Kinh Duy Ma ; Bài 7 » Phẩm 7: Quán chúng sanh


http://www.niemphat.com/hinhanh/niemphatbalamat/images/HinhPhatThichCa7_jpg.jpg

Theo quan niệm từ trước đến nay, chúng ta tu hành thường xem chúng sinh chướng ngăn chánh đạo. Chúng sinh thuộc sinh tử môn và Niết bàn thuộc giải thoát môn là hai thế giới hoàn toàn riêng biệt. Chúng sinh là cái gì đáng ghê sợ, một người còn đáng sợ, huống chi là nhiều người, hoặc nhìn thấy loài người còn ngán, kể gì đến các loài khác. Tất cả hàm linh đủ kiểu, hóa độ thế nào cho xuể. Vì vậy, chúng ta thường nghĩ, muốn giải thoát thì phải từ bỏ chúng sinh, từ bỏ sinh tử. Khi Phật tại thế, tâm niệm của Thanh văn giống như vậy, mà Ca Diếp là người tiêu biểu như chúng ta vừa thấy trong phẩm trước.

Thanh văn nhìn chúng sinh là đối tượng đáng sợ, thì Duy Ma khai ngộ khác. Duy Ma nói với Bồ tát Văn Thù rằng Ngài quán thấy tất cả chúng sinh như nhà ảo thuật nhìn những vật do họ biến hóa ra, nghĩa là chúng sinh được coi như một cái gì lệ thuộc Bồ tát. Từ chúng sinh là một cái đáng sợ, Duy Ma nâng lên một nấc, coi nó như vật mình tự biến tạo. Vì Ngài đứng trên lập trường quả môn hay bản thể môn nhìn xuống hiện tượng giới, thấy chúng sinh do Bồ tát bất tư nghì giải thoát biến hóa, hay tất cả hiện tượng đều do bản thể sinh ra. Ví như người làm ảo thuật nhìn vật do họ biến hóa, chắc chắn họ không ưa thích hay sợ vật giả đó. Thanh văn thì sợ vật thế gian, trong khi Bồ tát bất tư nghì giải thoát thấy vật do mình tạo ra, nên không sợ, không mê. Riêng chúng ta còn là phàm phu mà tự cho rằng chúng sinh do mình biến hóa, là rớt vào tăng thượng mạn.

Chúng sinh trên dạng bản thể bất sinh, bất diệt, bất biến. Nếu đứng ở lập trường này, chúng ta là người bất tử, thì sẽ thấy chúng sinh là những hiện tượng xảy ra nhất thời. Chúng sinh từ quá khứ đến hiện tại và vị lai tiếp nối nhau sinh và chết, không có gì vĩnh cửu; tuy chúng sinh sinh diệt như thế, nhưng không rời bản thể.

Chúng sinh từ nghiệp hay vô minh sinh, nên cái thấy của con người trăm sai ngàn khác. Chúng ta lại mang thêm cặp kính nghiệp để thấy khác nữa, là tạo thêm một tầng sai biệt. Thiền sư diễn tả cái thấy biết lệch lạc của chúng sinh bằng câu “Đừng tìm tri thức trong mộng”. Thật vậy, con người trong một thời gian nhất định của mạng sống hạn hẹp nằm trong thời gian vô tận, giống như một giấc mơ nằm trong khoảng ngắn của cuộc đời. Chúng ta lạc vào một cơn mộng xa rời bản thể để có hiện tượng giới và con người trên hiện tượng so với con người bản thể chẳng khác nào người nằm mộng trong giấc mộng của con người. Nếu so với mạng sống bất tử của Bồ tát, thì mạng của chúng ta trên sinh diệt, quả là cách nhau quá xa.

Cái thấy của chúng sinh thay đổi liên tục tùy theo hành nghiệp và hành nghiệp phát xuất từ vô minh. Duy Ma ví cái thấy này như người lữ hành thấy nước trong sa mạc có thật. Theo Phật, nhân duyên hòa hợp tạo thành muôn sự muôn vật. Từ sa mạc biến thành nước, từ nước biến thành hư không, v.v... Nếu chúng ta biết phát huy và vận dụng năng lực, sẽ có nước. Trên mặt bản thể, nước và sa mạc không khác; còn trên hiện tượng, tùy theo nghiệp thấy hoàn toàn khác.

