Niên Biểu Phật giáo Việt Nam

Một hiện tượng đặc biệt của Phật giáo Việt Nam hiện đại, trong nước cũng như ngoài nước, là các Thiền sư ưa dẫn chứng những điển tích Phật giáo Trung Quốc khi giảng pháp. Ðiều đáng nói là điển tích Phật giáo Việt Nam tuy không kém phần phong phú nhưng hầu như bị các Ngài lãng quên. Chẳng hạn gương hiếu hạnh của đại sư Chân Dung Tông Diễn (1640- 1709), Liễu Quán (1670- 1742), Nhất Ðịnh (1784- 1847)... là những gương sáng vằng vặc ngay cả so với Phật giáo Trung Quốc mà hầu như không được nhắc nhở tới trong dịp Vu Lan Báo Hiếu. Trong Bài Lễ Tháng 7 Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt được phổ biến trên nhiều trang nhà Internet vào dịp Vu Lan vừa qua, Tuệ Sỹ nêu nhận xét: Các Thầy vì sính chữ Hán nên ít chịu nghe khoa nghi tiếng Việt. Cho nên tuy Văn Thỉnh Thập Loại chữ Hán văn từ phần nhiều sáo rỗng, nhiều điển tích vô hồn mà được cho là hay vì thói quen và cũng do trình độ thưởng thức văn chương của người nghe. Sính chữ Hán tới mức ít chịu nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam phải được xem là trở lực lớn cho việc điều hành các đạo tràng theo sứ mạng: Mái Chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông (HT Mãn Giác, Nhớ Chùa).

Niên Biểu Phật giáo Việt Nam

Trần Tri Khách

Lời nói đầu

Một hiện tượng đặc biệt của Phật giáo Việt Nam hiện đại, trong nước cũng như ngoài nước, là các Thiền sư ưa dẫn chứng những điển tích Phật giáo Trung Quốc khi giảng pháp. Ðiều đáng nói là điển tích Phật giáo Việt Nam tuy không kém phần phong phú nhưng hầu như bị các Ngài lãng quên. Chẳng hạn gương hiếu hạnh của đại sư Chân Dung Tông Diễn (1640- 1709), Liễu Quán (1670- 1742), Nhất Ðịnh (1784- 1847)... là những gương sáng vằng vặc ngay cả so với Phật giáo Trung Quốc mà hầu như không được nhắc nhở tới trong dịp Vu Lan Báo Hiếu. Trong Bài Lễ Tháng 7 Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt được phổ biến trên nhiều trang nhà Internet vào dịp Vu Lan vừa qua, Tuệ Sỹ nêu nhận xét: Các Thầy vì sính chữ Hán nên ít chịu nghe khoa nghi tiếng Việt. Cho nên tuy Văn Thỉnh Thập Loại chữ Hán văn từ phần nhiều sáo rỗng, nhiều điển tích vô hồn mà được cho là hay vì thói quen và cũng do trình độ thưởng thức văn chương của người nghe. Sính chữ Hán tới mức ít chịu nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam phải được xem là trở lực lớn cho việc điều hành các đạo tràng theo sứ mạng: Mái Chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông (HT Mãn Giác, Nhớ Chùa).

Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc. Nó không nổi trôi một cách thụ động theo sự thăng trầm của mệnh nước mà luôn luôn tích cực đóng góp vào những nỗ lực nhằm chận đứng sự bập bềnh này, tạo ổn định và an lạc cho đất nước. Tinh thần Bồ tát nêu trong Lục Ðộ Tập Kinh (bản Kinh xuất hiện sớm nhất tại nước ta) “Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi hà khắc cứu dân khỏi lầm than” đã được giới xuất gia thực hành ngay từ thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống lại chế độ đô hộ tàn bạo của thái thú Tô Ðịnh, và xuyên suốt trong mọi thời nhân dân lầm than vì sự cai trị hà khắc. Thời đô hộ của nhà Hán, nhà Ðường, nhà Minh, thời Pháp đô hộ, luôn luôn có sự tham dự dưới nhiều hình thức sinh động khác nhau của giới Tăng sĩ để vận động Phật tử dấn mình vào công cuộc vận động dành độc lập cho dân tộc.

Phật giáo Việt Nam do đó từ căn bản là Phật giáo dấn thân; cho nên không có gì đáng ngạc nhiên khi các HT Huyền Quang và Quảng Ðộ kiên trì trước mọi áp bức để tranh đấu cho tự do tôn giáo và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. HT Huyền Quang (năm 1981) và Quảng Ðộ (năm 2000 và 2001) đã được nhiều trí thức và yếu nhân trên thế giới đề nghị làm ứng viên giải Nobel Hòa Bình vì cảm phục nỗ lực tranh đấu bất bạo động của các Ngài.

Bài viết này nhằm giới thiệu một số sự kiện quan trọng trong hành trình dấn thân của Phật giáo Việt Nam vào dòng sinh mệnh của dân tộc. Nó chỉ là một sơ thảo, thiếu sót là điều chắc chắn có và sai lầm là điều không thể tránh khỏi ở một số chỗ. Tác giả chân thành biết ơn sự chỉ bảo của chư thiện tri thức về những sai sót để có thể bổ túc cho ấn bản sau hoàn chỉnh hơn.

Thành tâm ghi ơn Thượng Tọa Thích Vân Ðàm, Viện Chủ Tu Viện Pháp Vương, đã tạo duyên đưa tác giả đi vào đề tài này.

Trần Tri Khách

(Các chữ viết tắt: BC: trước Thiên Chúa Giáng Sinh. ÐÐ, TT, HT: Ðại Ðức, Thượng Tọa, Hòa Thượng. VN: Việt Nam. Những chữ tắt trong ngoặc là tên tác phẩm tham khảo. Những tên trong ngoặc đơn là thế danh hoặc pháp hiệu)

(1)

Năm 2879 BC- 258 BC niên đại theo truyền thuyết thuộc họ HỒNG BÀNG. Niên đại này gây nhiều Bàn cãi trong giới sử học hiện đại.

Phạm Văn Sơn (VSTT, tr. 46) cho rằng họ Hồng Bàng bắt đầu vào thế kỷ 9 BC, khi một nhà quý tộc họ Mị thống nhất một số thị tộc Việt lên làm vua, bắt chước các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu. 18 đời Hùng Vương bắt đầu từ Kinh Dương Vương.

Bùi Thiết (Ðối Thoại Sử Học, nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2000) lập luận một đời vua Hùng khoảng chừng 30 năm nên thời Hùng Vương khoảng chừng 5 thế kỷ là vừa (!). Nghĩa là trước thế kỷ 6 BC, đất nước ta không có lịch sử!

Cả hai lập luận trên bị các cuộc khai quật khảo cổ học bác bỏ. Di chỉ Ðồng Vườn ở Yên Mô Ninh Bình được khai quật vào đầu tháng 8/2002 tìm được một số đồ gốm thô có hoa văn, rìu, Bàn mài niên đại khoảng 1500 BC. Di chỉ này cùng hai di chỉ Hang Sáo và Hang Cò ở thị xã Tam Ðiệp (Ninh Bình) thuộc nền văn hóa Ða Bút có niên đại từ thiên niên kỷ 5 tới thiên niên kỷ 3 BC.

Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) đưa ra giả thuyết mỗi đời vua Hùng thực ra gồm nhiều người nối nhau làm vua, nên trung bình một đời vua Hùng kéo dài 130 năm là điều có thể chấp nhận. Giả thuyết này của ông là cách sử gia Tàu áp dụng khi viết cổ sử. Theo Cổ sử Trung Hoa, đời Thần Nông kéo dài 193 năm không phải chỉ có một vua Thần Nông mà do 4 vua kế tục nhau: vua Nghi (2889- 2884 BC), vua Lai (2843- 2794 BC), vua Ly (2795- 2751 BC), vua Du Võng (2752- 2696 BC). Theo Lê Mạnh Thát, triều đại Hùng Vương kéo dài tới vị vua cuối cùng là Trưng Vương (39- 43). Ông còn trích dẫn một báo cáo của Lưu An (mất năm 122 BC) ghi trong Tiền Hán Thư, theo đó từ thời Tam Ðại (gồm nhà Hạ 2140 BC- 1711 BC, nhà Thương hay nhà Ân 1711 BC- 1066 BC và nhà Chu 1066 BC- 256 BC) dân Việt đã không chịu dùng lịch pháp Trung Quốc. Ông và Nhất Hạnh (VNPGSL 1) đều cho rằng vào thời Hùng Vương, tổ tiên ta dùng lịch pháp Ấn Ðộ (một năm có 4 mùa, 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày). Ông cũng giải mã Bài Việt Ca được Lưu Hướng (77 BC- 6 BC) ghi trong Thuyết Uyển và khẳng định ít nhất từ thế kỷ thứ 4 BC, tiếng Việt đã là một ngôn ngữ có chữ viết tương đối hoàn chỉnh, tuy có liên hệ với tiếng Trung Quốc.

Dựa trên những công bố của ngành khảo cổ, Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp (tài liệu tham khảo 14) cho rằng trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán (Trung Quốc), tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh cao do kết quả của 3 sáng chế quan trọng: trồng lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị. Trình độ đồ đồng của nền văn minh Ðông Sơn tuy xuất hiện muộn (khoảng 700 BC) nhưng kỹ thuật rất cao vì có pha chì tạo độ bền dai đặêc biệt mà các di chỉ đồ đồng ở những nơi khác không có. Fritj Capre trong tác phẩm The Tao of Physics cho rằng nếu giải mã hoàn toàn những hoa văn trên trống đồng Ðông Sơn, người ta có thể thấy đó là nền văn minh tinh thần cao nhất, gần với nền văn minh hậu nguyên tử. Khoảng 60 ngàn năm trước, những di dân đầu tiên tới vùng Ðông Nam Á. Vùng này trải qua những đợt nước biển lên xuống. Trong khoảng thời gian giữa hai thời kỳ băng hà (40 ngàn năm – 21 ngàn năm trước) khí hậu phía Bắc ấm, những người hiện đại mới di chuyển lên Trung Quốc. Khoảng 30 ngàn năm tới 18 ngàn năm trước, mực nước biển thấp hơn bây giờ tới 130 mét, đồng bằng sông Hồng nối liền tới đảo Hải Nam. Sau đó nước biển bắt đầu dâng mỗi năm 1 cm. Khoảng 8 ngàn năm trước, trận hồng thủy cuối cùng xảy ra nhận chìm toàn bộ đồng bằng Bắc Việt dưới nước biển lan tới tận Việt Trì. Tới 5500 năm trước, nước mới rút, con cháu những người di tản các nơi từ núi non và hải đảo mới trở về miền đất phì nhiêu xây dựng nước Văn Lang. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nở ra trăm con rồi chia tay nhau người lên rừng kẻ xuống biển có lẽ là huyền thoại hóa sự kiện di tản rồi trở về này của các bộ tộc Bách Việt. Như vậy họ Hồng Bàng có thể còn xuất hiện sớm hơn niên đại theo truyền thuyết 2879 BC, vì đồng bằng Bắc Bộ đã được tổ tiên ta tái định cư từ hơn 5 ngàn năm về trước.

(2)

Năm 563 BC dựa vào sử ký nước Tích Lan, niên đại được đa số sử gia Phật giáo chấp nhận là năm sinh của thái tử Tất Ðạt Ða, người sau này trở thành Phật Thích Ca. Các niên đại quan trọng khác: năm 536 BC xuất gia tìm chân lý, năm 528 BC bắt đầu truyền bá giáo pháp tại thành Vương Xá (Ràjagaha) là Kinh đô hùng mạnh nhất Bắc Ấn và thành lập giáo hội, năm 483 BC nhập Niết Bàn.

(3)

Năm 269 - 232 BC Triều đại vua A DỤC (Asoka Moriya). Năm 253 BC nhà vua bảo trợ Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển lần thứ 3 dưới quyền chủ tọa của Trưởng Lão Moggaliputta với cả ngàn Tỳ kheo tham dự. Trong 9 tháng làm việc, Ðại Hội đi tới hai quyết định quan trọng: 1- công nhận một số Kinh điển trước đây đã bị loại bỏ ra ngoài khối Kinh điển nguyên thủy của Thượng Tọa Bộ, 2- Chấp nhận các tác phẩm có tính lý luận học thuật vào bộ thánh điển, gọi là Luận A-tỳ-đàm hay Thắng Pháp; Luận Tạng được công nhận là thánh điển Phật giáo kể từ đây, trở thành Tạng thứ ba trong Tam Tạng Kinh Ðiển Phật giáo. Theo một vài tài liệu khác (như Thích Phước Sơn, Lịch Sử Kết Tập Kinh Ðiển), Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển lần ba xảy ra vào năm 325 BC, vì được ước tính sau khi Phật nhập Niết Bàn 218 năm.

Vua A Dục còn cử nhiều phái đoàn chư Tăng đi hoàng pháp ở nước ngoài. Phái đoàn đầu tiên do hoàng tử Mahinda hướng dẫn tới Tích Lan (SriLanka). Nhờ đó Kinh tạng Pali được bảo tồn gần như nguyên vẹn tại đây cho tới ngày nay. Một trong những phái đoàn truyền giáo do vua A Dục cử đi do Sona và Uttara hướng dẫn có thể đã tới vùng Ðông Nam Á và nước ta. Cho tới những năm từ 380 tới 420, những người đi lượm củi ở vùng Ðồ Sơn còn thấy Chùa và Tháp do dân địa phương dựng tại thành Nê Lê để tưởng nhớ công đức của vua A Dục. Tháp này tại núi Mẹ (Mẫu Sơn) ở Ðồ Sơn. Sau này, Tháp Long Tường do vua Lý Thánh Tông (1054- 1072) xây trên nền Tháp cũ. Theo HT Ðức Nhuận (ÐPVDSV), trong tám Bài thơ xưa Ðồ Sơn Bát Vịnh, hai câu đầu của Bài thứ 5: Cổ Tháp di hư loạn thảo đôi, Dục vương khứ hậu ủy yên đồi. (Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời, Vua Dục đi, vua sau cũng đổ luôn).

Các sắc dụ của vua A Dục khắc trên đá thường phù hợp với ngôn ngữ địa phương để dân nơi đó có thể hiểu được. Vì vậy, phái đoàn truyền giáo của vua A Dục đến nước ta hẳn đã được học ngôn ngữ xứ Văn Lang để có thể tiếp xúc với dân địa phương một cách thuận tiện.

Lúc đó, theo truyền thuyết, nước ta thuộc đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 257 BC) và nhà Thục (257 BC- 207 BC). Sử gia Lê Mạnh Thát cho rằng nhà Thục là một triều đại không có thực, chỉ là một truyền thuyết xuất hiện khoảng năm 400 phỏng theo bản anh hùng ca Mahàbharatà của Ấn Ðộ (LSPGVN 1, tr. 602). Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cũng đã nêu lên từ giữa thế kỷ 19 và Ngô Tất Tố đặt thành vấn đề trên báo Tao Ðàn ngày 01 tháng 03/1935 về vấn đề không có nhà Thục trong sử Việt.

Thế kỷ 3 – Thế kỷ 2 BC nhà sư PHẬT QUANG (còn gọi là sư Bần, gốc Ấn Ðộ) lập Bàn thờ Phật tại một hang núi ở núi Mẹ (Ðồ Sơn), tu và tịch tại đây vào cuối đời Hùng Vương. Hiện nay, nơi đây có ngôi Chùa gọi là Chùa Hang. Khi CHỬ ÐỒNG TỬ ghé thuyền vào núi Quỳnh Viên (núi Mẹ hay Mẫu Sơn, ở Ðồ Sơn) để lấy nước ngọt, gặp ông, được ông truyền pháp, trao cho gậy và nón. Chử Ðồng Tử nhận lãnh, về truyền pháp lại cho vợ là công chúa Tiên Dung. Hai người được coi là Phật tử đầu tiên tại nước ta. Sự tích này đầu tiên được Trần Thế Pháp, một danh sĩ đời Trần ghi lại trong tác phẩm Lĩnh Nam Trích Quái. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) cho rằng núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót, Nghệ An, một vùng lúc đó chưa thuộc nước ta. Theo HT Ðức Nhuận (ÐPVDSV), bảo Tháp do dân địa phương dựng để ghi nhớ công ơn đoàn truyền giáo của vua A Dục và hang núi sư Phật Quang tu cùng ở tại núi Mẹ (Mẫu Sơn) tại Ðồ Sơn.

Công chúa Tiên Dung con vua Hùng Vương thứ 18 (theo Lê Mạnh Thát, LSPGVN 1, có thể thuộc đời vua Hùng Nghị Vương, đời Hùng Vương thứ 17), vì lấy Chử Ðồng Tử một anh đánh cá nghèo tới mức phải chia chung cái khố với bố, bị vua cha trục xuất cả hai ra khỏi nước. Hai vợ chồng lập phố xá buôn bán để sanh sống, lênh đênh ra khắp nước ngoài. Sau này, Chử Ðồng Tử được thờ ở Ðền Trung trong hệ thống Ðền Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh tỉnh Phú Thọ. Tại phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên cũng có đền thờ Chử Ðồng Tử.

Các sử sách đời trước đều nhất quán cho rằng thời Hùng Vương chấm dứt vào khoảng năm 257 BC, sau khi bị Thục Phán đánh bại. Giả thiết như vậy, sự kiện Chử Ðồng Tử được sư Bần (sư Phật Quang) truyền pháp có thể xảy ra trước thời vua A Dục ở Ấn Ðộ lên ngôi. Phái đoàn truyền giáo của vua A Dục có mục đích tìm đến đại chúng để giáo hóa theo Phật pháp, nên không thể chọn một hang núi vắng vẻ để tu như sư Phật Quang.

Vào thời Hùng Vương, thành Luy Lâu (nay thuộc Bắc Ninh) là một trung tâm thương mại đón nhận nhiều thương gia Ấn Ðộ. Các Tăng sĩ Ấn Ðộ đi theo các thuyền buôn này đem sinh hoạt Phật giáo đến nước ta. Chùa Yên Trì (nay thuộc Hà Nội) có lẽ được xây vào thời kỳ này.

HT Thích Ðức Nhuận (ÐPVDSV) cho rằng vào thế kỷ 3 BC, có phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ xứ Kalinga sang phía Ðông và xuống phía Nam, có thể đưa một số Tăng sĩ Phật giáo Ấn tới nước ta. TT Thích Mật Thể (VNPGSL tr. 69) dẫn theo Sylvain và Pelliot cho rằng Trung Quốc và Ấn Ðộ giao thương với nhau từ năm 245 BC qua cửa ngõ đất Văn Lang làm trung gian.

(4)

Năm 110 BC năm cuối cùng của nhà Triệu (207- 110 BC), thời tể tướng LỮ GIA nắm quyền. Trong Thiên Nam Ngữ Lục, Thiền sư Chân Nguyên (1646- 1726) đề cập tới Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn, Sơn Tây đã có từ thời này. Trước đó, từ thời Hồng Bàng đã có Chùa Yên Trì ở Long Biên (Hà Nội), sau này bị hư hại nặng, năm 544 vua Lý Nam Ðế dựng Chùa Khai Quốc trên nền Chùa này.

(5)

Năm 39- 43 triều đại HAI BÀ TRƯNG. Năm 39 Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Ðịnh, dành được quyền tự chủ cho Giao Chỉ. Bà HOÀNG THIẾU HOA (3- 40) tu tại Chùa Phúc Khánh (nay là Chùa làng Hiền Quan ở tỉnh Phú Thọ) từ năm 16 tuổi, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, rời khỏi Chùa mộ được 500 nghĩa binh. Bà trở thành tướng tiên phong của Hai Bà Trưng. Sau khi Trưng Vương dẹp yên 65 thành, Bà Thiều Hoa trở lại Chùa tu và một năm sau thì tịch. Bà đươc xưng tụng là Diệt Bạo Tướng Phật (LSPGVN 2, tr. 26). Hành trạng của Bà Thiều Hoa cho thấy lý tưởng Bồ tát nêu trong Lục Ðộ Tập Kinh “Bồ tát thấy dân kêu ca, bèn gạt lệ xông vào nơi hà khắc” đã được biết tới và thực hành từ thời này.

Theo Phạm Văn Sơn (VSTB), Trưng Vương chỉ đánh dẹp 56 thành, chứ không phải 65 thành như tất cả các sử gia khác xưa cũng như nay đã ghi. Theo Phạm Cao Dương, trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nông dân đã đứng lên chống lại bọn quan lại bóc lột và kiều dân nhà Hán chạy loạn Vương Mãng (9- 24) qua cướp ruộng đất của họ (Thực Trạng Của Giới Nông Dân VN Dưới Thời Pháp Thuộc, Sài Gòn, Khai Trí xuất bản 1967)

Theo Hậu Hán Thư (của Phạm Việp 398- 445): sau khi chuẩn bị từ hơn một năm trước, Mã Viện huy đọâng hơn 2 ngàn chiến thuyền và 2 vạn quân, tổng tấn công tàn sát quân của Trưng Vương, chém giết và bắt hơn 5 ngàn người. Vào thời này, theo Hán Thư Ðịa Lý Chí, nước ta có chừng 92, 440 nóc gia. Hai Bà Trưng trầm mình xuống sông Hát tự vẫn năm 43. Cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương chấm dứt. Một số bộ tướng của Hai Ba sống sót có thể lánh mình nơi cửa Phật, một người được sử sách ghi lại là BÁT NÀN PHU NHÂN (nữ tướng Tiên La, được thờ ở đền làng Tiên La, Thái Bình). Thời Hai Bà Trưng có nhiều nữ tướng nên Ni giới nước ta có thể coi như đã có mặt từ lúc này. Tại Trung Quốc mãi tới năm 429, có một phái đoàn mấy chục ni từ nước Tích Lan đến Kiến Nghiệp (phía Nam Trung Quốc) học chữ Hán để hướng dẫn các nữ tu người Hán.

Có ít nhất là 64 bộ tướng của Hai Bà Trưng còn được thờ cho tới ngày nay tại nhiều đền ở miền Bắc (trong đó tượng Hai Bà Trưng và tượng 12 nữ tướng được thờ chung ở đình làng Ðồng Nhân, Hà Nội) cho thấy tính cách vĩ đại, oai hùng của cuộc khởi nghĩa Trưng Vương. Bác sĩ Trần Ðại Sỹ có dịp quan sát thực địa tại 5 tỉnh phía Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) cho biết tại đây có hơn 100 đền miếu thờ các tướng lãnh của Hai Bà Trưng. Theo cuộc nghiên cứu của ông, cuộc khởi nghĩa Trưng Vương có 162 anh hùng phò giúp, trong đó hơn 100 người là nữ (xem Bài tường trình của ông nơi Thư Viện Việt Nam số 3, trang nhà Internet: www. thuvienvietnam. com)

Sau khi đại thắng Trưng Vương, Mã Viện dù đã mệt mỏi sau hai cuộc chinh chiến liên tiếp từ Bắc tới Nam Trung Quốc, vẫn đi kinh lý khắp cõi Giao Chỉ, tiến hành một cuộc đồng hóa gắt gao và toàn diện dân Giao Chỉ về pháp luật, văn hóa, chính trị, Kinh tế, xã hội (VSTT, tr. 114- 115). Chắc chắn Phật giáo Việt Nam cũng chịu một pháp nạn chung với nạn nước trong giai đoạn này khi Mã Viện muốn xóa bỏ triệt để toàn bộ nền văn hóa nước ta để thay thế bằng văn hóa nhà Hán Trung Quốc (chẳng hạn Mã Viện sửa đổi 10 điều luật trong bộ Việt luật, dùng phép Hán để đổi tục Việt, đày dân Việt vào vùng Giang Hoài làm cho đất Ðông Việt trở thành trống trơn, vây bắt hàng trăm người lãnh đạo Việt tộc mà y gọi là “cừ soái” đưa đi đày ở Linh lăng, thu gom hết trống đồng để đúc ngựa... ).

Vào thời Mã Viện, Phật giáo chưa truyền vào Trung Quốc. Mãi tới năm 67, Trung Quốc mới biết đến Phật giáo sau khi Hán Minh Ðế nằm mộng thấy “người vàng”, đã cử một phái đoàn 18 người qua nước Ðại Nhục Chi (ở giữa Bắc Ấn và Trung Quốc) rước tượng Phật về thờ và các vị Tăng Ma Ðằng Ca Diếp, Trúc Pháp Lan qua Kinh đô Lạc Dương. Học giả Phật học Henri Maspero cho rằng câu chuyện giấc mộng “người vàng” trên do đời sau bịa ra và Phật giáo xuất hiện tại trung tâm Lạc Dương muộn màng hơn năm 67.

(6)

Năm 189 KHÂU ÐÀ LA chống gậy vân du đến Giao Chỉ, lúc nước ta bị đô hộ dưới thời Hán Linh Ðế, Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ. Ðời Hán có 3 trung tâm Phật giáo là Trung tâm Luy Lâu ở Giao Chỉ, Trung tâm Bành Thành và Trung tâm Lạc Dương. Trung tâm Luy Lâu được xem là Bàn đạp đưa đạo Phật vào đất Hán vì các Tăng sĩ Ấn Ðộ có thể học chữ Hán hay tuyển người thông dịch tại đây. Trung tâm Bành Thành do các Tăng sĩ từ Luy Lâu đến mà thành lập. Sách Cao Tăng Truyện ghi lại lời sớ của Vương Ðộ đời Tấn: Từ khi Phật giáo được du nhập, người Hán không được phép xuất gia. Nhà Ngụy (220- 264) theo pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho dân bản xứ xuất gia. (VNPGSL 1, tr. 23). Thời Sĩ Nhiếp, Giao Chỉ là một xứ sở phồn thịnh: một năm lúa trồng hai mùa, 8 lứa kén tằm.

Theo Lĩnh Nam Trích Quái: Khâu Ðà La là người Nam Ấn, hành pháp tu đứng một chân, theo lời mời đến ở nhà cư sĩ Tu Ðịnh. Con gái của Tu Ðịnh là Man Nương lúc đó 12 tuổi theo hầu hạ sư. Một thời gian sau, sư từ giã vào núi tu. Tu Ðịnh dẫn Man Nương đi theo, tiếp tục đem rau trái cúng dường sư, có khi sai Man Nương đi. Tới tuổi cập kê, Man Nương không chồng mà chửa. Thai đến 14 tháng, sinh ra bé gái, Man Nương bồng con đến chỗ sư ở, bảo là con Khâu Ðà La. Khâu Ðà La nhận con, đặt vào một cây đại thọ mở ra, cây liền khép lại. Sau này nước lụt, cây đổ trôi về thành Luy Lâu thì dừng lại. Vì những thần kỳ xảy ra, Sĩ Nhiếp cho tạc 4 tượng Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện từ cây đó, lập 4 Chùa Thiền Ðịnh, Thành Ðạo, Phi Tướng và Trí Quả để thờ. Man Nương được gọi là Phật Mẫu. Tượng Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Ðiện và Man Nương sau này được thờ tại Chùa Dâu (Chùa Pháp Vân), làng Khương Tự Bắc Ninh cho tới ngày nay. Các vua đời Hậu Lê (thế kỷ 15) mỗi khi hạn hán, thường cho rước Phật Pháp Vân về kinh đô để cầu mưa, thường linh ứng. Chùa Pháp Vân cũng là nơi xuất phát dòng Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi khi ông tới đây truyền pháp và truyền tâm ấn cho Pháp Hiển.

Sự tích Phật Pháp Vân còn được ghi lại trong tác phẩm Nôm Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục và Lĩnh Nam Trích Quái.

Chùa Dâu được xây cất lại vào năm 1161 đời Lý Anh Tông. Năm 1313, vua Trần Anh Tông cho trùng tu Chùa, giao phó Mạc Ðĩnh Chi thực hiện, dựng Tháp Hòa Phong cao 9 tầng. Chùa còn được trùng tu vào năm 1675. Năm 1738 đời Lê Ý Tông, Thiền sư Tính Mộ tái thiết lại Tháp trên nền đổ nát cũ và tái thiệt Chùa. Năm 1793 và 1917 Chùa lại được trùng tu. Năm 1946 Việt Minh bắt HT Thích Ðại Hải, trú trì Chùa Pháp Vân, kết tội là đảng viên Quốc Dân Ðảng và đem xử tử. Lễ hội Chùa Dâu có 11 xã trong tổng Khương Tự Bắc Ninh tham dự từ ngày 8 tới 10 tháng 4 ÂL.

Hiện tượng thờ Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Ðiện là bản địa hóa Phật giáo, một khuynh hướng tất nhiên khi đạo Phật ở thời kỳ quyền năng, hội nhập vào một xã hội đã có một nền văn hóa rõ rệt như nước ta. Cũng là hiện tượng bản địa hóa Phật giáo khi vị anh hùng phá tan giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ 6 trở thành Phù Ðổng Thiên Vương (hay Sóc Thiên Vương vì bay lên trời ở núi Sóc Sơn, theo truyền thuyết) thay thế Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một trong Tứ Ðại Thiên Vương trấn giữ phía Bắc cõi Diêm Phù Ðề, và Quán Thế Âm Bồ tát trở thành Quan Âm Nam Hải. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1), hiện tượng bản địa hóa Phật giáo xảy ra sau thời Trưng Vương, như một phản ứng của Phật giáo VN trước sự đàn áp của Mã Viện.

(7)

Năm 198 MÂU TỬ (160- 230) viết Lý Hoặc Luận. Ðây là sáng tác bằng Hán văn đầu tiên về Phật giáo, từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung Quốc và Nhật Bản. Mâu Tử dẫn mẹ qua Giao Chỉ tị nạn vào thời Tam Quốc, lúc Trung Quốc nhiễu loạn khắp nơi. Ông là người học rộng hiểu nhiều, không sách gì không đọc, đã từng bỏ ra 3 năm tu luyện phép tiên (tịch cốc trường sinh bất tử). Giao Châu lúc đó có trung tâm Phật giáo Luy Lâu, với hơn 20 ngôi Chùa, độ được hơn 500 Tăng, dịch được 15 cuốn Kinh. Người dân trồng hoa Uất Kim Hương để cúng Phật. Nhưng đa số trí thức Trung Quốc tới Luy Lâu lánh nạn đều học phép tịch cốc để luyện trường sinh bất tử (Mâu Tử cho biết có tới mấy ngàn trăm thuật). Mâu Tử làm quen với Phật pháp từ năm 183 và tiếp thu một cách nghiêm chỉnh tại trung tâm Luy Lâu có lẽ vào khoảng năm 194 (VNPGSL 1). Sau khi mẹ mất, ông rút lui khỏi chính sự, dốc chí nghiên cứu đạo Phật. Ông viết Lý Hoặc Luận để trả lời những người chỉ trích ông phản bội Nho theo Thích (Phật giáo). Sự có mặt của Lý Hoặc Luận chứng tỏ Phật giáo Giao Chỉ thời đó đã chinh phục không những đại chúng bình dân mà cả giới trí thức Nho gia nữa, vào thời Nho học bắt đầu suy yếu.

Lý Hoặc Luận gồm 37 điều: 5 điều đầu giải thích tổng quát về Phật giáo, 23 điều phản bác các luận cứ của Nho gia về Phật giáo, 9 điều nhận xét về Ðạo gia. Lý Hoặc Luận khẳng định: Trung Quốc chưa hẳn là trung tâm của trời đất, Ngũ Kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền; bản chất đạo Phật là ở nhà có thể đem ra mà thờ cha mẹ, giúp nước có thể đem mà trị dân, sống một mình có thể đem mà tu thân. Lý Hoặc Luận được Lê Mạnh Thát dịch và giới thiệu trong Tổng Tập Văn Học Phật giáo Việt Nam tập 1 (Nhà xuất bản TP/HCM năm 2001).

Vào giai đoạn này, Tăng đoàn đã được thành lập tại Giao Chỉ, với các lễ truyền giới có “tam sư, thất chứng”. Khương Tăng Hội đã được truyền giới xuất gia như vậy. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 250 mới có Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua làm lễ truyền giới xuất gia theo nghi thức “ tam sư thất chứng”. Nghi thức truyền giới này là quy định trong các đại giới đàn Phật giáo Việt Namcho tới ngày nay.

Có thể cũng ở thời đại này, một sản phẩm nổi tiếng của trung tâm Luy Lâu được thương gia Trung Quốc và Ấn Ðộ ưa chuộng là giấy, có phẩm chất cao trắng mà không nát khi bỏ xuống nước. Nghệ nhân Luy Lâu cũng đã khắc in trên mộc bản bằng gỗ cây Thị.

(8) 

Năm 247 KHƯƠNG TĂNG HỘI, một nhà sư gốc Ấn Ðộ, qua Trung Quốc hoằng pháp. Ông sinh ra, lớn lên, xuất gia và tu học tại Giao Châu (năm 203, thái thú Sĩ Nhiếp trình xin đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu). Ông là nhà sư hoàn toàn được đào tạo tại Giao Châu. Ông tới kinh đô Kiến Nghiệp của nhà Ðông Ngô hoằng pháp, có đem theo một tượng Phật. Ông thông thạo tam tạng Kinh, hiểu thấu 6 Kinh nền tảng của Nho giáo lại giỏi khoa ăn nói và nghệ thuật viết lách nên đã làm hưng thịnh Phật pháp tại đất Ðông Ngô, một vùng trước đây chỉ có vài nhà sư dịch Kinh. Ông tịch vào năm 280, đã dịch nhiều Kinh tạng từ Phạn văn qua chữ Hán, soạn cuốn nghi thức Nê Hoàn Bối âm điệu réo rắt, trầm buồn và xây dựng nhiều Chùa Tháp. Trong 14 quyển Kinh ông dịch, bản dịch Lục Ðộ Tập Kinh được coi là đỉnh cao sự nghiệp dịch thuật của ông. Một số nhà biên khảo Trung Quốc cho rằng bộ Kinh tập Lục Ðộ Tâp Kinh do ông sáng tác. An Thế Cao (người dịch Kinh An Ban Thủ Ý ra Hán Văn) tán dương Khương Tăng Hội là người truyền dạy Kinh Thiền. Các Kinh về Thiền như An Ban Thủ Ý và Ấm Tri Nhập do An Thế Cao dịch được ông diễn giải theo tinh thần Ðại Thừa. Thầy Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam. Với tác phẩm Nê Hoàn Bối, ông là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc.

Lục Ðộ Tập Kinh gồm 91 truyện tích, mỗi truyện có những trích dẫn Kinh nói về Lục Độ Ba La Mật (Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định Và Trí Tuệ) xếp thành 8 quyển. Ba quyển đầu nói về bố thí, mỗi quyển sau nói về một độ còn lại (VNPGSL 1, tr. 76). Truyện 68 đặc biệt nêu lý tưởng Bồ tát dấn thân: Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi hà khắc cứu dân khỏi lầm than. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) cho rằng Khương Tăng Hội dịch Lục Ðộ Tập Kinh ra Hán văn từ một bản tiếng Việt cổ, không phải từ nguyên bản tiếng Phạn. Khương Tăng Hội có thể còn chủ động trong việc phục hồi Phật giáo ở Ðông Ngô sau khi Tôn Lâm (231- 258) ra lệnh phá Chùa, chém sư vào năm 258, vài tháng trước khi y bị Tôn Hưu giết. Vua Ðường cho họa hình ông và treo tại Chùa Từ Ân, nơi Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Kinh, vì công nhận ông là nhà dịch Kinh của TRung Quốc.

Cũng năm 258 ở Trung Quốc, Châu Tử Hàng khai đàn giảng Kinh Bát Nhã ở Kinh đô Lạc Dương. Việc giảng Kinh cho đại chúng ở Trung Quốc bắt đầu từ đó.

(9)

Năm 248 BÀ TRIỆU (TRIỆU TRINH NƯƠNG, Triệu Thị Trinh, 225- 248) cùng anh là Triệu Quốc Ðạt khởi nghĩa chống lại thứ sử Giao Chỉ là Lục Dận, nhà Ðông Ngô. Cuộc khởi nghĩa tuy chỉ kéo dài 6 tháng nhưng đủ oanh liệt làm khiếp đảm quân Ðông Ngô. Sau vì thứ sử Lục Dận tìm cách mua chuộc các bộ tộc Giao Châu nên lực lượng kháng chiến của Bà trở thành quân ít thế cô, Bà phải rút lui về đất Thanh Hóa rồi tự sát. Theo Thiên Nam Ngữ Lục của Thiền sư Chân Nguyên, có thể các nhà sư Giao Châu được Bà Triệu nhờ qua Ðông Ngô trong một sứ mạng nào đó. Mộ Bà Triệu và đền thờ Bà tại núi Sơn Trang, Thanh Hóa. Dân chúng địa phương tới nay vẫn gọi Bà là Vua Bà. Theo nhà văn Trần Ðại Sỹ, dân 5 tỉnh miền Nam Trung Hoa tiếp giáp nước ta, cũng tôn vinh Bà Trưng là Vua Bà.

(10) 

Năm 425 ÐÀM HOẰNG từ miền Bắc Trung Hoa tìm tới Chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh tu học và chuyên trì Kinh Vô Lượng Thọ và Thập Lục Quán, pháp môn Tịnh Ðộ. Ông tự thiêu năm 455. Ông giúp cho tín ngưỡng A Di Ðà phát triển mạnh ở nước ta trở thành phong trào, đến mức có những nhà sư Trung Quốc đã tìm đến Giao Châu để tu học pháp môn này tại trung tâm Phật giáo Tiêu Sơn.

Vào thời ông, nghệ thuật Chùa Tiên Sơn (ở núi Tiên, cửa Tây thành Long Biên) bắt đầu phát triển mà nét đặc sắc là biểu tượng Phật qua hình ảnh hoa sen nằm giữa lá Bồ Ðề thay vì hình tượng người.

Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo nước ta, Tịnh Ðộ không đứng biệt lập như ở Trung Quốc hay Nhật Bản. Vua Lý Thánh Tông (1023- 1072) dù là đệ tử truyền thừa đời thứ nhất của Thiền phái Thảo Ðường, vẫn sai tạc tượng A Di Ðà bằng đá ở Tiên Du Bắc Ninh rất độc đáo. Trong tác phẩm Khóa Hư Lục, vua Trần Thái Tông (1225- 1258) viết hẳn một chương Niệm Phật Luận. Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Ðăng (1647- 1726) dù là truyền thừa của cả hai dòng Thiền Lâm Tế lẫn Trúc Lâm và được xưng tụng là người phục hồi dòng Thiền Trúc Lâm, vẫn viết 3 tác phẩm về Tịnh Ðộ trong số 14 tác phẩm của ông còn được truyền lại tới nay.

(11)

Năm 454- 455 sáu lá thư trao đổi giữa LÝ MIỄU (một sứ quân xưng vương ở Giao Châu) và hai vị Thiền sư ÐẠO CAO và PHÁP MINH (được ông coi là Thầy) về vấn đề nếu Phật đầy quyền năng, tại sao không thấy Phật hiện ra ở đời? Vào thời này ở Trung Quốc, sư Huệ Viễn thuộc phái Tịnh Ðộ ở Lô Sơn xướng lên thuyết “bất kỉnh vương” (Tăng ni không cần làm lễ hay xưng mình là thần tử trước vua chúa).

Sáu lá thư nói trên là một khám phá vô cùng quan trọng của Lê Mạnh Thát, được ông dịch ra tiếng Việt trong LSPGVN tập 2, tr. 417- 431. Sáu lá thư này cung cấp những nét đậm về:

1- Về nghệ thuật: từ nửa đầu thế kỷ V, nghệ thuật Chùa Tiên Sơn đã tượng trưng đức Phật qua hình ảnh hoa sen nằm giữa lá Bồ đề.

2- Về âm nhạc: xác nhận sự hiện diện của “ca tán tụng vịnh”. Trên bệ đá Chùa Tiên Sơn có khắc 10 vị nhạc thần chơi 9 nhạc cụ đàn dây hoặc ống. Trước đó trống đồng và khánh đá đã xuất hiện.

3- Về văn học: sáu lá thư là những tác phẩm văn học xưa nhất tại nước ta được phát hiện. Như vậy văn học nước ta phải khởi đầu ít ra là từ thời điểm này, không phải chỉ từ thế kỷ 10 như quan điểm đại đa số các nhà biên soạn văn học sử ở cả hai miền Nam Bắc.

4- Về lịch sử Phật giáo: lá thư thứ 4 của Ðạo Cao mô tả Phật tử nước ta hoặc ngồi Thiền trong rừng, hoặc tu đức cạnh thành thị, hoặc cung kính chắp tay hay ca hát ngâm vịnh. Như vậy tu Thiền và tu Tịnh, tu phước và tu huệ đã xuất hiện đồng thời vào giai đoạn này.

5- Về lịch sử chính trị: Lý Miễu (được Ðạo Cao và Pháp Minh gọi là sứ quân) là thái thú Giao Châu muốn trở thành tự trị. Sự liên hệ giữa ông và hai đại sư Ðạo Cao, Pháp Minh giới thiệu khả năng vận động chính trị của các nhà sư Giao Châu trong giai đoạn nước ta bị đô hộ.

6- Về lịch sử tư tưởng: nêu vấn đề đâu là cơ sở cho giá trị lịch sử của những lời khẳng định trong Kinh Phật, đồng thời xác định học thuyết Nho và Mặc đang tranh nhau nổi lên ở nước ta.

Vào thời này, Luy Lâu là một trung tâm hoằng pháp lớn, góp phần quan trọng vào việc phục hưng Phật giáo tại Trung Quốc sau này. Năm 456 sư Huệ Lâm viết Quân Thiên Luận chủ trương xã hội hóa Phật giáo, dung hòa tư tưởng Phật với Nho, được gọi là Hắc Y Tể Tướng, bị giới Nho sĩ chống đối. Triều đình Trung Quốc trục xuất ông qua Giao Châu, nơi đây ông sống cho tới cuối đời.

(12) 

Năm 542- 607 niên đại ÐÀM THIÊN. Ông quê ở Thái Nguyên (Trung Quốc), chuyên nghiên cứu các Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Lăng Già. Gặp thời Bắc Chu bên Tàu hủy diệt chánh pháp, ông tìm đến phương Nam (trung tâm Luy Lâu), học về Duy Thức, Nhiếp Ðại Thừa Luận và rất tâm đắc về hai bộ luận này. Phương Bắc dứt pháp nạn, ông trở về quê hương mở trường dạy các bộ luận Nhiếp Ðại Thừa Luận, Khởi Tín Luận và Kinh Lăng Già. Không bao lâu trở thành nổi tiếng. Ông giúp vua Văn Ðế nhà Tùy (589- 601) chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, xây Chùa dựng Tháp khắp nơi. Khi vua Tùy Văn Ðế muốn truyền bá Phật pháp qua Giao Châu, ông tâu: Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc; khi Phật pháp mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu đã có 20 ngôi bảo sát (Chùa), độ được hơn 500 vị Tăng, dịch được 15 cuốn Kinh. Ông ca ngợi Pháp Hiền Thượng Sĩ là người trong hàng Bồ tát.

Tiểu sử của Ðàm Thiên được ghi trong Cao Tăng Truyện là một trong nhiều bằng chứng cho thấy ảnh hưởng hỗ tương trong quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc. Phật giáo Việt Nam trong truyền thống không phải đơn thuần là bản sao của Phật giáo Trung Quốc. Có những giai đoạn Phật giáo Việt Nam trở thành chỗ dựa cho Phật giáo Trung Quốc.

(13) 

Năm 544: LÝ BÔN xưng đế, lấy hiệu là Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Thuở nhỏ, mẹ con ông cư ngụ tại Chùa Bảo Phúc được sự giúp đỡ của vị sư trụ trì là Triệu Quang Hành. Nhà sư sai cháu ông là Triệu Quang Phục hầu hạ, giúp đỡ.

Một trong những việc làm đầu tiên của Lý Nam Ðế sau khi lên ngôi là dựng Chùa Khai Quốc trên nền Chùa cũ Yên Trì có từ thời Hồng Bàng, ở Long Biên (Hà Nội). Nhà Tiền Lý trải qua 3 đời vua. Năm 602 vua Lý Phật Tử chết, con là Sư Lợi nối ngôi, bị tướng Lưu Phương của nhà Tùy tấn công và bị bắt. Giao Châu lại bị Trung Quốc đô hộ kể từ đây, từ nhà Tùy (602- 617) tới nhà Ðường (618 - 907). Sách Việt Ðiện U Linh: sau khi vua Lý Nam Ðế chết vì bệnh năm 546, người trong nước chỗ nào cũng lập đền thờ.

(14) 

Năm 580: Thiền sư TỲ NI ÐA LƯU CHI đến nước ta thời vua Lý Phật Tử, truyền pháp ở Chùa Pháp Vân (Chùa Dâu ngày nay, ở Bắc Ninh), khai mở dòng Thiền Pháp Vân (còn gọi là dòng Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi). Ông là người miền Bắc Ấn Ðộ, một vùng tôn sùng Phật giáo Ðại Thừa chuyên về Thiền định, đến kinh đô Trường An, Trung Quốc, năm 574 vào đời vua Tùy Dương Ðế. Ông được Tăng Xán (tổ thứ 3 Thiền Tông Trung Hoa) ấn chứng và khuyên nên đi về phương Nam mà hoằng hóa. Do đó, ông tìm tới nước ta.

Ông dịch hai quyển Kinh quan trọng là Tượng Ðầu Tinh Xá và Ðại Thừa Phương Quảng Tổng Trì. Như vậy Thiền Việt Nam dù chủ trương không bị ràng buộc vào ngôn ngữ nhưng ngay từ đầu chưa từng khinh khi văn tự. Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi chú trọng nhiều về thực hành, nặng ảnh hưởng Ðại Thừa của Ấn Ðộ, trong đó có tính thần bí của Mật Tông. Theo Thầy Nhất Hạnh (VNPGSL 1), Tỳ Ni Ða Lưu Chi dùng danh từ “tâm ấn” sớm nhất. Tâm ấn dùng trong Kinh Ðại Nhật (bộ Kinh quan trọng nhất của Mật Tông) có nghĩa là tinh yếu mật ý của Kinh này.

Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá dạy 10 phép Thiền quán nội ngoại để trừ chấp trước, mang mầu sắc văn học Bát Nhã, nói về bản chất của giác ngộ qua các vấn đề: ai tu Bồ Ðề, ai được Bồ Ðề, lấy thân hay lấy tâm mà chứng để được Bồ Ðề, Bồ Ðề (sự giác ngộ) là gì? Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá thuộc hệ Bát Nhã, được Tỳ Ni Ða Lưu Chi dùng làm căn bản hành Thiền cho dòng Thiền Pháp Vân.

Kinh Ðại Thừa Phương Quảng Tổng Trì là một Kinh về Mật giáo, nêu lên những lời răn đe các Phật tử ưa chỉ trích lẫn nhau. Lê Mạnh Thát đã dịch hai bản Kinh này ra tiếng Việt (LSPGVN 2, tr. 729- 771). Ảnh hưởng của Mật giáo trong dòng Thiền Pháp Vân trở thành mạnh mẽ hơn vào thời nhà Ðinh và Tiền Lê sau này.

Tỳ Ni Ða Lưu Chi truyền tâm ấn cho Pháp Hiển, người trước đó đã học Thiền với sư Quán Duyên trú trì Chùa Pháp Vân từ trước khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi tới. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi tịch, Pháp Hiển tổ chức lễ Trà Tỳ (hỏa thiêu), là một phong tục hoàn toàn xa lạ với dân Trung Quốc thời bấy giờ. Mãi tới năm 676, sư Vận Kỳ mới trình vua Ðường hai bản Kinh Ðại Niết Bản do Thầy mình là Hội Ninh cùng Trí Hiền hợp dịch tại đảo Java (Nam Dương), nói về hỏa táng và thâu thập Xá Lợi của Phật.

Pháp Hiển (tịch năm 626) có tới 300 đệ tư. Pháp sư nổi tiếng Ðàm Thiên (542- 607) của Trung Quốc tôn Pháp Hiển là một vị Bồ tát sống (VNPGSL 1, tr. 113). Vua Cao Tổ nhà Tùy bên Trung Quốc nghe tiếng đạo hạnh của Pháp Hiển, sai sứ đem theo hộp Xá Lợi và điệp văn sang cúng dường. Sư cho xây Tháp Thuận Thành ở Chùa Pháp Vân và các Tháp Chùa Châu Phong, Châu Hoan, Châu Ái để thờ Xá Lợi. Theo sách Thiền Uyển Tập Anh, dòng Thiền Pháp Vân truyền đến đời thứ 19 là Thiền sư Y Sơn (tịch năm 1213). Thời Hậu Lê, vào thế kỷ 15, các vua nhiều lần rước tượng Phật Chùa Pháp Vân về kinh để cầu mưa.

(15) 

Thập niên 630 THANH BIỆN (? – 686 ): đời thứ 4 dòng Thiền Pháp Vân, được Thầy là Thiền sư Pháp Ðăng giảng và giao cho việc nghiên cứu Kinh Kim Cương làm đối tượng tu học từ lúc còn nhỏ, trở thành người đầu tiên chuyên trì tụng Kinh Kim Cương, trước ngũ tổ Hoằng Nhẫn (đắc pháp với Ðạo Tín năm 630) và lục tổ Huệ Năng (biết tới Kinh Kim Cương khoảng năm 670, bốn năm trước khi Hoằng Nhẫn tịch). Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 112) cho rằng hệ tư tưởng của dòng Thiền Pháp Vân được Thanh Biện làm cho trở thành hoàn chỉnh. Theo ông, cho tới thập niên 660, Trung Quốc chỉ có hai trung tâm Thiền lớn là trung tâm Ngưu Ðầu của Thiền sư Pháp Dung và trung tâm Huỳnh Mai của ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Tại nước ta, cũng có hai trung tâm Thiền lớn mỗi đợt đào tạo hàng trăm Thiền sư là trung tâm Pháp Vân và Phật Tích.

Vua Trần Thái Tông ngộ đạo do đọc Kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương vào thời Hậu Lê, từ sau Lê Lợi, trở thành đề tài thi bắt buộc trong những cuộc khảo hạch Tăng sĩ.

(16) 

Năm 665 Pháp sư Ðại Thừa Ðăng từ Trường An (Kinh đô Trung Quốc) qua Ấn Ðộ cầu pháp. Tiểu sử của ông được pháp sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh ghi lại trong bộ Ðại Ðường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Bộ này ghi chép các sự kiện về hơn 60 vị cao Tăng từ các nước phương Ðông qua Ấn Ðộ cầu pháp từ năm 650 trở đi. Trong số này có 6 cao Tăng từ nước ta: Trí Hành, Ðại Thừa Ðăng, Giải Thoát Thiên, Huệ Diệm, Vận Kỳ và Khuy Xung.

Ðại Thừa Ðăng, người Ái Châu (Thanh Hóa), theo cha mẹ qua Thái Lan, có lẽ xuất gia tại đây. Năm 645 qua kinh đô Trường An của Trung Quốc, thọ đại giới với Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (600- 664). Trong số 75 bộ Kinh do Huyền Trang dịch, ông góp công tới 7 phần tám với tư cách bút thọ. Bút Thọ là người chép và chỉnh lại những câu văn dịch sao cho vừa tôn trọng nguyên tác chữ Phạn vừa hợp với văn pháp chữ Hán. Sau khi Huyền Trang tịch, ông xin qua Ấn Ðộ cầu pháp. Ông gặp Nghĩa Tịnh tại Ấn Ðộ năm 671. Ông tịch tại Chùa Niết Bàn ở thành Câu Thi Na (Kasia, Ấn Ðộ).

Trong khoảng thời gian 663- 667, Giao Châu mất mùa lớn, người vật đều đói khổ. Nhà sư người nước Khương Tăng Già Bạt Ma được vua Ðường phái qua nước ta hái thuốc, thấy dân ta đói khổ, cứ lo kiếm thức ăn uống giúp người mà nước mắt thương xót ứa ra hoài, được gọi là Thường Ðề Bồ tát (Bồ tát Hay Khóc)

(17) 

Năm 791 PHÙNG HƯNG quê ở Sơn Tây khởi nghĩa chiếm phủ thành chống lại chế độ đô hộ hà khắc của nhà Ðường. Dân chúng coi như cha mẹ, tôn là Bố Cái Ðại Vương. Ðược vài tháng, ông bị bệnh mà mất, con ông là Phùng An được tôn lên thay. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 276) cho rằng Phùng Hưng đã phong chức Cung Phụng cho nhà sư trí thức ÐỊNH KHÔNG (729- 808) và cử qua Kinh đô Trường An giảng đạo cho hoàng đế Trung Quốc Ðức Tông Lý Quát là người hâm mộ đạo Phật. Cung Phụng là một chức vụ nằm trong bộ tham mưu thân cận nhà vua. Trong thời gian này, có thể các nhà sư Duy Giám và Nhật Nam cũng được cử qua Trung Quốc giảng Kinh cho vua Ðường nhiều lần. Ba vị sư này đã được các danh sĩ Trung Quốc thời đó ca ngợi về công phu tu tập và sở học.

Sự kiện các lãnh tụ dân tộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của Trung Quốc trong những thế kỷ đầu như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Phùng Hưng dù làm vua không lâu vẫn được dân chúng sùng bái qua nhiều thế hệ cho tới ngày nay là điểm đặc sắc của lịch sử VN cần được nghiên cứu nghiêm chỉnh.

(18)

Năm 820 Thiền sư VÔ NGÔN THÔNG từ Trung Hoa sang Giao Châu, tới Chùa Kiến Sơ lập phái Thiền Vô Ngôn Thông. Chùa Kiến Sơ vào thời này là ngôi Chùa mới lập, do Thiền sư trẻ tuổi Cẩm Thành (tịch năm 860) dựng. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 352), có thể Thiền sư Cẩm Thành theo học tại đạo tràng lớn Chúng Thiện do Thiền sư Pháp Hiển (truyền thừa đời thứ 1 dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi) thành lập. Lúc đó nước ta dưới quyền đô hộ của nhà Ðường, một chế độ được coi là hà khắc nhất trong gần ngàn năm nước ta bị Trung Quốc đô hộ.

Vô Ngôn Thông (tịch năm 826) tu học với Thiền sư Bách Trượng (779- 803, là người soạn bộ quy chế đầu tiên cho các Thiền viện, gọi là Bách Trượng Thanh Quy. Hiện nay, nhiều Chùa và tự viện lớn của VN vẫn áp dụng Bách Trượng Thanh Quy). Ông ít nói, nhưng thông minh hiểu biết mau nên có danh hiệu Vô Ngôn Thông hay Thông Thiền sư.

Tông chỉ của phái Thiền Vô Ngôn Thông nhắm vào đốn ngộ, tức Tâm tức Phật, không có đối tượng của giác ngộ, nhấn mạnh vào tự lực tự tiến, sử dụng “thoại đầu”. Nhiều Thiền sư trong Thiền phái Vô Ngôn Thông chuyên trì Kinh Viên Giác, một Kinh dạy về phương pháp đốn ngộ. Các Kinh Bát Nhã và Pháp Hoa cũng được các Thiền sư phái này sử dụng nhiều.

Thoại đầu là câu nói hay mẫu đối thoại có tác dụng thúc đẩy hay làm phát khởi sự đạt ngộ. Thiền sư Quy Sơn (Trung Quốc, 771- 853) đồng thời với Vô Ngôn Thông, là những người đầu tiên dùng “thoại đầu” để dạy đệ tử. Cả hai đều là đệ tử của Thiền sư Bách Trượng. Gần đây, Thiền sư Duy Lực (1922- 1999) là người tiếp nối dùng phương pháp “thoại đầu” tại hệ thống Thiền đường Từ Ân ở Việt Nam và California.

Phái Thiền Vô Ngôn Thông truyền tới Thiền sư Tiêu Diêu và Nhất Tông quốc sư được 17 đời. Ðệ tử nổi tiếng của Tiêu Diêu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ðệ tử nổi tiếng của Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Nhân Tông, trở thành sơ tổ dòng Thiền Trúc Lâm. Các đệ tử của phái Vô Ngôn Thông như các Thiền sư Giác Hải, Không Lộ và Nguyện Học chịu ảnh hưởng khá rõ của Mật Giáo.

(19)

Năm 860- 873 triều đại vua Ðường Ý Tông, Trung Quốc. Vua sai thái sử Cao Biền làm An Nam Ðô Hộ, với sứ mạng chính là đi “yểm” 19 chỗ để Giao Châu không thể nào thoát khỏi kiếp nô lệ. Cao Biền báo cáo hoàn tất công tác 18 chỗ bằng cách đào bới nhưng không thể nào “yểm” được núi Tản Viên. Ðồng dao VN có những câu ám chỉ sự kiện này như lẩy bẩy như Cao Biền dậy non hoặc núi Tản Viên thắt cổ bồng lại có thánh sinh. Cao Biền viết nhiều sách về địa lý phong thủy còn truyền lại tới ngày nay.

Sự cai trị của nhà Ðường ở Giao Châu khắc nghiệt hơn bất cứ thời đô hộ nào khác. Nhà Ðường tìm mọi cách ngăn chận sự phát triển về học thuật và văn hóa của Giao Châu. Cho nên chỉ có những nhà sư ở nước ta mới có điều kiện thông hiểu Nho học. Họ do đó sẽ đóng vai trò tham mưu quan trọng cho các chính quyền nước ta sau khi thu hồi được độc lập vào thế kỷ sau.

(20)

Năm 906 nhân nhà Ðường suy yếu, KHÚC THỪA DỤ một hào trưởng quê ở Hải Dương nổi lên, thái thú Tăng Cổn phải bỏ trốn. Nhà Ðường phải phong họ Khúc làm Tiết Ðộ Sứ. Năm sau, Khúc Thừa Dụ qua đời, con là Khúc Hạo lên thay. Ông sửa sang lại nền hành chánh khoan dung mà dản dị nên dân chúng ca tụng như “được sống lại”, cho thấy sự đô hộ của nhà Ðường vô cùng hà khắc. Bên Tàu, nhà Hậu Lương (907- 951) thay nhà Ðường toan cử quân sang đánh chiếm Giao Châu mà không dám. Năm 917, Khúc Hạo mất, nhà Lương phong chức Tiết Ðộ Sứ cho con ông là Khúc Thừa Mỹ. Năm 923, Khúc Thừa Mỹ bị vua Nam Hán là Lưu Cung bắt, rồi thả ra. Nam Hán đô hộ Giao Châu được 8 năm thì bị tướng của Khúc Hạo là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi, năm 931 lên làm Tiết Ðộ Sứ. Năm 937, Dương Diên Nghệ bị một nha tướng là Kiều Công Tiễn cướp quyền. Con rể của Dương Ðình Nghệ là Ngô Quyền đánh đuổi được Kiều Công Tiễn. Y chạy sang Tàu cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán huy động toàn lực dưới quyền chỉ huy của thái tử Hoằng Tháo tấn công Giao Châu. Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng, giết Kiểu Công Tiễn và thái tử Hoằng Tháo. Năm 939, ông xưng vương, đóng đô ở thành Cổ Loa (Phúc Yên).

(21) 

Năm 969 vua Ðinh Tiên Hoàng (968- 980) phong cho Thiền sư NGÔ CHÂN LƯU (930- 1011) làm Tăng Thống. Năm 971 vua phong TRƯƠNG MA NI làm Tăng Lục và ban hiệu KHUÔNG VIỆT Ðại Sư cho Ngô Chân Lưu. Chức Tăng Thống và Tăng Lục ở nước ta bắt đầu từ đấy. Tăng thống là người thống lãnh sư sãi, đứng đầu Phật giáo. Như vậy sau khi dẹp xong 12 sứ quân trong vòng 2 năm và thống nhất đất nước, Ðinh Tiên Hoàng thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức thành giáo hội liên hệ với chính quyền và xã hội. Sau này vào thời Lý có thêm những chức Tăng Chính, Ðại Hiền Quan (Nguyễn Lang, VNPGSL 1, tr. 212). Theo Nguyễn Lang (VNPGSL 1), Tăng Lục là người phụ trách văn thư giấy tờ, trông coi Tăng sự và ghi chép, làm công việc như sử quan trong giáo hội.

Ðinh Tiên Hoàng thuở hàn vi đánh cá, thường ngủ trọ ở Chùa Giao Thủy (Hoa Lư).

Tăng Thống Ngô Chân Lưu thuộc phái Vô Ngôn Thông, sau này khi nhà Tiền Lê thay thế nhà Ðinh (năm 980), ông càng được vua Lê Ðại Hành (980- 1005) kính trọng. Năm 987 vua sai ông ứng đáp sứ nhà Tống là Lý Giác. Người đi đón Lý Giác là Thiền sư Pháp Thuận. Vua còn sai Khuông Việt Ðại Sư viết khúc nhạc Ngọc Lang Qui để tiễn phái bộ nhà Tống ra về. Ông cũng được vua Lê Ðại Hành hỏi ý kiến về nhiều việc triều chính. Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 444) cho rằng dưới triều vua Ðinh Tiên Hoàng và Lê Ðại Hành, Ðại Sư Khuông Việt thực sự là thái sư (tể tướng).

(22) 

Năm 973 ÐINH LIỄN, tước Nam Việt Vương con của Ðinh Tiên Hoàng, cho dựng 100 tràng Kinh (là trụ đá hình bát giác cao từ 50 tới 80 phân) khắc Kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni ở Hoa Lư, Kinh đô của nhà Ðinh. Năm 979 ông lại cho dựng thêm 100 cột Kinh nữa, cũng tại Hoa Lư, để cầu giải thoát cho em là Ðinh Hạng Lang (bị ông giết vào đầu năm vì tội không trung hiếu với cha và anh), cầu cho cha mình là vua Ðinh Tiên Hoàng được sống lâu và bản thân mình được lộc vị bền vững. Tháng 10 năm 979 ông và vua Ðinh Tiên Hoàng bị tên Ðỗ Thích giết. Hoàng hậu Dương Vân Nga mưu cùng một số quan đưa Lê Hoàn lên làm vua, lập triều đại nhà Tiền Lê. Những cột Kinh này được phát hiện vào đầu năm 1963.

Kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni đã được hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch ra tiếng Việt trước năm 1975. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 2, tr. 429), bản Kinh do Ðinh Liễn sai khắc trung thực, đầy đủ hơn các bản Hán dịch công bố trong Ðại Chính Tân Tu Ðại Tạng Kinh. Bản Kinh này là một Bài chú của Mật Giáo, được trì niệm trong Thiền đường Trung Quốc từ thế kỷ 8. Năm 776, vua Ðường Ðại Tông ra lệnh toàn bộ Tăng ni phải tụng 21 biến Bài chú này và phải báo cáo tổng kết mỗi năm vào ngày 1 tháng giêng.

(23) 

Năm 1010- 1028 triều đại vua LÝ THÁI TỔ. Khi còn nhỏ, vua và mẹ là Bà Phạm Thị Ngà cư ngụ tại Chùa Châu Minh, Bắc Ninh. Bà Ngà là thủ hộ của Chùa. Quốc sư Vạn Hạnh là Thầy của vua thuở hàn vi. ÐẠO HẠNH (Quốc Sư Vạn Hạnh, Từ Lộ, tịch năm 1068) tinh thông về Phật Học, Khổng Học lẫn Lão Học, rất giỏi về các khoa sấm vĩ, địa lý và các pháp thuật của Mật Tông. Ông thuộc thế hệ thứ 12 dòng Thiền Pháp Vân (Tỳ Ni Ða Lưu Chi). Ông được coi là người chủ động trong nỗ lực đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, và thuyết phục vua dời Kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội). Các huyền thoại về đời ông được Chùa Láng diễn lại vài năm một lần trong lễ hội Chùa. Các Thiền sư nước ta chú trọng tới sấm vĩ và phong thủy là hiện tượng đạo Phật tích cực dấn thân nhập thế, góp phần vào nỗ lực dựng nước trước âm mưu của nhà Ðường kìm hãm dân ta trong vòng nô lệ bằng mọi cách kể cả phong thủy, thì các Thiền sư Ðịnh Không (730- 808), La Quý An (852- 936) và Vạn Hạnh đã dùng phong thủy và sấm vĩ để phản ứng lại.

Năm 1010 vua Lý Thái Tổ sai tuyển người xuất sắc để cho xuất gia. Bốn năm sau, Tăng Thống Thẩm Văn Uyển lập đại giới đàn ở Chùa Vạn Thọ. Năm 1016, hơn 1 ngàn người ở Kinh đô được tuyển để tu học làm Tăng sĩ và đạo sĩ. Năm 1019 mở đại giới đàn lần nữa.

Năm 1011 vua cho dựng nhà tàng Kinh Trấn Phúc để chứa Kinh điển. Năm 1018 vua sai người qua nhà Tống, Trung Quốc, thỉnh tam tạng Kinh. Năm 1020 ấn bản đại tạng Kinh chữ Hán đầu tiên do Tống Thái Tổ ra lệnh khắc in về tới nước ta gồm 1076 Kinh (480 tập, 5048 quyển). Năm 1021 vua cho dựng tàng Kinh các Bát Giác để chứa Ðại tạng Kinh. Năm 1023 vua sai chép thêm một bản Ðại tạng Kinh và dựng tàng Kinh các Ðại Hưng. Năm 1027, vua lại sai chép thêm một bản Ðại tạng Kinh nữa.

Theo sử quan Lê Văn Hưu (Ðại Việt Sử Ký): làm vua được hai năm mà Lý Thái Tổ đã dựng 8 Chùa ở phủ Thiên Ðức, độ hơn ngàn người ở Kinh đô làm sư.

Ðời nhà Lý còn nhiều lần sai sứ qua Tàu thỉnh Ðại tạng Kinh: năm 1034 và 1036 (triều Lý Thái Tông), 1081 và 1098 (triều Lý Nhân Tông). Tất cả các bản Ðại tạng Kinh trên đều là ấn bản in năm 983. (VNPGSL 1, tr. 213- 214).

Có thể nghề khắc mộc bản in Kinh tại nước ta đã bắt đầu từ thời Sĩ Nhiếp ở trung tâm Luy Lâu. Ðời nhà Lý, việc khắc mộc bản được phát triển để in các bản Kinh thông dụng như Kim Cương, Dược Sư, Pháp Hoa, Viên Giác... hầu đáp ứng nhu cầu tu học tại các Chùa. Trong Thiền Uyển Tập Anh, Thiền sư Tín Học (tịch năm 1200) được ghi là đời đời chuyên nghề khắc Kinh. Vào thế kỷ 14, các vị tổ phái Thiền Trúc Lâm như Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang đều cho khắc in nhiều Kinh với số lượng lớn. Nghề khắc in ở nước ta trở nên hoàn hảo hơn sau khi Lương Nhữ Hộc (1420- 1501) học được của Trung Quốc qua hai lần đi sứ (1443 và 1459) về truyền dạy cho dân làng Liễu Tràng, Hải Dương. Do đó ông được truyền tụng một cách lầm lẫn là tổ nghề in.

Các vua nhà Lý xây dựng khoảng 30 ngôi Chùa, từ các Chùa Hưng Thiên Ngự, Thắng Nghiêm, Ðại Giáo năm 1010 dưới triều Lý Thái Tổ, Chùa Một Cột năm 1049 tới Chùa Thánh Húc năm 1206 triều Lý Cao Tông. Trong cả nước đã có chừng 300 ngôi Chùa, những Chùa cũ hư nát được trùng tu lại.

Nghề làm tượng Phật ở nước ta có lẽ bắt đầu từ hay trước thời Khương Tăng Hội (tịch năm 280), phát triển mạnh dưới thời vua Lý Thái Tông. Năm 1036, vua làm lễ khánh thành tượng Phật Ðại Nguyện, năm 1040 khánh thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ và một nghìn bức tranh Phật, năm 1041 cho đúc tượng Phật Di Lặc bằng đồng nặng 7, 560 cân tại viện Thiên Phúc. Năm 1056 vua Lý Thánh Tông cấp 12 ngàn cân đồng để đúc chuông Chùa Báo Thiên và tự tay viết Bài minh khắc lên chuông, cũng cho đúc hai tượng Phạm Vương và Ðế Thích bằng vàng đặt thờ ở hai Chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ. Năm 1057, vua sai Lang Tướng Quách Mãn tạc tượng A Di Ðà bằng đá ở huyện Tiên Du, Bắc Ninh (VNPGSL 1, tr. 206).

(24) 

Năm 999 -1090 Thiền sư VIÊN CHIẾU (Mai Trực) được coi là Thiền sư thi sĩ tài ba nhất của phái Thiền Vô Ngôn Thông, rất am tường phép tam quán của Kinh Viên Giác. Bản luận giải Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn ông đem trình Lý Nhân Tông được vua sai sứ đưa qua Trung Quốc nhờ vua Tống Triết Tông duyệt. Vua Tống giao cho các pháp sư Chùa Tướng Quốc đọc và cho ý kiến. Họ trình: đây là đấng Bồ tát hóa thân ở phương Nam, giảng giải Kinh nghĩa rất tinh vi, không thể thêm bớt gì được. Vua Tống sai sao một bản, gởi trả lại bản gốc cho vua Lý với lời khen tặng. Các tác phẩm của ông còn được biết tới nay: Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn, Tán Viên Giác Kinh, Thập Nhị Bồ tát Hành Tu Chứng Ðạo Tràng, Tham Ðồ Hiển Quyết. Tham Ðồ Hiển Quyết là tác phẩm ghi lại những đối đáp có tính cách như thơ về các công án Thiền học. Ðinh Quang Mỹ (Thiền Trúc Lâm, Tập San Nghiên Cứu Phật Học số 4, trang nhà www. thuvienhoasen. org) cho rằng tới thời Thiền sư Viên Chiếu, hệ thống công án mới được truyền vào các dòng Thiền nước ta. Hệ thống công án được phát triển cao độ trong Thượng Sĩ Ngữ Lục

(25) 

Năm 1069 Thiền sư THẢO ÐƯỜNG được vua Lý Thánh Tông (1054- 1072) phong làm Quốc sư. Ông là đệ tử của Tuyết Ðậu (tác giả sách Bích Nham Lục nổi tiếng nhất trong Thiền môn). Nhiều Thiền sư nổi tiếng của phái Vô Ngôn Thông và Tỳ Ni Ða Lưu Chi thời Thảo Ðường tới cuối thế kỷ 12 chịu nhiều ảnh hưởng của Thiền sư Tuyết Ðậu. Ảnh hưởng này còn thấy trong phái Thiền Trúc Lâm.

Thiền sư Thảo Ðường qua Chiêm Thành hoằng pháp, bị quân của vua Lý Thánh Tông bắt khi chinh phạt xứ này và được giao cho phục dịch vị Tăng Lục. Khi ông lén sửa lại những chỗ sai lầm trong bản ngữ lục chép tay của vị này, tài học của ông được khám phá và trình lên vua. Sau khi khảo hạch về sức học cũng như đạo đức, vua rất khâm phục ông. Ngay đó ông được mời trụ trì Chùa Thảo Ðường ở Kinh đô. Ông khai sáng Thiền phái Thảo Ðường, đệ tử đầu tiên là vua Lý Thánh Tông. Chịu ảnh hưởng của Thầy ông, Thiền sư Tuyết Ðậu (tác giả tác phẩm Thiền nổi tiếng Bích Nham Lục) là người chủ trương dung hợp Phật và Nho, đưa Nho gia tới gần Phật, Con đường tu tập của phái Thảo Ðường: tham Thiền, quán chiếu và niệm Phật. Thiền Thảo Ðường chỉ ảnh hưởng tới giới trí thức và triều đình mà không thâm nhập được vào đại chúng. Trong 19 vị truyền thừa của phái Thảo Ðường ghi trong Thiền Uyển Tập Anh có tới 9 vị là cư sĩ thuộc thành phần vua quan ( trong đó có các vua Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông và Lý Cao Tông).

Tác phẩm Tuyết Ðậu Ngữ Lục do Thiền sư Thảo Ðường phổ biến rộng rãi, được nhiều Thiền sư cả hai Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông hâm mộ, mở đường cho sự thống nhất ba Thiền phái này thành dòng Thiền Trúc Lâm đời nhà Trần sau này. Chính vua Trần Nhân Tông đã được Thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ, sau khi ấn chứng, trao cho hai bộ Ngữ Lục của Tuyết Ðậu và Dã Hiên để thâm cứu khi rảnh rỗi vào năm 1287.

(26)

Năm 1070 sau khi quy y với Thiền sư Thảo Ðường, ông vua Phật tử LÝ THÁNH TÔNG lập Văn Miếu ở Thăng Long để thờ Khổng Tử và các tiên hiền. Lần đầu tiên Nho học được triều đình nước ta chính thức cổ súy. Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo VN, đạo Phật chưa bao giờ kỳ thị Nho và Lão giáo. Rất nhiều Thiền sư VN uyên thâm về Nho học đã giúp cho việc truyền bá đạo Phật trong giới trí thức từ thời nhà Ðinh (968- 980) trở về sau. Mặc dù có những giai đoạn như cuối đời Trần, đầu đời Hậu Lê (cuối thế kỷ 14, thế kỷ 15 và nửa đầu thế kỷ 16), nỗ lực đả kích Phật giáo của một số Nho gia đã ảnh hưởng tới vua, Nho giáo chưa bao giờ chiếm địa vị độc tôn trong lịch sử VN.

(27)

Năm 1077 LÝ THƯỜNG KIỆT (1019- 1105) đại thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt, tướng nhà Tống Quách Quỳ phải đầu hàng. Chính tại đây Lý Thường Kiệt cho phổ biến Bài thơ nổi tiếng hùng hồn Nam Quốc Sơn Hà Nam Ðế Cư, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Trận chiến thắng này làm Kinh hoàng quân Tống. Trước đó, năm 1069 ông đã khuất phục được vua Chiêm Thành ở phương Nam, năm 1075 ông đã thống lĩnh quân đội Ðại Việt tấn công san bằng các căn cứ nhà Tống ở châu Ung, châu Khâm và châu Liêm. Vào thời này, triều Tống đã hùng mạnh nhờ những cải cách của tể tướng lỗi lạc Vương An Thạch.

Khi được đề cử làm Tổng Trấn Thanh Hóa, Sùng Tín Trưởng Lão (Thầy của Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, tức Ỷ Lan Phu Nhân) vào thăm ông, được ông nhờ chọn đất để xây Chùa. Khởi công năm 1085, hoàn tất năm 1089 tại phía Nam núi Ngưỡng Sơn, Thanh Hóa, ông đặt tên Chùa là Linh Xứng. Sau khi ông qua đời, Thiền sư Pháp Bảo (Giác Tính Hải Chiếu Ðại Sư) được vua Lý Nhân Tông giao phó làm Bài văn bia Chùa Linh Xứng ca ngợi công trạng và đức độ của Thái Úy Lý Thường Kiệt, vị tướng lãnh trụ cột của 3 triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Bài này là một kiệt tác văn học khá dài, đại ý đoạn cuối như sau: Thái Úy vào trong thì sáng suốt khoan hòa, ra ngoài thì nhân từ dản dị, đổi dời phong tục nào có quản công, việc gì cũng siêng năng, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên đời được cậy nhờ chẳng phải ít... Trị dân thì dân được yên, xuất quân thì tất thắng, tên tuổi vang lừng khắp cõi, tiếng thơm nức bốn phương, thuận theo và tôn sùng đạo Phật, giữ gìn phúc đức quả là đây.

(28) 

Năm 1088 vua LÝ NHÂN TÔNG (1072- 1127) phong Khô Ðầu đại sư làm Quốc Sư. Quốc sư không chỉ làm cố vấn mà có khi còn đứng ngang hàng với tể thần xử đoán các việc và các kiện tụng. Tuy nhiên các quốc sư thời Lý Trần thường không mặc áo thế quyền, mà chỉ coi là Thầy dạy đạo cho cả nước.

