Ta là Gì - phần 2

alt
3. Vì trừ thành kiến chấp trước.

Đây là phá chấp tâm. Nghĩa là lâu nay chúng ta sống với những cái “THẤY BIẾT” MANG ĐẬM MỘT CÁI TA chen vào trong đó; bởi vậy hễ thấy biết gì là chấp chặt vào điều thấy biết đó, không chịu buông, dù là thấy biết sai lầm cũng cố bảo vệ nó tới cùng. Vì sao vậy? Vì sợ mất cái Ta! Song chân lý vốn không có riêng tư, không có ranh giới; nhưng khi bị cái Ta chen vào, nó liền chia chẻ chân lý thành mảnh mún, biến lẽ thật thành ra có đây kia, có lẽ thật của ta, có lẽ thật của anh, tạo thành sự cách biệt nhau. Chẳng hạn, tôi thấy ngọn núi nầy cao, người kia thấy là thấp, bởi vì trong đầu tôi ít thấy ngọn núi nào cao hơn ngọn núi này; trái lại, trong đầu người kia đã từng thấy nhiều ngọn núi cao hơn ngọn núi này xa. Song, núi vẫn là núi, nó không tự nói là cao, không tự nói là thấp. Rõ ràng là chúng ta lấy cái ta mà đo lường tất cả người, bắt người phải thấy theo ta. Có câu chuyện ngụ ý: Một tên tướng cướp có một cái giường đặc biệt, hễ bắt được ai, y đem đặt lên giường đó, nếu dài hơn thì lấy dao chặt bớt, nếu ngắn hơn thì cố kéo rút cho dài ra bằng cái giường này.

Đây là ngầm chỉ, người chỉ lấy cái Ta mà đo kẻ khác theo cái khuôn của mình, bắt kẻ khác phải theo cái Ta này, chính vì vậy mà luôn làm đau khổ cho nhau; vì mỗi người đều có nghiệp riêng đâu giống ta được. Hiểu rõ bằng trí tuệ chân thật, Ta chỉ là một khái niệm tưởng tượng; thấy biết do huân tập sai khác mà thành có hiểu sai khác, thì thông cảm cho nhau để tìm về chỗ chân thật không hai, đó mới là điều quý. Trong kinh Niết Bàn có kể câu chuyện: Một ông vua muốn thử những người mù, ông sai đem con voi đặt trước sân, gọi mấy người mù rờ xem rồi tả lại cho ông nghe hình dáng con voi thế nào? Người rờ trúng tai voi bảo: Con voi giống cái quạt. Người rờ trúng chân voi, bảo: Con voi giống cây cột. Người rờ trúng bụng bảo: Con voi giống cái lu. Người rờ trúng đuôi voi, bảo: Con voi giống cây chổi. Rồi cãi nhau mãi, ông vua chỉ cười thôi.

Như vậy, vì sao mà họ tranh cãi? Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn, dù mỗi người có chạm đến con voi thật sự, nhưng chỉ chạm một bộ phận, một góc cạnh, nên chỗ biết cũng hạn hẹp và có sai biệt, do đó thành tranh cãi nhau. Trong khi đó, nếu là ông vua thấy toàn thể con voi rõ ràng trước mắt thì sao? CHỈ CƯỜi THÔI! Nếu như ông vua cũng nhảy vào tranh cãi với những người mù ấy thì thế nào? Cũng mù theo luôn phải không? Bởi còn ham cãi là còn tâm hơn thua, còn mang nặng tình chấp ngã, sợ ta sai, ta kém! Trái lại, đã thấy suốt rồi, đâu còn sợ sai mà cãi? Như chuyện Hiệp Sơn và Định Sơn. Hai vị cùng đi đường bàn chuyện với nhau, Định Sơn nói:

- Trong sanh tử, không Phật tức phi sanh tử.

Hiệp Sơn nói:

- Trong sanh tử, có Phật tức chẳng mê sanh tử.

Hai người lên núi Đại Mai lễ Thiền Sư Pháp Thường, Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho Sư nghe và hỏi:

- Chưa biết chỗ thấy của hai người, ai được gần?

Sư bảo:

- Một gần một xa.

- Ai được gần?

- Hãy đi, sáng mai trở lại!

Sáng hôm sau, Hiệp Sơn lại đến hỏi Sư. Sư bảo:

- Người gần thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng gần.