Duy Ma bảo Ngài thấy chúng sinh như cái lõi của cây chuối. Bồ tát thấy chúng sinh khác hơn chúng sinh thấy chúng sinh. Một chúng sinh nhìn chúng sinh dưới mọi dạng thức khác nhau, rồi khởi niệm vui buồn giận khổ. Cuối cùng các pháp tương đối này ràng buộc họ, không còn lối thoát, rơi vào cùng tột khổ đau. Nói chung, mọi suy nghĩ dẫn đến quả khổ là phương cách chúng sinh quán sát chúng sinh qua lăng kính thiện nghiệp và ác nghiệp, thấy có người dễ thương và người dễ ghét.

Hàng nhị thừa trụ pháp Không, không thương không ghét, tâm dửng dưng trước sự vật, chỉ nhiếp tâm thanh tịnh, nên thấy chúng sinh không có. Hai cái thấy của phàm phu và Thanh văn là hai thái cực của Chân đế và tục đế. Thanh văn đứng ở lập trường chân đế, ly trần nên trần ai không xâm hại họ được. Chúng sinh ở tục đế hiệp trần, nên luôn bị trần duyên làm ô nhiễm.

Bồ tát tu hành phát xuất từ tục đế, tiến đến chân đế và từ chân đế trở về trung đế, đạt được đệ nhất nghĩa đế. Bồ tát khởi đầu tu, thấy chúng sinh y như chúng sinh thấy. Giai đoạn hai, Bồ tát thấy chúng sinh như Thanh văn thấy không có gì. Sau đó, nảy sinh cái thấy thứ ba, thấy chúng sinh theo Bồ tát. Bỏ hai cái thấy trước cũng không có trung đế. Bồ tát thấy chúng sinh như không có, vì an trụ pháp Không.

Dưới kiến giải của Bồ tát, trước khi sinh, chúng ta không có, gọi là Không. Nhưng hiện hữu ở cuộc đời, chúng ta cũng không tồn tại vĩnh viễn mà thay đổi từng giờ từng phút, cuối cùng trả hơi thở cho gió, chúng ta không còn gì. Trước Không, sau Không, niệm giữa không dừng, nên toàn bộ đều Không. Trước mắt Bồ tát, chúng sinh đều nằm dưới dạng sinh diệt, có mà không có, hay giả có. Nói cách khác, Bồ tát thấy sự vật theo nhân duyên, thấy tướng chân thật từ Không hiện có và từ có trả lại Không.

Từ giả có của hiện tượng, Bồ tát thấy chúng sinh bên ngoài là Không. Tiến lên một nấc, Bồ tát quán sát bên trong thấy sự tồn tại của con người mang tính di truyền tiếp nối từ đời này sang đời khác, gọi là sinh mệnh tương tục. Thân con người chết đi rồi lại sinh thân khác, nhưng vẫn tồn tại cái hằng hữu bên trong mà chỉ có mắt huệ thấy được, như thiền sư Nhật Bản diễn tả:

Bốn mùa hoa đều nở

Chẻ cây hoa ở đâu.

Bồ tát chứng được cái hằng hữu là chơn tánh nằm ngoài khả năng vói tới của ngoại đạo, Thiên ma. Đức Phật dạy rằng khi chúng ta còn là phàm phu, chơn tánh này không nhỏ bớt và lúc chúng ta thành Phật, chơn tánh này cũng không lớn thêm. Bồ tát thấy được chơn tánh bất sinh bất diệt và sống với chơn tánh mà hình thành Tịnh độ của các Ngài. Dưới dạng thật tánh, Bồ tát thấy Phật, chúng sinh và Ngài, cả ba không hề khác nhau, không có một niệm xa rời. Chính vì vậy, Bồ tát thấy chúng sinh không có, nhưng vẫn không từ bỏ tâm đại bi và đó là cách Bồ tát không giáo hóa mà thật giáo hóa.