Cũng năm này, theo đề nghị của các quan, vua Lý Nhân Tông phân các Chùa thành 3 loại: 1- Ðại danh lam (Chùa lớn). 2- Trung danh lam ( Chùa vừa). 3- Tiểu danh lam ( Chùa nhỏ). Các Chùa có ruộng và có người cày ruộng do nhà nước cấp. Nhà vua đã cho xây dựng hơn 100 ngôi Chùa trong cả nước.

Năm 1075 vua đặt ra phép thi Tam trường để kén người tài ra giúp nước. Những Nho sĩ muốn thi làm quan phải nghiên cứu sâu về đạo Phật.

Sau đời Lý Nhân Tông, các vua nhà Lý thường chết yểu, tân vương nhỏ tuổi nên Thái Hậu có nhiều quyền, đạo Phật dần dần mang nhiều mầu sắc mê tín, hòa nhập với đạo Lão hiện hành và tín ngưỡng cổ truyền có tính quyền năng còn sót lại trong dân gian.

(29)

Năm 1176- 1210 triều vua Lý Cao Tông. Sau lần độ Tăng năm 1134 (triều Lý Thần Tông) số người xuất gia đông dần, tệ lậu nảy sinh nơi Thiền môn. Năm 1179, vua cho khảo hạch các Tăng quan, năm 1198 lại cho chọn lọc và sa thải bớt Tăng sĩ không xứng đáng. Một số Nho thần như Ðàm Dĩ Mông nhân đó cực lực Bài xích Phật giáo. Nhưng các đại sư Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng tới triều đình. Tăng phó Nguyễn Thường đã có lần khuyên can vua không nên tổ chức hát xướng chơi bời xa hoa quá độ.

Phật giáo đời nhà Lý có những đóng góp lớn lao vào học thuật, phong hóa, xã hội. Ảnh hưởng của Mật giáo tuy có nhưng tính chất mê tín dị đoan còn ít hơn so với thời Hậu Lê và Pháp thuộc. Các Quốc sư như Vạn Hạnh, Khô Ðầu, Không Lộ, Thông Biện, Viên Chiếu đều là người học rộng, hiểu nhiều góp phần tích cực tạo nên một đời mà Hoàng Xuân Hãn cho là “thuần từ nhất trong lịch sử nước ta” (Lý Thường Kiệt, Viện Ðại Học Vạn Hạnh tái bản, Sài Gòn 1966).

Tại Ấn Ðộ, năm 1203, đợt tấn công sau cùng của quân Hồi Giáo san bằng đại học Nalanda và tàn sát gần hết Tăng sĩ, khoảng 70 Tăng sĩ sống sót nhờ chạy trốn qua Nepal và Tây Tạng. Phật giáo hầu như bị loại khỏi Ấn Ðộ, chỉ bắt đầu được phục hồi lại từng bước nhỏ từ cuối thế kỷ 19 nhờ nỗ lực của vị đại sư Dharmapàla từ Tích Lan tới.

(30)

Năm 1236 Sau khi bị Trần Thủ Ðộ bắt ép phải bỏ vợ là Lý Chiêu Hoàng để lấy chị dâu đang có mang hầu có thể có con nối dõi ngay khiến cho anh ruột bị mất vợ là Trần Liễu phẫn uất dấy binh nổi loạn, TRẦN THÁI TÔNG (1218- 1277) bỏ ngôi vua, đêm 3 tháng 4 năm Bính Thân đem theo vài tùy tùng tìm lên núi Yên Tử để đi tu. Tại đây, vua tham kiến Trúc Lâm đại sư, được khuyên: Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực khổ ở bên ngoài.

Lời khai thị trên đã mở đường cho vua Trần Thái Tông tự tìm học Phật. Vua tham vấn Phật pháp với các Thiền sư Viên Chiếu, Tức Lự. Vua chuyên trì tụng Kinh Kim Cang, tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì ngộ. Sau đó vua viết Thiền Tông Chỉ Nam. Khi quốc sư Viên Chiếu tới thăm, vua trình cuốn này, Thiền sư khen là đã thấu suốt được tâm tông. Vua cũng có những bạn đồng đạo như các Thiền sư Ðại Ðăng, Ứng Thuận. Hai Thiền sư Trung Quốc Thiên Phong và Ðức Thành nghe tiếng vua tìm sang nước ta xin yết kiến để tham vấn đạo. Theo sách Thiền Tông Bản Hạnh của Thiền sư Chân Nguyên (1647- 1726), vua đã mở các trường Tăng học tại Chùa Quỳnh Lâm, Chùa Tư Phúc (ở núi Côn Sơn, Ðông Triều Hải Dương) và Chùa Hoa Yên (Vân Yên, ở núi Yên Tử). Những Chùa này vào đầu thế kỷ 14 trở thành ba trung tâm hoằng pháp lớn của phái Thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập.

Vua ở ngôi 32 năm, sau đó nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Tác phẩm của vua được biết gồm Thiền Tông Chỉ Nam (viết năm 30 tuổi), Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Bình Ðẳng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục, Thi Tập.

Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi theo Nhất Hạnh (VNPGSL 1, tr. 256) là Bài sám pháp gọn gàng, đẹp đẽ và thực dụng có tính cảnh giác và khích lệ hành động, so ra bằng hoặïc hơn các sám pháp phổ thông từ Trung Quốc đưa qua như Lương Hoàng Sám, Từ Bi Thủy Sám, Dược Sư.

Khóa Hư Lục là tác phẩm quan trọng hướng dẫn hành trì tu tập thực tiễn và khai phóng, vừa nhắm vào giới trí thức qua các đề mục Thiền như Tọa Thiền Luận, Giới Ðịnh Tuệ Luận, Tuệ Giới Giám Luận, Niệm Tụng Kệ với 43 công án Thiền... , vừa nhắm vào đại chúng qua các đề mục Tịnh Ðộ như Niệm Phật Luận, Lục Thời Sám Hối, Bình Ðẳng Lễ Sám Văn Tự... Sư Tuệ Tĩnh (1330- 1399) dịch tác phẩm này ra văn Nôm giúp Tăng sức phổ biến của nó.

Con ông là vua Trần Thánh Tông (1258- 1278) sau này xuất gia với Quốc Sư Ðại Ðăng và đi tu ở Chùa Tư Phúc trên núi Côn Sơn (Hải Dương).

Các ông vua Phật tử khai sáng đời Trần như Thái Tông và Thánh Tông đã mở mang Nho giáo, lập Quốc Học Viện, tạc tượng Chu Công, Khổng, Mạnh và 72 tiên hiền để thờ (1253), mở các khoa thi để kén chọn nhân tài trong giới Nho sĩ (1232, 1247...).

(31) 

Năm 1282 NGUYỄN THUYÊN làm Bài Văn Tế Cá Sấu bằng văn Nôm, được coi là khởi điểm của văn học chữ Nôm, và được vua Trần Nhân Tông cho đổi họ là Hàn Thuyên, vì so sánh với Hàn Dũ bên Trung Quốc.

Chữ Nôm là loại chữ biến cải từ chữ Hán, ban đầu được sáng tạo từ các Chùa để dùng ghi tên họ của các người dân quê trong văn sớ, dần dần được phong phú hóa nhờ nhiều nhà sư giỏi Hán văn và nặng tình dân tộc trong thời bị Trung Quốc đô hộ, nên càng ngày số ngữ vựng càng nhiều, được Nho gia chấp nhận dùng trong các thể loại văn học kể từ đây. Từ năm 1025, thời Lý Thái Tổ, lối hát ả đào đã hình thành với những Bài ca dùng điệu lục bát hay song thất lục bát của thơ Nôm (Phạm Văn Sơn, VSTT tr. 226). Thời nhà Trần, mặc dù Hán văn đã đạt tới trình độ cao nhưng văn Nôm cũng có những tác phẩm lớn như Bài phú Cư Trần Lạc Ðạo (Trần Nhân Tông), Vịnh Vân Yên Tự (Huyền Quang). Vua Trần Nhân Tông (1258- 1308) ra lệnh: chữ Nôm và chữ Hán là hai ngôn ngữ chính thức dùng trong văn thư hành chánh. Theo Lê Mạnh Thát (TTTNT tr. 281) chỉ riêng trong 2 tác phẩm Nôm của Trần Nhân Tông là Cư Trần Lạc Ðạo và Ðắc Thú Lâm Tuyền Thành Ðạo Ca số ngữ vựng Nôm đã có gần 2 ngàn từ. Văn Nôm cực thịnh từ thế kỷ 17 tới đời vua Minh Mạng (1820- 1840), với nhiều tác phẩm dài như bản dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Phan Huy Ích, Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, Ðoạn Trường Tân Thanh và Văn Tế Cô Hồn Thập Loại Chúng Sinh củaNguyễn Du, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Ngọc Kiều Lê và Truyện Tây Sương của Lý Văn Phức, Trinh Thử của Nguyễn Hàm Nghi, Bích Câu Kỳ Ngộ của Vũ Quốc Trân, Quan Âm Thị Kính của Nguyễn Cấp, Phan Trần của vô danh, Ai Tư Vãn của Ngọc Hân.

(32) 

Năm 1299 TRẦN NHÂN TÔNG (1258- 1308) lên núi Yên Tử xuất gia, lấy hiệu là Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà, được coi là Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm. Phong trào học Phật kể từ đây được phát khởi mạnh và đại chúng hóa. Chùa Vân Yên trên núi Yên Tử trở thành một trung tâm Phật giáo đời Trần, đào tạo được nhiều vị quốc sư như Viên Chứng, Ðại Ðăng, Tông Cảnh, Bảo Phác, Phù Vân, Vô Trước, Quốc Nhất. Hàng năm Chùa Vân Yên tổ chức an cư kiết hạ ba tháng, Tăng sĩ trong nước về tham dự rất đông. Trần Nhân Tông chủ trương: việc duy trì Phật pháp là nằm ở quốc vương đại thần, như lời bạt của Trần Khắc Chung trong cuốn Trần Triều Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Hai người tạo ảnh hưởng quan trọng đối với ông là Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Quốc Tung, Thầy ông) và vua Trần Thánh Tông ( Vô Nhị Thượng Nhân, cha ông). Trong Bài pháp giảng vào tháng giêng 1306, Trần Nhân Tông ca ngợi hai người là “ơn mưa pháp đã thấm tới cho cháu con được tắm gội” (Lê Mạnh Thát, TTTNT tr. 241).

Phái Thiền Trúc Lâm chủ trương lấy sự học hỏi Kinh điển làm trọng, tổng hợp Thiền và Giáo, tổng hợp Phật Nho và Lão. (Trần Nhân Tông: giáo lý của đức Phật ta phải nhờ Tiên Thánh mà truyền lại cho đời). Ðạo Phật Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, chủ trương nhập thế, đạo phụng sự cho đời sống. Sách Phật giáo Pháp Sự Ðạo Tràng Công Văn Cách Thức (VNPGSL 1, tr. 412) được ấn hành năm 1299, quy định các sớ, tấu, điệp và các bản văn dùng trong các nghi thức như thọ giới, cầu an, cầu siêu... Các sớ điệp ghi tên họ những người xin cầu an, cầu siêu, thọ giới bằng chữ Nôm. Tác phẩm quan trọng của Trần Nhân Tông, Cư Trần Lạc Ðạo, là một trong vài tác phẩm chữ Nôm xưa nhất còn truyền lại.

Trần Nhân Tông lên ngôi vua năm 1279, tới năm 1293 (Quý Tị) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Dưới triều đại của ông, quân dân ta đánh đuổi được hai cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ (1285- 1288). Năm 1285 và 1288, ông phong tặng gia hiệu cho các anh hùng liệt nữ, anh linh lịch sử của đất nước. Sau các cuộc chiến tranh Lào Việt chấm dứt vào năm 1295, Trần Nhân Tông đã thực tập xuất gia ở Chùa Võ Lâm, Ninh Bình. Năm 1301 ông đi quan sát tình hình Phật giáo tại Chiêm Thành, tại đây hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Năm 1304 ông đi dạo khắp nước, khuyên dân chúng giữ 5 giới, tu mười điều lành (thập thiện) và phá bỏ đền thờ những vị thần không có phẩm hạnh (gọi là dâm từ).

Các ông vua Thiền sư đời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông thường được gọi là Bụt Vàng, Vua Bụt, Ðiều Ngự Vương. Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông được thờ ở Chùa Thiên Trúc (Chùa Ðồng Vĩ vì mọi kiến trúc đều bằng đồng) ở Ðông Triều, tỉnh Hải Dương.

(33) 

Năm 1308 mồng một Tết, Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông trao y bát và tâm kệ cho PHÁP LOA (Ðồng Kiên Cương, 1284- 1330). Ông cũng được trao 100 hộp đựng Kinh sử ngoại điển và 20 hộp đựng Ðại Tạng Kinh viết bằng máu, được dặn dò “mở rộng việc học bên trong và bên ngoài”. Pháp Loa, một người dân giả trẻ tuổi chưa đỗ đạt làm quan, xuất gia cũng chưa lâu, trở thành tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm. Xứng đáng với sự tin cậy của Ðiều Ngự Trúc Lâm, ông là một nhà tổ chức giáo hội tài ba, sanh năm 1284 tại Hải Dương, xuất gia năm 1304, tịch năm 1330. Thời Pháp Loa, số người xuất gia và số Chùa Tăng lên rất mau chóng, sổ Tăng tịch được lập để thống nhất Tăng sĩ và tự viện thành Giáo hội, mà Pháp Loa là người đầu tiên được cấp độ điệp (thẻ căn cước của Tăng sĩ) năm 1308 sau khi nhận chức trú trì Chùa Bảo Ân. Năm 1311, tại Chùa Vĩnh Nghiêm, ông lập kế hoạch kiểm tra các tự viện ( vì làng nào cũng có ít nhất là một Chùa) và quy định mọi chức vụ của Tăng sĩ trong giáo hội. Năm 1312 ông từ chối không nhận thuyền bè và phu kiệu do vua Trần Anh Tông cúng dường. Ông hạn chế việc tổ chức Ðại Giới Ðàn ba năm một lần để giới hạn số người xuất gia. Tính đến năm 1329, số Tăng sĩ xuất gia qua các Ðại Giới Ðàn do Pháp Loa tổ chức được cấp sổ Tăng tịch trên 15 ngàn người. Chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, một trong 7 ngôi Chùa lớn của phái Trúc Lâm được Pháp Loa chọn làm văn phòng trung ương của giáo hội.

Pháp Loa chú giải nhiều Kinh điển như Pháp Hoa, Lăng Già, Kim Cương, Bát Nhã Tâm Kinh, Hoa Nghiêm và soạn các sách về nghi thức sớ điệp dùng trong các lễ Phật giáo (Pháp Sự Khoa Văn), nghi thức cúng đàn chẩn tế (Ðộ Môn Trợ Thành Tập). Qua những khóa giảng Kinh Hoa Nghiêm nhiều lần, có lần số người tham dự trên một ngàn, ông tạo nên phong trào học Kinh Hoa Nghiêm trong Thiền giới Việt Nam thời đó. Lê Mạnh Thát (TTTNT, tr. 325) cho rằng tư tưởng Hoa Nghiêm trở thành lý thuyết phổ quát cho những người lãnh đạo quốc gia Ðại Việt nhìn về đất nước cũng như xã hội mình. Tăng già thời Pháp Loa học Kinh điển theo cách phân tích, chú giải và bình luận, vấn đáp và đàm thuyết.

Pháp Loa cũng soạn sách Hộ Quốc Nhân Vương Nghi Quý theo lệnh của vua Trần Anh Tông để làm cẩm nang trị quốc theo phẩm hạnh một vị quốc vương Bồ tát (như vua A Dục).

Mật Tông đã ảnh hưởng đáng kể tới Pháp Loa, ông làm lễ Quán Ðảnh (một nghi thức truyền giới của Mật Tông), tổ chức trai đàn chẩn tế với những ấn quyết và thần chú, thời khóa tụng niệm buổi chiều thường có nghi thức thí thực cô hồn ngắn (gọi là Mông Sơn Thí Thực Văn). Nghi thức tụng niệm buổi sáng của giáo hội Trúc Lâm chủ yếu là thần chú (gồm 11 thần chú, không kể thần chú trong Bát Nhã Tâm Kinh). Trong thời Pháp Loa, Tăng sĩ Tây Tạng Du-Chi-Bà-Lam qua Ðại Việt lần thứ hai năm 1311 và tịch tại đây. Con gái ông được vua Trần Anh Tông tuyển vào cung. Năm 1318, Tăng sĩ Ấn Ðộ Ban-Ðể-Ô-Sa-Thất phụng chiếu vua Trần Minh Tông dịch Bạch Tán Cái Thần Chú.

(34) 

Năm 1317 Văn Huệ Vương TRẦN QUANG TRIỀU (1286- 1325) con cả của Trần Quốc Tảng và là cháu nội Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn cúng dường 40 vạn quan tiền trùng tu Chùa Quỳnh Lâm. Ông là một nhà thơ lớn, tập Cúc Ðường Di Tập của ông được Phan Huy Chú ca ngợi là “thanh thoát khá khen”. Ông xuất gia năm 1322 với Thiền sư Pháp Loa sau khi vợ ông là công chúa Thượng Trân mất. Tháng chạp 1324, ông lại cúng dường tổng cộng hơn ngàn mẫu ruộng ở Gia Lâm và hai nơi khác cùng hơn ngàn nông nô làm của Tam bảo cho Chùa Quỳnh Lâm. Ông còn nhờ Thiền sư Pháp Loa duyệt lại và thêm lời chú thích sách Tứ Phần Luật rồi cúng dường in 5 ngàn quyển cho Tăng chúng học tập. Chùa Quỳnh Lâm qua sự cúng dường của ông trở thành một kiến trúc quy mô, với những cột to tới một người ôm. Thiền sư Bảo Sát trú trì Chùa này, và trông coi việc ấn tống Ðại Tạng Kinh tại đây vào năm 1319. Chùa Quỳnh Lâm là nơi lưu trữ hồ sơ của tất cả các Tăng sĩ thuộc giáo hội Trúc Lâm đời Trần. Báo Ân, Siêu Loại và Quỳnh Lâm là 3 cơ sở lớn nhất của giáo hội Trúc Lâm thời Pháp Loa. Ðời Trần Dụ Tông, Trương Hán Siêu (mất năm 1314) là người nổi tiếng Bài xích Phật giáo một cách cực đoan, được cử làm Giám Tự Chùa Quỳnh Lâm. Có lẽ nhờ vậy, về cuối đời, ông đã phần nào thấm nhuần được ý nghĩa giải thoát của Phật pháp.

Chùa Quỳnh Lâm do Thiền sư Ðịnh Không (730- 808) lập lúc nước ta dưới thời đô hộ của nhà Ðường. Thiền sư Không Lộ (Nguyễn Minh Không, tịch vào năm 1141 đời Lý Anh Tông), dựng tượng Phật A Di Ðà là một trong 4 tác phẩm nghệ thuật lớn đời Lý gọi là Tứ Ðại Khí. Ba tác phẩm khác do ông xây dựng là: Tháp Chùa Báo Thiên, đỉnh chuông Chùa Phổ Minh và chuông Chùa Phổ Lại. Khi quân Minh xâm chiếm nước ta (1407- 1427), chúng phá hủy Chùa Quỳnh Lâm. Chúa Trịnh Giang sau này cấp tiền và mộ phu tu sửa Chùa hai lần vào các năm (1728- 1732) và (1735- 1746) tạo những trang trí thật đẹp. Ðời Thiệu Trị (1840- 1847) Chùa lại bị đốt phá nhiều bộ phận chính.

Thời chiến tranh Việt Pháp, Việt Minh chiếm Chùa làm chỗ đóng quân, treo cờ đỏ sao vàng lên. Phi cơ Pháp thấy, bỏ bom, Chùa bị cháy hơn một tháng mới hết, chỉ còn lại nền Chùa. Sau năm 1954, gạch của Chùa được xung công để xây hợp tác xã nuôi heo ngay trước cửa Chùa cũ. Năm 1985, khi chính quyền Cộng Sản bắt đầu chính sách cởi trói, dân chúng địa phương mới góp tiền xây được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền Chùa cũ để thờ Phật. Chùa Quỳnh Lâm được Bộ Văn Hóa nhà nước Cộng Sản xếp vào loại di tích lịch sử cần được bảo tồn!

(35) 

Năm 1319 Ðại Tạng Kinh do Pháp Loa ủy cho sư huynh của ông là BẢO SÁT chủ xướng gồm năm ngàn quyển được ấn hành hai lần: năm 1319 và năm 1329. Bản Ðại Tạng Kinh này do vua Trần Nhân Tông gởi thơ xin và được vua Nguyên Thành Tổ cấp cho năm 1295. Việc thực hiện Ðại Tạng Kinh đã được khởi công khắc in từ đầu năm 1296, bị gián đoạn năm 1308, khi Trúc Lâm Ðầu Ðà Trần Nhân Tông tịch. Năm 1311, vua Trần Anh Tông ra lệnh cho Pháp Loa tiếp tục công việc này. Pháp Loa ủy thác cho Thiền sư Bảo Sát chủ trương việc khắc các bản gỗ để in. Các tác phẩm Thiền học của Trần Nhân Tông như Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi tập, Thạch Thất Mị Ngữ và Tăng Già Toái Sự, các tác phẩm củavua Trần Thái Tông như Khóa Hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cương Tam Muội Kinh, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, các tác phẩm của Tuệ Trung như Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục được đưa vào bộ Ðại Tạng Kinh này trong bản in lần thứ hai năm 1329. Lần in đầu vào tháng chạp 1319, các Tăng sĩ và cư sĩ cùng hiến máu để cúng dường cho bản đầu tiên.

Bảo Sát là đệ tử được Sơ Tổ Trúc Lâm yêu quý nhất nhưng không được giao phó việc lãnh đạo giáo hội có lẽ vì Trúc Lâm thấy Pháp Loa mới có khả năng tổ chức và lãnh đạo cao.

Năm 1407, khi Hồ Quý Ly đầu hàng tướng Trương Phụ của nhà Minh, nhà Minh cho chở về Kim Lăng, Kinh đô Trung Quốc, tất cả các sách vở và mọi thứ có chữ tại nước Ðại Việt, trong đó có bản khắc gỗ bộ Ðại Tạng Kinh nói trên. Trương Phụ đã tịch thu gần hết gia tài văn học của Ðại Việt.

(36)

Năm 1322 vua TRẦN MINH TÔNG sai Pháp Loa (tổ thứ hai của phái Thiền Trúc Lâm) viết Tham Thiền Chỉ Yếu. Năm 1330, ông lại sai Huyền Quang (tổ thứ 3 Trúc Lâm) viết Phổ Huệ Ngữ Lục và Hành Trạng. Theo Lê Mạnh Thát (Nghiên Cứu Về TYTA, tr. 87) có thể ông đã sai Thiền sư Kim Sơn viết Thiền Uyển Tập Anh, bộ lịch sử Phật giáo Thiền Tông VN, năm 1337.

Cũng trong năm này giáo hội Trúc Lâm cho in 5 ngàn bản Tứ Phần Luật và các cao Tăng được triệu về để giảng dạy giới luật cho Tăng sĩ.

Những bản in này có thể phẩm chất không tốt vì mãi tới 1460, sau hai lần đi sứ qua Trung Quốc năm 1443 và 1459, Lương Nhữ Hộc (1420- 1501) cố học được nghề in khắc và truyền dạy cho dân làng Liễu Tràng ( đời vua Lê Thái Tông). Ông được coi là tổ nghề in.

(36) 

Năm 1330 HUYỀN QUANG trở thành tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, sau khi Pháp Loa tịch. Huyền Quang (Lý Ðạo Tái 1254- 1334) thông thạo thư tịch, giỏi trích dẫn Kinh điển lại ứng đối mau lẹ. Trong 20 năm làm quan, ông được giao phó trách nhiệm tiếp sứ nhà Nguyên Trung Quốc. Ðược vua hứa gả công chúa cho, ông một mực từ chối. Năm 1305 ông xin từ quan, xuất gia, theo học với Thiền sư Bảo Phác. Ngay sau đó, ông được Ðiều Ngự Trúc Lâm chọn làm phụ tá. Ông theo sát Trúc Lâm trong hai năm, được giao phó việc soạn các sách giáo khoa căn bản cho giáo hội.

- Chư Phẩm Kinh: tuyển tập các phẩm Kinh thiết yếu và thực dụng.

- Công Văn Tập: tuyển tập các Bài văn, sớ, điệp dùng trong nghi lễ Phật giáo.

- Thích Khoa Giáo: giáo khoa về Phật pháp căn bản.

Ðiều Ngự Trúc Lâm xem xong, rất hài lòng sai khắc in ngay không cần sửa chữa. Sau đó, ông làm trú trì Chùa Vân Yên (Hoa Yên, ở núi Yên Tử). Số người theo học ông tại trường Tăng Học Vân Yên lên tới ngàn người. Tại đây, ông đã làm Bài phú chữ Nôm nổi tiếng Vịnh Hoa Yên Tự (HT Ðức Nghiệp trong Ðạo Phật VN coi đây là 1 bản Kinh VN). Năm 1309, sau khi Ðiều Ngự Trúc Lâm tịch, ông theo lời dặn dò, theo sát Pháp Loa trong vài năm làm phụ tá rồi trở lại Chùa Vân Yên lo huấn luyện Tăng sinh. Ông cho khắc in nhiều Kinh điển và dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa, là một Tháp có thể xoay được theo lối Mật Tông ở Chùa Ninh Phúc, Bắc Ninh. Tháp có 9 tầng, 8 mặt, mỗi mặt của tầng dưới cùng có chạm nổi hình ảnh về sự tích đức Phật. Ông ít thuyết pháp cho đại chúng, ít giao thiệp với những người trong triều mà chỉ lo giảng dạy cho Tăng chúng tại các trường Tăng Học. Có lẽ vụ án vua Trần Minh Tông nghe lời Mạc Ðĩnh Chi sai cung nữ Thị Bích thử thách ông đã làm ông lánh xa triều đình. Cô cung nữ xinh đẹp lại thông Kinh sử này không lay động được ông về nhan sắc và sự lanh lợi, đã bịa chuyện lợi dụng lòng từ tâm của ông xin được nhiều vật quý vua ban cho ông để dối gạt là đem bán lấy tiền chuộc cha. Sau đó cung nữ Thị Bích lại dối gạt vua là Huyền Quang lưu cô lại một đêm và tặng những vật trên. Nhà vua nghi hoặc, đành mở đại hội Vô Già, trưng Bày các đồ vật cung nữ Thị Bích xin được đó để thử thách Huyền Quang. Ông dùng năng lực tu chứng Mật Tông để giải nỗi oan khiên này ngay tại lễ đàn này làm cho đại chúng Kinh hoàng và vua phải quỳ lạy tạ lỗi.

Ông không xây nhiều Chùa (có lẽ vì số Chùa lúc đó đã quá nhiều) mà chỉ lo mở mang các trung tâm hoằng pháp lớn của phái Trúc Lâm như các Chùa Vân Yên, Ninh Phúc, Thanh Mai và Côn Sơn thành những đạo tràng tu học. Nỗ lực chính của ông nhằm hoàn thiện phẩm chất cho Tăng Già để có khả năng đảm đương nổi các cơ sở Giáo Hội đã phát triển nhanh dưới thời Pháp Loa. Những năm cuối đời, ông trú trì tại Chùa Côn Sơn (huyện Chí Linh, Hải Dương).

Một số nhà biên khảo Phật giáo đã sai lầm mà cho rằng sau khi Huyền Quang tịch vào năm 1334, dòng Thiền Trúc Lâm suy yếu trầm trọng không còn sinh hoạt. HT Thanh Từ được coi là người hiện nay khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm, cũng có quan niệm sai lầm này. Thực ra đời Trần đã suy yếu từ đời Trần Dụ Tông (1341- 1369). Theo Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông vua này chiêu tập nhà giầu trong nước vào cung đánh bạc cho vui, mỗi tiếng bạc đặt 300 quan tiền; lại hoang dâm quá độ. Thượng Hoàng Trần Minh Tông mặc dù tới năm 1358 mới băng, dường như cũng không ngăn cản tệ hại này. Thậm chí ông còn chấp thuận việc giết người còn tân để lấy mật chữa bệnh cho vua Dụ Tông (lên ngôi năm 9 tuổi, sau khi vua Trần Hiến Tông băng mà không có con). Theo lời khuyên của Thầy thuốc Trần Canh, ông còn cho phép con gái ông là công chúa Thiên Ninh, dù đã có chồng, loạn luân với em ruột là vua Dụ Tông để chữa bệnh bất lực cho ông vua 15 tuổi này. Triều đình như vậy, vào lúc trung thần tài giỏi như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn đã chết, còn Chu Văn An dâng sớ xin chém đầu bảy nịnh thần không được xét cũng xin từ quan. Trong nước nhân dân đói khổ. Bên ngoài, Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga hàng năm sang đánh phá từ năm 1368. Năm 1372, Hồ Quý Ly bước lên địa vị quyền uy nhất triều đình Trần Duệ Tông (1372- 1377). Là người thông minh và có tham vọng làm vua, tất nhiên ông có những biện pháp canh chừng Giáo Hội Trúc Lâm là một thế lực hậu thuẫn của nhà Trần. Khi nhà sư Phạm Sư Ôn của Thiền phái Trúc Lâm khởi loạn (1389), mặc dù đang chống trả sự tấn công mãnh liệt của quân Chiêm Thành, họ Hồ vẫn ra lệnh cho Trần Khắc Chân phải đem một nửa quân tiêu diệt Phạm Sư Ôn. Quân Chiêm Thành tan rã sau khi Chế Bồng Nga chết vì bị phục kích (1390), Phạm Sư Ôn bị dẹp tan, Hồ Quý Ly hẳn nhiên rảnh tay tiêu diệt các hậu thuẫn của nhà Trần. Các nhà sư giáo hội Trúc Lâm có lẽ đã phải mai danh ẩn tích, thậm chí thay đổi tên họ trốn vào các vùng đất phía Nam. Tiếp theo là thời đô hộ (1407- 1427), nhà Minh chủ trương đồng hóa toàn diện nước ta, thay thế nền Phật giáo Việt Nam bằng Phật giáo Trung Quốc, Thiền phái Trúc Lâm lại phải tiếp tục lẩn tránh nếu không muốn bị hoàn toàn đồng hóa.

Lê Mạnh Thát (TTTNT, tr. 335) cho rằng Thiền sư Kim Sơn mới là tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm, vì đó là mỹ hiệu Thượng Hoàng Trần Minh Tông (làm vua 1314- 1329) gọi ông trước khi băng hà vào năm 1358. Tuy nhiên cũng chính vua Trần Minh Tông đã ban hiệu cho Huyền Quang (vào năm 1334 ngay sau khi ông tịch) là Trúc Lâm Ðệ Tam Ðại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả và cúng dường 10 lạng bạc để xây Tháp thờ ông phía sau Chùa Côn Sơn.

(37) 

Năm 1337 Thiền Uyển Tập Anh ra đời, theo Trần văn Giáp và sau này là Lê Mạnh Thát. Về tác giả: Lê Mạnh Thát cho là Thiền sư Kim Sơn viết theo lệnh của vua Trần Minh Tông, Nguyễn Lang (Nhất Hạnh) cho rằng đây là công trình tập thể trong đó bốn người quan trọng nhất là: Thông Biện (tịch năm 1134), Thường Chiếu (tịch năm 1203), Thần Nghi (tịch năm 1216) và Ẩn Không là tác giả sau cùng.

Thiền Uyển Tập Anh ghi chép tiểu sử các Thiền sư tại nước ta từ thế kỷ 6 tới đầu thế kỷ 13, thuộc ba Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường. Sự ghi chép nhiều chỗ rất sơ sài, nhiều vị danh Tăng cùng thời vì không nằm trong ba Thiền phái trên nên không được nhắc tới. Tuy nhiên, đây là tác phẩm lịch sử Phật giáo Việt Nam cổ nhất còn truyền lại tới nay, nó trở nên quan trọng vì cung cấp nhiều tên người, tên đất, về lối sống và tín ngưỡng ở nước ta trong 7 thế kỷ. Tác phẩm này được Lê Mạnh Thát (TUTA) dịch và chú giải kỹ lưỡng.

(38) 

Năm 1350 (đời vua Trần Dụ Tông) sư TUỆ TĨNH thọ đại giới tại Chùa Vân Yên, núi Yên Tử với quốc sư Lãm Sơn. Tuệ Tĩnh (1330- 1399) được suy tôn là ông tổ thuốc Nam.

Ông sanh năm 1330 tại Hải Dương, cha mẹ mất sớm, làm con nuôi sư trú trì Chùa Hải Triều ở làng Giao Thủy (Nam Ðịnh) từ nhỏ. Sau khi làng Giao Thủy bị dịch tả, sư Tuệ Tĩnh chuyên tâm nghiên cứu dược tính từng cây thuốc Nam, đồng thời nghiên cứu theo các bệnh chứng để tìm nguyên nhân gây bệnh và chọn phương thuốc trị liệu. Ông chủ trương người Nam dùng thuốc Nam để trị bệnh, không lệ thuộc vào thuốc Bắc nhập cảng từ Trung Quốc. Thầy thuốc hay không phải chỉ biết công dụng của cây thuốc, đoán trúng bệnh mà còn phải linh hoạt gia giảm từng phương thuốc cho từng loại bệnh. Công trình nghiên cứu của ông được đúc kết thành bộ sách Nam Dược Thần Hiệu. Ông còn diễn tả dược tính của vị thuốc Nam bằng thơ Ðường và một Bài phú chữ Nôm về cách dùng 630 vị thuốc Nam.

Năm 1374, sư thi đậu Tiến Sĩ, được cử làm trú trì Chùa Hải Triều (Chùa Hộ Xá). Tại đây sư mở trường đào tạo lương y cho cả Tăng lẫn tục. Sư biên soạn Hồng Nghĩa Giác Tự Y Thư làm sách cẩm nang trị liệu cho mỗi Chùa. Một phần sách này viết bằng thơ Nôm lục bát. Danh tiếng của sư vang tận Trung Quốc nên năm 1384 (Giáp Tí) vua nhà Minh đòi đích danh nhà Trần phải triều cống sư. Vì sự nhu nhược của các vua cuối đời Trần, sư Tuệ Tĩnh (cùng nhiều danh tài các ngành khác) phải lên đường qua Kim Lăng, Kinh đô nhà Minh. Sư chữa bệnh cho hoàng hậu và các hoàng thân quốc thích nhà Minh cho tới khi tịch vào năm 1399 tại Kim Lăng. Tại đền Xưa, đền Bia, Chùa Giám ở Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương còn di tích của ông. Hàng năm vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, Chùa Giám mở hội tế lễ ông. Sách Nam Dược Thần Hiệu được Lê Mạnh Thát dịch và giới thiệu trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật giáo Việt Nam ( lần lượt được Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam xuất bản từng tập từ năm 2001). Sư Tuệ Tĩnh còn dịch tác phẩm Thiền Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tông ra chữ Nôm, dưới tên Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục.

Nền y tế công cộng tại nước ta ít nhất đã có từ đầu thế kỷ 14 và tiếp tục phát triển dưới thời Hồ Quý Ly. Theo văn bia của vua Trần Minh Tông (1314- 1329) khắc tại Chùa Non Nước, Ninh Bình, Chùa này đã là nơi trồng cây thuốc và mở y viện chữa bệnh cho dân. Dưới thời vua Trần Hiến Tông (1329- 1341), thuốc Hồng Sương Ngọc Hoàn trị bá bệnh được cấp phát cho dân chúng. Năm 1403, nhà Hồ cho xây Quảng Tế Thự, một loại bệnh viện trung ương, danh y châm cứu Nguyễn Ðại Năng được giao cai quản cơ sở này với chức vụ Quảng Tế Tự Thừa. Ông soạn sách Châm Cứu Tiếp Hiệu Diễn Ca ghi cách chữa 130 bệnh dùng 140 huyệt châm cứu, trong đó có 11 huyệt do người nước Nam tìm ra.

Các nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp và sau này Nguyễn Lang, Lê Mạnh Thát cho rằng sư Tuệ Tĩnh sống vào thế kỷ 17. Lê Mạnh Thát (TTTNT tr. 347) ghi Chân An Tuệ Tĩnh tịch vào năm 1711. Chúng tôi dựa vào tài liệu của Tuệ Tĩnh Ðường ( một hệ thống phòng mạch thuốc Nam hiện nay tại VN) vì sự kiện các nhân tài nước Nam bị đem cống hiến Trung Quốc xảy ra vào cuối đời nhà Trần.

(39)

Năm 1389 nhà sư Phạm Sư Ôn, pháp hiệu Thiên Nhiên, thuộc phái Thiền Trúc Lâm huy động được một số Tăng sĩ lãnh đạo hơn vạn người nổi dậy chống lại triều đình Trần Thuận Tông (1388- 1398) ở Quốc Oai, Sơn Tây. Lúc đó, quân Chiêm đang tấn công nước ta, chiếm từ Thanh Hóa trở vào. Triều đình hầu như nằm trong tay Hồ Quý Ly, nhân dân đói khổ, giặc giã nổi lên khắp nơi, quân Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga liên tiếp tấn công. Năm trước, 1388, các tôn thất nhà Trần âm mưu loại trừ Hồ Quý Ly bị phát giác và bị Quý Ly giết hại khá nhiều.

Lúc đầu thanh thế sư Phạm Sư Ôn rất mạnh. Ông chiếm được Kinh đô trong 3 ngày, xưng là Hoàng Ðế, lập triều đình rồi lui về Quốc Oai. Tả Thánh Dực Tướng Quân Hoàng Phụng Thế tuân lệnh Hồ Quý Ly, tách một phần quân đang chống giữ quân Chiêm khai lòng sông tiến lên đánh úp, bắt được Phạm Sư Ôn và các cận thần đem giết. Cuộc khởi nghĩa tan rã (VSTB). Các tác giả Phật giáo như Lê Mạnh Thát, Nhất Hạnh, Nguyễn Ðức Sơn đều cho rằng cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn là phản ứng của giới Tăng sĩ Phật giáo đối với một chính quyền trở thành tồi tệ gây nguy hại cho nhân dân và đất nước.

