rồng bay uốn khúc, Đại Cồ Việt oai hùng, Hoa Lư – Vườn hoa dân tộc, một khí thế từng bừng, hội tụ hồn thiêng dân tộc, nuôi dưỡng ý chí quật cường, phát triển đất nước bền vững, sánh vai cùng các nước lân bang. Từ đó, khi lên ngôi Hoàng đế, vua Lý Thái Tổ đã ban chiếu dời đô từ Hoa Lư – Ninh Bình về thành Đại La (1010), ở nơi ấy rồng vàng xuất hiện, vươn tới trời cao, Vua đổi tên Đại La thành Thăng Long – Hà Nội ngày nay.

Trong 216 năm triều Lý, 175 năm đời Trần, kinh đô Thăng Long rực rỡ huy hoàng tráng lệ, phong quang, no ấm, dân giàu, nước mạnh về mọi mặt: Văn hóa, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng được củng cố và có hướng phát triển về phía Nam và biển Đông. Với bối cảnh đất nước như trên, Phật giáo thời Lý, thời Trần được coi trọng như là tôn giáo của dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển đất nước Đại Việt quang vinh, huy hoàng dưới ánh sáng từ bi, trí tuệ, bình đẳng của giáo lý Phật Đà.

Biết bao công trình Văn hóa Phật giáo còn để lại cho dân tộc Việt Nam ngày nay. Chùa Diên Hựu - Một Cột, chùa Hưng Long, chùa Lý Triều Quốc Sư, chùa Hồng Phúc, Báo Thiên Bảo Tháp, chùa Quán Sứ, chùa Lánh (Chiêu Thiền), chùa Khai Quốc – Trấn Quốc bên Hồ Tây đẹp đẽ thơ mộng của Thủ đô Hà Nội cũng như thời đại Hồ Chí Minh lịch sử tên vàng, ngàn sao lấp lánh, Ba Đình lịch sử với Lăng Hồ Chủ tịch uy nghiêm.

Ôi:

"Thăng Long cảnh đẹp nên thơ

Tây Hồ trăng sáng ngẩn ngơ nhớ người"

Qua bao thăng trầm của lịch sử, biết bao sự biến thiên của thời cuộc, của vận nước, nhưng đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Phật giáo Việt Nam luôn luôn là một, trong thế đứng vững vàng, an nguy có nhau, chung sức chung lòng, dựng nước và giữ nước, giữ gìn hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Với tinh thần lịch sử oai hùng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, thời chiến tranh cũng như thời bình, Phật giáo Việt Nam luôn luôn đồng hành với dân tộc, bám trụ, bám làng, bám vào lòng dân tộc để duy trì đạo mạch và phát huy Đạo Đời tươi đẹp. Do hoàn cảnh chiến tranh ly tán, vì thế Đạo pháp cũng có phần suy yếu, cho nên mới có phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Dù vậy, Thăng Long - Hà Nội vẫn là cái nôi, là trung tâm Phật giáo cả nước, là trung tâm của Giáo hội Tăng già Toàn quốc Việt Nam.

Sau một thời gian chia đôi đất nước, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đại thắng vào mùa xuân năm 1975, nước nhà thống nhất, giang sơn nối liền một cõi, Bắc Nam sum họp một nhà. Lại một lần nữa Thăng Long – Hà Nội vẫn là trung tâm hội tụ của Phật giáo cả nước, của lịch sử 2000 năm Phật giáo Việt Nam. Đại hội thống nhất Phật giáo cả nước tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội – hình thành ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981.

Qua gần 30 năm hoạt động, Phật giáo Việt Nam ngày nay đã phát triển huy hoàng trong lòng dân tộc Việt Nam, không những phát triển trong nước mà còn lan tỏa ra thế giới, khắp năm châu, bốn biển. Phật giáo Việt Nam ngày nay trong thời kỳ hội nhập, phát triển của thế kỷ 21 và những thế kỷ tiếp theo, góp phần xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, củng cố hòa bình thế giới và chúng sinh an lạc.