Theo Duy Ma, chúng ta không nắm bắt được chân lý, mà cứ phân biệt trên sinh diệt là cái không có, chẳng ích lợi gì. Vì vậy, Duy Ma nói với Văn Thù rằng Bồ tát quán chúng sinh như lõi cây chuối. Cây chuối làm gì có lõi, lột hết bẹ là hết. Chúng sinh sinh diệt nằm trong ngũ uẩn thân cũng vậy, mất thân ngũ uẩn là hết.

Từ lập trường Bồ tát của Duy Ma nhìn về chúng sinh, hay từ lập trường Phật của Thiên nữ nhìn về chúng sinh, thì xuất gia hay tại gia đều là chúng sinh sinh diệt, không có gì đáng quan tâm. Điều đáng quan tâm là người tạo ra hình chúng sinh, tức là nghiệp. Biết được nghiệp tạo hình, chúng ta chuyển từ gốc nghiệp này. Không nặn hình chúng sinh, thì làm gì có chúng sinh. Chúng ta thường rớt vào sai lầm, tu thật cực khổ, nhưng không diệt nghiệp, cũng kể như vô ích.

Mặc dù Bồ tát quán chúng sinh như giấc mơ, như nước trong sa mạc, tức không có thật, do nghiệp mà thành; nhưng Bồ tát vẫn giáo hóa chúng sinh bằng cách tự hóa giải nghiệp của mình cho sạch. Khi nào nghiệp của Bồ tát hoàn toàn tiêu, thì chúng sinh trong sa mạc sinh tử cũng không còn.

Thanh văn an trú pháp Không và nghe pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát là Không, dễ hiểu lầm giống pháp Không của họ. Bồ tát Văn Thù hỏi Duy Ma về pháp Không của Bồ tát nhằm mục tiêu khai ngộ cho mọi người tu hành.

Pháp Không của Thanh văn tu, không làm và không để tâm đến việc làm của thế gian, không dính líu với cuộc đời, xem cuộc đời là không có. Duy Ma nâng pháp Không của Thanh văn lên một nấc, Không nằm ngoài Có, không phải Có và Không đối lập nhau. Tuy nằm ngoài mà bao bọc vạn vật, nên vận dụng được vạn vật theo ý của Bồ tát.

Bồ tát Văn Thù đọc được tâm niệm của Thanh văn liền hỏi Duy Ma rằng, nếu thấy tất cả vật trên  cuộc đời hoàn toàn Không thì các Ngài hành Bồ tát đạo làm gì. Tu rồi cũng chết, sao lại tu và việc làm của Bồ tát có giống công tác của dã tràng xe cát cho sóng lên cuốn trôi hết hay không.

Từ gợi ý này, Duy Ma giảng dạy cho chúng ta thấy vấn đề cứu vớt chúng sinh của Bồ tát, của Phật, để chúng ta tập làm theo các Ngài. Theo Duy Ma, muốn thấy vấn đề, phải đứng ở lập trường giải thoát hay quả môn mới thấy. Còn ở lập trường chúng sinh mà tu pháp Bồ tát, chỉ là nhà từ thiện xã hội, không phải Bồ tát thật.

Bồ tát đứng trên lập trường Không mà giáo hóa, không phải ở lập trường Hữu giáo hóa. Vì ở lập trường hữu, chúng sinh giáo hóa chúng sinh, không thể giải thoát. Chúng ta là người, họ cũng là người. Chúng ta giúp họ, cuối cùng họ chết và chúng ta cũng chết. Nghĩa là tu hành giáo hóa trong sinh tử, không khác gì tu trong mộng, chẳng đắc đạo bao giờ. Trên cuộc đời, chúng ta làm gì cũng rớt qua chỗ mộng, vì chúng ta không nằm trong quỹ đạo của Bồ tát, nên việc làm của chúng ta hoàn toàn khác. Chúng sinh ở dạng không sinh diệt mới thật là đối tượng của Bồ tát giáo hóa. Duy Ma gợi ý này cho Thanh văn phát tâm.