(40) 

Năm 1407- 1428 nước ta bị Trung Quốc đô hộ sau khi nhà Minh tiêu diệt triều đại nhà Hồ. Hồ Quý Ly truất Trần Thiếu Ðế Án, lên làm vua năm 1400. Cuối năm, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, lên làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1407 cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều quan lại thân cận (trong đó có Nguyễn Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi) bị quân Minh bắt, giải về Kim Lăng, Kinh đô nhà Minh.

Sau khi diệt được nhà Hồ, nhà Minh sai Trương Phụ tiêu diệt toàn bộ văn hóa Việt Nam, đem về Trung Quốc tất cả văn bia, sách vở và bất cứ thứ gì có ghi lại chữ. Ðồng thời họ phổ biến rộng rãi các sách Tư Thư, Ngũ Kinh, Tinh Lý để đồng hóa dân ta. Sợ Trương Phụ còn để sót lại những di sản văn hóa Ðại Việt, năm 1418 vua Minh sai hai Nho gia là Hạ Thanh và Hạ Thi sang nước ta để tịch thu cho bằng hết tất cả các tác phẩm của Ðại Việt. Nhà Minh còn lập Tăng Cương Ty và Ðạo Kỳ Ty để lo việc giáo dục Phật giáo và Lão Giáo theo mẫu mực Trung Quốc.

Trong thời đô hộ này, sư PHẠM NGỌC tại Chùa Ðồ Sơn (An Lão, Kiến An) khởi nghĩa, đánh quân Minh nhiều trận ở vùng trung du và đồng bằng Băc Bộ, gây thiệt hại đáng kể cho địch. Sư Phạm Ngọc thành lập chính quyền kháng chiến, xưng là La Bình Vương. Sau ông bị quân Minh bắt, giải sang Trung Quốc hành hình. Trước đó sư AN QUỐC cũng lãnh đạo một cuộc kháng chiến chống quân Minh nhưng cuộc khởi nghĩa bị thất bại ngay sau đó.

Cuộc khởi nghĩa của Giản Ðịnh Ðế (con thứ của vua Trần Nghệ Tông) năm 1407- 1409, nối tiếp bởi Trần Quý Khoách năm 1409- 1413 được gọi là nhà Hậu Trần, mỗi lần thất bại là một lần nhân dân bị quân Minh và những tay sai khủng bố dã man, mặc dù chúng luôn luôn nêu cao chiêu Bài phù Trần diệt Hồ để ve vãn tôn thất nhà Trần. Tới cuối năm Ðinh Dậu (1417) Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn quy tụ được nhiều người tài giỏi nhưng cũng phải mất 10 năm kháng chiến mới đánh đuổi được quân Minh ra khỏi đất nước năm 1428, lập nhà Hậu Lê.

(41) 

Năm 1429, triều Lê Thái Tổ (1428- 1433) ngày 20 tháng 10 tất cả Tăng sĩ Phật giáo và đạo sĩ Lão Giáo phải trình diện để khảo thí. Ai thi đậu được tiếp tục hành đạo, ai thi hỏng bị bắt phải hoàn tục. Cuộc thi là khảo hạch từ chương của Nho giáo, đòi hỏi thí sinh phải thông thạo Hán văn.

(42) 

Năm 1434- 1449 các đời vua Lê Thái Tông (1434- 1442) và Lê Nhân Tông (1443- 1459), thường xảy ra hạn hán. Mùa hạ năm 1434, vua Lê Thái Tông sai quan rước Phật Chùa Pháp vân về Chùa Báo Thiên ở Kinh đô để cầu mưa. Năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu bắt các quan phải ăn chay và giữ mình cho sạch để tới Chùa Báo Thiên ở cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa, lại sai quan rước Phật từ Chùa Pháp Vân về. Năm 1449, vua lại tổ chức cầu mưa ở cung Cảnh Linh.

(43)

Năm 1440 Thiền sư VIÊN THÁI (1400- 1460) dịch Phật Thuyết Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân Kinh ra chữ Nôm. Theo Lê Mạnh Thát (TUTA, tr. 345), ông cũng là người dịch tác phẩm Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục (của Thiền sư Kim Sơn) ra thơ Nôm.

Năm 1442 Nguyễn Trãi bị án tru di tam tộc, vì vua Lê Thái Tông chết trong đêm ngự giá tại trang trại trồng vải ( Lệ Chi Viên) của ông ở Côn Sơn, có Thị Lộ là thiếp yêu quý của Nguyễn Trãi hầu cận. Nguyễn Trãi (1380- 1442) là một đại công thần, một Nho gia uyên bác và cương trực đứng đầu văn quan nên bị đa số các tướng lãnh của Lê Lợi vốn chỉ là võ dõng ganh ghét. Lại nữa Thị Lộ là người được vua Thái Tông tin yêu, từng Bàn luận với nhà vua nhiều đại sự nên càng làm lớn thêm sự ganh ghét của các võ quan. Nguyễn Trãi được coi là đại anh hùng dân tộc nên vụ án này bị các sử gia coi là vô cùng oan ức và bất công ngay cả so với các vụ án hàm oan trong sử sách Trung Quốc.

Sau này, vua Lê Thánh Tông (1460- 1497) giải oan cho ông, hủy bỏ án đó. Vua Thánh Tông khi mới sinh ra, mẹ con ông đã được Thị Lộ che chở và Nguyễn Trãi giúp đỡ mới khỏi bị hại bởi những ganh ghét trong nội cung.

Nguyễn Trãi là tác giả Bình Ngô Ðại Cáo, một tác phẩm chính trị bất hủ, và Gia Huấn Ca, một tác phẩm sâu sắc giáo dục thanh thiếu niên. Ông từng học đạo với Thiền sư Ðạo Khiêm (1370- 1445, trú trì Chùa Tư Phúc ở Côn Sơn) hơn 10 năm trước khi về sống ẩn dật tại Côn Sơn.

(44)

Năm 1460 Á Quận Hầu Ðinh Liệt liên kết với nhiều quan văn võ trong triều âm mưu đảo chánh, giết bọn tâm phúc của Lạng Sơn Vương Nghi Dân, lật đổ Nghi Dân, giáng xuống tước Hầu và lập Bình Nguyên Vương Tư Thành lên ngôi, lấy hiệu là Lê Thánh Tông ( 1460- 1497).

Nghi Dân là con cả của vua Lê Thái Tông, giết Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu và tự lập làm vua năm 1459. Trong 8 tháng cầm quyền, nhiều quan lại bị ông ra lệnh giết một cách oan uổng.

Cuộc đảo chánh kết liễu, để ngăn không cho tin tức này tiết lộ ra ngoài, vua Lê Thánh Tông ra chiếu chỉ cấm Tăng sĩ và đạo sĩ không được liên lạc với nội cung vì các Bà hoàng và phi tần là những Phật tử ngoan đạo. Bốn năm sau, ông lại xuống chiếu cấm dựng thêm Chùa mới.

Vì thiên kiến của vua Lê Thánh Tông (là một vị anh quân nhà Lê đưa xã hội vào quy củ ổn định) đối với Phật giáo, các tác phẩm của dòng Thiền Trúc Lâm không được giới trí thức ngó ngàng tới. Thậm chí trạng nguyên Lương Thế Vinh còn bị quan lại triều đình chê cười vì “sáng tác Kinh Phật”. Ðể phản ứng lại, Phật giáo dân gian ở nước ta hình thành thể loại văn học kể hạnh, còn gọi là hát kệ về công hạnh của các Thiền sư đời trước. Nhờ vậy văn Nôm được phát triển trong dân gian vào thời kỳ này, dù bị Nho gia Bài bác “nôm na là cha mách qué!”.

Thời vua Lê Thánh Tông, Nho học phát triển rất mạnh. Số tiến sĩ bằng 1/5 tổng số tiến sĩ trong các khóa thi từ thời vua Lý đến triều Thành Thái (2353 vị), trong đó có 9 trong tổng số 30 trạng nguyên. Ðạo luật Hồng Ðức được ban vào thời này là một điểm son trong lịch sử luật pháp VN vì tính cấp tiến và dân chủ của nó. Sau nhiều cuộc Nam chinh, nhà vua chấm dứt được họa chiến tranh với Chiêm Thành, Lão Qua và Bồn Man (các nước ở phía Tây và Nam).

(45)

Năm 1463 LƯƠNG THẾ VINH (sanh năm 1440) đỗ trạng nguyên đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan Thừa Chỉ Hàn Lâm Thị Thư, được vua giao việc thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Triều Minh thường khen ngợi những văn thư ngoại giao này. ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Ðàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495. Ông còn được ca ngợi về tài toán học, nên thường được gọi là Trạng Lường. Theo Nhất Hạnh (VNPGSL 2), người ta cho rằng phép đo ruộng thành mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước) do ông đaàu7841?t ra. Thực ra, phép đo này cũng như cách tính xây dựng nhà cửa, thành lũy được chỉ dẫn trong sách Lập Thành Toán Pháp của Vũ Hữu (1437- 1530) nhà toán học cũng là một danh thần nổi tiếng thanh liêm dưới triều Lê Thánh Tông, đã từng làm Thượng Thư bộ Hộ, về hưu năm 70 tuổi mà tới năm 90 tuổi (1527) vẫn được vua sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Ðăng Dung. Toán pháp nước ta trước đó đã được Hồ Quý Ly đặc biệt lưu tâm. Năm 1397, đồng thời với việc phát hành tiền giấy, ông ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để làm chuẩn trong việc buôn bán. Năm 1404 ông quy định các người đỗ thi Hương phải qua kỳ thi làm toán pháp mới được tiếp tục thi Hội.

Dù là một nhà Nho lỗi lạc, Lương Thế Vinh vẫn bị các bạn đồng nghiệp chê cười mãi, còn không được ghi tên trong văn miếu Khổng Tử để thờ vì bị kết tội là nhà Nho mà “sáng tác Kinh Phật”. Kinh Phật đó là Bài Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn, còn gọi là Phật Kinh Thập Giới. Ðây là áng văn Nôm cổ gồm đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: Thiền Tăng, đạo sĩ, quan liêu, Nho sĩ, thiên văn địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Mỗi đoạn có một Bài tán và kết thúc bằng Bài kệ 8 câu. Nhất Hạnh (VNPGSL 2) cho rằng không phải do Lương Thế Vinh viết vì Bài kệ của đoạn về Thiền Tăng có giọng đùa bỡn, không thể nào do một người có nhiều cảm tình với Phật giáo như Lương Thế Vinh. Theo Lê Mạnh Thát, Thập Giới Cô Hồn Văn là một tác phẩm của vua Lê Thánh Tông (1442- 1497), sẽ được ông dịch và dẫn giải trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật giáo Việt Nam.

Lương Thế Vinh tánh bình dị, hay khôi hài, là tác giả những sách:

1- Ðại Thành Toán Pháp và Khải Minh Toán Học: về toán học.

2- Hỷ Phường Phổ Lục: về lịch sử hát chèo

3- Thiền Môn Khoa Giáo ( còn gọi là Thích Ðiển Giáo Khoa): giáo khoa về Phật học

4- Bài tựa sách Nam Tông Tự Pháp Ðồ. Nam Tông Tự Pháp Ðồ do Thiền sư Thường Chiếu (tịch năm 1203) viết về lịch sử truyền thừa đạo Phật ở nước ta.

 

Năm 1521 Thiền sư DIỆU VIÊN PHÁP TÍNH (1470- 1550) hô hào học tập quốc âm ( chữ Nôm), viết Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa năm 1521 được coi như một tự điển viết bằng thơ lục bát gồm 20 ngàn từ Hán và Nôm. Theo văn bia Chùa Ninh Phúc dựng năm 1647: phần từ ngữ Hán chia thành 30 loại từ thiên văn, địa lý, âm nhạc, hội họa, kiến trúc... tới dược thảo, tang lễ... Bà cũng dịch Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh của Thiền sư Kim Sơn đời Trần ra quốc âm ( chữ Nôm). Trước khi xuất gia Bà là hoàng hậu Trịnh thị Ngọc Trúc, con của chúa Trịnh Tráng, chánh cung của vua Lê Thần Tông, mẹ của vua Lê Hy Tông. Dân chúng gọi Bà là Bà Chúa Kim Cương.

(46) 

Năm 1527- 1592 triều đại nhà Mạc. Mạc Ðăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng, Bà Thái Hậu và một số cận thần rồi lên ngôi năm 1527. Sử sách cũng gọi là Thời Nam Bắc Triều vì từ năm 1532, Nguyễn Kim phò vua Lê Trang Tông chiếm giữ Thanh Hóa, Nghệ An và vùng trong. Kể từ đó hai bên khi thì Bắc Triều (nhà Mạc) Nam chinh, khi thì Nam Triều (Trịnh Kiểm, sau đó là Trịnh Tùng) Bắc tiến. Năm 1592, Trịnh Tùng bắt được vua Mạc Mậu Hợp đem chém, nhưng con cháu nhà Mạc vẫn còn hùng cứ từ miền trung du và duyên hải phía Bắc tới Cao Bằng cho tới năm 1667 mới tuyệt hẳn.

Trong 155 văn bia được dựng trong 65 năm triều đại nhà Mạc còn lại tới nay, có 110 văn bia dựng tại các Chùa và 1 Bài minh khắc trên chuông Chùa Tư Phúc, Thái Bình. Ðiều này cho thấy sinh hoạt Phật giáo dưới triều đại nhà Mạc cần được nghiên cứu nghiêm chỉnh.

(47) 

Năm 1558 cuối năm Mậu Ngọ, đời Lê Anh Tông, nhờ sự vận động của chị mình là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) Nguyễn Hoàng được chúa Trịnh Kiểm cho phép đem theo Bà con và binh sĩ vào trấn thủ Thuận Hóa. Trong những năm đầu Nguyễn Hoàng luôn luôn chứng tỏ sự thần phục vua Lê và chúa Trịnh. Trong thời gian 1592- 1599, ông đem quân ra ở luôn tại Bắc Hà, giúp vua Lê và chúa Trịnh Tùng đánh nhà Mạc, lập nhiều chiến công. Tới năm 1600, ông mới kéo quân về thẳng Thuận Hóa bằng đường thủy, mở dòng chúa Nguyễn ở Ðàng Trong. Hậu duệ của ông là Nguyễn Ánh sau này lập ra triều Nguyễn (1802- 1945). Cho tới khi mất, Nguyễn Hoàng vẫn cố duy trì mối quan hệ có vẻ thân thiện với chúa Trịnh Tùng, thậm chí năm 1600 ông còn gả con gái cho Trịnh Tráng (con Trịnh Tùng, sau này nối ngôi chúa Trịnh), để có thể yên ổn củng cố thực lực ở Ðàng Trong. Năm 1601, ông cho dựng Chùa Thiên Mụ bên tả ngạn sông Hương ở Huế. Các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn sau này coi Chùa Thiên Mụ là Ðệ Nhất Quốc Tự.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh chỉ bắt đầu từ năm 1627 khi chúa Trịnh Tráng đem 200 ngàn quân tấn công chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Trong khoảng thời gian 45 năm, 1627- 1672, hai bên đại chiến 7 lần vào các năm 1627, 1630, 1635, 1648, 1655, 1661, 1672. Thời này chiến tranh liên miên khắp đất nước, vì ở Ðàng Ngoài mãi tới năm 1667, tướng Trịnh là Ðinh Văn Tả đánh chiếm Cao Bằng, Mạc Kính Hoàn phải chạy qua Tàu, bị nhà Thanh bắt giải giao cho chúa Trịnh, chiến tranh với nhà Mạc mới thực sự chấm dứt ở Ðàng Ngoài.

Năm 1628- 1715 Thiền sư MINH CHÂU HƯƠNG HẢI. Ông làm quan ở Ðàng Trong từ năm 18 tuổi, năm 30 tuổi xin từ quan xuất gia. Năm 1682 cùng 50 đệ tử vượt thuyền ra Ðàng Ngoài vì bị chúa Nguyễn Phúc Tần nghi ngờ. Ðược chúa Trịnh Căn giúp đỡ, trong 30 năm trụ trì Chùa Nguyệt Ðường ở Phố Hiến (1685- 1715) ông dịch và giải các Kinh Pháp Hoa, Kim Cương, Tâm Kinh, Pháp Bảo Ðàn Kinh, Phật Tổ Tam Kinh (Bát Ðại Nhân Giác, Tứ Thập Nhị Chương, Di Giáo), A Di Ðà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, soạn Giải Sa Di Giới Luật và các nghi thức Nghi Thức Cúng Phật Dược Sư, Cúng Cửu Phẩm. Ông là người đầu tiên dịch và chú giải Bát Nhã Tâm Kinh bằng chữ Nôm. Với hầu như toàn bộ tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm, ông góp phần quan trọng vào việc làm cho nền văn học chữ Nôm phong phú và rực rỡ. Dù thuộc phái Thiền Lâm Tế (dòng Trí Bảng), ông vẫn chủ trương pháp tu phối hợp Thiền Tịnh và thiên về lối tiệm tu của phái Thiền Thần Tú. Người bốn phương tìm về cầu đạo với ông rất đông. Vua Lê Dụ Tông sau lần mời ông vào nội điện lập đàn cầu tự và thuyết pháp, thường gặp ông để vấn đạo. Ðệ tử đắc pháp với ông mang pháp tự chữ Chân (như Thiền sư Chân Lý Hiển Mật) lên tới 70 người.

Ông để lại 30 tác tác phẩm Phật học. Tác phẩm quan trọng của ông Sự Lý Dung Thông gồm 162 câu theo thể thơ lục bát trình Bày đường hướng của ông về lý thuyết và thực tiễn của đời sống người tu Thiền Việt Nam, một lối sống trượng phu trung hiếu, đạo và đời quyện chặt vào nhau. Lê Mạnh Thát đã dịch và giới thiệu tác phẩm này trong Toàn tập MCHH tr. 388- 405 (nhà xuất bản TP/HCM, năm 2000).

Căn bản nhận thức của phương pháp hành Thiền ông chủ trương: Phật và chúng sinh cùng thể tướng, mê và ngộ cùng thể tướng, tâm và cảnh chung thể tướng. Vì vậy, không thể cầu an tâm bằng cách chạy trốn sự vật; giới luật cao nhất là sự vô tâm; giây phút có được cái thấy sáng suốt không mắc kẹt nhị nguyên thì thành Phật.

Theo Lê Mạnh Thát (MCHH, tr. 17): Vụ cấm đạo năm 1714 tại Ðàng Ngoài có lẽ phát xuất từ cuộc đối đáp giữa Thiền sư Minh Châu Hương Hải và 3 vị tu sĩ Thiên Chúa Giáo người Hòa Lan do quan hiệp trấn Sơn Nam triệu tập tại Chùa Nguyệt Ðường. Trưởng quan hỏi các linh mục một câu, không linh mục nào trả lời được. Trưởng quan hỏi Hương Hải một câu, ông trả lời trôi một mạch. Trưởng quan tuyên bố: Ðạo (đạo Chúa) không bằng Thích (đạo Phật), Hoa Lang (các giáo sĩ Hòa Lan) ngoa dối lời dụ dỗ để siêu lòng người, đó là tà đạo, chẳng biết nghĩa lý. Ông liền trình lên chúa Trịnh. Chúa cho kiểm tra lại, 8 tháng sau mới ra lệnh trục xuất các giáo sĩ về nước.

(48) 

1647- 1726 Thiền sư CHÂN NGUYÊN TUỆ ÐĂNG, người có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, cứu vãn một số tác phẩm quan trọng của Thiền phái này bằng cách sưu tầm, hiệu đính, khắc bản và lưu hành. Ông quê tại Hải Dương, sau khi đọc hành trạng của Huyền Quang ( tổ Trúc Lâm thứ ba) trong sách Tam Tổ Thực Lục mà phát nguyện xuất gia năm 19 tuổi với Thiền sư Chân Trú tại Chùa Hoa Yên, một trong những tổ đình của phái Trúc Lâm. Ít lâu sau sư phụ tịch, ông tham học với Thiền sư Minh Lương (phái Thiền Lâm Tế, Trung Quốc) ở Chùa Vĩnh Phúc. Thiền sư Minh Lương đã truyền thừa cho ông như sau: Dòng Thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời. Nhưng sau đó, ông nhận truyền thừa y bát của phái Trúc Lâm, làm trú trì hai Chùa lớn của phái này là Long Ðộng và Quỳnh Lâm. Vua Lê Dụ Tông phong ông làm Tăng Thống năm 1722.

Mặc dù là một Thiền sư thọ giáo cả hai phái Thiền Trúc Lâm và Lâm Tế, ông đã viết ít nhất là 3 tác phẩm về Tịnh Ðộ trong số 14 tác phẩm còn để lại: Long Thư Tịnh Ðộ Văn, Long Thư Tịnh Ðộ Luật Bạt Hậu Tự và Tịnh Ðộ Yếu Nghĩa. Hai tác phẩm về luật và nghi thức: Tôn Sư Pháp Sách Ðăng Ðàn Thọ Giới và Nghênh Sư Duyệt Ðịnh Khoa. Các tác phẩm chữ Nôm của ông gồm: Thiền Tịch Phú, Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh, Ðạt Na Thái Tử Hạnh, Thiền Tông Bản Hạnh. Thiền Tông Bản Hạnh gồm 798 câu thơ lục bát nói về đường lối tu hành của các vị vua đời Trần, làm rõ yếu chỉ của dòng Thiền Trúc Lâm. Thiền Tịch Phú viết về Chùa Long Ðộng là một đỉnh cao của nghệ thuật phú chữ Nôm, có rất nhiều từ ngữ thuần túy Việt Nam.

Tư tưởng Thiền của Chân Nguyên: tự tính giác ngộ có tính trong sáng, tròn đầy, hiện hữu một cách bình đẳng nơi mọi loài, mọi vật. Phát hiện được tự tính đó là giác ngộ thành đạo. Sử dụng ngôn thuyết chỉ là phương tiện bất đắc dĩ để đối trị vọng tưởng của chúng sanh, vì đọc Kinh thì rất lâu mới hiểu được đạo, mà “nói ra thì mắc kẹt”. Công án, hay những mẩu đối đáp kỳ lạ giữa các tổ và môn đệ, đích thực là ngôn ngữ Thiền, là phương tiện hữu hiệu để đập vỡ thói quen và thành kiến, đưa con người ra khỏi bế tắc tâm linh. Công án được Chân Nguyên ưa thích nhất: Trước khi trời dất chưa sinh, mẹ cha chưa có, bản lai diện mục của mình là cái gì? là của tổ Bách Trượng (Trung Quốc) trao cho Hương Nghiêm. Thiền sư Chân Nguyên cho rằng chìa khóa của sự đạt đạo là nuôi sáng ý thức mình về sự hiện hữu của cái tự tính trong sáng tròn đầy nói trên, được như vậy thì mọi hành động của ta tự nhiên đi vào giác ngộ.

Chân Nguyên là một đại Tăng được đương thời kính trọng. Ngô Thời Sỹ, từng ra lệnh cấm con cháu không được theo Phật và Lão, vẫn kính cẩn nhắc tới “Chân Nguyên Thượng Nhân” trong Việt Sử Tiêu Án. Ông có nhiều đệ tử xuất sắc tiếp tục thành công việc phục hồi các tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần.

Trước khi tịch, Chân Nguyên trao y bát Trúc Lâm cho Thiền sư Như Hiện. Như Hiện đã được chúa Trịnh Giang tận tình giúp đỡ trùng tu lại hai ngôi Chùa lớn của phái Trúc Lâm là Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm năm 1730, với gần 10 ngàn thợ làm trong 1 năm trời.

(49)

Năm 1695 Thiền sư THẠCH LIÊM Thích Ðại Sán (1633- 1704) hướng dẫn đoàn tùy tùng khoảng 100 người (hơn phân nửa là Tăng chúng) tới Ðàng Trong theo lời mời của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu. Ðoàn hoằng pháp này cư ngụ tại Chùa Thiền Lâm được tu sửa quy mô và cấp tốc trong 3 ngày. Công tác quan trọng nhất của đoàn là tổ chức đại giới đàn Thiền Lâm từ ngày 1 tới 12 tháng 4/1695 (Ất hợi). Trên 3 ngàn giới tử tham dự, trong đó khoảng 1400 thọ giới tì kheo và sa di từ khắp nơi trong nước, nhiều hoàng thân quốc thích cũng xin thọ Bồ tát giới. Thiền sư Liễu Quán đã từ Phú Yên tới đây thọ giới. Thiền sư Thạch Liêm còn chủ trì một đại giới đàn khác tại Chùa Di Ðà, Hội An vào tháng 7 cùng năm. Tuy nhiên, rất nhiều cao Tăng uy tín ở Ðàng Trong không tham dự các đại giới đàn của ông có lẽ vì ông viết bố cáo về các đại giới đàn cho dán ở các Chùa lời lẽ thiếu khiêm nhường, đánh giá đa số Tăng sĩ ở Ðàng Trong là trai tráng thất học cạo đầu trốn lính. Ông còn đề nghị với Hữu Thừa Tướng Tống Phúc Tài phải “cuốc hết các cỏ dại này cho lúa tốt có thể mọc lên”. Sau một thời gian nghỉ dưỡng bệnh tại Chùa Thiên Mụ và chờ gió mùa, tháng 6 năm 1696 đoàn của Thiền sư Thạch Liêm xuống thuyền về Quảng Ðông, Trung Quốc. Chuyến đi hoằng pháp này được ông ghi lại tại chỗ trong tập Hải Ngoại Ký Sự được Viện Ðại Học Huế dịch và xuất bản năm 1963.

Thạch Liêm là người đa tài, giỏi về nhiều môn từ thi ca, hội họa tới thủ công, đã để lại nhiều tác phẩm. Tư tưởng của ông: Thiền Tịnh song tu, Nho Phật nhất trí, tổng hợp Lâm Tế và Tào Ðộng. Nhất Hạnh (VNPGSL 1, tr. 187) nhận xét: tư tưởng Thiền học của Thạch Liêm không có gì đặc sắc, Kinh nghiệm tu chứng cũng không vững chãi bằng so với các Thiền sư Việt Nam cùng thời với ông như Minh Châu Hương Hải (1628- 1715), Chân Nguyên (1647 - 1726). Nguyễn Văn Xuân (Phong Trào Duy Tân, Sài Gòn, Lá Bối 1969) cho rằng Thạch Liêm tới Ðàng Trong chính ra không phải để truyền giáo mà là để đón nhận số vàng chúa Nguyễn Phúc Chu cúng dường rất rộng rãi về xây dựng Chùa bên Tàu. Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Bà mẹ của ông là đệ tử rất sùng kính Thạch Liêm. Việc ông gọi chúa Nguyễn Phúc Chu là quốc vương và Bà mẹ của chúa là quốc mẫu bị Trần Kinh Hòa (Cheng Chin Ho, giáo sư Sử Học của Ðài Loan được Viện Ðại Học Huế mời qua giảng dạy và dịch những châu bản triều Nguyễn) nặng lời phê bình (tự phụ, đắc ý tỏ ra mặt, sinh sống xa xỉ, ương gàn tự thị, dua nịnh quan trường, lời lẽ kiêu căng, có người xem y như yêu Tăng... ) vì chúa Nguyễn chưa xin thụ phong, chưa được nhà Thanh sắc phong nên chưa thể gọi là vua!!!

(50)

1691- 1725 triều đại chúa Nguyễn Phúc Chu (Quốc Chúa 1675- 1725). Phật giáo được chánh quyền hộ trì mạnh mẽ từ sau 1695. Năm 1695, chúa mời sư THẠCH LIÊM Thích Ðại Sán, thuộc dòng Thiền Tào Ðộng, tới Ðàng Trong theo đề nghị của quốc sư Hưng Liên, mở hai đại giới đàn trong năm. Chúa rất khâm phục đạo đức và kiến thức của Thạch Liêm, nên theo lời đề nghị của ông, Chúa bãi bỏ hình phạt dùng voi xử tư û tội, xét tha những tù nhân bị oan ức, chuẩn cấp cho kẻ nghèo, bỏ bớt những luật lệ quá nghiêm khắc. Có lẽ cũng do bản điều trần bố đề nghị của sư Thạch Liêm, Chúa không còn thanh lọc Tăng già bằng cách bắt bớ hay thi cử mà chú trọng tới việc nâng cao uy tín các cao Tăng ở các tỉnh bằng cách ban biển ngạch sắc tứ và câu đối cho rất nhiều Chùa. Các sắc tứ Chúa ban cho các Chùa ký tên Thiên Túng Ðạo Nhân, là đạo hiệu của Chúa (VNPGSL 1, tr. 190- 193). Chúa tự nhận là “nối dòng Tào Ðộng chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long” (nghĩa là đệ tử của Thạch Liêm). Ông thường so sánh mình với cư sĩ Duy Ma Cật, một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca. Từ năm 1710, Chúa cho đúc đại hồng chung Chùa Thiên Mụ, trùng tu các Chùa Thiên Mụ, Kinh Thiên, lập Chùa Giác Hoa, mua cả ngàn sách Kinh luật luận cho các Chùa.

(51) 

Năm 1708 sau 6 năm tham cứu công án “muôn pháp về một, một về chỗ nào?” tổ LIỄU QUÁN trình Bày công phu đốn ngộ của mình với Thầy là Thiền sư Tử Dung tại Chùa Ấn Tôn ở núi Long Sơn, Thuận Hóa. Thiền sư Liễu Quán (1670- 1742) được coi là người lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật giáo ở Ðàng Trong vào đầu thế kỷ 18. Ông xuất gia năm 12 tuổi tại Chùa Hội Tôn, Phú Yên với Thiền sư Tế Viên. Ông học Hán tự vàKinh luật dễ dàng, được Thầy thương yêu. Bảy năm sau, Thầy mất. Tang lễ Thầy xong, ông để Chùa lại cho các sư huynh trông coi, lên đường vào Thuận Hóa cầu học với Thiền sư Giác Phong năm 1690. Một năm sau, nghe tin cha bị bệnh, ông xin trở về chăm lo. Trong 4 năm trời, ông lên rừng đốn củi đổi gạo nuôi cha. Bốn năm sau, cha từ trần. Tang lễ xong, ông lại lên đường học đạo. Lúc đó sư Thạch Liêm tổ chức đại giới đàn tại Chùa Thiền Lâm, ông tới xin thọ giới sa di. Hai năm sau (1697) ông thọ giới Tỳ kheo tại giới đàn của Thiền sư Từ Lâm. Năm 1699, ông lại lên đường cầu học khắp các tổ đình. Năm 1702, ông gặp Thiền sư Tử Dung, nhận công án “muôn pháp về một, một về chỗ nào?”.

Sau khi ngộ được công án trên, Thiền sư Liễu Quán hành đạo tại nhiều đạo tràng từ Huế tới Phú Yên, như Chùa Thiền Tông, Chùa Viên Thông ở Thuận Hóa, Chùa Hội Tông, Cổ Lâm, Bảo Tịnh ở Phú Yên, hóa độ từ vua quan tới thứ dân.

Chùa Viên Thông do Thiền sư Liễu Quán dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính hạnh của ông, nhiều lần triệu thỉnh nhưng ông một mực từ chối. Vì vậy chúa thường tới Chùa Viên Thông để thăm ông và hỏi đạo. Núi Ngự Bình do đấy được gọi là núi Ngự. Ông được thỉnh làm chủ tọa 4 giới đàn lớn ở Kinh đô năm 1733- 1735 có nhiều cao Tăng và quan lại tham dự. Năm 1740 ông chủ tọa giới đàn Long Hoa. Năm 1742 vài tháng trước khi tịch, ông còn được thỉnh làm Hòa Thượng Ðường Ðầu giới đàn Chùa Viên Thông. Ðệ tử thọ giới với ông xuất gia và tại gia gần 4 ngàn người.

Ông thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế, đã làm cho Thiền phái này mang màu sắc dân tộc ở Ðàng Trong, trút bỏ dần màu sắc Trung Quốc (Quảng Ðông) trong lễ nhạc. Không những thế, ông còn là Thiền sư đầu tiên ở Ðàng Trong đưa ra Bài kệ truyền phái (Thật Tế Ðại Ðạo, Tánh Hải Thanh Trừng, Tâm Nguyên Quảng Nhuận) cho Thiền phái của ông. Bốn đại đệ tử của ông là các Thiền sư Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu đã tạo được 4 đạo tràng lớn và hàng chục tổ đình.

Ðinh Quang Mỹ ( Thiền Trúc Lâm, sđd) cho rằng trong Thiền sử nước ta, nơi Thiền sư Liễu Quán mới thấy có dấu hiệu thực hành công án.

Phong trào phục hưng Phật giáo ở nước ta vào thế kỷ 20 chủ yếu phát xuất từ các cơ sở của phái Liễu Quán.

(52) 

Năm 1709 đại sư CHÂN DUNG TÔNG DIỄN tịch. Ông sanh năm 1640, nổi danh về gương hiếu hạnh được đại chúng ca ngợi qua danh hiệu Hòa Thượng Cua vì đã âm thầm hóa độ và giải nghiệp sát hại cua cho Bà mẹ. Ðiển tích Hòa Thượng Cua hóa độ cho mẹ ý nghĩa sâu sắc hơn điển tích Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi địa ngục.

Ông được Thiền sư Thủy Nguyệt (1636- 1704, đã cầu học dòng Thiền Tào Ðộng ở núi Phụng Hoàng, Trung Quốc) truyền tâm ấn. Thủy Nguyệt từng khen ngợi khi cho ông pháp hiệu Thông Giác: Ngươi là con cháu xứng đáng của tông Tào Ðộng.

Ông đã cứu Phật giáo khỏi pháp nạn vào đời vua Lê Hy Tông (1676- 1705). Nhà vua nghe lời các Nho thần, ra lệnh cho các sư phải bỏ Chùa vào rừng núi tu cho thanh tịnh, không được ở nơi thành thị. Ðại sư Tông Diễn nghe tin này quá đau lòng vì các nhà sư là người chủ trì nghi thức quan hôn tang tế, Thầy dạy học chữ Hán, Thầy thuốc và người nuôi dạy trẻ mồ côi cho dân làng. Ông liền đến Kinh đô, nghĩ kế xin dâng vua viên ngọc quý để được yết kiến vua. Vua không cho ông vào cung, ra lệnh nếu có ngọc, vua sẽ sai quan ra nhận. Sau ba tháng chờ đợi không được vua vời, ông viết một tờ biểu trình Bày giáo lý đạo Phật đẹp đẽ như viên ngọc quý soi sáng mười phương, xóa tan mây mờ vô minh. Ông để tờ biểu vào một hộp rất đẹp dán kín lại, rồi trình với quan coi thành: nếu vua không cho sư gặp, xin cử một quan văn thanh liêm trung trực, trai giới ba ngày ra nhận ngọc quý. Vua ưng thuận. Trao hộp cho viên quan, ông căn dặn không được mở ra mà phải trình đến tay vua. Tại triều, vua sai mở hộp, chỉ thấy tờ biểu, vua sai đọc lên. Nghe được lời lẽ trong sáng, ý tứ thâm sâu, vua chợt tỉnh ngộ nhận ra quyết định sai lầm của mình. Vua cho vời ông vào triều, tham vấn đạo lý. Nhân đó vua Lê Hy Tông thâu hồi lệnh đã ban, cho phép các sư được trở về Chùa cũ tiếp tục hoằng pháp độ sanh. Ðể chứng tỏ sự thành tâm sám hối, vua sai tạc tượng hình Phật Thích Ca đứng trên lưng nhà vua đang quỳ mọp xuống. Tượng này hiện còn để ở Chùa Hòe Nhai, bên chánh điện. Trong cuốn Thiền Tông Bản Hạnh, Thiền sư Chân Nguyên ca ngợi sự sáng suốt và tích cực sám hối này cửa vua, gọi Lê Hy Tông là Hoàng Giác Lê Gia (ông vua giác ngộ nhà Lê).

Khi về trụ trì ở Chùa Ðông Sơn (Hải Dương), ông ra sức hoằng hóa tông Tào Ðộng. Học giả bốn phương nghe tiếng ông, tới tìm học rất đông. Phái Tào Ðộng nhờ sự truyền bá của ông, trở thành thịnh hành ở Ðàng Ngoài vào cuối thế kỷ 17 qua thế kỷ 18. Ở Ðàng Trong, tông Tào Ðộng được biết đến nhờ nỗ lực của Thiền sư Thạch Liêm với sự giúp đỡ nhiệt thành của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, vào năm 1695 (xin xem phần trên).

(53)

Năm 1780 NGUYỄN GIA THIỀU (1741- 1798) dựng Chùa Thiên Tích. Mẹ ông là con gái chúa Trịnh Cương. Năm 1782, ông được chúa Trịnh phong tước Ôn Như Hầu. Ông là người văn võ song toàn. Bức tranh Tống Sơn Ðồ của ông được nhiều người khen ngợi. Các bản nhạc Sở Từ Ðiệu và Trung Sơn Âm do ông soạn được lưu hành rộng rãi. Ông còn là kiến trúc sư dựng Chùa Thiên Tích và trang trí nội thất cho phủ chúa Trịnh. Trong thời gian làm Tổng Binh Hưng Hóa, vì bất mãn với chúa Trịnh, ông hay say sưa. Có lẽ ông nghiên cứu đạo Phật trong thời kỳ này. Năm 1789, Nguyễn Huệ diệt xong chúa Trịnh, kêu gọi nhân sĩ Bắc Hà ra làm việc trở lại, ông giả bệnh và giả điên để từ khước lời mời. Có lẽ ông viết Cung Oán Ngâm Khúc trong giai đoạn này. Trong khúc ngâm 356 câu thơ Nôm theo thể song thất lục bát đó, ông dùng triết lý đạo Phật để giải thích những khổ đau của cuộc đời qua thân phận người cung nữ, một cách tiêu cực nên không tìm được biện chứng giải thoát tích cực của đạo Phật. Theo Nguyễn Hưng Quốc (Vào Cõi Thơ Xưa, tạp chí Thế Kỷ 21 số 15, tháng 7. 1990), ngôn ngữ thơ ông nhiều hình ảnh, cực kỳ chải chuốt điêu luyện, mỗi chữ mỗi câu là một cân nhắc đắn đo. Cung Oán Ngâm Khúc là một trong những đỉnh cao của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa qua ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học VN từ giữa thế kỷ 18 tới đầu thế kỷ 19.

