Chùa Thầy

chuaphattichphatadida.jpgChùa còn đ­­ược gọi tên là Vạn Phúc, toạ lạc trên s­ườn núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha hay Non Tiên), xã Phượng Hoàng, huyện Tiên Du , tỉnh Bắc Ninh, cửa chùa theo hướng Tây Nam, nhìn ra sông Đuống lấp lánh ánh bạc... Theo sách " Đại Việt Sử Ký toàn thư"và các di vật tìm thấy ở khu vực chùa, thì Vạn Phúc Tự đư­ợc xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VII-X và đư­ợc hoàn chỉnh vào triều Lý Thánh Tông năm Đinh Dậu, Niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057) và tu bổ khang trang vào năm 1686. Vào năm 1057 vua Lý Thánh Tông đã cho dựng cây tháp báu và đúc pho t­ượng phật mình vàng. Chùa đ­ược xây dựng đại qui mô vào thế kỷ thứ XVII. Năm 1947 do chiến tranh, chùa bị phá huỷ hoàn toàn. Năm 1958, chùa đư­ợc dựng lại sơ sài. Năm 1991 chùa đ­ược xây dựng lại theo qui mô kiến trúc cổ.

Chùa Phật Tích nằm trên một địa bàn diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt cổ từ đầu công nguyên, trên cơ sở đó hình thành trung tâm Phật giáo Dâu – Luy Lâu có phạm vi ảnh hưởng rộng.

Chùa Phật Tích

Trích bacninhgov.vn

Theo sách " Đại Việt Sử Ký toàn thư"và các di vật tìm thấy ở khu vực chùa, thì Vạn Phúc Tự đư­ợc xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VII-X và đư­ợc hoàn chỉnh vào triều Lý Thánh Tông năm Đinh Dậu, Niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057) và tu bổ khang trang vào năm 1686. Vào năm 1057 vua Lý Thánh Tông đã cho dựng cây tháp báu và đúc pho t­ượng phật mình vàng. Chùa đ­ược xây dựng đại qui mô vào thế kỷ thứ XVII. Năm 1947 do chiến tranh, chùa bị phá huỷ hoàn toàn. Năm 1958, chùa đư­ợc dựng lại sơ sài. Năm 1991 chùa đ­ược xây dựng lại theo qui mô kiến trúc cổ.

Chùa Phật Tích nằm trên một địa bàn diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian Việt cổ từ đầu công nguyên, trên cơ sở đó hình thành trung tâm Phật giáo Dâu – Luy Lâu có phạm vi ảnh hưởng rộng.

Hiện tại di vật chính của chùa còn lại:

Tư­ợng Phật A-di-đà: bằng đá đã đi vào truyền kỳ của Phật Tích, tượng phật A-di-đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối, ngồi thiền định trên toà sen, cao 1,87mét, bệ tượng cao 0,9 mét, và được chạm tinh xảo và mềm mại. Bệ đá hình hoa sen cao 0,9 mét có chu vi 5,92 mét được chia làm 2 phần: Phần trên chạm khắc trang trí hình rồng (rồng, rắn theo kiểu thời Lý ), dây hoa cúc uốn lượn tinh tế, các tiên nữ múa mềm mại. Phần dưới là hoa văn hình sóng nước. Đài sen phía trên có đường kính 1,32 m, với hai lớp cánh sen, mỗi lớp 15 cánh xoè nở rộng, có chạm hình rồng, mây uyển ch uyển. Các đường diềm xung quanh được trang trí tỷ mỉ chẳng khác gì " thêu ren" các hoạ tiết hay những ngọn sóng nhấp nhô muôn ngàn đợt tạo nên sự nhẹbay bổng cho bức tượng.

Tượng Người – Chim : Là một tác phẩm điêu khắc đá cỡ trung bình, được tạo hình khối tròn, một nửa từ ngực trở lên trang trí hình người, nửa sau trang trí hình chim. Khuôn mặt người chim đầy đặn, lộ nét hiền từ, lông mày cong thanh tú viền lấy đôi mắt nhỏ xinh...đôi cánh xoè rộng, hai chân cứng, khoẻ với móng cong sắc.