Tuy nhiên, nếu chúng sinh không thật, mà phải giáo hóa, thì việc làm này đi về đâu. Đó là vấn đề Thanh văn không giải quyết được. Giáo hóa thì phải thấy thật và nếu thấy thật lại rớt qua thật hữu của chúng sinh phàm phu và lâu ngày bị tham sân phiền não chi phối, chắc chắn lọt vào trần ai. Đó là điều mà Thanh văn ghê sợ. Còn nói Không thì đâu cần gì làm.

Về điểm này, Duy Ma dạy rằng sau khi đạt quả vị A la hán, phát tâm Bồ đề, mới thấy được thật hữu. Kinh Pháp Hoa gọi là ra khỏi Nhà lửa, đến khoảng đất trống, tức chơn không, Không này là thật tướng các pháp. Nếu Không suông, không có gì là Ngoan Không hay giả danh A la hán. Đạt đến chơn không, chúng sinh sẽ hiện ra khác với chúng sinh lúc ta mới tu. Điển hình như khi còn là thái tử Sĩ Đạt Ta, chưa thành đạo, Ngài sống chung với năm anh em Kiều Trần Như cũng không hòa được với họ. Nhưng khi thành đạo, nghĩa là đứng trên lập trường bất tư nghì giải thoát, Ngài đến với họ, tự nhiên họ kính phục, đảnh lễ Phật, dù Ngài chưa nói một lời nào và thỉnh Phật thuyết pháp. Sau đó, Ngài độ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, v.v... và sự giáo hóa của Đức Phật lan rộng nhẹ nhàng cả xứ Ấn Độ.

Qua hiện tượng lịch sử này, tu sĩ Phật giáo phát triển nhận chân được lực giáo hóa của Đức Phật ở dạng bản thể. Họ đã vận dụng ý này để phê phán sự tranh chấp hơn thua giữa Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ là sai lầm. Ở đây muốn diễn tả người sinh tử không giáo hóa được người sinh tử. Hay nói cách khác, muốn giáo hóa chúng sinh sinh tử phải đứng trên bản thể, nhìn sự vật đúng hoàn toàn. Từ đó trở lại thực tế mượn nhân vật Duy Ma là người sống đã đạt đến trạng thái giải thoát của người không sinh tử mới giáo hóa được mọi người ở thành Tỳ Da Ly, để diễn tả ý này.

Và xa hơn nữa, Duy Ma không mặc áo Sa môn, dưới lớp áo cư sĩ, nhưng chứng ngộ giải thoát, Ngài được mọi người quy phục kính ngưỡng. Phật giáo phát triển đưa ra hình ảnh Duy Ma nhằm phá bỏ ý tưởng chấp chặt hình thức và còn đẩy mạnh hơn nữa bằng cách mượn hình ảnh Thiên nữ hiện thân trong nhà Duy Ma rải hoa Trời lên các vị Bồ tát và Thanh văn.

Theo quan niệm của Ấn Độ thời bấy giờ, người nữ không làm được gì. Trong kinh Pháp Hoa, Xá Lợi Phất nói rõ người nữ có năm điều chướng, không thể thành Phật. Dưới kiến giải của Phật giáo phát triển, hàng cư sĩ và cả người nữ đều có những điều phi thường, nếu họ chứng được bản thể, nắm được quy luật, điều động được sự vật. Trên hiện tượng sinh diệt, thì thân tướng có muôn ngàn sai khác; nhưng ở dạng bản thể, tất cả các pháp đồng nhau không khác. Ai nắm được quy luật, người đó trở thành chủ tể.

Ý niệm Thiên nữ có thần thông biến hóa không lường, bằng với Phật, qua câu nói của Thiên nữ “Phật sanh sao, tôi sanh vậy”, nhằm phá bỏ tâm phân biệt xuất gia và tại gia, chơn đế và tục đế, tướng nam và tướng nữ.