Năm 1786- 1801 Một số Chùa trong vùng Ngũ Hành Sơn, Quảng Nam bị tàn phá vì đây là nơi giao chiến giữa quân chúa Trịnh và chúa Nguyễn, giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Lực lượng bảo vệ Ngũ Hành Sơn của Nguyễn Ánh do Nguyễn Công Thái, một cựu tướng Tây Sơn về hàng Nguyễn Ánh. Chiếm được Quảng Nam, quân Tây Sơn lại trưng dụng nhiều Chùa làm doanh trại. Trước đó, một số Chùa ở Huế như Chùa Báo Quốc bị quân Tây Sơn chiếm năm 1776 biến thành nơi trú quân. Chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu, Huế, do Thiền sư Thạch Liêm xây dựng cũng bị thái sư nhà Tây Sơn (Bùi Ðắc Tuyên) chiếm để ở. Năm 1786, khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh, một số Chùa ở miền Bắc như Chùa Bà Ðá (Linh Quang Tự) bị thiêu hủy.

Sau khi lên ngôi vua (1802), vua Gia Long khuyến khích hoàng tộc tu sửa lại các Chùa này. Hoàng hậu Hiếu Khương sửa Chùa Bảo Quốc, công chúa Ngọc Nghiên sửa Chùa Tuệ Lâm, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu sửa Chùa Thiền Lâm, công chúa Ngọc Duệ sửa Chùa Thiên Thai... Năm 1815, vua Gia Long sắc tu bổ lại Chùa Thiên Mụ. Năm 1826 vua Minh Mạng cho tu sửa Chùa Thánh Duyên ở cửa biển Tư Hiền, Thừa Thiên, bị phá hủy trong chiến tranh với quân Tây Sơn.

(54) 

Năm 1795 Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, một tác phẩm độc đáo của Thiền Tông Việt Nam được khắc in rất đẹp. Tác giả là HẢI LƯỢNG Thiền Sư (Ngô Thời Nhiệm 1746- 1803), Hải Âu (Vũ Trinh 1726- 1823) và Hải Hòa (Nguyễn Ðăng Sở). Cả ba đều là những tên tuổi lớn trong văn giới, những trí thức lớn thời đại xuất thân từ các danh gia vọng tộc. Ngô Thời Nhiệm đã từng là Binh Bộ Thượng Thư thời vua Quang Trung, một tay thảo tất cả văn kiện ngoại giao dưới triều Tây Sơn được triều đình nhà Thanh nể vì. Có thể là Ngô Thời Nhiệm đã thai nghén tác phẩm này trong giai đoạn 1782- 1786, khi ông đi trốn sự trả thù của chúa Trịnh Tông (sau khi cướp ngôi chúa của Trịnh Cán).

Trong phần mở đầu, Ngô Thời Nhiệm trình Bày tiểu sử ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, rồi viết về ông và tự gọi là Trúc Lâm Ðệ Tứ Tôn (nghĩa là tổ thứ tư). Phần chính của tác phẩm này là 24 chương về 24 Thanh, luận Bàn về 24 vấn đề liên hệ đến giáo lý Nho và Phật. Mỗi Thanh bắt đầu bằng một Bài dẫn, sau đó là phần trình Bày sự kiện có khi được Bàn luận ngang dọc giữa Thầy trò, sống động như một vở kịch nhưng không cực đoan. Cuối cùng là lời bình giải của Thiền sư Hải Lượng (Ngô Thời Nhiệm).

Theo Ðinh Quang Mỹ (Thiền Trúc Lâm), Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh dùng bút pháp chỉ thẳng của Thiền Tông, văn phong của Nam Hoa Kinh tạo lối hành văn nửa hư nửa thực, vận dụng biện chứng âm dương của Kinh Dịch giải thích các tư tưởng trừu tượng của Ðại Thừa và diễn rộng tư tưởng Kinh Lăng Nghiêm để tả các hoạt động cực kỳ tế nhị của chân tâm.

Theo Thầy Nhất Hạnh (Nguyễn Lang, VNPGSL 2, tr. 229), Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh không phải là công trình đem đạo Phật về với đạo Nho mà trong đó Nho và Phật không còn phân biệt nữa. Với Hải Lượng, tuệ giác nằm trong lòng sự sống nên cuộc sống là quan trọng chứ không phải hình thái ý thức hệ.

Ngô Thời Nhiệm theo học Phật từ hồi còn trẻ, có thể là với Thiền sư Tính Quảng. Lúc làm quan ở trấn Kinh Bắc năm 1775, ông đã dâng Phật hiệu cho cha ông (Ngô Thời Sĩ, người ra lệnh cho con cái chỉ được theo Nho, cấm không được theo Phật hay Lão) là Nhị Thanh Trường Thọ Quán Tự Tại Phúc Lượng Ðại Hải Chân Như Vô Tận Ý Bồ tát. Vào khoảng 1798- 1799 nhận thấy tương lai nhà Tây Sơn không còn, ông về ẩn dật, lập Thiền viện Trúc Lâm ở phường Bích câu. Uy tín của ông đã lôi cuốn được nhiều trí thức lớn vào Thiền phái Trúc Lâm. Trước đó, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh đã ghi có 26 người tham dự cuộc “Thiền đàm” này. Chính tại Thiền viện Trúc Lâm, ông đã viết Tam Tổ Hành Trạng về tiểu sử của Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Lê Mạnh Thát (TTTNT, TR. 334- 335) cho rằng chính do ảnh hưởng của Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thời Nhiệm mà Huyền Quang được coi là tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Theo ông, chính Thiền sư Kim Sơn mới là tổ thứ ba của Trúc Lâm, qua sự xác nhận của vua Trần Minh Tông trước khi băng hà vào năm 1358. Năm 1803, Ngô Thời Nhiệm được lệnh triều đình mới ra trình diện Tổng Trấn Bắc Thành và bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu. Ông từ trần vì trận đòn nặng tay này.

Sự quy tụ đông đảo trí thức lớn đương thời tại Thiền đường Trúc Lâm của Hải Lượng Thiền Sư (vào lúc đường công danh của ông không còn sáng sủa) cho thấy Thiền phái Trúc Lâm vẫn tiếp tục trường tồn, chứ không phải bị tàn lụi sau khi tổ Huyền Quang tịch (năm 1334) như một số quan niệm sai lầm hiện nay. Từ thế kỷ 15, sau khi Lê Lợi dành lại độc lập cho đất nước, lập nhà Hậu Lê, các công thần như Trần Nguyên Ðán và cháu ngoại ông là Nguyễn Trãi hẳn đã vận động để Phật giáo trở thành một trong các đề tài thi bắt buộc ở thi Ðình, mà đa số câu hỏi liên hệ tới dòng Thiền Trúc Lâm. Trước Hải Lượng Thiền Sư, Chân Nguyên Tuệ Ðăng Thiền Sư (1647- 1726) nỗ lực phục hồi dòng Thiền Trúc Lâm bằng cách cho khắc in các tác phẩm của các tổ Trúc Lâm và dặn dò đệ tử tiếp tục công trình này, lại còn viết Thiền Tông Bản Hạnh về đường lối tu tập của các vị vua đầu nhà Trần. Sau Hải Lượng, Thiền sư An Thiền Phúc Ðiền (1790- 1860) viết và cho in Ðại Nam Thiền Uyển Kế Ðăng Lược Lục vào năm 1858 ghi danh sách 23 vị tổ sư thuộc truyền thống Yên Tử, khởi đầu từ Hiện Quang Tổ Sư (tịch năm 1221) và chấm dứt ở Vô Phiền Ðại Sư. Phần kế tiếp, trong tác phẩm Ngự Chế Thiền Ðiển Thống Yếu Kế Ðăng Lục, Thiền sư Như Sơn ghi 6 đời truyền thừa của Chân Nguyên (được coi là nối tiếp truyền thống Trúc Lâm) từ 1700 tới 1850: Như Trừng, Tính Tuyên, Hải Quýnh, Tịch Truyền, Chiếu Khoan và Phổ Tịnh.

(55) 

Năm 1826 vua MINH MẠNG (1820- 1840) ban sắc dụ khởi đầu việc bổ nhiệm và sắc phong các Tăng sĩ. Sắc dụ này bổ nhiệm hai vị sư ở Huế làm trú trì các Chùa ở Thủy Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn, Quảng Nam) và 4 nhà sư Tháp tùng. Mỗi vị được cấp một chứng thư độ điệp chính thức. Sắc dụ và độ điệp ghi tục danh, không ghi pháp danh. Năm 1830, vua triệu tập cao Tăng các tỉnh về Kinh, giao cho Bộ Lễ xem xét để cấp giới đao và độ điệp. Có tất cả 53 vị được cấp. Theo chế độ bổ nhiệm này, Tăng sĩ được phân loại:Tăng Cang là các bậc đại sư cao cấp, Trụ Trì là vị lãnh đạo Tăng chúng trong Chùa, Ðại Sư là vị Thầy giáo thọ trong Chùa, Tăng Chúng là các Tăng sĩ còn lại trong Chùa. Khi vị trú trì phát triển Chùa như Chùa Tam Thai, số Tăng sĩ Tăng thêm gồm: 1 trú trì, 2 đại sư, 7 Tăng chúng. Vì Chùa Tam Thai lớn nhất nên vị trú trì được sắc phong Tăng Cang và trở thành vị lãnh đạo các Chùa tại hòn Thủy Sơn. Trong Ngũ Hành Sơn, Thủy Sơn được coi là ngọn núi của Chùa chiền. Ðại sư Từ Trí (tục danh Nguyễn Viết Lư) là người đầu tiên được sắc phong Tăng Cang dưới triều Minh Mạng. Chức Tăng Cang được ban từ thời Gia Long. Năm 1815 vua Gia Long triệu thỉnh Thiền sư Mật Hoàng từ Chùa Thập Tháp (Bình Ðịnh) về Kinh, ban cấp chứng chỉ Tăng Cang và giao cho trú trì tổ đình Quốc Ân (do tổ Nguyên Thiều khai sơn).

Thời vua Minh Mạng, các Tăng sĩ được triều đình trợ cấp hàng tháng như sau: Tăng Cang 1 vuông gạo (40 lít) và 3 quan tiền, Trụ Trì 1 vuông gạo và 2 quan tiền, Tăng Chúng 2 vuông gạo và 1 quan tiền. Tăng Cang được triều đình cấp mũ Hiệp Chưởng để đội khi vào triều. Loại mũ này sau đó được dùng trong những pháp hội trai đàn. Ngày nay, trong những lễ lớn, các Trưởng Lão Hòa Thượng cũng đội mũ này. HT Thanh Ninh Tâm Tịnh, tổ khai sơn Chùa Tây Thiên (Huế) cũng chế ra Áo Nhật Bình làm lễ phục cho chư Tăng.

Vua Minh Mạng muốn thống nhất việc tu hành Phật giáo nên ra lệnh các sư sãi Việt gốc Miên phải mặc áo cổ vuông và ăn chay như các sư Ðại Thừa nhưng bị người Việt gốc Miên tại miền Nam phản đối quyết liệt, nhà vua phục thiện đành bãi bỏ lệnh này. Ðể giữ giới không sát sanh, sư sãi Việt gốc Miên không ăn chay, chỉ cần không tự tay giết con vật là đủ. Họ đắp y để hở vai phải nên áo không có cổ.

(56)

Năm 1847 thời vua Thiệu Trị (1841- 1847) tổng đốc NGUYỄN ÐĂNG GIAI (mất năm 1854) giúp tổng đốc Hà Nội Ðặng Văn Hòa trùng tu Chùa Một Cột và tô lại tượng. Ông cũng xây dựng Chùa Liên Trì. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện sau khi ca ngợi công trạng của ông trong những lãnh vực khác, đã phê phán các hoạt động Phật sự của ông như sau: tiếc vì chuộng đạo Thích, dựng Chùa thờ Phật, luôn mê hoặc người.

(57)

Năm 1849 ÐOÀN VĂN HUYÊN (1807- 1856) khai lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại Chùa Long Kiến ở núi Báu (Bửu Sơn), Long Xuyên. Ông sanh tại Sa Ðec, làm nghề nông thường đọc sách Phật từ lúc còn trẻ. Năm 1849 nông dân mất mùa lại bị bệnh thời khí hoành hành ở miền Nam, ông lái xuồng đi nhiều nơi chữa bệnh cho nhiều người bằng nước lạnh và phù chú vừa khuyên bệnh nhân tu niệm. Do đó nhiều người theo ông, coi ông như vị Phật sống. Chính ông cũng tự nhận là Phật Thầy. Bấy giờ thời vua Tự Ðức, tổng đốc An Giang nghi ông muốn nổi loạn, bắt ông tại vùng Long Kiến đưa về Châu Ðốc xét xử về tội “gian đạo sĩ”. Nhưng ông được tha tội, chỉ bị bắt buộc phải tu tại Chùa Long Kiến. Tại đây có lẽ ông quy y với vị trú trì là HT Tiên Giác Hải Tịnh, được mang pháp danh Pháp Tạng, đạo hiệu Giác Linh, đời 38 phái Lâm Tế dòng Bổn Nguyên (như ghi trong mộ bia của ông bên hông Tây An Cổ Tự). Có tài liệu cho rằng ông còn cầu pháp với HT trú trì Chùa Long Thạnh, Bà Hom. Trong năm 1849 tại Chùa Long Kiến, ông lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ðệ tử của ông sau này xưng tụng ông là Phật Thầy Tây An và gọi Chùa Long Kiến là Tây An Cổ Tự. Sau khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo Hòa Hảo, Tây An Cổ Tự trở thành Chùa lớn thứ hai của đạo Hòa Hảo. Năm 1975, Cộng Sản dành quyền quản lý, giao cho 2 cán bộ trông coi. Họ cấu kết với các cán bộ địa phương đem bán đi nhiều cổ vật quý giá được coi là bảo vật của Chùa.

Bửu Sơn Kỳ Hương được coi là hình thức địa phương hóa Phật giáo trong môi trường nông dân chất phác, ít học của đồng bằng Nam Bộ. Ðoàn Văn Huyên chủ trương một pháp môn dễ hiểu, dễ áp dụng: Tùy trình độ và hoàn cảnh mà hóa độ – Hành sử tứ ân là ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn Tam Bảo và ơn đồng Bào nhân loại - Thiền Tịnh song tu, vừa tu Thiền vừa trì niệm danh hiệu A Di Ðà để được vãng sanh – Phước Huệ song tu. Ông để lại cuốn Sấm Giảng bằng chữ Nôm, được Lê Mạnh Thái dịch ra quốc nhữ và sẽ cho xuất bản trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật giáo.

Tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương có những người trở thành anh hùng dân tộc kháng chiến chống thực dân Pháp như Trương Công Ðịnh (1820- 1864, chiếm tỉnh Gò Công năm 1862), Nguyễn Trung Trực (1837- 1868, đốt tàu chiến Esperance của Pháp trên sông Nhật Tảo năm 1861), Trần Văn Thành (?- 1873) khởi nghĩa tại Láng Linh năm 1867.

Ðệ tử của Phật Thầy Tây An cho rằng sau khi tịch, ông qua 4 lần chuyển kiếp thị hiện nơi Ðức Phật Trùm ở núi Tà Lơn, đức Bổn Sư núi Tượng, Sư Vãi Bán Khoai ở Cao Miên và Ðức Huỳnh Giáo Chủ ở làng Hòa Hảo. Ðức Phật Trùm xuất hiện năm 1868, sử dụng lòng phái màu đỏ có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông là người gốc Miên, truyền đạo sang cả đất Miên, bị thực dân Pháp bắt đi đầy một thời gian. Ðược thả về, ông tịch tại núi Tà Lơn năm 1875.

Ðức Bổn Sư núi Tượng là Ngô Lợi (1831- 1890), lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa năm 1872 tại xã An Lộc, An Giang, khai triển nguyên lý Hành Sử Tứ Ân và sử dụng lòng phái có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Pháp tu của Tứ Ân Hiếu Nghĩa tổng hợp: trì niệm theo Thiền Tịnh – Xử sự theo Nho giáo – Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo – Ấn quyết, thần chú theo Mật giáo. Trong 12 năm (1876- 1888) thực dân Pháp với tay sai đắc lực là Tổng đốc Trần Bá Lộc đã đàn áp vô cùng dã man đạo này cả thảy 7 lần (đốt Chùa, đốt nhà, bắt bớ tra tấn tín đồ... ). Sau khi Ngô Lợi tịch, không có ai đủ khả năng nối pháp nên pháp môn này bị phân hóa trầm trọng.

Sư Vãi Bán Khoai được coi là một nhà sư dáng gầy, ăn mặc kiểu đàn Bà, chèo thuyền bán khoai vừa đọc giảng “Sấm Giảng Người Ðời ”, một Bài kệ lục bát dài vừa có tính cách khuyến tu, vừa là sấm ký. Ông xuất hiện năm 1902, một thời gian ngắn sau thì mất dạng.

(58) 

Năm 1859 Hòa Thượng AN THIỀN PHÚC ÐIỀN (1790- 1860) Chùa Liên Tông (Hà Ðông) chỉ đạo các đệ tử ông tại Chùa Bồ Sơn (Bắc Ninh) thực hiện bản khắc gỗ 5 tác phẩm Thiền Tông đời Trần gọi là Truyền Ðăng Ngũ Quyển Tân Tư gồm: Thiền Uyển Tập Anh, Thánh Ðăng Lục, Tam Tổ Thực Lục, Thiền Ðiển Thống Yếu Kế Ðăng Lục và một số tài liệu khác ông gọi là “ngoại khoa tạp lục”. Ông viết Bài tựa cho tác phẩm này. Những bản khắc gỗ này được bảo quản gần 100 năm thì bị một số người lấy làm củi nấu cơm trong thời chiến tranh 1946- 1954!

Bộ sách quan trọng của ông Ðạo Giáo Nguyên Lưu (3 quyển), còn có tên là Tam Giáo Thông Khảo, có lẽ được in năm 1845 vì Bài tựa do Nguyễn Ðại Phương viết vào năm này. Quyển thứ nhất nói về đạo Phật qua các đề mục về: việc du học của Thiền sư Tính Tuyền Trạm Công, các bản Kinh khắc ở nước ta, khởi thủy Thiền học nước ta, các Tháp Phật ở nước ta, Thiền phái Vô Ngôn Thông, các danh Tăng ở triều đình, các danh Tăng đời Lê, các danh Tăng đời Lý, các danh Tăng đời Trần, Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Thiền phái Thảo Ðường, những truyền thuyết kỳ bí liên quan đến các Thiền sư nước ta qua các triều đại, danh từ Phật học và các thần thoại Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam. Quyển hai và ba nói về Khổng và Lão Giáo. Bộ sách này sẽ được Lê Mạnh Thát dịch và giới thiệu trong tương lai trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật giáo.

Ông là người khai sơn Chùa Thiên Quang (núi Ðại Hùng, Hà Nội). Nhất Hạnh (VNPG SL 2, tr. 252 và 255) cho rằng An Thiền Phúc Ðiền là hai người (An Thiền và Phúc Ðiền).

(59) 

Năm 1861- 1865 tháng 2. 1861, quân Pháp do đô đốc Charner chỉ huy đánh chiếm đồn Kỳ Hòa ở Gia Ðịnh. Sau đó quân Pháp trưng dụng 4 ngôi Chùa nổi tiếng của Gia Ðịnh là Chùa Khải Tường, Cây Mai, Kiểng Phước và đền Hiếu Trung lập phòng tuyến gọi là “ Lignes des Pagodes” (phòng tuyến các Chùa). Tượng Phật bị lôi ra ngoài, sư Tăng bị đuổi khỏi Chùa. Chùa Khải Tường từng được sắc phong là “Quốc Ân Khải Tường”, xây năm 1843, sau này bị Pháp biến luôn thành trường học. Chùa Kiểng Phước tới năm 1866 chỉ còn vài thanh gỗ mục. Chùa Cây Mai bị biến thành lô cốt rồi thành nhà giam. Ðền Hiếu Trung còn lại vài bức tường nằm trong doanh trại lính Pháp. Quân Pháp cũng cho triệt hạ nhiều Chùa khác: Chùa Pháp Võ và Kim Tiên ở Chợ Quán (1863), Chùa Phước Hưng ở Chợ Lớn (1864), Chùa Kim Chương, Phật Lớn gần thành Ô Ma, Chùa Phước Hải ở khu bệnh viện Chợ Rẫy sau này, Chùa Gia Ðiền ở Chợ Quán (1865).

Tháng 6/1867 Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, lập chính quyền bảo hộ trên toàn Nam Bộ. Cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết bằng thuốc độc ngày 7 tháng 8/1867.

Pháp bắt các Tăng sĩ đi lính và đóng thuế thân, các Chùa muốn tổ chức trường hương (an cư kiết hạ) phải xin phép trước. Hậu quả của pháp nạn này tại miền Nam có thể thấy qua bản phúc trình chép tay “Monographie de la province de Gia Dinh” của J. Ch. Balencie năm 1899: Gia Ðịnh lúc đó có 305 Chùa, trong đó có 43 Chùa Hoa. Tu sĩ có 82 Tăng, 49 ni. Phật tử 211, 194. Nghĩa là trên phân nửa Chùa không có Tăng ni coi sóc. Phúc trình năm 1902 của cùng tác giả cho biết tình hình Phật giáo tại Gia Ðịnh 3 năm sau: 412 Chùa, 132 Tăng, 55 ni, 212, 194 Phật tử (PGNB, tr. 31).

(60)

Năm 1866 Ðoàn Hữu Trưng, con rể Tùng Thiện Vương, cùng hai em vận động đám dân công xây lăng Tự Ðức ở làng An Truyền, Huế nổi loạn để tôn Ðinh Ðạo (con của Hồng Bảo là người anh bị truất của vua Tự Ðức) lên làm vua. Họ sử dụng chày đâm vôi của các thợ xây lăng dùng làm võ khí nên gọi là Giặc Chày Vôi. Ðoàn Hữu Trưng là người tài hoa, soạn Bài vè lục bát Trung Nghĩa ca dài 498 câu trong thời gian bị giam kể lại diễn tiến cuộc nổi loạn này. Ông vận đọâng được các Chùa Long Quang, Pháp Vân làm chỗ cất dấu chày vôi. Nhiều học Tăng các Chùa cũng tham dự cuộc khởi nghĩa này. Quân khởi nghĩa lên tới ngàn người tuyên bố bãi bỏ việc xây lăng, truất phế đương kim hoàng đế, lập Ðinh Ðạo làm vua. Ðêm 8 tháng 9 (năm Bính Dần) họ đã tiến vào được nội cung, suýt giết được vua Tự Ðức thì Ðoàn Hữu Trưng cho dừng lại để rước Ðinh Ðạo vào nội cung nên bị quân triều đình phản công, dẹp tan. Các người lãnh đạo bị bắt và bị xử tử, Tăng ni bị bắt hoàn tục gần hết. Kinh đô lúc đó chỉ còn 24 ngôi Chùa với 24 vị trú trì mà thôi.

Sự trả thù của vua Tự Ðức tạo nên một pháp nạn nặng nề tại miền Trung. Hoàng phi Lệ Thiên, chánh cung của vua Tự Ðức là đệ tử của Thiền sư Liễu Triệt, đã khẩn khoản xin vua tha tội chết cho nhiều Tăng ni.

Tự Ðức (1847- 1883) thực ra không phải là ông vua kỳ thị Phật giáo. Năm 1849 vua ra lệnh các Chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Thánh Duyên, Tam Thai... mỗi Chùa phải được chủ trì bởi một Tăng Cang (có lãnh lương bổng của triều đình) để lo việc tu học của Tăng chúng. Năm 1853 ông lại ban cấp ruộng đất cho các Chùa Thiên Mụ, Diệu Ðế, Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang, Tam Thai, Ứng Chân và Khải Tường. Thời Tự Ðức, trong những lễ Phật lớn, Tăng ni các nơi vân tập về Chùa Báo Quốc ở Huế nghe các vị cao Tăng thuyết pháp từ một đài cao được dựng để tôn vinh các Ngài.

(60)

Năm 1884 Pháp đánh Bắc Kỳ từ tháng 11/1983. Ngày 6/6/1884 Việt Pháp ký hòa ước Patenôtre: lãnh thổ VN chia làm 3 phần, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ (từ Bình Thuận tới Thanh Hóa) và Bắc Kỳ chịu quyền bảo hộ của Pháp nhưng dưới hai chế độ cai trị khác nhau. Khâm sứ Trung Kỳ hội các quan triều Nguyễn tại tòa Khâm làm lễ thủ tiêu (nấu chảy) ấn của nhà Thanh phong vương cho vua Gia Long (bằng bạc mạ vàng nặng khoảng 6 kg), tượng trưng cho sự chấm dứt uy quyền của nhà Thanh đối với triều đình nhà Nguyễn.

Pháp chiếm đóng và triệt hạ nhiều Chùa tại Hà Nội. Tất cả những Chùa quanh hồ Hoàn Kiếm đều bị quân đội Pháp hoặc cơ quan phụ thuộc chiếm giữ. Năm 1889, Pháp phá hủy Chùa Quan Thượng. Tháp Báo Thiên Chùa Sùng Khánh xây từ đời vua Lê Thánh Tông (cao 12 tầng, tốn tồng ngàn cân đồng để đúc đại hồng chung) bị tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Ðộ (1813- 1888) hiến cho Giám Mục Puginier phá đi để xây nhà thờ lớn Hà Nội.

(61) 

Năm 1885 Tôn Thất Thuyết tung ra Bài hịch Cần Vương, nhân danh vua Hàm Nghi, dùng lời lẽ lâm ly bi thiết kêu gọi toàn dân hãy đồng tâm nêu cao tinh thần kháng chiến giải phóng đất nước. Nhiều Chùa từ Bình Ðịnh Phú Yên trở ra tới Thanh Nghệ Tĩnh được coi là những căn cứ của phong trào Cần Vương. Quân Pháp từ Vinh và Ðồng Hới kéo ra bắn giết và đốt phá các Chùa rồi tập trung người theo đạo Chúa về gần đồn binh để chiêu mộ đi lính cho Pháp. Các lãnh tụ phong trào Cần Vương ra lệnh đốt phá các nhà thờ để trả thù, tạo cơ hội cho các linh mục tuyên truyền con chiên bổn đạo quay lại chống lực lượng kháng chiến Cần Vương.

(62)

Năm 1893 (năm Thành Thái thứ năm), các Thái Giám trong triều lo khi chết không người cúng tế, nên tu sửa Chùa Từ Hiếu ở Huế thành đồ sộ nguy nga để làm nơi gởi nắm xương tàn. Họ đóng góp của cải để dành, mua ruộng đất cúng Chùa và xin Vua cùng vương phi ban cấp tiền bạc, vật liệu tu bổ Chùa. Ðạo dụ năm 1836 được khắc vào bia trước trường Quốc Tử Giám của vua Minh Mạng cấm Thái Giám hưởng tước quan trường và dự vào việc nước đã chận đứng sự lạm quyền và giới hạn bổng lộc của các Thái Giám. Thời vua Thành Thái, số Thái Giám chỉ còn 15 người.

Từ Hiếu là tên Chùa do vua Tự Ðức ban cho năm 1849 để ca ngợi hiếu hạnh của Thiền sư Nhất Ðịnh (Tánh Thiên, 1784- 1847). Ông xuất gia năm 18 tuổi, thọ đại giới với Thiền sư Mật Hoằng tại Chùa Quốc Ân năm 1814. Năm 1816, ông làm trú trì Chùa Báo Quốc (Huế). Năm 1835, bộ Lễ cung thỉnh ông làm trú trì Chùa Linh Hựu. Nhân dịp này, vua Minh Mạng khen ông “giới luật nghiệm tịnh, Thiền cơ thâm đạt”. Năm 1839, ông được sắc phong làm Tăng cang Chùa Giác Hoàng. Năm 1843, được tin mẹ già đau nặng không người coi sóc, ông xin từ bỏ chức trú trì hai Chùa lớn, từ khước mọi sự cúng dường, lên núi Dương Xuân lập Am An Dưỡng bằng tranh, cuốc đất trồng rau bắp phụng dưỡng mẹ già. Thầy thuốc chuẩn bệnh cho mẹ, bảo phải ăn cá tươi. Ông tự mình xuống chợ Bến Ngự mua cá về và tự làm cho mẹ ăn. Dân chúng dị nghị, báo cho quan. Sau khi điều tra hư thực, các quan trong triều càng thêm khâm phục sự hy sinh vô ngại vì hiếu hạnh của ông. Họ thường tới vấn đạo ông và xin ông cho phép dựng Chùa thay cho Am bằng tranh, nhưng ông không chịu. Mãi tới năm 1848, sau khi ông tịch, đệ tử của ông là Thiền sư Hải Thiệu (tịch năm 1899) mới chịu khởi công xây Chùa. Vị trú trì cuối cùng của Chùa Từ Hiếu trên danh nghĩa là HT Trừng Quang (tức sư ông Nhất Hạnh, người không được phép trở lại VN từ năm 1966). Hiện nay Chùa Từ Hiếu là đạo tràng tu học trang nghiêm, liên tục của gần 100 Tăng sĩ do TT Thái Hòa coi sóc, mặc dù không được chính quyền công nhận.

(63)

Năm 1898 cuộc khởi nghĩa chống pháp do VÕ TRỨ lãnh đạo ở Phú Yên năm 1898 được gọi là Giặc Thầy Chùa. Võ Trứ là đệ tử trụ cột của sơn Tăng Thầy Ðá Bạc ở hang Ðá Bạc, Bình Ðịnh. Lực lượng chủ yếu của cuộc khởi nghĩa này là Tăng sĩ và Phật tử. Chí sĩ Trần Cao Vân được coi là cố vấn, có tham dự cuộc họp chuẩn bị khởi nghĩa vào rằm tháng bảy năm trước (1897). Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, tất cả các Chùa trong hai tỉnh Phú Yên và Bình Ðịnh đều bị lục soát, khám đường nào cũng có các nhà sư bị bắt nhốt.

Tại miền Bắc, sư VƯƠNG QUỐC CHÍNH lãnh đạo Hội Thượng Chí quy tụ được hàng ngàn Tăng sĩ và hàng vạn Phật tư, û luôn cả một số tín đồ đạo Chúa từ Nghệ An tới Bắc Ninh. Khi cuộc tấn công của phong trào này vào Hà Nội đêm 5 tháng 12. 1898 bị thất bại, quân Pháp tấn công kịch liệt nghĩa quân các tỉnh Hà Ðông, Sơn Tây. Cuộc khởi nghĩa bị quân Pháp đánh bại, từ Bắc Ninh vào tới Nghệ An Tăng sĩ và Phật tử bị bắt, tù đầy và xử tử không kể xiết (VNPGSL, tập 3).

(64)

Năm 1908 Sắc dụ của vua Duy Tân (1907- 1916) giảm bớt số Tăng sĩ còn hai vị mỗi Chùa. Tăng Cang có thể kiêm trú trì hai Chùa, các Ðại Sư và Tăng Chúng phân tán đi các Chùa thiếu sư. Sự trợ cấp của triều đình cho Tăng sĩ được đổi thành tiền: Tăng Cang 1 đồng 66, Trụ Trì 1 đồng 58, Tăng Chúng 1 đồng 26. Với sự trợ cấp ít ỏi này, Chùa phải trông cậy vào sự cúng dường của bá tánh và tự túc canh tác.

Trong thời này, các buổi lễ lớn tổ chức định kỳ và chính thức tại Chùa miền Trung như đại giới đàn thường phải có giấy phép của quan Tỉnh cấp và phải niêm yết cho đại chúng biết từ 3, 4 tháng trước ở nhiều nơi trong vùng.

(65)

Năm 1911 HT Thiện Quảng (1862- 1911) từ Thái Lan theo cụ Phan Bội Châu về nước lần thứ hai để tổ chức kháng chiến chống Pháp bị quân Pháp phục kích bắn chết ở biên giới Việt Miên (Tây Ninh).

Ông từ Bến Tre, năm 1898 dùng ghe tìm đường hành hương cầu pháp nơi xứ Phật. Sau ba ngày lênh đênh trên biển, ghe ông bị sóng to gió lớn đánh dạt vào Thái Lan. Ông chọn một hang núi tu khổ hạnh, chỉ ăn rau. Ðược biết đến dưới danh hiệu Ông Thầy Rau, ông rất được quốc vương và dân Thái Lan kính trọng về đạo hạnh và sở học. Với sự giúp đỡ của quốc vương Thái Lan, ông dùng đường bộ từ Thái Lan qua Miến Ðiện, Tây Tạng vào Ấn Ðộ chiêm bái trong 5 tháng. Trên đường trở về theo lời hứa với quốc vương Thái Lan, ông nhân cơ hội chiêm bái các Phật tích ở Trung Quốc. Ông về tối Thái Lan năm 1902. Chí sĩ Phan Bội Châu tới Thái Lan, nghe tiếng ông tìm gặp đàm đạo. Hai bên đồng tâm hiệp ý, tương kính nhau. Ông về Việt Nam lần đầu để vận động tài chánh gây quỹ cho phong trào của Phan Bội Châu.

(66)

Năm 1923 tổ chức Lục Hòa Liên xã ra đời, nhằm mục đích tạo điều kiện cho các vị ưu tư về sự suy đồi của Phật giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ nhau để Bàn bạc việc chấn hưng Phật giáo qua 3 nỗ lực: chỉnh đốn Tăng già, kiến lập Phật học đường, diễn dịch và xuất bản Kinh sách Việt ngữ. Các vị tổ sư tiền bối của phong trào này là HT Huệ Quang, Khánh Hòa và Khánh Anh. Trụ sở đặt tại Chùa Long Hòa của HT Huệ Quang. Nhất Hạnh (VNPGSL 3) cho rằng Hội Lục Hòa Liên Xã là viên đá đầu tiên của phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam Kỳ.

Năm 1923- 1924, tờ Ðông Pháp Thời Báo đăng nhiều Bài báo chủ yếu kêu gọi cải tổ Phật giáo. Ðạo Cao Ðài ra đời cuối năm 1925 thúc đẩy thêm việc chấn hưng Phật giáo.

(66)

Năm 1929 ngày 13 tháng 8, HT Khánh Anh cho xuất bản tạp chí Pháp Âm bằng chữ quốc ngữ. Nội dung kêu gọi Tăng ni đoàn kết lại và nên học chữ quốc ngữ để dịch Kinh sách từ chữ Hán, giải quyết nạn thất học cho Tăng già và mở Viện Nghiên Cứu Phật Học. Tạp chí này ra được một số duy nhất thì bị thực dân Pháp cấm. Trước đó trong các năm 1923- 1924, tờ Ðông Pháp Thời Báo đã đang những Bài chủ yếu đề nghị cải tổ Phật giáo.

(67)

Năm 1930, nhà sư trẻ Thiện Chiếu (Chùa Chúc Thành, Xóm Gà Gia Ðịnh) xuất bản tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên nhắm vào giới trí thức thanh niên, đưa ra lời kêu gọi hoàn toàn mới mẻ: Tăng ni không nên sống bám vào sự cúng dường của tín đồ mà phải tạo dựng cơ sở tự túc, chư Tăng phải có ít nhất trình độ trung cấp Phật học. Tập san này ra tới số 2 thì sư Thiện Chiếu bị Pháp bắt.

Năm 1931, cư sĩ Phạm Ngọc Vinh sáng lập tạp chí Từ Bi Âm. Ngày 21 tháng 9 cùng năm, ông cúng dường cho Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội. Ngày 1. 1. 1932 Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội ra mắt tạp chí Từ Bi Âm trong cả nước dưới hình thức bán nguyệt san, HT Khánh Hòa làm chủ nhiệm, sư cụ Bích Liên làm chủ bút, Thiền sư Liên Tôn làm phó chủ bút, cư sĩ Trần Nguyên Chấn (bố vợ cư sĩ Phạm Ngọc Vinh) làm quản lý, với sự trợ bút của nhiều cao Tăng trong nước. Trụ sở tại Chùa Linh Sơn (Quận 1, Sài Gòn). Năm 1933 (số 45) HT Khánh Hòa từ chức, Thiền sư Chánh Tâm (Chùa Thiên Phước, Trà Ôn Vĩnh Long) được mời làm chủ nhiệm. Năm 1937, Từ Bi Âm trở thành nguyệt san. Trong 10 năm trời, tạp chí Từ Bi Âm đã góp phần quan trọng trong việc phổ thông hóa Phật pháp bằng quốc ngữ.

Tháng 12 năm 1933 tạp chí Viên Âm, cơ quan chính thức của Hội An Nam Phật Học, ra mắt tại Huế, do cư sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám (1896- 1969) trông coi. Ông là nhà báo đa tài lại khiêm nhường, viết truyện ngắn, truyện dài, chuyện hài hước, giảng giải về Phật pháp, luận giải Kinh điển, lãnh vực nào cũng xuất sắc. Kể từ số 48 (tháng 5, 1942) ông giao việc phụ trách tờ báo cho giới trẻ. Từ đó, hầu hết Bài vở của tạp chí Viên Âm đều do các đoàn viên Ðoàn Phật Học Ðức Dục viết bằng lối văn mới, gọn dễ hiểu, và hướng về tuổi trẻ.