Chân cột chạm dàn nhạc : Chân cột chùabằng đá ở chùa Phật Tích được chia làm hai phần: Phần trên mặt tròn, phần dưới là khối hộp vuông (mỗi cạnh 0,72 x 0,17m). Mặt tròn được chạm những cánh sen nở đều, trên mỗi cánh sen đều có đôi rồng trầu với những đường cong mềm mại. Nhưng cái cuốn hút nhất lại nằm ở phần khối hộp, các phần đều được chạm nổi các mảng trang trí giống nhau, được thể hiện theo chiều ngang, lấy điểm giữalà một vùng sáng bốc lên từ đoá sen trượng trưng cho đất phật. Tác phẩm chia làm hai phần đối xứng qua vòng sáng ấy, mỗi bên có 5 người, mỗi ngư ời thể hiện một điệu múa, chơi một nhạc cụ khác nhau, diễn tả một điệu múa phức tạp, song đều thống nhất trong một nhịp điệu chung.

Hàng thú trước sân chùa: Chùa Phật Tích còn lưu giữ được mười con thú đá như tê giác, trâu, voi, sư tử, ngựa được xếp đối xứng qua cửa dẫn lên tầng nền thứ 2 cửa chùa. Thú đá có kích thước chiều cao bằng nhau (1,2m), chiều dài của ngựa 1,5m, tê giác 1,6m, trâu 1,5m, voi 1,8m, sư tử 1,5 m. Tất cả đều được tạc bằng đá liền khối (trừ tượng trâu)

Pho tượng táng : Đó chính là pho tượng của thiền sư Chuyết Chuyết công, vị sư tổ được bó cốt (xương) hay còn gọi là " Nhục thân bồ tát". Đó chính là "chân dung kết tủa của thiền sư Lý Thiên Tộ, pháp danh Hải Trừng" hiệu Viên Văn, Ông sinh năm 1590 ở quận Thanh Chương, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), thuộc thế hệ thứ 34 dòng Lâm Tế. Tại chùa Phật Tích, ông được vua Lê Chân Tông phong hiệu Minh Việt phổ giácquảng tế đại đức thiền sư, ông viên tịch năm 1644.

32 bảo tháp : Tại tầng nền thứ 3, du khách sẽ bắt gặp một vườn tháp được dựng bằng đá xanh và đất nung, vườn tháp có 32 ngọn tháp lớn nhỏ nằm chen vào đá núinhấp nhô, một số tháp có ghi năm dựng và tên tháp như" " Tháp Phổ Quang" dựng năm Cảnh Trị thứ hai (1664), Tháp " Viên Dung" dựng năm Kỷ Mùi (1679), " Tháp Hiển Quang" dựng năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680), " Tháp Viên Bảo" dựng năm Chính hoà thứ 5 (1684)...Các bảo tháp đều được dựng công phu và vững trãi.

Ao Rồng : Ao rồng (Long Trì) hình chữ nhật có chiều dài 7m, rộng 5m, sâu 2,2m, bốn bờ ao được kè đá tảng thẳng đứng với đáy ao. Đáy có thềm đá hình bán nguyệt đường kính 3,8m, chỗ nhô cao nhất là 1,9m, ở mỗi nửa thềm đá có chạm nổi một con rồng khá lớn, trên cạnh giữa thềm đá chạm nổi hình sóng nước nhô cao (Thuỷ ba)

Với những giá trị tiêu biểu đó, ngày 28/4/1962 Nhà nước đã công nhận Phật Tích là di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 313-VH/VP.