Bồ tát Văn Thù hỏi Duy Ma sinh tử đáng sợ, Bồ tát nương vào đâu để hành Bồ tát đạo, nương gì để tu hành. Đó chính là vấn đề quan trọng đối với chúng ta. Người thực tu thường gặp tâm trạng này. Tu bằng tất cả tâm huyết, nhưng không thấy đạo. Đến đâu cũng thấy toàn sinh tử, không thấy Phật. Phật Thích Ca cũng sinh tử. Các vị danh tăng tiền bối hiện diện rồi cũng tịch và chính bản thân chúng ta cũng đang đi lần đến cái chết. Không biết tìm cái bất tử ở đâu. Đó là nỗi khổ tâm lớn, là niềm lo sợ kinh khủng của người tu. Người không tu mặc cho dòng đời trôi, có gì để nói.

Tâm trạng này của chúng ta được Duy Ma giải tỏa bằng câu nương công đức lực Như Lai thì thoát ly sinh tử. Tuy nhiên, nó lại đưa ra cho chúng ta thêm một vấn đề khó, đó là Như Lai lực là gì và tìm Như Lai lực ở đâu để nương.

Duy Ma cho biết tìm Như Lai lực trong chúng sinh hay lấy độ thoát chúng sinh làm chỗ nương. Nương Như Lai lực là trở về hiện hữu của ta và của tất cả mọi người trên cuộc đời. Hiện hữu của ta trên cuộc đời là Như Lai, bỏ cái này tìm cái khác không có. Câu trả lời của Duy Ma “Hiện hữu của ta trên cuộc đời là Như Lai” là câu nói của Bồ tát đã thành Vô thượng đẳng giác thương nhân gian sinh lại, nói chuyện với Bồ tát Văn Thù là trí tuệ tuyệt luân. Riêng chúng ta chưa vượt khỏi Nhà lửa tam giới, thì hiện hữu này vẫn là sinh tử đáng sợ.

Duy Ma cho biết có độ thoát chúng sinh mới thấy được Như Lai lực, vì Như Lai là độ thoát chúng sinh. Tuy nhiên, thực tế vào đời độ chúng sinh không đơn giản. Làm sao độ được chúng sinh để thấy Như Lai lực. Kinh Kim Cang dạy người thấy Như Lai qua 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp là tà đạo, không bao giờ thấy được Như Lai. Cái khó ở chỗ Như Lai không nằm trong 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, nhưng lìa tướng tốt này cũng không có Như Lai. Bỏ một để tìm một, không được. Con người đầy đủ phước đức trí tuệ bên trong mới hiện ra thân tướng giải thoát trang nghiêm bên ngoài, nhưng chấp bên ngoài là thật thì Phật không cho, vì bên ngoài Chuyển luân Thánh vương cũng có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Như vậy bên ngoài đồng nhau, nhưng bên trong còn hàm chứa cái khác biệt. Thân và tâm chúng ta không phải là một, nhưng cũng không phải là hai cái khác nhau. Thân tâm kết hợp với nhau để thành một hữu tình chúng sinh.

Thanh văn nghĩ làm sao để độ thoát chúng sinh. Duy Ma trả lời muốn độ thoát chúng sinh, phải độ mình. Nghĩa là phải trở lại pháp tu ban đầu theo Nguyên thủy, diệt tận gốc tham sân phiền não. Nhờ đoạn sạch tham sân phiền não, hành giả hiện tướng giải thoát hay tướng tịch diệt. Tướng tịch diệt này vô hình trung đã giáo hóa chúng sinh.

Duy Ma tiêu biểu cho tịch diệt tướng. Khi hành giả muốn độ chúng sinh, tức khởi niệm tham, nên không độ được. Dẹp tận gốc tâm tham, cho đến ý thức độ chúng sinh cũng không có. Đạt được tâm chứng này, ý thức sai lầm không còn khả năng làm phiền hành giả. Hành giả trở về bản tâm thanh tịnh, bình ổn thật sự. Bản tâm thanh tịnh là Như Lai, khởi tâm sinh diệt là chúng sinh. Trở về bản tâm thanh tịnh mới tiếp nhận được lực Như Lai và giáo hóa chúng sinh dưới dạng Như Lai giáo hóa.