Hướng tới chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với các cơ quan ở Trung ương và các địa phương, cùng toàn thể các tầng lớp nhân dân có tín ngưỡng đồng tổ chức Đại lễ Phật giáo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, nhằm mục đích nêu cao truyền thống uống nước nhớ nguồn đối với các thế hệ Tổ Tiên đã có công xây dựng kiến tạo đất nước, thủ đô văn hiến Thăng Long - Hà Nội suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và cầu nguyện nhân dân no ấm giàu mạnh an lạc, Quốc gia thịnh trị phú cường, thế giới hòa bình.

Đại lễ diễn ra hôm nay tại địa điểm lịch sử này cũng là thời khắc tại Cộng hoà Liên bang Bra Xin, Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hoá Liên Hợp quốc (UNESCO) đang xem xét quyết định công nhận Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hoá của nhân loại thế giới. Với ý nghĩa đó, chúng tôi đề nghị tất cả các quý vị đại biểu hiện diện tại đây, cũng như đồng bào cả nước nhất tâm hướng về Đại lễ để cầu nguyện mọi sự được thành tựu viên mãn.

Trong suốt một tuần diễn ra Đại lễ, giới Tăng Ni, Phật tử cả nước nhất tâm tổ chức cung nghênh Long vị đức Vua Lý Thái Tổ, Long vị các vương triều; Cung nghênh Giác linh lịch đại Tổ sư có công với đất nước; chân linh các anh hùng liệt sỹ, chiến sỹ, đồng bào đã hy sinh trong công cộng đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ đất nước qua các thời kỳ, đặc biệt chúng ta tưởng nhớ và tri ân công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng như những vị lãnh đạo đất nước đã hy sinh, từ trần trong thời đại Hồ Chí Minh.

Với truyền thống hiếu hoà và giải thoát, lấy ân báo oán của giáo lý Đức Phật, với truyền thống bang giao hữu hảo, khép lại quá khứ đau thương, hướng tới tương lai tốt đẹp, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, giới Tăng Ni, Phật tử cả nước nhất tâm cầu nguyện siêu thoát đến tất cả các chân linh, chiến sỹ trận vong, đồng bào cơ cận, tử nạn, những quân nhân các nước đã từng tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây được siêu đăng nơi Phật quốc và cung tiễn chân linh quý vị được đoàn tụ về với gia đình nơi Quý Quốc.

Bên cạnh các hoạt động nghi lễ tâm linh, cầu an, cầu siêu, chúng tôi còn tổ chức nhiều hoạt động Phật sự có ý nghĩa thiết thực khác như: tổ chức triển lãm cổ vật Phật giáo có giá trị về nghệ thuật, văn hoá, lịch sử vô giá tồn tại mãi với thời gian; những hoạt động từ thiện xã hội để giúp đỡ các gia đình nghèo, khó khăn, các cháu học sinh, sinh viên vượt khó đã có kết quả thành tích tốt trong học tập và rèn luyện; tổ chức hội thảo với sự tham gia của hàng trăm các học giả trí thức, Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam với chủ đề “Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”; nhiều hoạt động thuyết giảng tại các trung tâm nhà văn hoá, khu du lịch, cũng như tổ chức hoạt động văn hoá nghệ thuật Phật giáo thông qua các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, đêm hội hoa đăng mang dấu ấn 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - Hội tụ và Phát triển bền vững.

Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, chúng ta cũng tự hào về con cháu tiên rồng, dân tộc Đại Việt oai hùng, Việt Nam anh dũng kiên cường trong suốt hơn 4000 năm Văn hiến, 2000 năm Phật giáo Việt Nam và 1000 năm Thăng Long Hà Nội hùng cường, là một trong những Thủ đô có tuổi thọ lâu dài trên thế giới, vì thế, Hà Nội - Thủ đô của nước Việt Nam chúng ta đang được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hoá Liên Hợp quốc (UNESCO) công nhận là Thủ đô vì Hoà bình. Chúng ta càng tự hào bao nhiêu, lại càng có trách nhiệm bấy nhiêu để phát huy tinh thần dân tộc, văn hóa lâu đời của Tổ Tiên, của người Việt Nam, đất nước Việt Nam thân yêu và Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hóa phong phú của nhân loại, nhưng vẫn giàu bản sắc văn hóa dân tộc Việt, luôn là biểu tượng của hòa bình, hạnh phúc thân yêu của chúng ta”.

alt

TT. Thích Bảo Nghiêm – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Tp. Hà Nội, Trưởng Ban Tổ chức Đại lễ Phật giáo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội cung tuyên văn tưởng niệm công trạng đức vua Lý Thái Tổ, các vị quốc sư, thiền sư:

“Đức vua Lý Thái Tổ, huý là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất (974), người làng Cổ Pháp, Bắc Giang, nay là Đình Bảng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Thân mẫu là Phạm Thị. Khi lên 3 tuổi, thân mẫu đem Ngài Lý Công Uẩn cho Thiền sư Lý Khánh Vân – Chùa Dâu (Pháp Vân) làm con nuôi. Năm lên 7 tuổi, Thiền sư Lý Khánh Vân đem gửi Ngài Lý Công Uẩn học đạo với Thiền sư Vạn Hạnh – chùa Lục Tổ (chùa Tiêu Sơn), huyện Tiên Du, Bắc Ninh.

Với bẩm tính thông minh, hiếu học, được hun đúc chốn cửa Thiền, Ngài Lý Công Uẩn được Thiền sư Vạn Hạnh cho học văn võ song toàn, chí khí cao thượng, trong cảnh đất nước vừa mới có độc lập tự chủ sau 1000 năm Bắc thuộc đang cần nền hòa bình phát triển đất nước, nhân dân được hạnh phúc phú cường mà tiền nhân các nhà lãnh đạo đương nhiệm, cũng như các vị Quốc sư, Thiền sư thầy của Lý Công Uẩn đang cố gắng thực hiện. Chính những tác động ấy đã hun đúc ý chí yêu nước thương dân, sẽ góp phần xây dựng và phát triển đất nước của chàng trai nước Đại Việt họ Lý sau này.

Một điểm thuận lợi là các Thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt, Pháp Thuận đều là những trụ cột của triều đình, là Tăng thống, Quốc sư, cố vấn cho triều đình nhà Đinh và Tiền Lê (968 - 1009). Do đó, khi Lý Công Uẩn trưởng thành, Ngài được Vạn Hạnh Thiền sư tiến cử vào kinh đô Hoa Lư làm tham chính triều Tiền Lê – Lê Đại Hành, chức vụ Tả thân vệ – Điện tiền chỉ huy sứ cho đến thời Lê Long Đỉnh (1005 - 1009).

Sau khi vua Lê Long Đỉnh băng hà (1009), Ngài được Chỉ Hầu Đào Cam Mộc, bá quan văn võ và sự ủng hộ của Đại sư Khuông Việt, Vạn Hạnh v.v… tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, đổi niên hiệu năm Thuận Thiên thứ nhất (1009), kinh đô đặt tại Hoa Lư.

Với tầm nhìn chiến lược và lâu dài, có liên quan đến điều kiện phát triển địa lý, văn hóa, xã hội, kinh tế, quốc phòng … cho nên, vua Lý Thái Tổ khi lên ngôi được 10 tháng, đến tháng 8 năm Canh Tuất (1010), Ngài quyết định dời đô về thành Đại La. Nội dung Chiếu Dời đô có đoạn:

“…. Thành Đại La ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, tiện hướng nhìn sông tựa núi, địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Đại Việt ta, chỉ nơi đây là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Khi thuyền ngự cập bến sông Hồng, thấy rồng vàng thăng thiên, do đó Ngài đổi tên Đại La thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).