Năm 1935 Hội Phật giáo Bắc Kỳ xuất bản tuần báo Ðuốc Tuệ, TT Trí Hải trông coi, trụ sở tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội. Báo Ðuốc Tuệ có nhà in riêng. Sau này đổi tên thành Diệu Âm rồi Phương Tiện (do TT Tố Liên trông coi). Ngoài ra TT Trí Hải còn chủ trương nhật báo Tân Tiến.

16 tháng 7/1935, tờ báo bán chạy nhất Lục Tỉnh Tân Văn bắt đầu ra phụ trang Phật Học hàng tuần, bán 6 xu mỗi tờ. Tháng 10. 1935, hội Lưỡng Xuyên Phật Học ra mắt tạp chí Duy Tâm, HT Huệ Quang làm chủ nhiệm, bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe làm quản lý. Tòa soạn tại Chùa Long Phước, Trà Vinh. Ðây là tờ báo có uy tín trong cả nước, nên khi ông Trần Nguyên Chấn lên tiếng khích bác tạp chí này trên tờ Từ Bi Âm, sư trú trì Chùa Bảo Long (Tà Keo ở Nam Kỳ) gởi thư đăng trên tạp chí Tiếng Chuông Sớm ở Hà Nội khuyên ông Chấn nên chấm dứt hành động đó.

Năm 1937, hội Tịnh Ðộ Cư Sĩ xuất bản tạp chí Pháp Âm, chủ nhiệm Lê Văn Hậu (từng cộng tác với tạp chí Duy Tân), chủ bút Trần Huỳnh. Tạp chí này ra được 16 số, có đăng một số Bài của Phạm Ðình Vinh cổ võ việc chấn hưng Phật giáo theo đường lối thiên tả. Ngày 15 tháng 1. 1937, Ðà Thành Phật Học Hội ở Ðà Nẵng ra mắt tạp chí Tam Bảo Chí

Ðầu năm 1938, Kiêm Tế Phật Học Hội ra mắt tạp chí Tiến Hóa, chủ nhiệm là cư sĩ Ðỗ Kiết Triệu, chủ bút là Phan Thanh Hà. Trụ sở tại Chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Tờ báo chủ trương phổ biến Phật pháp và “bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm chúng sanh khỏi khổ được vui”. ùKiêm Tế Phật Học Hội do sư Trí Thiền và Thiện Chiếu thành lập. Sư Thiện Chiếu viết nhiều Bài trên tạp chí Pháp Âm (từ số 7) và Tiến Hóa dưới các bút hiệu. Tạp chí Duy Tâm và Tiến Hóa có ảnh hưởng trong cả nước, tạo nên những tranh luận sôi nổi về một số chủ đề Phật pháp.

Tháng 8 năm 1945, báo chí Phật giáo trên toàn quốc nhất loạt đình bản để các Tăng sĩ và cư sĩ đi làm việc nước.

Năm 1946, đoàn Phật Học Ðức Dục với sự hỗ trợ của sư Mật Thể xuất bản tạp chí Giải Thoát với tiêu đề: Cơ quan nghiên cứu và áp dụng đạo Phật vào đời sống mới. Ðồng thời, tại Hà Nội, các TT Trí Hải, Tố Liên và Thái Hòa cũng cho xuất bản tạp chí Tinh Tiến cũng với mục đích dung hợp phong trào cách mạng và phong trào Phật giáo. Giải Thoát ra được 9 số, Tinh Tiến ra được 10 số thì đình bản vì chiến tranh ác liệt.

Năm 1950, TT Thiện Minh xuất bản tạp chí Hướng Thiện tại Ðà Lạt. Tạp chí này đình bản năm 1951.

Năm 1951, tổ chức Phật giáo Thiện Hữu của nhóm Phật tử trí thức Việt Pháp tài trợ việc xuất bản tạp chí Liên Hoa, do cư sĩ Huỳnh văn Trọng làm chủ nhiệm, Thiền sư Nhất hạnh làm chủ bút. Một biên tập viên là bác sĩ André Migot đã gây chấn động trong giới Công Giáo với chủ trương nên chấm dứt sự truyền bá đạo Thiên Chúa trong xã hội Á Ðông mà nên để cho họ theo tôn giáo truyền thống của họ là Phật giáo (qua tác phẩm Phật giáo Với Văn Minh Âu Tây). Cư sĩ Pierre Marti (pháp danh Long Tử) là quản lý của tạp chí cho tới năm 1954, đã từng diễn giảng Phật pháp bằng tiếng Việt tại nhiều Chùa ở cao nguyên Trung Phần.

Cũng năm 1951, Hội Phật Học Nam Việt ra mắt nguyệt san Từ Quang, do cư sĩ Mai Thọ Truyền trực tiếp trông coi. Ðược chư Tăng ở Phật Học Ðường Nam Việt nâng đỡ và cộng tác biên tập, tạp chí này đóng góp lớn lao vào việc phổ biến Phật học tại miền Nam. Tới số 242 thì cư sĩ Mai Thọ Truyền mất, nhưng tạp chí vẫn tiếp tục ra cho đến tháng 4. 1975.

Năm 1956 (rằm tháng 8), Tổng Hội Phật giáo Việt Nam xuất bản tạp chí Phật giáo Việt Nam. HT Huệ Quang làm chủ nhiệm, Nhất Hạnh làm chủ bút. Trên tạp chí này, nhiều cây bút liên tục viết các Bài kêu gọi thống nhất Phật giáo, thậm chí tấn công những người được coi là cản trở, cục bộ trong các tập đoàn Phật giáo. Trên thực tế cho tới lúc đó, chỉ có Gia Ðình Phật Tử là ngành duy nhất thống nhất về mặt tổ chức, mặc dù trong Ðại Hội Phật giáo Toàn Quốc năm 1951 họp tại Chùa Từ Ðàm (Huế), các đại biểu đã đồng ý trên nguyên tắc “xóa bỏ bản vị các tập đoàn để thành lập Tổng Hội Phật Học Việt Nam”. Phật giáo Việt Nam được sự cộng tác của nhiều cây bút Phật giáo Tăng sĩ cũng như cư sĩ viết về nhiều chủ đề quan trọng của Phật giáo nước ta dưới nhiều hình thức kể cả nhạc, kịch và kịch thơ. Tạp chí này bị chính quyền đình bản vào giữa năm 1959, có lẽ vì những Bài báo kêu gọi bất bạo động.

Cho tới sau biến cố 1 tháng 11. 1963, báo chí Phật giáo mới có cơ hội hoạt động trở lại, với khí thế rầm rộ từ nhật báo tới nguyệt san.

(68)

Năm 1934 để nâng cao trình độ tu học, Thầy THÍCH TRÍ THỦ cùng một số bạn đồng môn từng theo học với HT Phước Huệ ( sư tổ Chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh) ra Huế, vận động tổ chức trường Phật Học Tây Thiên, mời HT Giác Nhiên, Phước Huệ, Thánh Duyên, Quốâc Ân, Tường Vân dạy nội điển, bác sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám, các ông Nguyễn Khoa Toàn và Cao Xuân Huy dạy các môn văn hóa ngoại điển. Việc học ngoại điển của các Tăng sĩ dầu được sơ tổ phái Trúc Lâm (Trần Nhân Tông 1258- 1308) đặc biệt lưu ý, đã không được Thiền môn VN lưu tâm vào những thế kỷ sau. Trường Phật Học Tây Thiên tổ chức học trình 10 năm: 3 năm sơ đẳng, 3 năm trung đẳng, 2 năm cao đẳng, 2 năm siêu đẳng. Lớp Sơ đẳng do tổ Thập Tháp chủ giảng, phần nội điển gồm: Luật Sa Di, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Thủy Sám.

Thầy Trí Thủ (1909- 1984) là con một, học Kinh từ năm 14 tuổi tại Chùa Hải Ðức, Huế. Năm 17 tuổi xuất gia tại Chùa Trà Am (Huế ) với HT Viên Thành, được ban pháp danh Tâm Như. Năm 20 tuổi thọ cụ túc tại đại giới đàn Chùa Từ Vân, Ðà Nẵng. Vì trúng tuyển đứng đầu trong số hơn 300 giới tử, ông được bổn sư ban cho pháp hiệu Thích Trí Thủ. Năm 23 tuổi ông tới Chùa Thập Tháp (Bình Ðịnh) tìm học với HT Phước Huệ.

Năm 1938 sau khi tốt nghiệp trường Phật Học Tây Thiên, ông bắt đầu làm giảng sư hội Phật Học Huế, dạy sơ cấp Phật học tại Chùa Báo Quốc và trung cấp Phật học tại trường Phật Học Tây Thiên. Năm 1939 ông được giao phó việc đào tạo và giảng dạy Ni trường đầu tiên cho cả nước được thành lập tại Chùa Từ Ðàm (Huế). Năm 1942, ông được cử làm trú trì Chùa Báo Quốc. Năm 1948 trường Sơn Môn Phật Học Chùa Linh Quang được dời về Chùa Báo Quốc, ông được giao phó trách nhiệm Giám Ðốc Phật Học Ðường Báo Quốc. Từ thập niên 50, nhiều học Tăng từ Sài Gòn và Hà Nội được gởi tới đây tu học. Trong 3 thập niên 50, 60 và 70 Phật Học Ðường Báo Quốc đào tạo nhiều Tăng tài sau này đảm trách các chức vụ trọng yếu trong giáo hội từ trung ương tới các địa phương, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật giáo, các cố vấn giáo lý cho các đơn vị Gia Ðình Phật Tử, giáo sư Phật pháp cho các trường tư thục Bồ Ðề tại miền Trung.

Năm 1951, sau khi Tổng Hội Phật giáo VN được thành lập, ông đặt viên đá đầu tiên xây cất trường tiểu học Bồ Ðề tại Huế, mở đầu cho mạng lưới giáo dục các trường tư thục Bồ Ðề của giáo hội sau này. Sau đó, ông đã thành lập những Phật Học Ðường Hải Ðức (Nha Trang, 1956), Phổ Ðà (Ðà Nẵng), Linh Sơn (Ðà Lạt), Quảng Hương Già Lam (Sài Gòn).

Năm 1964, trong trách vụ Tổng Vụ Trưởng Hoằng Pháp của GHPGVNTN, ông tổ chức ba Ðại Hội Hoằng Pháp tại Phật Học Viện Hải Ðức (Nha Trang), Chùa Xá Lợi (Sài Gòn), Chùa Ấn Quang (Chợ Lớn). Trong năm này, ông làm Viện trưởng Viện Cao Ðẳng Phật Học tại Chùa Pháp Hội, bước cơ bản cho việc thành lập Viện Ðại Học Vạn Hạnh sau này. Kể từ năm 1968, ông được tôn cử làm Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo (Ấn Quang) trong Ðại Hội GHPGVNTN 5 và 6. Trong Ðại Hội kỳ 7 của Giáo Hội ( tháng 1. 1977), với tư cách Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo ông kêu gọi thống nhất Phật giáo trong cả nước trong tinh thần đạo pháp và dân tộc nhưng không đạt được kết quả mà còn bị chỉ trích vì một số cấp lãnh đạo Phật giáo đã cảm thấy sự đè nén của chính quyền Cộng Sản.

Ông đã dịch nhiều Kinh, Luật và Luận, soạn các Nghi Thức Truyền Giới Bồ tát Tại Gia và Thập Thiện, Nghi Thức Phật Ðản, Nghi Thức Buổi Lễ Khuya, viết Mẹ Hiền Quan Âm, Pháp Môn Tịnh Ðộ. Cuốn Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải của ông có một phụ lục gồm các bản tiếng Phạn, Mãn Châu, Tây Tạng, Vu Ðiền, Mông Cổ, Pali, chữ Hán, chữ Nôm của Thiền sư Minh Châu Hương Hải, tiếng Anh, Pháp và Nhật cho thấy sự thận trọng và công phu sưu tập của ông.

Ông chủ trương Tăng Già phải tự thấy mình là ngôi thường trú Tam Bảo, phải được huấn luyện và tự huấn luyện đầy đủ Trí và Ðức. Tại các Phật Học Viện do ông thành lập, ông cho Tăng sinh học song song hai chương trình văn hóa đạo và đời, nhất là các ngành văn hóa thực dụng. Ðích thân ông hướng dẫn Tăng ni đi thi bằng Tiểu học ngoài đời gây chấn động dư luận thời đó.

Ông cũng cho một số học Tăng vào Sài Gòn học các khoa chế biến, sau đó mở các xưởng sản xuất vị trai, dấm, làm nấm, xà bông, nhang đèn, in và phát hành Kinh sách.

(68)

Phật Ðản năm 1935 tại Huế được tổ chức trong hai ngày 7 và 8 tháng 4 âm lịch.

Chiều ngày 7 tháng 4 ÂL tại Chùa Diệu Ðế, Ban Ðồng Ấu gồm 52 em trong đồng phục áo the xanh quần trắng, đeo giải băng màu vàng chữ nâu Nam Mô Bổn Sư Thích ca mâu Ni Phật, hát bản nhạc Mừng Phật Ðản (sau này được phổ thông dưới tên Trầm Hương Ðốt). Ðây là bản nhạc Phật giáo đầu tiên ghi theo ký âm pháp Tây Phương của nhạc sĩ Bửu Bác, ở giai đoạn nền tân nhạc VN còn phôi thai. Sau đó Thiền sư Giác Nhiên (sau này được gọi là Ôn Thiền Tôn, Ðệ Nhị Tăng Thống GHPGVNTN năm 1973) giảng về Bát Nhã Tâm Kinh trước máy vi âm. Vua Bảo Ðại đã được mời dự với tư cách Hội Trưởng Danh Dự Hội An Nam Phật Học. Ðây là lần đầu tiên máy vi âm (micro) được dùng trong buổi lễ Phật giáo. Cho tới năm 1943, khi Phạm Duy hát phụ diễn cho gánh cải lương Ðức Huy ở Hải Phòng cũng chưa được dùng máy vi âm.

Sáng Phật Ðản ngày 8 tháng 4 ÂL, Ni cô Diệu Hương giảng Kinh A Di Ðà, ni cô Diệu Viên thuyết về Phật Học Ðối Với Phụ Nữ. Ðây cũng là một điều hoàn toàn mới mẻ vì cho tới Ðại Hội Hoằng Pháp năm 1962 tại Phật Học Viện Nha Trang, khi Sư Bà Như Thanh đề nghị lập một đoàn hoằng pháp lưu động do Ni chúng phụ trách, TT Trí Thủ (năm 1964 là Tổng Ủy Viên Hoằng Pháp của GHPGVNTN) đã đưa ra ý kiến bác bỏ: Ni chúng lo việc từ thiện xã hội, còn việc hoằng pháp thì để cho bên Tăng đảm trách.

Sự thành công của lễ Phật Ðản này đã tạo nên một số Bài báo công kích đạo Phật trên các báo Tràng An và Ánh Sáng (Huế), cho rằng đạo Phật ru ngủ quần chúng nên phục hưng Phật giáo là việc làm không hợp thời. Các cư sĩ Nguyễn Xuân Thanh và Tâm Minh Lê Ðình Thám đã phản bác lại bằng những lập luận có sức thuyết phục cao. Nhờ vậy, cho tới năm 1940, Hội An Nam Phật Học đã tổ chức được tới đơn vị cấp xã (khuôn hội) tại khắp các tỉnh miền Trung.

(69)

Năm 1936 Hội Tịnh Ðộ Cư Sĩ được thành lập, là hậu thân của Hội Lễ Bái Lục Phương được thành lập từ 1933 theo tinh thần Kinh Thi Ca La Việt ( có người gọi là Kinh Lễ Sáu Phương ). Hội viên toàn là cư sĩ, nhưng mời sư Minh Trí làm Tông Sư Chứng Minh và suy tôn ông là Tông Sư Minh Trí. Trụ sở của Hội là Chùa Tân Hưng Long (Chợ Lớn) khánh thành năm 1936. Tới thập niên 1950, tỉnh nào ở miền Nam cũng có Chùa của Hội Tịnh Ðộ Cư Sĩ. Hầu hết các Chùa này đều trồng, biến chế và lập phòng thuốc Nam phát thuốc cho đồng Bào nghèo. Sư Minh Trí trước khi trở thành Tông Sư của Hội, đã nhiều năm vân du đi tìm những dược thảo chữa bệnh cho dân chúng. Phần lớn các Chùa của Hội có Tăng sĩ trụ trì và hướng dẫn nghi lễ.

Năm 1955, cư sĩ Ðoàn Trung Còn thành lập Hội Tịnh Ðộ Tông Việt Nam, trụ sở tại Chùa Giác Hải ở Phú Lâm. Ông là tác giả bộ Phật Học Từ Ðiển và chủ trương nhà xuất bản Phật Học Tùng Thơ từ năm 1932. Ông biên soạn và dịch thuật 39 tác phẩm biên khảo Phật học, phổ biến rộng tới Bắc và Trung Kỳ. Sau này ông xuất gia, có pháp danh là Thích Hồng Tại. Hội Tịnh Ðộ Tông đã thu hút được một số khá đông người Việt gốc Hoa.

(70)

Năm 1939 ngày 18 tháng 5 Kỷ Mão, giáo chủ HUỲNH PHÚ SỔ (1919- 1947) sau bốn lần đi núi tìm đạo (gọi là đăng sơn), đã khai sáng đạo Hòa Hảo tại xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, Châu Ðốc. Ông cũng có tài chữa nhiều bệnh bằng các phương thuốc vô cùng dản dị (như nước lạnh, vài thứ bông, vài thứ lá. v.v... ) và luôn luôn thuyết pháp khuyên làm lành, lánh dữ, kính tin Phật Trời. Ông là người có tài thuyết pháp thao thao bất tuyệt, giọng nói thanh tao, lời lẽ khi cao siêu như sấm ký, lúc lại giản dị mà thực tiễn. Ông khiêm tốn, bình dân, đối xử bình đẳng với mọi người nên dân quê gọi ông là “Ông tướng bình dân”, đệ tử gọi ông là Ðức Thầy. Nhà cầm quyền Pháp nghi ngờ hoạt động của ông, cấm ông hành đạo tại Châu Ðốc. Ông phải lưu động thường xuyên, nhưng tới năm 1941 họ cũng bắt ông nhốt tại bệnh viện Chợ Quán rồi tại sở Công An Sài Gòn. Nhờ quân đội Nhật can thiệp ông mới được trả tự do. Sau đó ông vận động thành lập Việt Nam Phật giáo Liên Hiệp Hội để liên hiệp các tông phái Phật giáo, kết hợp các Tăng ni, Phật tử và những nhà trí thức có khuynh hướng Phật giáo. Cuộc vận động này gặp nhiều khó khăn nên không kết quả. Năm 1945, ông thành lập Việt Nam Ðộc Lập Vận Ðộng Hội, một tổ chức đấu tranh cho tự do và độc lập. Ngày 14 tháng 8/1945 ông được đề cử làm Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, một liên minh các đảng phái quốc gia để mưu đồ độc lập cho nước nhà. Ngày 21 tháng 9/1946, ông thành lập đảng Dân Xã, tổ chức chính trị và quân sự của Phật giáo Hòa Hảo. Vì uy tín của ông trong hàng ngũ quốc gia ở Nam Bộ ngày càng Tăng, Việt Minh đã âm mưu sát hại ông vào ngày 25 tháng 2/1947. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (khoảng 2 triệu người vào năm 1945, đại đa số ở Nam Bộ) tin tưởng rằng ông sẽ trở lại thế gian, cũng như trước đây họ đã cho rằng ông là lần chuyển kiếp thứ tư của Phật Thầy Tây An. Tây An Cổ Tự nơi Phật Thầy Tây An hoằng đạo được coi là Chùa lớn thứ hai của Phật giáo Hòa Hảo, sau Chùa An Hòa Tự ở xã Hòa Hảo, Tân Châu, Châu Ðốc.

Ðạo Hòa Hảo, còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, lấy pháp môn Tịnh Ðộ làm căn bản, đề cao hiếu nghĩa tứ ân, chỉ cúng Phật bằng nước lạnh, hoa và nhang, nghi thức tụng niệm ngắn gọn dễ hiểu, dễ nhớ (gồm Bài nguyện trước Bàn thờ ông Bà, Bài nguyện trước Bàn thờ Phật và năm câu nguyện), không thờ hình tượng, không đốt vàng mã, không tổ chức trai đàn phướn xá, ăn chay tháng 4 ngày, không có thành phần xuất gia chỉ có hàng tại gia cư sĩ học Phật tu Nhân. Chi nhánh đạo tổ chức từ cấp thấp nhất là Ban Trị Sự ở làng. Người nào muốn quy y theo đạo phải có hai người bổn đạo bảo lãnh và tiến cử đến Ban Trị Sự làng.

Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ để lại bộ Sấm Giảng gồm 6 quyển:

1- Sấm Giảng Khuyên Người Ðời Tu Niệm (1939)

2- Kệ Dân Của Người Khùng (1939)

3- Sấm Giảng (1939)

4- Giác Mê Tâm Kệ (1939)

5- Khuyến Thiện (1942)

6- Những Ðiều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền (1945)

(71)

Năm 1940 tháng 10, cư sĩ Lê Văn Giảng xin xuất gia với HT Phó Tăng Thống Cambodia, được ban pháp danh HỘ TÔNG (Vansarakhita). Cuối năm, ông được cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu và một số Phật tử Nam Tông thỉnh về Việt Nam lập Chùa Bửu Quang ở Thủ Ðức. Ðây là ngôi Chùa Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên của người Việt tại miền Nam.

Sư Hộ Tông (1893- 1981) sanh tại Châu Ðốc, học tại Hà Nội và làm việc (thú y sĩ) tại Cambodia. Năm 1927, ông bắt đầu tìm hiểu về các pháp tu hành khi làm việc tại Soay Rieng, gần biên giới Việt Nam. Trước tiên ông tu theo Tịnh Ðộ và Mật Tông nhưng không thỏa mãn. Sau này, nhờ nghe HT Phó Tăng Thống Cambodia giảng về Bát Chánh Ðạo tại Chùa Unalom ở Soai Rieng, ông thấy thích thú. Vị này cũng là giám đốc trường Cao Ðẳng Pali tại Nam Vang, đã giới thiệu cho ông một quyển sách bằng tiếng Pháp về Bát Chánh Ðạo tại thư viện của Chùa. Ðọc xong, ông tiếp tục tới Chùa Unalom học tập Kinh điển Pali và tập pháp Thiền Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati). Sau vài năm, ông đạt được kết quả tốt. Năm 1934, đổi về làm việc tại tỉnh Prey Vey, ông giúp thành lập một trung tâm Thiền định tại Chùa Ruong Damrey, đồng thời giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành Thiền. Ðể khuyến khích người Việt xuất gia theo Phật giáo Nguyên Thủy Theravada, ông bỏ ra 2 năm dịch cuốn Luật Xuất Gia, sau đó lại soạn Kinh Nhật Hành Cho Người Tại Gia. Năm 1936, ông trở lại Nam Vang, vận động một nhóm cư sĩ, tu bổ ngôi Chùa Bắc tông tên Sùng Phước, biến thành nơi giảng dạy về Phật giáo Nguyên Thủy cho người Việt trên đất Miên.

Ông làm trú trì Chùa Bửu Quang, Thủ Ðức, cho tới năm 1944 lại qua Miên thực hành hạnh đầu đà (sống đời độc cư hành Thiền trong rừng). Năm năm sau (1949) ông trở lại VN thì Chùa Bửu Quang đã bị quân Pháp phá hủy từ 1947. Ông cùng một số cư sĩ mua một lô đất trống tại Quận 3 Sài Gòn, lập Chùa Kỳ Viên năm 1950. Nơi đây sau đó trở thành trung tâm chính cho các hoạt động hoằng pháp của Phật giáo Nguyên Thủy. Năm sau, 1951 ông tu sửa Chùa Bửu Quang.

Năm 1954, ông cùng sư Bửu Chơn dự Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển lần 4 tại Rangoon, thủ đô Miến Ðiện. Ông đọc diễn văn trong ngày bế mạc đại hội. Năm 1957 Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam được thành lập, trụ sở tại Chùa Kỳ Viên, ông được suy tôn làm Tăng Thống. Năm 1980 ông sang Pháp nhưng sau đó quyết định trở lại VN. Ông tịch tại Chùa Bửu Quang, Thủ Ðức ngày 25/8/1981.

Ông đã vận động xây cất nhiều Chùa Phật giáo Nguyên Thủy, dịch và viết nhiều sách hướng dẫn giáo lý, luận và luật tạng của Phật giáo Nguyên Thủy bằng lối văn dản dị trong sáng. Ông góp phần quan trọng trong nỗ lực phát triển Phật giáo Theravada tại miền Nam. Nỗ lực này được sự tiếp tay của một số đáng kể những danh Tăng Phật giáo Nguyên Thủy. Cư sĩ Phạm Kim Khánh cũng góp phần quan trọng qua nỗ lực dịch và xuất bản nhiều sách về giáo lý PGNT liên tục từ năm 1970. Thống kê năm 1997 tại Việt Nam có 64 Chùa Phật giáo Nguyên Thủy người Việt; ở miền Trung có các Chùa Tam Bảo (Ðà Nẵng), Huyền Không (Huế)...

(72)

Năm 1940 Bắc Kỳ Phật giáo Hội qua nỗ lực của các nhà sư Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài và Thanh Tích phối hợp với Trường Viễn Ðông Bác Cổ bắt đầu thực hiện bộ Phật Ðiển Tùng San. Tới năm 1943, bộ này đã thực hiện theo lối in dập lại được 8 tập các tác phẩm Phật giáo Việt Nam bằng chữ Nôm và chữ Hán: Chư Kinh Nhật Tụng, Thụ Giới Nghi Phạm, Thiền Uyển Kế Ðăng Lục, Pháp Hoa Ðề Cương, Bát Nhã Trực Giải, Khóa Hư Lục, Trần Triều Dật Tồn Ðiển Lục và Lễ Tụng Hành Trì Yếu Tập. Ðây là những tài liệu tham khảo hiếm hoi về các tác phẩm xưa của Phật giáo Việt Nam vào thời đó. Những năm sau, vì chiến tranh công trình này của Hội Bắc Kỳ Phật giáo bị đình trệ.

Bắc Kỳ Phật giáo Hội cũng thực hiện bộ Hải Triều Âm Văn Khố, giới thiệu các tác phẩm tân thư dễ hiểu của Phật giáo Trung Hoa cận đại thuộc các tác giả như Ðại Sư Thái Hư, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Châu Tự Ca, Âu Dương Kiến Vô... giúp cho việc học Phật của giới cư sĩ cựu học và tân học dễ dàng hơn.

Bắc Kỳ Phật giáo Hội thành lập năm 1934 và phát triển rất nhanh nhờ có nhiều thượng lưu và trí thức học giả miền Bắc tích cực tham dự từ đầu. HT Thanh Hanh được suy tôn làm Thiền Gia Pháp Chủ. Hội đã thành lập ngay Ban Khảo Cứu Phật Học do Trần Trọng Kim làm trưởng ban với 17 học giả thông thạo Nho và Pháp tham dự. Báo Ðuốc Tuệ là cơ quan chính thức của Hội. Hai cư sĩ tích cực nhất là Ðồ Nam Nguyễn Trọng Thuật và Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha. Hội cũng mở trường Tăng Học Trung Cấp ( bốn năm Sơ Cấp, ba năm Trung Cấp) tại Chùa Quán Sứ và Chùa Bồ Ðề. Năm 1936, Hội mở trường Tăng Học Cao Cấp (ba năm) tại Chùa Bằng Sở (Hà Ðông) do Thiền sư Trung Thứ làm Ðốc Giáo.

(72)

Năm 1943 ngày 14 tháng 3, gia đình Phật Hóa Phổ có bản điều lệ và Ban Ðiều Hành lần đầu với thành phần:

- Phụ trách tổng quát: Phan Hữu Bình

- Phụ trách hoạt động thanh niên: Tráng Thông

- Phụ trách thông tin đối ngoại: Ðinh Văn Vinh

- Phụ trách giáo lý cấp sơ đẳng: Ðinh Văn Nam ( sau này xuất gia là HT Minh Châu)

- Phụ trách ca vũ nhạc: Lê Bối

- Phụ trách tổ chức các đội hình, cắm trại, đại lễ: Nguyễn Hữu Quán

Gia đình Phật Hóa Phổ là hình thức đầu tiên của tổ chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam được tổ chức theo từng gia đình, lấy tên gia trưởng làm tên đơn vị. GÐPHP phổ biến Phật pháp trong giới trẻ, dạy các em xây dựng lòng tin chân chánh, thực hành đạo đúng đắn, không mê tín dị đoan. Hạt nhân đầu tiên được thành lập vào năm 1940 là Gia Ðình Phật Hóa Phổ Tâm Minh do bác sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám làm Phổ Trưởng. Sinh hoạt của Gia Ðình Phật Hóa Phổ Tâm Minh nhanh chóng được các gia đình trí thức khác ở Huế bắt chước. Việc tổ chức theo đơn vị gia đình để khỏi phải xin giấy phép thành lập hội rất phiền phức trong thời Pháp thuộc. Một huynh trưởng hướng đạo, Lê Lừng, thấy sinh hoạt này phát triển đã vẽ huy hiệu của đoàn là hoa sen trắng có 5 cánh trên, 3 cánh dưới. Sau này trở thành huy hiệu chính thức của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam. Ông cũng là tác giả bản nhạc phổ thông nhất trong Gia Ðình Phật Tử VN ( Dây Thân Ái). Bài ca chính thức của GÐPTVN là Bài Sen Trắng của Ưng Hội. Ðoàn Thiếu Nữ Phật Tử có Bài đoàn ca riêng, Ðoàn Liên Hương của Hoàng Cang.

Theo Nhất Hạnh (VNPGSL 3, tr. 254), ở ngoài Bắc, các cơ sở Gia Ðình Phật Hóa Phổ được các cư sĩ Nguyễn Văn Nhã, Lê Văn Lãm, Vũ Thị Ðịnh thực hiện tại Hà Nội và Hải Phòng. Trong Nam, các cư sĩ Tống Hồ Cầm, Nguyễn Văn Thục xây dựng các đơn vị Gia Ðình Phật Hóa Phổ trong phạm vi Hội Phật Học Nam Việt.

Năm 1951, Hội Nghị Toàn Quốc Gia Ðình Phật Hóa Phổ họp tại Huế, đổi danh hiệu thành Gia Ðình Phật Tử. Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng GÐPT đầu tiên được tổ chức nhân dịp này với Ban Trại Trưởng gồm 10 người do Thầy Minh Châu làm Cố Vấn và cư sĩ Võ Ðình Cường làm Trại Trưởng. Có 33 trại viên tham dự (29 từ miền Trung, 3 từ miền Bắc và 1 từ miền Nam). Tới năm 1973, số lượng huynh trưởng và đoàn viên của tổ chức này tới trên 200 ngàn.

Ðẳng cấp Gia Ðình Phật Tử Việt Nam được tổ chức theo các trình độ tu chứng qua các cấp từ Tập, Tín, Tấn tới Dũng. Sau năm 1975, các khóa huấn luyện huynh trưởng vẫn được tiếp tục tổ chức đều hòa tại Mỹ và Âu Châu. Gia Ðình Phật Tử là ngành duy nhất của Phật giáo Việt Nam hiện đại được ca ngợi về sự thống nhất trong tổ chức từ ngày thành lập tới nay.

(73)

Năm 1943 TT MẬT THỂ (Tâm Nhất, Nguyễn Hữu Kê 1912- 1961) công bố Việt Nam Phật giáo Sử Lược, Tân Việt xuất bản tại Hà Nội. Tác phẩm này được tái bản nhiều lần, là cuốn sử Phật giáo VN đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Tại hải ngoại, tác phẩm này cũng đã được Phật Học Viện Quốc Tế tái bản từ năm 1984. Ông xuất gia từ năm 12 tuổi với Thiền sư Giác Tiên tại Chùa Trúc Lâm (Huế), năm 1933 được mời làm giảng sư Hội An Nam Phật Học, năm 1937 được gởi qua tu nghiệp tại Phật Học Viện Tiêu Sơn ở Trung Quốc. Vì chiến tranh Hoa Nhật, năm 1940 ông phải về nước, đem theo một số sách Tân Thư Phật Học bằng văn Bạch Thoại. Năm 1941- 1942, ông phiên dịch các tác phẩm Tân Thư nói trên, viết tập văn thơ và khảo luận Xuân Ðạo Lý và dạy học tại trường Sơn Môn Phật Học. Ông cũng được mời dạy tại Phật Học Ðường Lưỡng Xuyên ở Trà Vinh năm 1941. Một năm sau, ông trở ra Huế, đi khắp các tổ đình miền Trung rồi ra Hà Nội để thu thập tài liệu viết về sử Phật giáo Việt Nam. Ðiều đặc biệt là mặc dù xuất gia từ năm 12 tuổi, được mời giảng dạy các trường Phật học từ 21 tuổi, không hề rời khỏi Tăng Già mà mãi tới năm 32 tuổi (1944) ông mới thọ đại giới tại Chùa Thiền Tôn, Huế.

Ông là người thông minh. Ngoài căn bản Hán Văn rất vững, ông tự học chữ quốc ngữ, làm những Bài thơ mới; tự học chữ Pháp để đọc các Bài biên khảo Phật giáo bằng Pháp ngữ. Tháng 1. 1943 ông ra ứng cử Ðại Biểu Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đơn vị Thừa Thiên và được sự ủng hộ của giới Phật tử trẻ tuổi nên đắc cư. û Ðây là lần đầu tiên một nhà sư trực tiếp hoạt động chính trị nên một số vị lãnh đạo Sơn Môn và các cư sĩ lớn tuổi không tán thành. Năm 1946, ông được mời làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật giáo Cứu Quốc Thừa Thiên. Mặc dù biết rất rõ rằng xây dựng phong trào Phật giáo dân tộc bên cạnh người Cộng sản rất khó, nhưng ông quan niệm người Phật tử phải có mặt ở đó để bênh vực, che chở cho những Phật tử phục vụ trong hàng ngũ kháng chiến. Vì vậy trong buổi họp mặt năm 1947 tại Chùa Thế Chí ở Thừa Thiên với một số Phật tử trẻ đồng chí hướng thảo luận về tương lai Phật giáo trong tình huống hiện tại, trước khi rút về chiến khu, ông giao nhiệm vụ cho những người ở lại cố gắng dựng lại Chùa, quy tụ Phật tử lại để sinh hoạt và phục hồi phong trào Phật giáo. Ông trao cho họ tất cả tiền quỹ của tạp chí Giải Thoát và dặn họ dùng tiền này cố gắng xuất bản một tờ báo tại Huế để tiếp tục công trình của tạp chí Giải Thoát. Những người ở lại đó sau này trở thành những khuôn mặt nổi bật của Phật giáo Việt Nam như HT Minh Châu, Thiên Ân, Mãn Giác, cư sĩ Cao Hữu Ðính...

Không thể làm ngơ trước chính sách đàn áp Phật giáo ngày càng lộ liễu của Cộng Sản, ông công khai chống đối chế độ và bị quản thúc tại Nghệ An từ năm 1957. Cộng Sản cô lập ông không cho ông đi đâu, cũng không cho bất cứ ai tiếp xúc với ông, nhưng ông không chết đói nhờ đồng Bào thỉnh thoảng lén ném vào sân cho ông một túi gạo nhỏ. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, ông vẫn viết được tác phẩm Thế Giới Quan Phật giáo trước khi viên tịch vào năm 1961. Bản thảo này sau đó được chuyển vào Nam và được tạp chí Vạn Hạnh xuất bản năm 1967 tại Sài Gòn. Tác phẩm này nói về sự cần thiết của đạo Phật trong trào lưu chính trị, văn hóa và Kinh tế hiện đại, trong đó ông phê bình sự nông cạn của chủ nghĩa Duy Vật và khẳng định Phật giáo không duy vật, chẳng duy tâm.

Sư Mật Thể là người có chí nguyện lớn và sẵn sàng hành động để thực hiện chí nguyện đó. Ông là hình ảnh tiêu biểu của lý tưởng Bồ tát trong Lục Ðộ Tập Kinh. Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Việt Nam, hình ảnh Phật giáo dấn thân đó luôn luôn xuất hiện vào mỗi thời nhân dân khốn khó điêu linh.

(74)

Năm 1950 từ 26 tháng 5 tới 7 tháng 6, đại biểu 26 nước họp tại thủ đô Colombo (Tích Lan) thành lập World Fellowship of Buddhists (Hội Phật giáo Liên Hữu Thế Giới, thường gọi tắt là Phật giáo Thế Giới) công nhận lá cờ 5 sắc do đại tá Olcott đề nghị là lá cờ Phật giáo. Phái đoàn Việt Nam tham dự gồm: Thượng Tọa TỐ LIÊN trưởng đoàn, Phạm Chữ thông dịch viên Anh ngữ bộ Ngoại Giao, Ðại Ðức Thạch Bích đại diện Phật giáo Nguyên Thủy, thành viên. Phái đoàn đã tranh đấu để VN được quyền cử một đại biểu vào Ðại Hội Ðồng của Hội Phật giáo Liên Hữu Thế Giới như một quốc gia riêng biệt, thay vì chỉ có một đại biểu chung cho Liên Bang Ðông Dương.

(75)

Năm 1950 (ngày 6 tháng 8), quốc trưởng Bảo Ðại ký ban hành dụ số 10 quy định muốn lập hội phải xin phép trước, chính quyền có thể bác đơn mà không cần nêu lý do. Giấy phep lập hội đã cấp có thể bị thu hồi vì lẽ trị an. Chính quyền có quyền xét hỏi, kiểm soát nội tình các tôn giáo. Cấp lãnh đạo các tôn giáo phải do một đại hội đồng bầu cử. Chỉ có các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô cùng các Hoa Kiều Lý Sự Hội được hưởng quy chế đặc biệt sẽ quy định sau. Giáo hội các tôn giáo khác như Phật giáo, Lão Giáo, Cao Ðài, Hòa Hảo... chỉ được coi như hiệp hội. Chánh quyền có thể bất cứ lúc nào cấm dùng danh xưng Phật giáo mà bắt gọi là hội Phật Học mới cấp giấy phép lập hội. Chính quyền Ngô Ðình Diệm tiếp tục duy trì dụ số 10 cho tới ngày cuối của chế độ.