Tuy chúng sinh ở trong sinh tử, Bồ tát phải đứng lên lập trường không sinh tử, tức bản thể của sự vật, để giáo hóa họ. Vì vậy, Bồ tát không làm gì, nhưng thật vẫn hành động trên bản thể. Chúng sinh nhờ có bản thể hay Phật tánh, cảm được tâm thanh tịnh của Bồ tát ở bản thể, thì Phật tánh họ bừng lên được, phá phiền não nhiễm ô bên trong, tự giải thoát. Ví như ánh sáng bừng lên, bóng tối tự mất. Vì vậy, giáo hóa của Bồ tát hay Phật dưới dạng bất tư nghì giải thoát, không giáo hóa mà giáo hóa.

Chuyển tiếp phần hai, đột nhiên xuất hiện một Thiên nữ thể nghiệm thuyết bất nhị, Ngài rải hoa cúng dường Phật và Thánh chúng. Trước kia Thiên nữ ở đâu. Chúng ta đã biết kinh Duy Ma là cốt lõi của Thiền, diễn tả tu chứng hoàn toàn trong nội tâm, khó thể hiện bằng lời. Kinh mượn hoạt cảnh Thiên nữ xuất hiện, nhắc nhở hành giả phải dùng tâm Như Lai mà tu. Hoạt cảnh Thiên nữ tán hoa tiêu biểu cho sự an lành, hồn nhiên, vui tươi của người tu, tất cả sự vật muôn màu muôn vẻ, đẹp tuyệt vời. Kế đến, hoạt cảnh vẽ thêm hoa rải xuống mình các Bồ tát đều rơi xuống đất. Hoa trúng vào Thanh văn thì dính luôn, vì họ còn tâm chấp trước. Tâm chấp trước hay tâm phân biệt tốt xấu phải trái làm chúng ta khổ, nó tồn tại trong ta gọi là nhị biên. Người tu Thánh đạo cầu giải thoát, nhưng tâm còn vướng mắc, không giải thoát.

Bồ tát Văn Thù nhắc rằng muốn giải thoát, phải độ chúng sinh. Tách rời chúng sinh, đối lập với chúng sinh, vĩnh viễn không giải thoát. Còn có chúng sinh trước mặt phá hoại, được diễn tả bằng hình ảnh hoa dính chặt trên Thanh văn, không rớt. Hoa này là những gì còn tồn tại trong lòng chúng ta, không phải hoa bên ngoài.

Bồ tát không còn vấn đề tồn tại vì đã giáo hóa chúng sinh, chuyển hóa được chúng sinh thành Bồ tát thật. Thanh văn tu hành, từ bỏ cuộc đời, không giận, ai làm gì mặc ai, họ sống theo họ. Nghĩa là còn tồn tại “cái mặc ai” và tồn tại “cái của ta” hay tồn tại “cái ta giải thoát” và “chúng sinh đau khổ”. Tuy bỏ hết phiền não cuộc đời, nhưng còn giữ lại tâm chấp trước là tâm từ bỏ cuộc đời. Chấp trước này vướng mắc dữ dội trong tâm, muốn bỏ thì nó càng dính chặt hơn nữa. Kinh diễn tả bằng hình ảnh Thanh văn dùng thần lực phủi hoa cũng không được.

Hoa dính hay không, không quan trọng, quan trọng là hành giả có vướng bận không. Bồ tát tùy duyên giáo hóa, giải thoát ngay trong cuộc đời. Bồ tát không dính hoa, vì các Ngài không hề có quan niệm về nó. Các Ngài thấy rõ các pháp ở mặt sinh diệt và bất sinh diệt. Ở trong sinh diệt, tất yếu phải theo định luật sinh diệt. Ở trạng thái Niết bàn thì phải tịch tĩnh. Đó là hai thế giới của thể và dụng. Bồ tát đạt vô sanh, không để tâm. Hoa không dính Bồ tát, tiêu biểu cho tâm các Ngài không kẹt việc tốt xấu trên cuộc đời.