Định đô tại Thăng Long, Ngài lập tức đổi tên cố đô Hoa Lư thành phủ Tràng An, Châu Cổ Pháp quê nhà thành phủ Thiên Đức (Bắc Ninh), cho xây cung điện, lâu đài …. Xứng đáng là Kinh đô của Nước Việt, đất nước ngàn năm văn hiến, trái tim của Tổ quốc Việt Nam muôn đời.

Bên cạnh đó, Ngài đã nhiều lần ban chiếu xây dựng chùa chiền trong nội, ngoại thành Thăng Long và quê hương Cổ Pháp như: Hưng Thiện, Vạn Tuế, Thắng Nghiêm, Đại Giác, Chân Giáo, Thiên Quang, Thiên Đức, Thiên Vương, Cẩm Y, Hưng Long, Thắng Thọ. Năm 1014, vua cho mở Đại Giới đàn tại chùa Vạn Tuế, thành Nội để độ chúng Tăng xuất gia, thọ giới tu học hàng ngàn người.

Năm 1014 – 1019, vua Lý Thái Tổ chỉ đạo cho Tăng thống Thẩm Văn Uyển độ hơn 4000 Tăng xuất gia và cấp độ điệp làm Tăng, thỉnh cử Ngài Phí Trí làm Tăng thống lãnh đạo Phật giáo cả nước. Kế tiếp có Ngài Hữu Nhai Tăng thống Thẩm Văn Uyển, rồi đến Tăng thống Huệ Sinh, Tăng thống Khánh Hỷ lãnh đạo Phật giáo thống nhất triều Lý (1010 - 1225).

Năm 1018, Ngài cho phái bộ Nguyễn Đạo Thành, Phạm Hạc sang nhà Tống thỉnh Đại Tạng Kinh. Cho xây nhà Tàng Kinh Trấn Phúc để tôn trí Đại Tạng.

Năm 1024, cho xây chùa Chân Giáo trong thành để Nhà Vua dễ đến đọc tụng kinh, bái sám, hành lễ; thỉnh chư Tăng giảng kinh thuyết pháp, cho văn võ bá quan và dân chúng thuận lợi nghe pháp, đượm nhuần ân pháp vũ.

Năm 1027, cho sao chép Đại Tạng Kinh làm nhiều bản để phổ biến cho dân chúng nghiên cứu, tu học và tôn trí tại Tàng kinh các Bát Giác, Đại Hưng và những ngôi chùa trọng yếu trong thành Thăng Long.

Ngài đã coi giáo lý đạo Phật làm nền tảng đạo đức căn bản, tổ chức trích yếu những lời dạy của Đức Phật qua Đại Tạng kinh và những lời khai thị, kệ ngôn, huấn thị của các Thiền sư, bấy giờ chùa vừa là nơi đào tạo con người, vừa là nhà trường tốt nhất để giáo dục đào tạo nên những con người có tài đức, như cư sĩ Tô Hiến Thành, Ngô Hòa Nghĩa, Lý Thường Kiệt, Lương Nhiệm Văn, Nguyễn Đạo Thành. Đặc biệt, đời Lý Nhân Tông thành lập Trường Quốc Tử Giám (1076) – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, làm Lễ tắm Phật (Phật đản), Đại lễ Vu lan được tổ chức vào năm 1072; Hội đèn Quảng Chiếu tổ chức vào các năm 1110, 1116, 1120, 1128 dưới đời Lý Nhân Tông v.v… Với nền giáo dục nhân bản, từ bi, trí tuệ và rộng mở, có thể nói trình độ tri thức dân chúng được nâng cao, làm nền tảng cho mọi học thuật và kiến trúc Phật giáo thời Lý, dẫn đến đời Trần (1225 - 1400).