Bảo Ðại từng là Hội Trưởng Danh Dự hội An Nam Phật Học (lập năm 1932 tại Huế), đã từng ngỏ ý muốn học Kinh Phật với Bà Từ Cung vào năm 1945 ( theo hồi ký Quách Tấn).

(76)

Năm 1951 (ngày 6 tháng 5) vào lễ Phật Ðản, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam được thành lập theo quyết nghị đại hội có 51 đại biểu tham dự họp tại Chùa Từ Ðàm, Huế. Sáu đoàn thể tham dự Ðại Hội là Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt và Hội Phật giáo Việt Nam (Bắc), Giáo Hội Tăng Già Trung Việt và Hội Việt Nam Phật Học (Trung), Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt. Ðứng đầu tập đoàn miền Bắc là Thiền sư Mật Ứng, phát ngôn viên là Thiền sư Trí Hải. Lãnh đạo tập đoàn miền Trung là Hòa Thượng Tịnh Khiết, phát ngôn viên là Thiền sư Trí Quang. Lãnh đạo tập đoàn miền Nam là Thiền sư Ðạt Thanh, phát ngôn viên là Thiền sư Thiện Hòa. Nhạc sĩ Lê Cao Phan sáng tác bản nhạc Phật giáo Việt Nam để chào mừng sự thống nhất Bắc Nam Trung này. Năm 1964, bản nhạc này trở thành bản đạo ca chính thức.

HT Trí Quang cho rằng trong việc thành lập Tổng Hội có 3 đoàn thể “thiếu hoa hỉ”. Trong loạt Bài trên tạp chí Phật giáo Việt Nam năm 1959, tác giả Trọng Ðức cho rằng quần chúng thời đó trách cứ Thiền sư Trí Quang (Hội Việt Nam Phật Học) và cư sĩ Mai Thọ Truyền (Hội Phật Học Nam Việt) về việc trì trệ sự thống nhất Phật giáo. Nhất Hạnh (VNPGSL 3, tr. 339) nhận xét: Trí Quang thông minh nhưng quá nhiều tự tín nên gặp phải những trở lực từ nội bộ vì có những quyết định quan trọng mà ông không chịu tham khảo ý kiến tập thể.

Dựa vào dụ số 10 nói trên, chính quyền bắt gọi là Hội Phật Học mới cấp giấy phép, cấm dùng danh xưng Phật giáo. Chính quyền của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm ra lệnh triệt hạ bảng hiệu văn phòng, HT Hội Chủ Thích Tịnh Khiết bị bắt phải nạp khuôn dấu, thành phần Ban Quản Trị Trung Ương người bị bắt, người phải lánh nạn. Do nỗ lực của TT Thích Trí Quang, đầu năm 1953, Tổng Hội mới được chính thức cấp giấy phép với danh nghĩa Tổng Hội Phật Học Việt Nam. Cho tới năm 1956, dưới chính quyền Ngô Ðình Diệm, ông lại vận động để Tổng Hội mới mang danh là Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, đặt trụ sở tại Chùa Ấn Quang, Sài Gòn.

(77)

Năm 1952 (theo HT Trí Quang), để đề phòng sự tan rã của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam vì chính quyền Trần Văn Hữu và sau đó Nguyễn Văn Tâm gây nhiều khó khăn, ba tổ chức Tăng già họp đại hội thành lập Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội vào cuối tháng 8 đầu tháng 9. HT Tuệ Tạng (Thích Thanh Thuyên) được bầu làm Thượng Thủ, chỉ đạo Ban Tổng Trị Sự. Ðại hội cũng thông qua Quy Chế Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc.

HT TUỆ TẠNG (1889- 1959) sinh tại Nam Ðịnh, xuất gia năm 14 tuổi, thọ giới sa di năm 16 tuổi, sau đó được cử đi trụ trì Chùa Cồn ở Nam Ðịnh trước khi thọ giới Tỳ kheo. Năm 1920 ông cùng với sư tổ một số Chùa ở Nam Ðịnh lập hội Tiến Ðức Cảnh Sách để đào tạo Tăng ni thành một đoàn thể có học và hạnh không phân biệt sơn môn. Năm 1934, ông cùng sư tổ Chùa Trung Hậu, Chùa Bằng Sở, TT Trí Hải và cư sĩ Thiều Chửu lập Hội Phật giáo Việt Nam, trụ sở đặt tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1941 đến 1945 ông kiêm nhiệm giám đốc và đốc giáo trường Tăng Học Bắc Việt trong thời kỳ chiến tranh, vừa lo ăn vừa lo dạy cho hơn 50 Tăng sinh khi trường phải di chuyển từ Chùa này qua Chùa khác trước khi trở lại Chùa Quán Sứ và được cụ Hội Trưởng Hội Tế Sinh Bắc Việt cúng dường một ngôi Chùa, một trường Tăng học và 100 mẫu ruộng ở tỉnh Phúc Yên. Ðầu năm 1945, thời Nhật chiếm đóng, ông nhận trách nhiệm Chánh Hội Trưởng Hội Phật giáo Việt Nam, trú trì Chùa Quán Sứ. Năm 1946, ông xin từ chức, trở về Chùa Cồn, Nam Ðịnh tu dưỡng. Cho tới năm 1949, thường có khoảng hơn 60 Tăng sinh theo học với ông. Ông tịch ngày 10 tháng 5/1959 tại Nam Ðịnh. Ông được Tăng chúng kính nể là người thuộc luật tạng và trì luật bậc nhất.

(78)

Năm 1952 Phái đoàn Phật giáo Tích Lan trên đường biển tham dự Ðại Hội Liên Hữu Phật giáo Thế Giới (World Fellowship of Buddhists) kỳ II tổ chức tại Tokyo có đem theo một viên ngọc Xá Lợi tặng Hội Phật giáo Nhật Bản. Vì Tàu thủy sẽ ghé lại cảng Sài Gòn 24 tiếng, Chủ Tịch Hội LHPGTG, tiến sĩ Malalasekeka đánh điện thông báo cho HT Tố Liên ( đại diện Hội LHPGTG tại VN). TT Tố Liên được sự đồng ý của các tập đoàn trong Tổng Hội Phật giáo VN đã ủy nhiệm cho Hội Phật Học Nam Việt tổ chức lễ cung nghinh tại Sài Gòn để Phật tử có cơ hội lần đầu tiên chiêm bái Xá Lợi Phật. Cư sĩ Mai Thọ Truyền lập tức vận động thành lập Ủy Ban Liên Phái gồm 11 đoàn thể Phật giáo để tổ chức lễ cung nghinh Xá Lợi Phật.

Ngày 13 tháng 9/1952, một cuộc diễn hành từ cảng Sài Gòn qua nhiều đại lộ, có xe hoa trưng cờ 5 sắc của Phật giáo và các đoàn thể Gia Ðình Phật Tử trong đồng phục và cờ hiệu riêng hộ tống. Một Bàn thờ được tôn trí tại trường đại học Sài Gòn để đặt Xá Lợi cho đồng Bào chiêm bái. Nửa triệu người quỳ xuống hai bên đường khi xe Xá Lợi Phật đi qua trong cảm tưởng phấn khởi như thấy được Phật.

Báo chí toàn quốc đều có Bài tường thuật về cuộc diễn hành này. Cuộc diễn hành gây Kinh ngạc cho chính quyền Việt Pháp về khả năng tổ chức và tiềm lực lớn lao không ngờ của Phật giáo Việt Nam. Nhờ vậy, họ giảm bớt sự khó khăn gây cho Tổng Hội Phật giáo và Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc. Phong trào Chấn Hưng và Thống Nhất Phật giáo cũng do đó được các Phật tử từ Nam chí Bắc đón nhận nồng hậu.

(79)

Năm 1953 sau khi tham dự Hội Nghị Thành Lập Hội Liên Hữu Phật giáo Thế Giới (World Fellowship of Buddhists) tại Colombo, thủ đô Tích Lan, năm 1950, Phật giáo Việt Nam có cơ hội trao đổi văn hóa Phật giáo với các nước trong tổ chức này. Với các học bổng nhận được từ các nước Nhật Bản, Tích Lan và Ấn Ðộ, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đề cử các Ðại Ðức trẻ tuổi Tâm Giác, Thanh Kiểm, Quảng Ðộ, Phúc Tuệ (Bắc), Thiện Ân, Trí Không, Minh Châu (Trung), Quảng Minh và Huyền Dung (Nam) đi du học tại các nước trên. Nhờ chương trình Tăng ni du học bắt đầu từ năm 1953, Phật giáo Miền Nam có được những nhân tài cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển Giáo Hội từ đầu năm 1964. Ðại đức Trí Không hoàn tục trong thời gian du học trở thành cư sĩ T. Q. T, sau năm 1963 trở thành Bộ Trưởng Xã Hội rồi Nghị Sĩ.

(80)

Năm 1953 Thượng tọa THIỆN HOA (Trần Thiện Hoa, 1918- 1973) sau khi nhận chức Trưởng ban Giáo Dục kiêm Trưởng ban Hoằng Pháp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tại Chùa Ấn Quang, đã mở lớp dạy giáo lý thứ tư và thứ năm mỗi tuần tại Chùa Ấn Quang (cho Tăng sĩ) và Chùa Phước Hòa (trụ sở Hội Phật Học Nam Việt, cho cư sĩ). Những Bài giảng đó sau này được ông hoàn chỉnh lại thành bộ sách nổi tiếng Phật Học Phổ Thông, được GHTGNV ấn hành lần đầu năm 1958 làm tài liệu cho các Giảng Sư Ðoàn và các Sứ Giả Như Lai. Bộ sách này còn được tái bản nhiều lần trong nước và tại hải ngoại.

TT Thiện Hoa theo học với tổ Khánh Anh từ 7 tuổi, nhập chúng tu học năm 1931 khi HT Khánh Anh khai giảng lớp gia giáo tại Chùa Long An, Vĩnh Bình. Ông thọ giới sa di 1935, cầu học tại nhiều Phật học đường ở Huế từ 1938- 1945, năm 1946 thọ giới Tỳ kheo tại đại giới đàn Chùa Kim Huê, Sa Ðéc.

TT Thiện Hoa là một nhà giáo dục Phật giáo đa tài và tháo vát. Trong thời gian chiến tranh 1946- 1952, ông vừa dạy Kinh điển và Phật pháp cho Tăng ni, dạy học cho trẻ em, mở lớp chống nạn mù chữ, chích thuốc khám bệnh kiêm cả chuẩn mạch bốc thuốc Ðông y miễn phí cho đồng bào. Trong thời gian từ 1953- 1962, mỗi năm hai khóa Hạ và Ðông, ông huấn luyện đào tạo cán bộ trú trì và giảng viên Phật học. Các giảng viên này sau khi học xong 1 khóa 10 bài, được khảo hạch chu đáo rồi được cử đi giảng ở các Chùa Tỉnh hội 10 đêm, sau đó trở về thụ huấn 10 bài khác. Cách huấn luyện vừa học vừa hành này giúp ích rất nhiều cho giảng viên và tạo nên phong trào học giáo lý từ đô thành tới các tỉnh. Ông còn tu chỉnh lại và lập nhà xuất bản Hương Ðạo để in các Bài giảng làm cẩm nang cho các giảng viên.

Bộ Phật Học Phổ Thông gồm 10 tập của ông tới nay vẫn được coi là bộ sách quý vì nó dễ hiểu, giúp người học Phật dễ dàng leo lên các nấc thang Phật pháp từ các vấn đề căn bản nhân quả, luân hồi, đến lịch sử Phật giáo, các tông phái, các Kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác, Duy Thức Học, các bộ luận Ðại Thừa và sau cùng là Kinh Kim Cương và Tâm Kinh. Các bộ sách quý nổi tiếng khác do ông trước tác là Tám Quyển Sách Quý (diễn giải 8 chủ đề đạo đức Phật giáo), Duy Thức Học (6 tập), Bản Ðồ Tu Phật (về 10 tông phái Phật giáo Trung Hoa) và Phật Học Giáo Khoa cho các trường Bồ Ðề (từ đệ thất tới đệ nhất). Tổng cộng HT Thiện Hoa trước tác 80 tác phẩm chia thành 8 loại, từ tiểu thuyết tới dịch và giảng Kinh. Ông chịu ảnh hưởng phương pháp diễn giảng Phật pháp rõ ràng rành mạch theo lối Tây phương của bác sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám (mà ông có dịp dự thính mỗi đêm trong 1 tháng vào năm 1938.)

Ông được tôn cử làm Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo (Ấn Quang) 1966- 1973. Các đệ tử nổi tiếng của ông là HT Thanh Từ, HT Thiền Tâm...

(81)

Năm 1956 ngày 6 và 7 tháng 10, ni chúng thuộc Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tập trung về Chùa Huê Lâm (Sài Gòn) họp Ðại Hội Thành Lập Ban Lãnh Ðạo Ni Bộ Lâm Thời. Ni Bộ cũng thành lập nội quy và tổ chức hành chánh riêng, trụ sở đặt tại Chùa Huê Lâm, Ni Sư Như Thanh được suy tôn làm Ni Trưởng. Cuối năm 1956, GHTGN Nam Việt giao Chùa Dược Sư cho Ni Bộ, trụ sở Ni Bộ được dời về đây. Năm 1962, Chùa Từ Nghiêm (Sài Gòn) được khánh thành làm Tổ Ðình Ni Giới, một Phật Học Viện đồng thời được khai giảng tại đây để đào tạo Ni tài. Năm 1972, Ni Trưởng Như Thanh được giao phó chức vụ Vụ Trưởng Ni Bộ Bắc Tông trong GHPGVNTN.

Ni Trưởng NHƯ THANH (Nguyễn Thị Thanh, 1911- 1998) xuất gia năm 1932 với HT Pháp Ấn, Chùa Phước Tường Thủ Ðức. Khi đó Bà đã thông thạo Hán học, Tây học và Phật học vì thân phụ Bà là một nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm. Từ năm 1935 tới 1941, Bà đi từ Nam ra Trung cầu học với các cao Tăng về Kinh điển, rồi một mình ra Bắc nghiên cứu về Luật Tạng. Từ năm 1942, Bà trở về Nam dành trọn nỗ lực vào việc tổ chức và hướng dẫn Ni chúng tu học. Năm 1956, Bà vận động với cấp lãnh đạo Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đề nghị thống nhất Ni chúng, sau khi được chấp thuận Bà đi các Chùa Ni khắp miền Ðông và Tây Nam Bộ kêu gọi đoàn kết. Từ năm 1961 tới 1998, Bà liên tiếp được mời làm Ðàn Chủ và Hòa Thượng Ðầu Ðàn cho 13 Giới Ðàn Ni. Bà quan niệm: Giới Luật là thọ mạng của Phật pháp.

Bà là nhà tổ chức Ni chúng tận tụy và tài ba, thành lập nhiều học viện cho Ni chúng, mở nhiều lớp giáo lý cho đại chúng, lập các cơ sở sản xuất, trường trung tiểu học, phòng phát thuốc Ðông Tây Y miễn phí, ký nhi viện, trường huấn nghệ tại các ni viện. Bà còn là một giảng sư ưu tú của Giáo Hội đã xuất bản từ năm 1956: 5 tập Giáo Lý Căn Bản, 3 tập Luận, 3 tập Sử Phật giáo, 3 tập về Luật Tạng, 1 tập Giảng Kinh, 6 tập dịch về nghiên cứu Phật pháp và một tập thơ. Các tác phẩm quan trọng nhất của Bà là: Bát Nhã Cương Yếu giảng về Kinh Ðại Bát Nhã, Hành Bồ tát Ðạo luận giải về phẩm Nhập Pháp Giới của Kinh Hoa Nghiêm, Duy Thức Học gồm 4 tập.

Ni trưởng Như Thanh đã giữ lửa cho bó đuốc phục vụ Ni giới mà Ni Sư Diệu Tịnh trao truyền lại. Ni sư DIỆU TỊNH (Phạm Ðại Thọ, 1910- 1942), thọ đại giới năm 1930 tại giới đàn núi Ðiện Bà với Thiền sư Giác Hải, từ năm 1931 đã dịch một số Kinh điển ra quốc ngữ, đã viết Bài trên Từ Bi Âm số 25 kêu gọi nữ giới hợp tác để mở mang ni giới, năm 1934 mở lớp ni học khi làm trú trì Chùa Thiên Bửu và đi giảng Kinh khắp Lục Tỉnh theo lời mời của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Năm 1935 Bà khai sơn Chùa Từ Hóa ở Gia Ðịnh, năm sau đổi thành Hải Ấn Ni Tự, ni chúng quy tụ về tu học khá đông. Năm 1938 Bà ra Bắc nghiên cứu luật tạng. Trên đường về Nam, Bà được Nghi Xương Hoàng Thái Hậu mời vào cung và giảng trong 2 tháng bộ Phạm Võng Lược Sớ. Trở về Chùa Hải Ấn, Bà lại viết Bài kêu gọi nữ giới đứng dậy tự lập và xiển dương chánh pháp trên tạp chí Từ Bi Âm. Năm 1939 Bà tổ chức ni học viện tại Chùa Giác Linh, Sa Ðec, ni chúng gần 100 người. Năm 1940 Bà lại khai giảng trường ni tại Chùa Linh Phước. Vì những nỗ lực liên tục lo cho các trường ni về vật chất lẫn tinh thần, sức khỏe Bà hao mòn. Bà viên tịch tại Chùa Hải Ấn năm 1942.

Còn có nhiều Ni Sư tiêu biểu khác trong phong trào xây dựng và phát triển Ni giới trong thời kỳ phục hưng Phật giáo. Chẳng hạn Ni sư Chí Kiên Hồng Chí (Ðặng Thị Mười, sanh năm 1913, xuất gia 1928) kế thừa Ni Trưởng Như Thanh làm Vụ Trưởng Ni Bộ Bắc Tông từ 1975; Ni Sư Diệu Ninh (Vương Thị Kiến, sanh năm 1914, xuất gia 1930 với Thiền sư Như Nhiêu tại Chùa Thành Xuân, Châu Ðốc) rất tích cực trong công tác cứu tế xã hội. Tại miền Bắc, Ni sư Ðàm Soạn, đệ tử của Thiền sư Ðông Ðồ (Sơn Môn Trung Hậu, tỉnh Phúc Yên), là vị ni đầu tiên được mời vào hoàng cung Huế giảng giải Phật pháp cho hoàng thái hậu và phi tần từ cuối thập niên 1920. Năm 1928, Bà được mời xem đất để xây Chùa Ni đầu tiên ở Huế là Chùa Diệu Viên. Sau khi Chùa hoàn thành, đệ tử của Bà là Ni sư Hương Ðạo được cử làm trú trì Chùa này. Vì vậy mỗi năm Ni sư Ðàm Soạn vào Huế ba tháng để lo Phật sự. Năm 1952, được Hội Dược Sư mời vào Nam viếng Chùa Dược Sư ở Gia Ðịnh, Bà kêu gọi nên phát triển Chùa Dược Sư thành một trường Ni học lớn. Sau khi trường Dược Sư được thành lập, Bà ở lại an cư trong ba tháng. Bà viên tịch năm 1968 tại Bắc Ninh.

(82)

Năm 1957 chính phủ Ngô Ðình Diệm loại Lễ Phật Ðản ra khỏi danh sách các ngày nghỉ lễ chính thức của quốc gia. Hội Việt Nam Phật Học tại miền Trung họp Tổng Hội Ðồng lần thứ 25 gồm toàn thể các đạo sư và đại diện 14 Tỉnh Hội từ ngày 8 tới ngày 11 tháng 3 tại Chùa Từ Ðàm, Huế, (chủ tịch là TT Thích Thiện Minh), lập kiến nghị đặt niềm tin tưởng vào Tổng Hội Phật giáo VN và yêu cầu Tổng Hội liên tục và tích cực can thiệp lên Chính Phủ và Quốc Hội công nhận ngày Phật Ðản là ngày lễ hợp pháp vĩnh viễn của quốc gia.

Lễ Phật Ðản năm đó được Phật tử khắp nơi tổ chức rầm rộ lớn gấp mười lần các năm trước từ miền Trung tới miền Nam. Năm 1958, chính quyền phải công nhận lại ngày Phật Ðản là ngày lễ chính thức của quốc gia.

(84)

Năm 1962 Thiền sư Nhất Hạnh viết đoản văn Bông Hồng Cài Áo, trong đó ông đề nghị nên đưa tục lệ cài một bông hoa trên áo của người Nhật trong ngày Mother’s Day vào nghi thức lễ Vu Lan. Ðoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn chép tay đoản văn này thành hàng trăm bản phổ biến ngay. Lễ Vu Lan năm này tại Chùa Xá Lợi (Sài Gòn), Ðoàn Sinh Viên Phật Tử thực hiện nghi thức Bông Hồng Cài Áo: những người dự lễ nếu còn mẹ được cài bông hoa màu hồng trên áo, những người mất mẹ được cài bông hoa màu trắng. Kể từ đó, lễ Bông Hồng Cài Áo trở thành nghi thức truyền thống đặc biệt trong lễ Vu Lan của Phật giáo Việt Nam. Năm 1967, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phỏng theo ý văn trong đoản văn trên của Nhất Hạnh, viết bản nhạc Bông Hồng Cài Áo. Bản nhạc này lập tức được sử dụng trong nghi thức Bông Hồng Cài Áo của lễ Vu Lan. Tại hải ngoại, nghi thức Bông Hồng Cài Áo được nhiều Bài báo Mỹ ca ngợi về ý nghĩa của nó.

Có thể nói qua việc thực hiện nghi thức Bông Hồng Cài Áo trong lễ Vu Lan năm 1962 tại Chùa Xá Lợi, Ðoàn Sinh Viên Phật Tử đã chứng tỏ được khả năng tổ chức. Họ sẽ trở thành lực lượng chính làm bùng lớn cuộc đấu tranh của Phật giáo từ tháng 5/1963, dẫn tới sự sụp đổ của chế độ Ngô Ðình Diệm.

(85)

Năm 1963 Cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 63 khởi đầu là phản ứng của quần chúng Phật Tử, có sự tham dự và kết hợp đồng bộ của các đoàn thể Phật giáo trong cả nước, giới sinh viên học sinh, Giáo sư Ðại Học, Nhân sĩ trí thức và kết thúc bằng cuộc đảo chính của các tướng lãnh.

Chiều ngày 7 tháng 5, Cảnh Sát Huế đi khắp thành phố thông báo lệnh cấm treo cờ Phật giáo và tháo gỡ các cờ này treo tại tư gia và hương án bên đường. Sau khi có sự chất vấn của Tăng già Huế và đồng Bào biểu tình, Thị Trưởng Huế cho loa phóng thanh khắp nơi xác nhận đồng Bào được phép treo cờ Phật giáo trong lễ Phật Ðản.

Ngày 8 tháng 5, lễ Phật Ðản, đài phát thanh Huế không phát thanh buổi lễ Phật Ðản vào 8 giờ tối cùng ngày theo lệ thường. Phần gây sôi nổi trong buổi lễ là lời phát biểu của TT Trí Quang về vấn đề triệt hạ cờ Phật giáo. Khi quần chúng được biết có lệnh cấm phát thanh buổi lễ Phật Ðản, khoảng 6 ngàn đồng Bào tập trung biểu tình phản đối tại đài phát thanh Huế. Trong lúc TT Trí Quang và Tỉnh Trưởng NVÐ đang thương thảo về việc cho phát thanh buổi lễ trong tối đó thì quân đội dưới quyền thiếu tá ÐS nổ đạn mã tử và lựu đạn cay tạo nên một cảnh hỗn loạn, rồi súng trường và xe Tăng được sử dụng để giải tán đám biểu tình. Bác sĩ Erich Wulff, giáo sư người Ðức dạy tại Ðại Học Y Khoa Huế cho biết có 7 tử thương, trong đó 5 xác trẻ em bị bắn nát đầu trong nhà xác bệnh viện Huế. Ông đã chuyển được hai tấm hình chụp những xác này cho vài tờ báo Tây Ðức qua ngả Nam Vang.

Ngày 9 tháng 5, chính quyền loan tin Việt Cộng trà trộn vào đám biểu tình ném lựu đạn làm 8 người chết, 4 người bị thương. Quân đội tuần hành trong thành phố, Cảnh Sát túc trực ở các ngã đường, tất cả trong tư thế sẵn sàng tác chiến.

Ngày 10 tháng 5, các vị lãnh đạo Phật giáo họp tại Chùa Từ Ðàm (HT Tịnh Khiết, TT Mật Nguyện thuộc Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, TT Trí Quang thuộc Hội Phật giáo VN Trung Phần, TT Mật Hiển đại diện Phật giáo Thừa Thiên và TT Thiện Siêu đại diện Tỉnh Hội Phật giáo Thừa Thiên) soạn thảo và gởi tới Tổng Thống Diệm bản Tuyên Ngôn 5 điểm về 5 nguyện vọng của Phật giáo Ðồ yêu cầu chính phủ: thu hồi công điện ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo, Phật giáo được hưởng quy chế đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chú Giáo, chấm dứt tình trạng khủng bố Phật tử, cho Tăng ni Phật giáo được tự do hành đạo, đền bồi những người bị chết oan và trừng trị các kẻ chủ mưu. Ngày 15 tháng 5, tại Chùa Từ Ðàm, Bản Phụ Ðính giải thích về 5 nguyện vọng trên được công bố: Phật giáo VN không chủ trương lật đổ chánh phủ, PGVN không xem ai là kẻ thù, không tranh đấu với tư cách một tôn giáo chống một tôn giáo, tranh đấu theo đường lối bất bạo động cho bình đẳng tôn giáo và công bằng xã hội; PGVN không chấp nhận bất cứ ai lợi dụng cuộc tranh đấu này. Cùng ngày, một phái đoàn Phật giáo tới Dinh Gia Long, yết kiến Tổng Thống Diệm, trao cho ông bản Tuyên Ngôn Ngạy diểm và trình Bày các giải thích về nguyện vọng của Phật giáo. Sau 3 giờ trao đổi, Tổng Thống Diệm đổ lỗi vụ chết người tại Ðài Phát Thanh Huế cho Cộng Sản và đưa ra vài hứa hẹn mơ hồ. Ngày 16 tháng 5, phái đoàn Phật giáo họp báo tại Chùa Xá Lợi, công bố Bản Tuyên Ngôn 5 điểm và Bản Phụ Ðính.

Ngày 20 tháng 5, một tài liệu 45 trang liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ, thủ tiêu Phật tử trong nhiều năm qua được gởi tới chính phủ.

Ngày 21 tháng 5, lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại Ðài Phát Thanh Huế được Hội Chủ Tổng Hội PGVN ra lệnh tổ chức trên toàn quốc. Tại Sài Gòn, một ngàn Tăng ni tập trung tại Chùa Ấn Quang rước linh vị các nạn nhân về Chùa Xá Lợi. Trong khi đó 350 Tăng ni từ Chùa Xá Lợi diễn hành về Quốc Hội. Tại Chùa Từ Ðàm Huế, sau lễ cầu siêu, toàn thể Tăng ni bắt đầu tuyệt thực, có khoảng 2 ngàn Phật tử cùng tham dự.

Ngày 25 tháng 5, HT Tịnh Khiết triệu tập cuộc họp giữa các đại diện các tổ chức và môn phái Phật giáo. Ủy Ban Liên Phái Phật giáo được thành lập để chỉ đạo cuộc tranh đấu này, TT Tâm Châu làm Chủ Tịch. Bản Tuyên Ngôn Bày tỏ quyết tâm đoàn kết tranh đấu bất bạo động cho 5 nguyên vọng của Phật giáo mang chữ ký của 11 đại diện được công bố.

Ngày 31 tháng 5 Tăng ni tổ chức tuyệt thực, có quần chúng tham dự. Ðại diện sinh viên các phân khoa Viện Ðại Học Huế họp tại Chùa Từ Ðàm tung thư ngỏ kêu gọi sinh viên học sinh đoàn kết sau lưng các nhà lãnh đạo Phật giáo, đồng thời lập kiến nghị yêu cầu chính phủ giải quyết 5 nguyện vọng chính đáng và tối thiểu của Phật giáo. Quần chúng biểu tình và diễn hành ủng hộ 5 nguyện vọng của Phật giáo ở nhiều nơi. Cư sĩ Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt kêu gọi các tỉnh hội trực thuộc phối hợp với Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tổ chức tranh đấu tại miền nam. Lực lượng Cảnh Sát và Mật Vụ bao quanh các Chùa Xá Lợi (Sài Gòn), Từ Ðàm, Báo Quốc, Linh Quang (Huế) từ chiều 30 tháng 5.

Ngày 3 tháng 6, Cảnh Sát dùng lựu đạn cay và lựu đạn khói giải tán các người biểu tình toan tập trung về Chùa Từ Ðàm. Từ ngày 4 tháng 6, quân đội được sử dụng để phong tỏa các Chùa thuộc Hội Phật giáo Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già Trung Việt. tại một số tỉnh miền Nam, các đoàn thể Phật giáo bị bắt ép ký tên ủng hộ chánh quyền, các người tình nghi là lãnh đạo cuộc tranh đấu tại địa phương bị theo dõi, bị bắt, bị tra tấn.

Ngày 11 tháng 6 HT Quảng Ðức (Lâm Văn Tức 1897- 1963), Trưởng ban Nghi Lễ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt tự thiêu tại Sài Gòn. Oai nghi của ông khi lửa cháy xác thân, bức thư để lại mà ông gọi là Lời Nguyện Tâm Huyết, và nhất là trái tim đã biến thành Xá Lợi của ông đã làm chấn động lòng người. Chính phủ phải thành lập Ủy ban Liên Bộ gồm Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ và các Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống, Bộ Trưởng Nội Vụ họp với Phái Ðoàn Phật giáo do TT Thiện Minh hướng dẫn để giải quyết ổn thỏa 5 nguyện vọng của Phật giáo. Sau 3 ngày họp (từ thứ sáu 14 tháng 6 tới trưa chủ nhật 16 tháng 6), một bản Thông Cáo Chung được công bố.

Chính quyền một mặt trì hoãn việc thực hiện các điều khoản của Bản Thông Cáo Chung, mặt khác thương lượng với vài tu sĩ Cổ Sơn Môn để thành lập Tổng Hội Phật giáo Cổ Sơn Môn đối lập với khối Phật giáo tranh đấu. Lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa do Cố Vấn Ngô Ðình Nhu làm thủ lãnh được học tập để sẵn sàng chống lại phong trào Phật giáo.

Ngày 7 tháng 7, nhà văn Nhất Linh tự tử để phản đối việc chính phủ NÐD bắt bớ và đưa ông và những nhân sĩ khác ra tòa xử tội đối lập. Ngày 13 tháng 7, khoảng 40 ngàn người dự tang lễ ông. Sinh viên học sinh góp phần tích cực trong việc tổ chức tang lễ này.

Ngày 16 tháng 8, HT Tiêu Diêu tự thiêu tại Chùa Từ Ðàm lúc 4 giờ sáng. Ðáp lời kêu gọi của lãnh đạo Phật giáo, toàn thể chợ, trường học, xí nghiệp, công tư sở tổng đình công. Chính quyền Huế bao vây các Chùa, ban hành lệnh thiết quân luật và giới nghiêm toàn diện. Năm ngàn Phật Tử túc trực tại Chùa Từ Ðàm bảo vệ nhục thân ông vì sợ chính quyền sẽ cướp đi. Viện trưởng Ðại Học Huế, Linh Mục Cao Văn Luận bị bãi chức vì phản đối chính phủ. Năm Khoa Trưởng và Giám Ðốc Học Vụ Ðại Học Huế cùng 30 nhân viên giảng huấn và toàn thể giảng viên Viện Hán Học Huế ra thông cáo từ chức tập thể. Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái gởi điện cho Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và các tổ chức Phật giáo nhiều nước Á Châu lời kêu gọi can thiệp để chấm dứt sự ngược đãi tôn giáo đã trở thành dã man.

Ðêm 20 tháng 8, chính quyền sử dụng Lực Lượng Ðặc Biệt tấn công đồng loạt các Chùa tham gia phong trào Phật giáo trên toàn quốc. Khoảng 250 Tăng ni bị bắt trong cuộc tấn công Chùa Xá Lợi, nhưng TT Trí Quang đã trốn qua cơ quan Mỹ USOM ở kế đó và xin tị nạn. Vì các nhà lãnh đạo Phật giáo được mật báo từ chiều hôm đó, nên TT Trí Quang có thể thông báo cho báo chí ngoại quốc về kế hoạch tấn công Phật giáo này. Mãi tới sáng ngày 2 tháng 11, ông mới rời khỏi nơi đây trở về Chùa Ấn Quang.

Sáng 21 tháng 8, lệnh thiết quân luật được ban hành trên toàn lãnh thổ, xe phóng thanh và truyền đơn loan báo khắp nơi “chính phủ đã diệt xong bọn phản động”. Trong cuộc họp nội các sáng đó, Tổng Thống Diệm thông báo về việc đánh chiếm các Chùa và bắt giữ “bọn Tăng ni làm loạn”. Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu bỏ phòng họp, về cạo đầu và nạp đơn từ chức. Sau đó ông đi tìm các bạn bè trong giới giáo sư đại học, vận động thành lập Phong Trào Trí Thức Chống Ðộc Tài. Chiều 21, sinh viên Trung Tâm Kỹ Thuật bãi khóa. Chiều 22, bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Khoa Trưởng Y Khoa Sài Gòn, nạp đơn từ chức và bị bắt ngay. Nghe tin đó, toàn thể sinh viên Y Khoa lập tức lên đường một mặt vận động giáo sư của Viện Ðại Học Sài Gòn từ chức tập thể, mặt khác vận động toàn thể sinh viên thành lập được Ủy Ban Chỉ Ðạo Sinh Viên Liên Khoa gồm 18 sinh viên đại diện tất cả các khoa. Ngay trong ngày 23, Ủy Ban quyết nghị bản Tuyên Ngôn gồm 4 điểm yêu cầu chính quyền tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng, chấm dứt khủng bố Phật giáo, trả tự do cho những người bị bắt bớ, giải tỏa các Chùa, ban bố tự do ngôn luận. Ủy Ban được đổi tên thành Ủy Ban Chỉ Ðạo Sinh Viên Và Học Sinh. Bản Tuyên Ngôn này được công bố sáng ngày 24 trước sự hiện diện của trên 3 ngàn sinh viên học sinh đón tiếp giáo sư Vũ Văn Mẫu tại trường Luật Khoa Sài Gòn. Mặc dù ngay trong cuộc biểu tình ngày 25 tháng 8 của sinh viên, học sinh trước chợ Bến Thành, Cảnh Sát Chiến Ðấu đã bắn vào đám biểu tình (nữ sinh Quách Thị Trang bị trúng đạn tử thương), học sinh các trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Mỹ Thuật Gia Ðịnh, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long liên tục là tiên phong trong phong trào bãi khóa và tranh đấu. Số học sinh Sài Gòn bị chính quyền bắt tới gần 2 ngàn người. Phong trào này lan nhanh tới học sinh các tỉnh.

Ðầu tháng 9, chính phủ cử một phái đoàn Dân Biểu do Bà Ngô Ðình Nhu hướng dẫn đi nhiều nước (kể cả Nam Tư) để “giải độc dư luận thế giới” là chính quyền Ngô Ðình Diệm không khủng bố, không bắt bớ, không giam cầm, không tra tấn Phật giáo Ðồ, không kỳ thị đàn áp Phật giáo. Tới ngày 1 tháng 11, phái đoàn này vẫn còn ở ngoại quốc.

Ngày 7 tháng 10, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc họp thảo luận về tình hình Việt Nam và quyết định đề cử một phái đoàn qua điều tra về tình trạng đàn áp Phật giáo. Sư ông Nhất Hạnh lúc đó đang ở New York đã chỉ dẫn cho phái đoàn các phương pháp thu thập được chính xác các sự kiện. Phái đoàn này tới Sài Gòn rạng sáng 24 tháng 10.

Ngày 1 tháng 11, quân đội đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm. Ngay từ tháng 7, nhiều nhóm quân đội đã có ý tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm.

Ngày 31 tháng 12, các hội đoàn Phật giáo họp tại Chùa Xá Lợi thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất và soạn thảo bản Hiến Chương. Các đoàn thể và người đại diện gồm: Ủy Ban liên Phái Phật giáo, TT Tâm Châu – Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt, TT Tâm Giác - Thiền Tịnh Ðạo Tràng, TT Minh Trực – Giáo Hội Nguyện Thủy Việt Nam, TT Pháp Tri – Giáo Hội Theravada, Lục cả Lâm Em – Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam, TT Thanh Thái – Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, TT Huyền Quang – Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, TT Thiện Hoa – Hội Phật Học Nam Việt, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền – Hội Phật giáo Nguyên Thủy, cư sĩ Nguyễn Văn Hiếu – Hội Phật giáo Trung Phần, TT Trí Quang – Hội Việt Nam Phật giáo, cư sĩ Vũ Bảo Vinh – Ðại diện Phật tử Theravada, cư sĩ Sơn Thái Nguyên. HT Thích Tịnh Khiết được suy tôn là Thượng Thủ Hội Chủ.

Ngày 12 tháng 1. 1964, TT Tâm Châu được bầu làm Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo.