Khởi đầu tu, ta tránh xấu tìm tốt thì phải kẹt tốt. Hoa tiêu biểu cho tốt. A la hán bỏ sinh tử về Niết bàn, nên kẹt Niết bàn. Các Ngài phải gỡ thêm một lần nữa là bỏ Niết bàn. Tuy nhiên, bỏ Niết bàn lại rớt qua sinh tử. Đối với Bồ tát, Niết bàn và sinh tử là một. Tâm sinh khởi thì rơi vào sinh tử, tâm tịch diệt đương nhiên an trú Niết bàn. Vì vậy A la hán còn trụ sinh diệt không phải là A la hán thật. Kinh Pháp Hoa cho biết Niết bàn của A la hán là Niết bàn giả. Họ không tự tạo Niết bàn được. Tuy nhiên, nhờ nương theo thanh tịnh giải thoát của Phật, họ cũng giải thoát. Rời Phật, họ sẽ điên đảo vọng tưởng. Ở Kỳ Viên tịnh xá gần Phật, họ được giải thoát. Đến nhà Duy Ma chạm trán với mưa gió của cuộc đời, họ liền rớt.

Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất tại sao Ngài phủi hoa. Xá Lợi Phất trả lời rằng gỡ hoa vì nó không hợp pháp. Thiên nữ chỉnh Xá Lợi Phất rằng hoa vô tri, vô giác, hợp pháp hay không là do con người. Tôi nhớ các Ngài tu hành đã xa lìa trần cấu, thành A la hán, lìa tham sân si, rời xa thực tế, thì sao còn thấy thực tế để gỡ bỏ.

Câu chuyện xảy ra giữa Xá Lợi Phất và Thiên nữ không có thật, vì lúc kiết tập kinh Duy Ma, làm gì có Xá Lợi Phất. Việc này để diễn tả sự phát huy trí tuệ, thấy được chân tinh thần bình đẳng mà Đức Phật đề ra. Từ giáo lý căn bản về bình đẳng qua lời Phật dạy “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, Phật giáo Đại thừa ứng dụng và triển khai thành tinh thần Tăng tục bình đẳng. Ý này nói lên trí tuệ không hạn cuộc riêng cho giới xuất gia và xa hơn, mạnh hơn nữa là tinh thần nam nữ bình đẳng, quyền năng không dành riêng cho đàn ông.

Chúng ta có thể nhận thấy rõ vào thời kỳ kiết tập kinh Duy Ma, xã hội đang phát triển mạnh cùng với tân Bà la môn giáo. Với bối cảnh như vậy, hàng tu sĩ trí thức muốn bảo vệ đạo pháp phải phá vỡ lớp cố chấp của tu sĩ bảo thủ sống đóng khuôn. Họ đưa ra hai nhân vật Duy Ma và Thiên nữ nằm ngoài Phật pháp. Hai người này lại hiểu và vận dụng Phật pháp tuyệt luân hơn so với đệ tử Phật. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, Đại chúng bộ kiết tập kinh điển, thành lập Tăng đoàn mới gồm có cả cư sĩ cũng được tham dự việc kiết tập.

Câu chuyện Thiên nữ có rải hoa và Thanh văn bị dính hoa hay không, chúng ta xem là hiện tượng thật cũng được, hay giả dụ cũng tốt. Điều chính là chúng ta cần suy nghĩ đến mục tiêu câu chuyện ngầm chỉ một pháp gì mà Đức Phật muốn truyền đạt, không phải nói cho vui.

Khi tu, Thanh văn và Bồ tát ở hai thái cực khác nhau. Thiên nữ ngầm nhắc trên bước đường hành đạo, chúng ta tưởng rằng mình giải thoát, nhưng lúc va chạm thực tế, mới thấy rõ tâm ta còn đầy phiền não tội lỗi.  Thanh văn được Phật ấn chứng là A la hán cứ đinh ninh họ ở quả vị này. Nhưng A la hán nghĩ mình là A la hán, thì không còn là A la hán nữa; vì A la hán thuộc vô sanh, mà khởi niệm thành vọng động, là đã rời vị trí A la hán, rớt qua sinh tử, không trụ trạng thái vô sanh được nữa. Sanh này do từ tâm sanh khởi.

Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ thần lực của Ngài thật bất tư nghì, sao Ngài không biến thành đàn ông. Thiên nữ giải thích rằng Bồ tát không kẹt trong tướng nữ và nam, đạt được Trung đạo đệ nhất nghĩa, tùy hoàn cảnh mà hiện thân tương ưng để hành đạo. Trong pháp hội này, Thiên nữ đóng vai nữ để thể hiện bất nhị pháp môn một cách tuyệt diệu, cần gì phải chuyển thành thân nam.

Vừa nói xong, Ngài biến Xá Lợi Phất thành Thiên nữ và Ngài tự hóa mình thành Xá Lợi Phất và hỏi lại rằng sao Xá Lợi Phất không chuyển thân nữ. Xá Lợi Phất trả lời không biết tại sao ông lại biến thành thân đàn bà. Điều này nhắc hành giả trên bước đường tu coi chừng lần rớt về tục đế mà không hay biết. Muốn đoạn thân tướng trên mặt hiện tượng, hành giả phải đoạn nghiệp. Xá Lợi Phất thành người nữ là vì Xá Lợi Phất có nhiều phân biệt. Từ phân biệt tạo thành nhiều nghiệp, sau cùng nghiệp biến đổi mình thành ra thân xấu tệ. Không phải một nhân vật nào bên ngoài có khả năng biến đổi ta.

Qua câu chuyện của Xá Lợi Phất, chúng ta thấy sinh trên cuộc đời, mỗi người đã có thân hình cố định. Hiện ra thân nữ hay thân nam không quan trọng. Vấn đề chính yếu là người nào tạo nên thân này. Thiên nữ ví dụ như một người thợ nặn tượng đàn bà. Chúng ta lại bảo họ sao không biến tượng thành đàn ông, như vậy quả thật ngớ ngẩn.

Xá Lợi Phất chưa làm chủ được tâm, nên còn bị tâm chi phối. Đây là sự khác biệt giữa Thanh văn và Bồ tát. Bồ tát trên nhân gian mang đủ các loại hình, tùy theo bổn nguyện mà hiện thân, hoặc tùy chúng sinh cần hình tướng nào, Ngài mang thân đó.

Chúng sinh không chủ động được việc thọ sanh của họ, mà thọ thân tùy theo nghiệp quyết định. Nghiệp đổi thì thân đổi. Nghiệp của chúng ta thế nào thì tạo ra hình tướng của chúng ta tương ưng như vậy. Đã tạo ra hình rồi, không có cách nào thay đổi được. Đổi hay không là do ông thợ nắn hình là nghiệp, chứ hình không tự đổi được. Hành giả tu Thiền phát hiện những độc tố tinh thần là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, v.v... để điều chỉnh. Chỉnh trong lòng xong, vật bên ngoài đương nhiên thay đổi.

Kết luận

Trên lộ trình bước theo dấu chân Phật, khởi đầu từ phát tâm tu Bồ tát đạo, hành giả phát triển tri thức và đạo đức. Tu như vậy liên tục từ đời này sang đời khác đến khi đầy đủ tâm đại bi và hạnh Bồ tát thì tiến đến Phật quả. Và từ quả vị viên mãn này, hành giả mang theo bản nguyện ban đầu là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Thệ nguyện này dẫn hành giả đi thọ sanh, nhưng không sanh, ví như anh thợ làm đồ giả. Hay nói cách khác, hành giả thành Vô thượng Chánh giác, có Báo thân viên mãn, nhưng không an trú Niết bàn, mà theo bản nguyện, hành giả hằng hữu trong mười phương giáo hóa chúng sinh. Đó là đại Niết bàn của chư Phật, chư đại Bồ tát bất tư nghì giải thoát.

HT Thích Trí Quảng