Chiến lược quân sự được củng cố và phát triển, quân đội hùng mạnh và tinh nhuệ, đủ thực lực để đánh Tống bình Chiêm. Cho nên, vào đời vua Lý Thái Tông đã đánh thắng quân nhà Tống (1077), bản tuyên ngôn độc lập thứ hai ra đời, do Lý Thường Kiệt công bố giữa ba quân; Lý Thánh Tông đã chinh phục Chiêm Thành, vua Chế Củ hiến 3 Châu (Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính) để chuộc tội và nhập vào bản đồ Đại Việt, mở rộng bờ cõi đến Tây Bắc Quảng Trị. Đến thời Trần công chúa Huyền Trần được gã cho vua Chiêm – Chế Mân để thắt chặt bang giao hai nước, đáp lại Vua Chiêm dâng 2 Châu (Châu Ô, Châu Rí) để làm sính lễ, Đại Việt mở rộng bờ cõi đến tận Quảng Nam…

Về sinh hoạt đời sống xã hội, dân chúng an cư lạc nghiệp, đất nước phồn vinh, văn minh, tiến bộ, thậm chí sứ thần nhà Tống đã khen: “Là một xã hội ấm no hạnh phúc, dân chúng an cư lạc nghiệp, không bị thiên tai lũ lụt, đất đai mầu mở và luôn luôn phát triển, mở rộng thêm”.

Bằng tinh thần từ bi, bình đẳng, khoan dung, độ lượng của Phật giáo, tam giáo hài hòa đồng hành phát triển, nên từ vua quan đến dân chúng đều đượm nhuần tư tưởng Phật giáo, là điều kiện phát triển và sinh hoạt xã hội theo định hướng chung của đạo Phật. Phật giáo thời Lý, là xã hội thuần nhất, đạo đức, hướng thiện, ổn định và hòa bình thực sự có một không hai trong lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.

Có được công cuộc cải cách, đổi mới và phát triển đất nước Đại Việt bấy giờ đạt đến đỉnh cao như thế phải nghĩ đến công đức của các vị Quốc sư là cố vấn của triều đình, đặc biệt là Thiền sư Vạn Hạnh, người làng Cổ Pháp, Bắc Ninh, sinh năm 932 vào thời Tiền Lý, xuất gia tu hành theo học với Thiền Ông Lão Tổ, chùa Lục Tổ (Tiêu Sơn), với pháp môn hành trì là Tổng Trì Tam Ma Địa, xuất phát từ dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, làu thông Tam tạng và tư tưởng Phật, Nho, Lão giáo, biết được những điều sắp xảy ra. Năm 981, Thiền sư Vạn Hạnh giúp vua Lê Đại Hành ngăn chặn và đánh tan cuộc xâm lăng của quân nhà Tống; Năm 982, giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng Chiêm Thành; Năm 1009, Thiền sư Vạn Hạnh cùng các Thiền sư Khuông Việt, Đa Bảo, Lý Khánh Vân, ông Đào Cam Mộc định kế tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, và trù tính kế hoạch cho vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Do đó, các thành tựu dưới thời vua Lý Thái Tổ đều có công sức đóng góp to lớn của Thiền sư Vạn Hạnh.

Với tư tưởng xuất phát từ Kinh Kim Cang, tất cả các pháp là không được thể hiện qua bài thơ thị tịch của Thiền sư Vạn Hạnh:

“Thân như điện chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng

Tùy vận thịnh suy không sợ hãi

Thịnh suy đầu cỏ dính sương mai”

Bằng tư tưởng Phật tại đây và ở trong ta và cùng khắp cả mọi người, muôn đời, được thể hiện qua câu nói trong giờ thị tịch: “Các con muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ mà trụ. Các Pháp là không” của Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Cảm Thành Thiền sư trước đó. Cho nên, với tinh thần vì Đạo nhưng không quên đời, Quốc sư Vạn Hạnh là nhân vật chủ yếu, tiêu biểu trong sự hưng thịnh của Triều Lý, được vua Lý Nhân Tông có bài truy tán như sau:

"Vạn Hạnh rõ ba đời

Lời nói hợp sấm ký

Quê quán Làng Cổ Pháp

Chống gậy vững triều đình"

Đồng thời, cũng còn rất nhiều Thiền sư như Khuông Việt, Đa Bảo, Tăng thống Huệ Sinh, Minh Không, Mãn Giác, Hiện Quang, Ứng Thuận, Sùng Phạm, Thông Biện, Tăng thống Khánh Hỷ, Viên Thông, Thiền sư Thảo Đường v.v… để từ đó làm cơ sở tiềm lực, chí khí quật cường cho Nhà Trần tiếp tục thực hiện việc trị nước an dân. Từ vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông v.v…. đất nước mở rộng đến Qui Ninh (Qui Nhơn, Bình Định). Có những nhà Vua, vị tướng tu hành chứng ngộ khi đương vị như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ; xuất gia tu hành chứng đạo như Trần Nhân Tông – Điều Ngự Giác Hoàng, thống nhất các Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử … Những hàng xuất gia lỗi lạc, lãnh đạo Phật giáo cả nước như: Pháp Loa, Huyền Quang Tôn giả, Bảo Sát, Quốc sư Bảo Phác, Lẫm Sơn, Tông Cảnh v.v… làm cho Phật giáo thời Trần thêm rực rỡ vinh quang, có một không hai trong lịch sử Phật giáo Việt Nam với một nền Phật giáo thống nhất có từ thời Đinh, Tiền Lê, nhà Lý và đời Trần.

Cho đến thời Lê, Phật giáo vẫn phát huy được tinh thần tôn giáo của dân tộc và hướng dẫn tư tưởng nhân dân trong các lĩnh vực sinh hoạt xã hội như Tăng thống Chân Nguyên, Thiền sư Huệ Hồng, Thiền sư Như sơn, Thiền sư Hương Hải, Đạo Chân, Đạo Tâm, Chuyết Công Hòa thượng, Thủy Nguyệt Thông Giác, Tông Diễn, Như Hiện, Như Trừng, Tính Dược v.v…

Đến thời cận đại Phật giáo Việt Nam, tỏa sáng từ Bắc chí Nam, giang san trải dài từ ải Nam Quan – Lạng Sơn đến Hà Tiên (1698 - 1700), nối liền mạch sống của dân tộc như các Thiền sư Toàn Nhật, Tính Tĩnh, Tính Tuyền, Hải Quýnh – Từ Phong, Kim Liên Tịnh Tuyền, Tường Quang Chiếu Khoan, Phúc Điền, Phổ Tịnh, Thông Vinh, Nguyên Thiều, Liễu Quán đạo mạch tiếp tục lưu truyền cùng dòng chảy lịch sử, phát triển của dân tộc Việt Nam yêu dấu.

Trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, biết bao vị Tổ sư, Thiền sư, Hòa thượng chống gậy trúc đi khắp ba miền đất nước để hình thành ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, như Tổ Thanh Hanh, Tổ sư Tuệ Tạng, Tổ Mật Ứng, Tổ Giác Tiên, Phước Huệ, Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang, Chí Thiền, Hòa thượng Tịnh Khiết, Hòa thượng Trí Hải v.v…