2.5 Chùa Thiên Tâm (Chùa Tiêu)

Chùa Thiên Tâm hay còn gọi là chùa Ba Sơn, chùa Tiêu, "Thiên Tâm tự" là tên chính của chùa vì vốn từ khi mới khởi dựng, đứng trên đỉnh núi - giữa đất trời bao la, dân cư, làng xóm thưa vắng, núi Tiêu như là nơi tụ hội, trung tâm của đất trời vậy, còn cái tên Tiêu Sơn là gọi theo tên đất, tên làng, tên núi nơi đây.

Chùa Thiên Tâm được xây dựng khoảng trước thời Tiền Lê, đến thời Lý đã được tôn tạo khá khang trang và trở thành nơi tu thiền, giảng đạo của nhiều bậc cao tăng như Thiền sư Lý Vạn Hạnh - Quốc sư, người có công nuôi dưỡng và dạy dỗ Lý Công Uẩn (vị vua khai sáng Vương triều Lý) trụ trì và viên tịch...

Chùa vốn có kiến trúc quy mô với hệ thống nhà Tam Bảo, viện Cảm Tuyền, nhà Tổ, Bảo tháp...hiện nay những công trình kiến trúc còn lại của chùa mang dấu ấn kiến trúc và nghệ thuật thời Lê - Nguyễn. Trong chùa có hệ thống tượng phật, tượng thiền sư Vạn Hạnh, chuông đồng, đại tự, hoành phi câu đối cổ... như: Bia đá " Lý Gia Linh Thạch, chuông đồng khắc tên " Trường Liêu tự chung" đúc năm Thiên trị, bài vị nói về công danh, đức độ của Thiền sư Lý Vạn Hạnh " Lý triều" nhập nội tể tướng, tượng đồng toàn thân thiền sư Lý Vạn Hạnh, tác phẩm " Thiền uyển tập anh", sách "Thiên Nam Ngữ Lục" (Tài liệu ghi chép về bà Phạm Thị- Thân mẫu của vua Lý Công Uẩn) và hệ thống mộ tháp phong phú, đa dạng – nơi cất giữ nhiều di hài của các thiền sư, hoà thượng nổi tiếng thời Lý, Trần, Lê đến thời Nguyễn (15 tháp) là những hiện vật để du khách tham quan nghiên cứu tìm hiểu về nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng...Điều này cũng thể hiện nơi đây đã từng là Trung tâm phật giáo lớn ở Xứ Bắc như " Dâu", " Phật Tích", " Bồ đề", " Đức La".

Bên cạnh những tư liệu lịch sử có giá trị, du khách tham quan được thư giãn trong không khí yên ả của cửa phật, nghe tiếng chim kêu, gió thổi qua các tán lá cây tạo cảm giác yên tĩnh, thanh bình, xua tan đi cái mệt nhọc của cuộc sống bận rộn thường ngày.

Cảnh đẹp của chùa được cảm nhận qua thời gian, in dấu qua những câu đối, bài thơ còn lưu lại đến ngày nay:

Câu đối:

" Tiêu Lĩnh Tương Giang chân thắng cảnh

Thiên Tâm Lý viện thị danh lam"

Nghĩa:

" Núi Tiêu ở Tương Giang thự là nơi thắng cảnh

Chùa Thiên Tâm, nơi tu viện nhà Lý đích thực chốn danh lam"

và câu đối:

"Tương khúc cửu hồi giang Nguyệt ánh

Ba sơn tam củng Lý vân am"

Nghĩa:

" Tương giang chín khúc lượn vùng lung linh ánh nguyệt

Ba Sơn tam ngọn chầu về mây làm nên am Lý"

Và trong bài thơ" Tiêu Sơn hoài cổ thi"

" Chim sáo cây rừng kêu ẩn sớm

Chùa Tiêu bóng tháp khểnh nằm trưa"

Ngày này đến với chùa Tiêu du khách vẫn cảm nhận được vẻ đẹp đó qua những hàng cây cổ thụ, cây hoa trong vườn chùa, quan sát được một vùng rộng lớn những thửa ruộng thẳng cánh cò bay.

nguồn bacninhgov.vn