(86)

Năm 1966 ngày 21 tháng 10 TT Tâm Châu với tư cách Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo triệu tập Ðại Hội Ðại Hội GHPGVNTN tại Việt Nam Quốc Tự (Sài Gòn). Chiều ngày 22, Ðại Hội mới duyệt xong chương trình nghị sự. Ba giờ sáng ngày 23, một số Tăng sĩ chức sắc trong GHPGVNTN dưới sự vận động của TT Trí Quang họp tại Chùa Ấn Quang (Sài Gòn) họp thành lập Hội Ðồng Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN, đề cử TT Thiện Hoa làm Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo. Vì Ðại Hội tại Việt Nam Quốc Tự vẫn tiếp tục và thông qua bản Hiến Chương Giáo Hội mới nên có tới hai Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất dưới ảnh hưởng của TT Trí Quang (Ấn Quang, dùng bản Hiến Chương 1964) và TT Tâm Châu (Việt Nam Quốc Tự, dùng bản Hiến Chương 1966). Những dấu hiệu trầm trọng của sự phân hóa đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 5, tuy chỉ liên hệ tới vài cá nhân lãnh đạo Phật giáo. Sự phân hóa này trở thành tệ hại hơn khi có những cuộc bạo động giữa hai phe diễn ra nhắm vào việc nắm quyền sử dụng Việt Nam Quốc Tự. Sự phân hóa này lan tới các Tăng ni sinh du học tại Nhật và các nước khác. Ða số nghiêng về phe Ấn Quang. Gần 20 năm sau, qua các bản tiểu sử tự thuật, cả hai vai chủ động trong sự phân hóa này vẫn còn những lời lẽ không được nhẹ nhàng khi nói về phe bên kia (xin xem các bản tự thuật này nơi trang nhà Internet www. quangduc. com, phần Nhân Vật Phật giáo Việt Nam).

(87)

Năm 1971 ngày Phật Ðản (8 tháng 4 âm lịch) Thiền sư THÍCH THANH TỪ (Trần Thanh Từ) khai giảng khóa 1 đào tạo Thiền sinh theo đường lối tu hành mới, tại tu viện Chơn Không, Núi Lớn Vũng Tàu. 10 Tăng sinh theo học. Các Tăng sinh được dạy Kinh, Luận Sử theo tinh thần Thiền Giáo đồng hành, được học các pháp tọa Thiền bắt đầu từ đếm hơi thở (sổ tức). Ðường lối tu của HT Thanh Từ được ông trình bày chủ yếu trong hai tác phẩm: Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 (viết cuối năm 1991) và Ba Vấn Ðề Trọng Ðại Trong Ðời Tu Của Tôi (viết đầu năm 1997)

Ông xuất gia năm 1949 (25 tuổi), đệ tử của HT Thiện Hoa. Năm 1961 tập sự tu Thiền, ẩn tu tại rừng Phương Bối Am, Lâm Ðồng, ngộ đạo trong thời gian nhập thất tại Vũng Tàu cuối tháng 7/1968 qua tham cứu công án “không bằng, không trắc”, ngay sau đó sáng lý Thiền khi đọc “Thiền Nguyên Chư Thiên Tập Ðô Tự” của Khuê Phong Tông Mật. Ông đã từng là giảng sư trong Giảng sư đoàn lưu động tại miền Nam 1953- 1960, Giảng sư Viện Ðại Học Vạn Hạnh, trường Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm và Phật Học Viện Dược Sư 1964- 1966.

Ðường lối tu Thiền của HT Thanh Từ tổng hợp pháp tu An tâm của Huệ Khả (tổ Thiền Tông Trung Hoa thứ 2), pháp tu Sáu căn không dính mắc sáu trần của Huệ Năng (tổ thứ 6 Thiền tông Trung Hoa) và pháp tu Hằng sống thật với Thiền của Trúc Lâm sơ tổ Trần Nhân Tông. Phương pháp tu gồm 4 chủ đề:1- Biết vọng không theo, 2- Ðối cảnh không tâm, 3- Không kẹt hai bên, 4- Hằng sống với cái thật không theo cái giả.

Sau giai đoạn khó khăn 1975- 1986 Phật giáo VN phải chịu dưới chế độ Cộng Sản, hệ thống Thiền viện của HT Thanh Từ bắt đầu phát triển từ 1987. Tới nay, hệ thống này đã có 10 Thiền viện, trong đó có 2 Thiền viện ở Mỹ (Ðại Ðăng ở California và Ngọc Chiếu ở Texas). Trụ sở trung ương là Thiền viện Trúc Lâm, Ðà Lạt. Sinh hoạt của các Thiền viện trên tuân theo Bách Trượng Thanh Quy: sáng lao động, chiều học Kinh luận sử, đầu hôm tụng Kinh Bát Nhã, tọa Thiền, khuya tọa Thiền. Ngoài ra một số đệ tử của HT Thanh Từ cũng đang làm trú trì tại một số Chùa tại Mỹ nhưng không trực thuộc hệ thống Thiền viện trên.

Tại hải ngoại, khoảng 50 tựa sách và rất nhiều băng giảng của HT Thanh Từ được in và phổ biến rộng rãi qua hệ thống được công bố là phát miễn phí của cư sĩ Minh Trung Lê Văn Hai và nhiều đệ tử của Thầy tại Mỹ. Hầu hết các trang nhà Internet Việt ngữ tại hải ngoại đều đưa lên mạng lưới nhiều Bài pháp của ông.

Ðường lối tu của HT Thanh Từ có người phê bình là rập khuôn theo Thiền Trung Hoa, không mang bản sắc dân tộc của Thiền VN, và TT Ðại Lãn cho rằng lối tu của Thầy là lối tu sai lạc nguy hiểm (xin xem các Bài của TT Ðại Lãn trên trang nhà Internet www. daophatngaynay. com). Các đệ tử tại Mỹ và Canada in và phổ biến sách của ông theo kiểu tràn ngập nên có vẻ lãng phí và đã giới hạn phần nào hiệu năng hoằng pháp của các sách.

(87)

Năm 1978 Thượng Tọa THIỆN MINH (Trí Nghiễm, 1921- 1978) bị bắt ngày 13 tháng 4 về tội danh “tổ chức chống phá cách mạng”, bị công an tra tấn chết tại số 258 Nguyễn Trãi, Quận 1 Thành phố HCM ngày 17 tháng 10 năm 1978. Ðể che dấu nội vụ, Công An đem thi hài ông ra trại cải tạo Hàm Tân, Bình Tuy lập hồ sơ khai tử chết vì bệnh. Công An không cho HT Trí Thủ lãnh xác ông làm lễ mai táng theo nghi thức Phật giáo.

Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963, ông là Trưởng phái đoàn Ủy Ban Liên Phái Phật giáo họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ để giải quyết năm nguyện vọng của Phật giáo đồ VN về bình đẳng tôn giáo. Sau đó, ông làm Tổng Vụ Trưởng Thanh Niên rồi Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo GHPGVN Thống Nhất. HT Mãn Giác ca ngợi ông là một trong những vị lãnh đạo tài ba nhất của Phật giáo VN. Thầy Nhất Hạnh (VNPGSL 3, tr. 252) ca ngợi tài tổ chức và hành chánh của ông. Là người thông minh và ứng xử mau lẹ, ông thường được chư Tăng đề cử làm chủ tọa trong những buổi đại hội có nhiều khó khăn. Năm 1949, sau khi Hội An Nam Phật Học tái hoạt động ở miền Trung, ông được chỉ định xây dựng lại các cơ sở Tỉnh Hội ở Cao Nguyên và Nam Trung Phần và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Năm 1958- 1962 ông được tôn cử làm Tổng Trị Sự Hội Phật giáo Việt Nam.

(88)

Năm 1983 Sư Ông NHẤT HẠNH (sinh năm 1926, xuất gia năm 16 tuổi) mở khóa tu mùa hè đầu tiên với 117 Thiền sinh tham dự tại Làng Hồng. Làng Hồng, sau đổi tên thành làng Mai vì trồng nhiều cây mận, được thành lập vào cuối năm 1982 ở gần tỉnh Bordeax nước Pháp. Gồm 3 nông trại cách xa nhau, làng Mai bắt đầu với Xóm Hạ cuối tháng 9 năm 82. Hiện nay làng Mai gồm 7 xóm: Xóm Thượng, Trung, Ðoài (một nông trại) – Xóm Hạ (một nông trại) – Xóm Mới, Mới Ðầu Thôn, Mới Lưng Ðồi (một nông trại). Mỗi xóm được thiết trí gần gũi với khung cảnh VN, có một ngôi Chùa thờ Phật Thích Ca và Khương Tăng Hội (được Sư Ông Nhất Hạnh coi là sơ tổ Thiền Tông Việt Nam). Chi phí điều hành Làng Mai phần lớn được đài thọ bởi tiền tác quyền các sách của sư ông Nhất Hạnh và lệ phí thu từ các người tham dự các khóa tu. Có lẽ vì vậy mỗi năm ông đều ra mắt ít nhất một tác phẩm Anh (thường do Parralax Press xuất bản) và Việt Ngữ (do Lá Bối xuất bản). Sư cô Chân Không là đệ tử phụ tá đắc lực của ông và là một nhà quản trị nhiều tài năng qua các giai đoạn điều hành và phát triển Làng Mai.

Làng Mai thực hiện chương trình 4 năm đào tạo người xuất gia và sau tu học 5 năm sẽ trở thành Giáo Thọ. Hiện nay làng có 70 giáo thọ xuất gia và 30 giáo thọ tại gia. Ngoài ra có 700 người ở nhiều nơi gia nhập dòng tu Tiếp Hiện do Sư Ông Nhất Hạnh chủ xướng. Dòng Tiếp Hiện có 14 giới, ngũ giới thông thường được gọi là 5 chánh niệm, được thành lập tại Việt nam vào năm 1962 với 6 đệ tử đầu tiên (trong đó có sư cô Chân Không và Nhất Chi Mai). Tác phẩm Bước Tới Thảnh Thơi do Lá Bối xuất bản giới thiệu về giới luật của Làng Mai và dòng Tiếp Hiện (bản tiếng Anh Interbeing, Parallax Press xuất bản).

Sư ông Nhất Hạnh sinh năm 1926, xuất gia năm 16 tuổi. Ông tự học Anh và Pháp Ngữ từ 1950. Ðầu năm 1964, ông khởi xướng Phong Trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội trong giới sinh viên Phật Tử với 2 làng thí điểm Cầu Kinh và Thảo Ðiền gần Sài Gòn (gọi là làng hoa tiêu). Năm 1966, chính quyền VNCH không cho phép ông trở về VN và không cho phép xuất bản các tác phẩm ký tên Nhất Hạnh. Tuy nhiên, nhà xuất bản Lá Bối ở Sài Gòn vẫn xuất bản nhiều tác phẩm của ông dưới các bút hiệu khác nhau. Ông được mục sư Luther King (giải Nobel Hòa Bình 1964) đề nghị ông là ứng viên tranh giải Nobel Hòa Bình năm 1966. Năm đó không có ứng viên nào được Quốc Hội Na Uy trao giải này. Năm 1976- 1978, ông nỗ lực trong việc vận động quốc tế cứu giúp các người tị nạn VN, và đã thuê Tàu ra biển Ðông vớt thuyền nhân lén đưa vào bờ, được ít lâu thì nhóm của ông bị chính phủ Singapore trục xuất. Ông đã được mời giảng pháp tại 35 quốc gia, quốc gia sau cùng là Trung Cộng vào năm 1999.

(89)

Năm 1983 Ðại giới đàn Thiện Hòa tổ chức từ ngày 2 tới 4 tháng/1983 tại Phật Học Viện Quốc Tế ở California. Ðây là đại giới đàn đầu tiên được tổ chức cho giới tử VN tại hải ngoại. Thành phần tam sư gồm có: HT Huyền Vi (tu viện Linh Sơn, Pháp, Hòa thượng đầu đàn), HT Thiền Ðịnh (Pháp, Yết Ma A Xà Lê), TT Ðức Niệm (Phật Học Viện Quốc Tế, Giáo Thọ A Xà Lê). Bảy tôn chứng sư theo thứ tự: TT Thiện Thanh (Chùa Phật Tổ, California), TT Thắng Hoan (hội Phật giáo Arizona ), TT Minh Tâm (Chùa Khánh Anh, Pháp), TT Trí Chơn (Chùa Vạn Hạnh, California), TT Nguyên Ðạt (Phật Học Viện Quốc Tế), TT Thiện Trí (Chùa Kim Quang, California) và TT Bảo Lạc (Chùa Pháp Bảo, Úc). Trưởng ban tổ chức là TT Ðức Niệm, giám đốc Phật Học Viện Quốc tế, California. Chứng minh đạo sư là TT Mãn Giác, Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, California.

Giới tử gồm có: 3 nam thọ giới Tỳ kheo tuổi từ 23 tới 33, 11 nam nữ thọ giới Sa Di tuổi từ 12 tới 71, 1 nữ thọ giới Thức Xoa Mạt Na, 27 nam nữ thọ Bồ tát giới tuổi từ 20 tới 74.

Trong đại giới đàn này, 5 Ðại Ðức được tấn phong lên Thượng Tọa: Thích Minh Tâm (Chùa Khánh Anh, Pháp), Thích Nguyên Ðạt (Phật Học Viện Quốc Tế), Thích Thiện Trì (Chùa Kim Quang, California), Thích Bảo Lạc (Chùa Pháp Bảo, Úc) và Thích Tín Nghĩa (Tổ đình Từ Ðàm, Texas). Tác phẩm Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa do Kiêm Ðạt viết, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1983 giới thiệu khá rõ về sự kiện này.

(90)

Năm 1983 bản nghiên cứu về tôn giáo của Thượng Viện Hoa Kỳ công bố vào tháng 10/83 cho biết các hệ phái Phật giáo VN tại hải ngoại gồm có: Giáo Hội Phật giáo Tăng Già Thế Giới – Hội Ðồng Lãnh Ðạo Phật giáo VN tại Hải Ngoại – Tổng Hội Phật giáo VN tại Hoa Kỳ – Cộng Ðồng Phật giáo VN tại Mỹ – Giáo Hội Phật giáo VN tại Hoa Kỳ – Giáo Hội Phật giáo Nam Tông – Giáo Hội Phật giáo Linh Sơn (tại Pháp).

(91)

Năm 1984 ngày 11 tháng 11, Ðại Hội thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam trên Thế giới và thông qua bản Hiến Chương. HT Tâm Châu được suy tôn làm Thượng Thủ. Cơ quan trung ương với nhiệm kỳ 3 năm gồm Hội Ðồng Lãnh Ðạo, Ban Chấp Hành và các Tổng Vụ. Hầu hết thành phần Hội Ðồng Lãnh Ðạo và Ban Chấp Hành là cư sĩ. Tuy nhiên các quyết định của họ phải được hợp thức hóa bằng giáo chỉ do HT Tâm Châu, được coi là người có thực quyền. Nhiều cư sĩ liên tục thuyết giảng trong các khóa an cư kiết hạ của Giáo Hội. Trụ sở trung ương đặt tại Tổ Ðình Từ Quang, Montréal, Canada.

Giáo hội PGVNTTG chủ trương “tứ chúng Tăng Già” và có một lập trường chống Cộng rõ rệt.

(92)

Năm 1988 ngày 28 tháng 8 Tòa Án Nhân Dân Thành Phố HCM xét xử đại đức TUỆ SỸ (Phạm Văn Thương), TRÍ SIÊU (Lê Mạnh Thát) và nhiều Tăng ni (trong đó có HT Thích Ðức Nhuận và ni sư Trí Hải) và cư sĩ khác (tất cả 21 người) về tội danh “tổ chức Lực Lượng Việt Nam Tự Do lật đổ chánh quyền, lập các mật khu Núi Bể (Bình Tuy), Sông Lanh (Ðồng Nai), Cây Gáo (Ðồng Nai) tàng trữ lương thực, vũ khí, tài liệu và huấn luyện quân sự từ giữa năm 77 tới cuối 82”. Họ bị bắt giam từ ngày 1 tháng 4/84. Ngày 9 tháng 10 Tòa án Cộng Sản tuyên án tử hình Tuệ Sỹ và Trí Siêu và án tù những người khác. Hai đại đức Tuệ Sỹ và Trí Siêu cương quyết không xin ân xá. Tuệ Sỹ tuyên bố: Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo và Ðại Khối Dân Tộc. Lê Mạnh Thát khẳng định trước tòa: Chúng tôi tranh đấu cho Tự Do, Nhân Quyền, cho cơm no áo ấm của đồng bào. Chúng tôi không cần xin một sự khoan hồng nào cả. Các hội đoàn người Việt và các tổ chức Phật giáo VN tại hải ngoại đã cấp thời và tích cực vận động được nhiều chánh phủ và nhân sĩ quốc tế làm áp lực yêu cầu chính quyền Hà Nội phải hủy bỏ hai án tử hình trên. Ngày 15 tháng 11, nhà cầm quyền VN giảm án Tuệ Sỹ và Trí Siêu còn 20 năm tù, các người khác cũng được giảm án. Ðây là cuộc vận động dư luận được coi là đoàn kết nhất, cấp thời nhất, tích cực nhất và hiệu quả nhất của Phật giáo VN tại hải ngoại.

Ðược giới trí thức Phật giáo coi là hai nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam hiện đại, hai đại đức Tuệ Sỹ và Trí Siêu được HT Trí Thủ giao phó việc biên soạn bộ Bách Khoa Phật Học Ðại Tự Ðiển. Công tác này tiến hành từ năm 1981 tới 1984 còn ở giai đoạn sưu tập tài liệu thì hai người bị chính quyền Cộng Sản bắt, tài liệu nghiên cứu bị tịch thâu. Sau đó không lâu, HT Trí Thủ cũng tịch một cách bí ẩn, dư luận cho rằng ông bị Công An Cộng Sản đầu độc vì liên hệ thân thiết với Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát.

Sau khi được trả tự do năm 1999, Tuệ Sỹ được HT Quảng Ðộ đề cử làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo và tích cực trong nhiệm vụ này, Lê Mạnh Thát trở về Viện Nghiên Cứu Phật Học miệt mài nghiên cứu kho tài liệu đồ sộ ông đã cố công sưu tập trong thời gian 1966- 1972 khi du học tại Mỹ và biên soạn một loạt tác phẩm về lịch sử Phật giáo VN.

Theo một Bài viết của Lý Ðại Nguyên phổ biến trên nhiều tờ báo Việt ngữ tại Mỹ cuối tháng 1/2002, sau khi được HT Ðôn Hậu tới thăm và tường trình về tình trạng bi đát của Phật giáo tại miền Bắc trong 20 năm dưới chế độ Cộng Sản, HT ÐỨC NHUẬN (Ðồng Văn Kha) vận động một số tu sĩ trẻ thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Phật giáo Và Cứu Nguy Dân Tộc. Ngay sau đó, ông lại vận động giới trí thức và thanh niên thành lập một tổ chức khác hoạt động biệt lập lấy tên là Lực Lượng Dân Tộc Kháng Chiến Giải Cứu Việt Nam. Dưới bí danh Lý Vạn Thắng, ông soạn thảo và công bố bản tuyên ngôn của Lực Lượng này ngày 20 tháng 7/1977. Nhà cầm quyền Cộng Sản tuy nghi ngờ về vai trò của ông nhưng không điều tra được nên kết án ông 10 năm tù, sau đó vì áp lực quốc tế giảm án còn 9 năm tù. Ông được thả vào năm 1993, có tiếp xúc ngay với HT Huyền Quang (XLTV Viện Tăng Thống GHPGVNTN) nhưng sau đó lui về Chùa Vĩnh Nghiêm viết sách. Ông tịch vào tháng 1/2002.

(93)

Năm 1989 TT THIỆN THANH (Không Sắc, Nguyễn Văn Sắc 1935- 1995, sáng lập Chùa Phật Tổ Long Beach, California) mời gọi chư Tăng ni và học giả Phật giáo hải ngoại tham gia dự án phiên dịch Ðại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Ông đề nghị Chùa Phật Tổ sẽ đài thọ các chi phí và cung cấp chỗ làm việc trong công tác phiên dịch này. Lời kêu gọi không được sự đáp ứng sốt sắng. Ông đành tiến hành việc phiên dịch một mình và dịch được vài phẩm đầu của bộ Kinh Hoa Nghiêm thì tịch. Chùa Phật Tổ sau đó in hai tập Kinh Hoa Nghiêm do ông dịch và chú giải vào năm 1995. TT Thiện Thanh xuất gia năm 8 tuổi với HT Huệ Hòa tại Phước Long Cổ Tự ở Sa Ðéc, thọ đại giới năm 20 tuổi tại Trung Tâm Ấn Quang, Sài Gòn. Năm 1965 du học tại Thái lan. Năm 1967 du học tại Ấn Ðộ. Ngoài các bằng Cao Học Cổ Ngữ và Anh Văn, năm 1976 ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học tại đại học Magadha Gaya, Ấn Ðộ, với luận án So sánh Trường Bộ Kinh và Kinh A Hàm. Ông lập Chùa Phật Tổ tại Long Beach đầu thập niên 1980.

Năm 1990, một Hội Ðồng Phiên Dịch Kinh Tạng thuộc Giáo Hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, bắt đầu xúc tiến việc in các bản dịch Kinh Tạng Pali (do HT Minh Châu dịch từ thập niên 60) và các bản dịch Kinh tạng từ Hán Văn (do HT Thiện Siêu cũng dịch từ thập niên 60). Tới nay đã in xong trọn bộ Kinh Tạng Pali (gồm Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ Kinh) do HT Minh Châu và Giáo Sư Trần Phương Lan dịch, và trọn bộ Kinh Tạng Hán Văn (gồm Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm) do HT Thiện Siêu dịch. Mặc dù in một ngàn bộ xong đã khá lâu, tới nay nhiều Chùa ở trong nước vẫn chưa đặt thỉnh.

Năm 1994, HT Tịnh Hạnh, một pháp sư tại Ðài Loan bắt đầu tổ chức một nhóm học giả Việt và Ðài Loan phiên dịch Ðại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Tới nay đã dịch xong 190 tập (trong tổng số dự trù 220 tập của Ðại Tạng Kinh). Công tác kế tiếp của tổ chức này là xuất bản các tập trên, hoàn thành việc dịch Ðại Tạng Kinh và dịch tiếp 800 tập Tục Tạng Kinh. Việc làm này được báo cáo trên trang nhà www. phapviet. com/linhson. Gần đây HT Tịnh Hạnh lên tiếng kêu gọi mọi người góp phần cúng dường yểm trợ cho Phật sự vĩ đại này.

(94)

Năm 1990 sau nhiều phiên họp sơ bộ, ngày 27 tháng 12, đại hội thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Âu Châu họp tại Kongsvinger, Na Uy. Bản Nội Quy gồm 11 chương, 33 điều được thông qua. Thành phần lãnh đạo với nhiệm kỳ 3 năm: HT Thiền Ðịnh (Chùa Pháp Hoa, Pháp, Chứng Minh; TT Minh Tâm (Chùa Khánh Anh, Pháp) Trưởng ban Ðiều Hành; TT Như Ðiển (Chùa Viên Giác, Ðức) Tổng Thư Ký; Ni Sư Diệu Tâm (Chùa Bảo Quang, Ðức) Thủ Quỹ...

(95)

Năm 1992 tháng 1 (ngày 14 tháng chạp Tân Mùi) tại nơi bị quản thúc ở xã Vũ Ðoài, Thái Bình, HT THÍCH QUẢNG ÐỘ, với tư cách Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN, viết xong bản giác thư Nhận Ðịnh Về Những Sai Lầm tai Hại Của Ðảng Cộng Sản Việt Nam Ðối Với Dân Tộc và Phật giáo. Ngày 19 tháng 8/1994, ông gởi bản giác thư này cho Ðỗ Mười, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng sản Việt Nam. Sau ba tháng không được trả lời, theo lệnh của ông, Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc Tế (tại Paris, Pháp) thuộc Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN cho phổ biến bản nhận định này vào tháng 2/1995. Bản Nhận Ðịnh này thực chất là một bản cáo trạng, gồm 2 phần:

1- Ðối với dân tộc, đảng Cộng Sản Việt Nam phạm phải 6 sai lầm tai hại:

Dùng dân tộc VN để truyền bá chủ nghĩa Cộng Sản như một tiền đồn của phe Xã Hội Chủ Nghĩa làm cho 3 triệu người chết, 4 triệu người bị thương, nửa triệu trẻ em sinh ra quái thai và tàn phế, hàng triệu tấn bom và thuốc khai quang tàn phá đất nước mà hậu quả di hại tới nhiều thế hệ.

Thiết lập chế độ độc tài làm nhân tài thui chột, đất nước nghèo đói, lạc hậu nhất thế giới.

Kích động căm thù đấu tranh giai cấp bằng chiến dịch đấu tố năm 1956 khiến 700 nghìn người mất mạng và tiêu tài sản.

Chính sách Hợp Tác Xã Nông Nghiệp làm hao tổn bao nhiêu công của sức lực của nhân dân trong 26 năm (1960- 1986).

Phát động căm thù giai cấp đánh tư sản mại bản tại miền Bắc năm 1954 và miền Nam 1975 làm hàng triệu người phải bỏ trốn ra nước ngoài, nay lại rước tư bản ngoại quốc vào làm ăn khai thác.

Lấy học thuyết Mác Lê làm nền tảng cho mọi sinh hoạt, bỏ hết và phá hoại các di sản tinh thần và vật chất của tổ tiên, coi là tàn dư của phong kiến.

2- Ðối với Phật giáo Việt Nam Cộng Sản phá hủy hoặc mượn tay Pháp phá hủy các Chùa và truy diệt Tăng ni từ thời kháng chiến chống Pháp. Ðến năm 1954, chính quyền Cộng Sản miền Bắc trưng dụng các Chùa và giỡ vật liệu các Chùa làm cơ sở Hợp Tác Xã, làm ngơ cho dân chúng chiếm các nhà phụ cận của Chùa, ngăn cấm Tăng sinh tu học, phát động chiến dịch sư tố sư, tín đồ tố sư. Chính sách này được Cộng Sản áp dụng tại miền Nam từ năm 1975. Ðảng ra tay thành lập Giáo Hội công cụ cho nhà nước để hợp thức hóa chủ trương tiêu diệt Phật giáo.

(96)

HT Quảng Ðộ (Ðặng Phúc Tuệ) sinh năm 1928 tại Thái Bình, xuất gia năm 14 tuổi, từng du học tại Tích Lan và Ấn Ðộ. Làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo Giáo Hội PGVNTN từ trước 1975. Bị chính quyền Cộng Sản bắt giam từ tháng 4/1977 tới tháng 12/1978. Sau đó vào tháng 2/1982 bị áp giải đi quản chế ở Xã Ðoài, Thái Bình. Ngày 22 tháng 3/1992 ông tự ý trở về Sài Gòn sau khi thông báo cho Bộ Công An ở Hà Nội. Ngày 20 tháng 4/1992, Sở Công An Thành Phố HCM ra lệnh trục xuất ông về miền Bắc, nhưng ông không thi hành, cho tới nay vẫn ở tại Sài Gòn và hoạt động với tư cách Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo. Ông được các nhà hoạt động nhân quyền tại nhiều nước đề nghị là ứng viên giải Nobel Hòa Bình năm 2000 và 2001. Sư Ông Nhất Hạnh tôn vinh ông là Bồ tát Vô Úy. Ông là dịch giả nhiều tác phẩm Phật giáo được ưa chuộng như: Phật Quang Ðại Tự Ðiển (9 tập, 7 ngàn trang), Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Tiểu Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Thoát Vòng Tục Lụy (tiểu thuyết), Dưới Mái Chùa Hoang (tiểu thuyết).

(97)

Năm 1992 HT THÍCH ÐÔN HẬU, Ôn Linh Mụ (Diệp Trương Thuần, 1905- 1992) viên tịch ngày 23 tháng 4 tại Chùa Linh Mụ, Huế. Môn đồ và hiếu quyến với sự yểm trợ tích cực của các HT Huyền Quang và Quảng Ðộ, cương quyết không chấp nhận cho nhà nước đứng ra tổ chức tang lễ. Trước hơn 30 ngàn Tăng ni và Phật tử hiện diện trong tang lễ ngày 3 tháng 5 tại tổ đình Linh Mụ, tập thể Tăng ni tổ chức lễ trao ấn tín của Giáo Hội PGVNTN cho HT Thích Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo. HT Huyền Quang khi đó đang bị giam lỏng ở Quảng Ngãi, đã tìm cách hiện diện trong tang lễ và nhận chức Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống.

HT Ðôn Hậu bị Việt Cộng bắt tại Chùa Linh Mụ (Huế) vào dịp Tết Mậu Thân (17/2/1968) đưa ra Bắc với mục đích dùng uy tín của ông làm bình phong cho Giáo Hội Nhà Nước. Mãi tới năm 1976, được phép vào Nam, ông tìm gặp HT Ðức Nhuận, Cố Vấn Viện Tăng Thống, trình bày thực trạng bi đát của Phật giáo tại miền Bắc. HT Ðức Nhuận đã khẩn khoản yêu cầu ông giúp cho Phật giáo miền Nam qua được pháp nạn hiện nay. Vì vậy, ông đã nhận sự tôn cử làm Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống trong Ðại Hội 7 GHPGVNTN (cuối tháng 1/1977) và vào năm 1979, ông lại chấp nhận sự tôn cử của Hội Ðồng Lưỡng Viện làm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống sau khi Tăng Thống Thích Giác Nhiên viên tịch. Nhờ vậy ấn tín của Giáo Hội PGVNTN đã được gìn giữ cho tới khi ông viên tịch. Năm 2000, GHPGVNTN tại Hải Ngoại, theo lệnh của HT Huyền Quang, họp Ðại Hội truy tôn cố HT Ðôn Hậu chính thức là Ðệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN, vì Giáo Hội trong nước bị khủng bố không có điều kiện họp Ðại Hội để làm việc này. Cũng vì lý do này, HT Huyền Quang cho tới nay vẫn chỉ là Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, theo Hiến Chương Giáo Hội năm 1964 (để phân biệt Hiến Chương 1966 của Giáo Hội do HT Tâm Châu lãnh đạo).

Chính do sự đôn đốc, thuyết phục của HT Ðôn Hậu mà có Ðại Hội Thống Nhất Phật giáo VN tại Hoa Kỳ họp cuối tháng 9/1992 tại San Jose, California. Ðại Hội này thành lập Giáo Hội Phật giáo VN Thống Nhất Tại Hoa Kỳ với 4 cơ cấu điều hành: Hội Ðồng Ðại Diện- Hội Ðồng Giám Luật, Hội Ðồng Giám Sát và Hội Ðồng Ðiều Hành. HT Thích Hộ Giác được đề cử làm Chủ Tịch Hội Ðồng Ðiều Hành. Theo nghị quyết của Hội Ðồng Lưỡng Viện GHPGVNTN trong nước, ngày 10 tháng 12/1992, HT Quảng Ðộ ký quyết định số 27 VPLV-VHÐ công nhận GHPGVNTN tại Hoa Kỳ là đại diện toàn quyền GHPGVNTN quốc nội và là Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo trong vô thời hạn. Nội quy Hội Ðồng Ðiều Hành được ban hành ngày 26/1/93.

Bốn năm sau, tháng 10/1996, Giáo Hội này họp Ðại Hội Khoáng Ðại kỳ I tại Phật Học Viện Quốc Tế, California với gần 300 đại biểu Tăng ni và Phật tử thuộc 92 đơn vị tham dự. Ðại Hội lưu nhiệm tất cả các thành phần thuộc 4 Hội Ðồng và tăng cường thêm một số người. Ðại Hội kêu gọi: tiếp thu các phương pháp tu học của các truyền thống tu tập Thiền định ở các nước khác nhau như Vipassana (Thiền Minh Sát), Djochen và Mahamudra (trong Mật giáo Tây Tạng), Chỉ quán hay pháp môn Tịnh độ Thiền Tịnh song tu.

(98)

Năm 2000 26 tháng 6, trên 100 Tăng ni VN lần đầu tiên tương hội với đức Ðạt Lai Lạt Ma. HT Hộ Giác đại diện cho các Tăng ni VN, TT Giác Ðẳng thông dịch. Mở đầu buổi tương hội, Tăng ni VN đồng tụng Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Việt, đức Ðạt Lai Lạt Ma và chư Tăng Tây Tạng đồng tụng Tâm Kinh bằng tiếng Tây Tạng. Trong buổi tương hội này, hai bên đồng ý việc thiết lập một văn phòng liên lạc để củng cố và phát triển thêm những quan hệ.

Kể từ thập niên 1980, Mật Tông Tây Tạng bắt đầu được Phật Tử VN chú ý. Ni sư Trí Hải đã dịch ra tiếng Việt nhiều tác phẩm Phật học của các vị Lạt Ma. Ni sư Như Thủy, một đệ tử kiệt xuất của HT Thanh Từ, theo học với HT Trạm Nhiên Tịch Chiếu Chùa Tây Tạng Bình Dương. Nguyên Phong cũng dịch một số tác phẩm giới thiệu Huyền Môn Tây Tạng. Trần Ngọc Anh dịch bộ Kinh quan trọng nhất của Mật Tông là Kinh Ðại Nhật, TT Phụng Sơn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Mật Nghiêm, Phương Dung và Pram Nguyễn viết nhiều bài giới thiệu về Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Như Hòa dịch 28 bản Kinh Mật Tông phổ biến trên trang nhà Vietnamese Buddhist Sutra Hall. Một số Chùa VN tại California và Washington DC cũng thường mời các vị Lạt Ma làm lễ điểm đạo. Nữ cư sĩ Phương Dung (không phải ca sĩ Phương Dung) với sự cộng tác tích cực của một nhóm thân hữu, đã tổ chức hai buổi đức Ðạt Lai Lạt Ma tiếp xúc và thuyết giảng cho đại chúng Phật Tử VN vào năm 1997 và 2000. Nhiều ngàn Phật tử VN đã tham dự hai buổi này.

(99)

Năm 2000 Từ ngày 1 tới 7 tháng 2, tại Chùa ni Kiều Ðàm Di ở vườn Lâm Tì Ni, Nepal, Ðại Hội Phụ Nữ Phật giáo Thế Giới họp kỳ 6 với 200 thành viên tham dự. Sư cô Thuần Ðịnh thuộc Thiền Viện Thường Chiếu (Vũng Tàu) thuyết trình bằng Anh ngữ về đề tài: Người phụ nữ và Ni chúng Việt Nam trong thời hiện đại. Một số ni sinh Việt Nam du học tại Ấn Ðộ cũng tham dự Ðại Hội này bằng phương tiện tự túc. Có lẽ đây là lần đầu tiên Ni chúng Việt Nam có đại diện tham dự Ðại Hội, vì Ðại Hội 5 họp tại Nam Vang từ 29 tháng 12/1997 tới 4 tháng 1/1998 không có sự tham dự của đại diện Ni chúng Việt Nam.

Trong Ðại Hội kỳ 7 họp tại trường Ðại Học Hoa Phạn ở Ðài Bắc từ 11 tới 17 tháng 7 năm 2002, phái đoàn Ni chúng Việt Nam tham dự gồm 5 ni sinh du học ở Delhi, Ấn Ðộ và 3 sư cô từ Thiền viện Linh Chiếu, Vũng Tàu. Sư cô Hạnh Huệ thuyết trình về Ni Giới Phật giáo Việt Nam và sư cô Minh Huệ trình bày về bản chất và vị trí của người nữ trong lời dạy của đức Phật. Hy vọng Ðại Hội 8 năm 2004 sẽ có đại diện Ni giới Việt Nam tại hải ngoại tham dự.

Hội Phụ Nữ Phật giáo Thế Giới SAKYADHITA là tổ chức kết hợp các nữ Phật tử xuất gia cũng như tại gia trên khắp thế giới, thành lập năm 1987. Hội quy tụ hơn 60 ngàn Ni chúng trong số 1.3 triệu hội viên, tổ chức Ðại Hội mỗi 2 năm tại một trong các quốc gia hội viên.

(TRẦN TRI KHÁCH viết tháng 9. 2002)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.

2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997

3- Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2, thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.

4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.

5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.

6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.

7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.

8- Trần Hồng Liên, Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.

9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)

10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.

11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật giáo Sử Lược, California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.

12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.

13- Phúc Trung, Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ: http://membres. lycos. fr

14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www. giaodiem. com, tháng 8. 2002.

PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997)

- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.

- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (Kinh đô Mê Linh cũ).

- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là Bàn thờ Bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.

- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương, Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, Bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.

- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.

- Ðền thờ Bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).

- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ Bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).

- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ Bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là Bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).

- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.

- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng Bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, Bà cũng tử tiết. Chồng Bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện

Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www. thuvienvietnam. orgmục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá, sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.

Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều Kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.

PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

Vì quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy Kinh điển Phật giáo và nghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thể có hào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được Kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị Tăng Ma Ðằng Ca Diếp và Trúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch Kinh, xây Chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng Kinh Bát Nhã ở Kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng Tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy Tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật giáo Sử Lược (tr. 69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì “cơn sốt ” mua bán vàng có thể đưa một số Tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà Ân (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Trang tạo ra khi dịch Kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát (Lịch Sử Phật giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu: Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc. Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (Chùa), độ được hơn 500 vị Tăng, dịch 15 cuốn Kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật giáo tại nước ta đã có Chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương (trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng Chùa Khai Quốc trên nền cũ của Chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi Chùa đầu tiên tại Trung Quốc là Chùa Bạch Mã ở Kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca Diếp và Trúc Pháp Lan chứa Kinh và dịch Kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi Chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về Chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là “chủ soái” lưu đày ra Linh Lăng. Phật giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những Tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời Chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của Bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và Kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuất là Mâu Tử và Khương Tăng Hội.

Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung Quốc và Nhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình Bày khả năng của Phật giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức “Tam Sư, Thất Chứng”tại Giao Châu. Mối liên hệ Thầy trò trong Tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba Thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức “Tam Sư Thất Chứng”, nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả Kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng Kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá Chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển Kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật giáo VN đã là chỗ dựa của Phật giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều Tăng sĩ Trung Quốc tìm đến Chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật giáo Trung Quốc.

tkl