Sau khi nước nhà độc lập, thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà, Phật giáo Việt Nam tiếp tục thống nhất thành công ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam – đỉnh cao của thời đại, có cố đại lão: Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Hòa thượng Thích Tâm Tịch, Hòa thượng Thích Trí Độ, Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Thế Long, Hòa thượng Thích Tâm Thông, Hòa thượng Kim Cương Tử, Hòa thượng Thích Giới Nghiêm, Hòa thượng Thích Giác Nhu, Hòa thượng Thạch Xom, Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, Hòa thượng Thích Thiện Hào, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Huệ Thành, Hòa thượng Thích Bửu Ý, Hòa thượng Thích Đạt Hảo v.v… đã ghi công đức sáng ngời vào trang sử vàng son Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Trải qua các triều đại Lý, Trần, hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, đến thời đại Hồ Chí Minh lịch sử tên vàng, ngàn sao lấp lánh, Thăng Long – Hà Nội, vẫn tiếp tục là nơi hội tụ và lan tỏa sức sống muôn đời của Tổ tiên, của các vị tiền bối hữu công đối với đất nước và dân tộc cũng như Phật giáo Việt Nam, trung tâm văn hóa của cả nước luôn luôn phát triển không ngừng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, lịch sử hồn thiêng sông núi oai hùng. Rồng vàng phất phới bay cao - Sông Hồng nước chảy đổ vào biển Đông, tạo được tình Hữu nghị đoàn kết năm châu, bốn biển - Rồng bay muôn vạn nẻo đường – Con rồng Châu Á xứng danh ngàn đời, trong thời kỳ hội nhập và phát triển thế giới toàn cầu. Quả thực: “Nhớ thuở mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (1945 - 2010).

Đại lễ Phật giáo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ba Đình lịch sử, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc, tinh thần nhập thế tích cực và xây dựng phát triển đất nước, bảo vệ hòa bình của Phật giáo Việt Nam hơn 1000 năm qua – Ngàn năm đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, của các nhân vật điển hình, trân trọng với bao công trạng to lớn vô vàn của vua Lý Thái Tổ - Vạn Hạnh Quốc sư, và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, rực rờ tên vàng. Quả thật: “Công ai đổ xuống đất này, cho hoa dân tộc ngày ngày thêm tươi”.

Vì thế, tất cả chúng ta, con dân nước Việt, hậu duệ nhiều đời của Tổ tiên, của các bậc tiền bối hữu công, phải phát huy tinh thần yêu nước, yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, bảo vệ những thành quả, những di sản văn hóa quý báu, truyền thống tốt đẹp của ông cha ta, cùng nhau nỗ lực thực hiện những hoài bão muôn đời của Tổ tông, để đất nước Việt Nam, Phật giáo Việt Nam sánh vai cùng bè bạn năm châu bốn biển trong cộng đồng thế giới ở thời kỳ phát triển hội nhập toàn cầu của thế kỷ 21 và những thế kỷ tiếp theo".

Tiếp theo chương trình của Đại lễ, chư Tôn giáo phẩm Lãnh đạo GHPGVN, chư vị quan khách đại diện Đảng và Nhà nước, các Bộ ngành Trung ương, Tp. Hà Nội và hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử, kiều bào Việt Nam dâng hương tưởng niệm và Ban Nghi lễ cung tuyên trạng văn cầu quốc thới dân an, tưởng niệm Vua Lý Công Uẩn, anh hùng liệt sĩ, đồng bào tử nạn trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước.

Nhân Đại lễ, Trung ương GHPGVN trao tặng 1 tỷ đồng cho quỹ đền ơn đáp nghĩa, quý người nghèo Tp. Hà Nội; trao tặng 500 suất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học tại Tp. Hà Nội.

alt

Xe hoa rước lễ

alt

 alt

Cung nghinh chư tôn giáo phẩm quang lâm lễ đài

 alt

alt

Chư tôn giáo phẩm chứng minh và quý quan khách

alt

 

alt

alt

alt

Quang cảnh buổi lễ

alt

alt

alt

Ông Nguyễn Thanh Sơn phát biểu

alt

Cử hành nghi thức niệm hương

alt

alt

Đại đức Thích Tiến Đạt tuyên đọc Trạng văn cầu quốc thới dân an

alt

TT. Thích Quảng Tùng trao học bổng và nhà tình thương

alt

HT. Thích Trí Quảng nhận quà lưu niệm từ phái đoàn Nhật Bản

alt

Trai đàn cầu an và cầu siêu

alt

alt

alt

Tin và ảnh: Cộng tác viên tại Hà Nội

(giaohoiphatgiaovietnam.vn)