Thấy đau chưa? Bởi cứ lo tới trước hỏi ai đúng. Là muốn mình hơn, sợ mình sai, cho nên không gần được đạo. Trái lại, người đạt lý rõ ràng không nghi thì nói ra tự tin chắc, lo gì phải hấp tấp đi hỏi đúng sai? Còn KẸT TRONG NIỆM ĐÚNG SAI như thế, quả tang là người CÒN ĐỨNG NGOÀI cửa rồi! Đây là một kinh nghiệm cho người còn ưa tranh cãi lý luận, còn nặng về tình đúng sai, cần nghiệm kỹ!

4. Vì trừ ngã mạn, kiêu căng, cống cao, ngạo nghễ.

Bởi xét tột lý: Cái gì là ngã mạn? Cái gì kiêu căng? Kiêu căng cho ai? Cho cái cục thịt 60, 70 ký lô này chăng? Cho cái khối mập ốm, đen trắng này ư? Nếu vậy, khi chết nó nằm cứng đơ hoặc bệnh nằm liệt giường thì còn gì để kiêu căng, ngã mạn? Do đó, học đạo mà mang nặng tâm này thì làm sao học đến chỗ chân thật? Chính vì vậy, mà trong nhà Thiền thường đánh phá, thử thách cho nó xẹp bớt, nhẹ bớt, mới dễ tiếp nhận lẽ thật. Lâm Tế ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị Hoàng Bá đánh, nếu lúc đó tự ái, nổi giận oán hờn thì có làm Tổ được chăng?

Huệ Nam ở Hoàng Long, lúc làm thơ ký từng lãnh đồ chúng, có tiếng tăm, khi đến trong Pháp hội Ngài Từ Minh, vào thất thưa hỏi chỉ bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn những người bên cạnh nói:

- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng đâu phải quy củ từ bi thí pháp!

Từ Minh cười bảo:

- Đó là mắng chửi sao?

Ngay câu này, Sư liền đại ngộ.

Vậy mắng chửi đó là mắng chửi cái gì? Đó là đập vào cái ta hiểu biết này, cái ta kiến giải này, cho nó hết chỗ nổi phồng lên, rồi khêu nhẹ mới liền sáng tỏ!

Lục Tổ mới đến Ngũ Tổ, Ngũ Tổ hỏi:

- Ngươi là người từ xứ nào đến? Đến đây lễ ta để cầu việc gì?

Sư đáp:

- Đệ tử từ Lãnh Nam đến lễ bái Hòa thượng chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác.

Ngũ Tổ bảo:

- Ông là người Lãnh Nam, là xứ mọi rợ, làm sao kham làm Phật?

Nếu Lục Tổ ngay đó tự ái bỏ ra về thì có làm Tổ được chăng? Hoặc chúng ta đang ngồi thiền yên lặng tâm thanh tịnh, chợt nhớ đến “hồi sáng anh ấy nói nặng ta!”, thì sao? Tức liền mê ngay! Đây là một lẽ thật sáng ngời, cần thấu rõ không thể hời hợt bỏ qua!

5. Nhằm đưa người vươn lên, chuyển hóa.

Chính tinh thần vô ngã giúp chúng ta thấy rõ, chúng sanh không có cái ngã chúng sanh cố định, Phật cũng không có cái ngã Phật cố định, phiền não sanh tử cũng không có cái ngã phiền não chúng sanh cố định, Bồ Đề Niết Bàn cũng không có cái ngã Bồ Đề Niết Bàn cố định. Do đó mới có chuyển hóa chúng sanh thành Phật, chuyển phiền não thành Bồ Đề; nếu chúng sanh đã cố định rồi, Phật đã cố định rồi thì còn mong gì chuyển thành Phật được! Tiệm Nguyên với Ngài Đạo Ngô đến nhà Đàn Việt điếu tang, Tiệm Nguyên liền vỗ vào quan tài nói:

- Sanh ư? Tử ư?

Đạo Ngô bảo:

- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.

Tiệm Nguyên hỏi:

- Vì sao chẳng nói?

Đạo Ngô bảo:

- Chẳng nói, chẳng nói.

Hai thầy trò về giữa đường, Tiệm Nguyên hướng về Đạo Ngô nói:

- Thầy hãy vì con nói, nếu không nói con đánh thầy.

Đạo Ngô bảo:

- Đánh thì cứ đánh, còn nói thì không nói.

Tiệm Nguyên liền đánh.

Đạo Ngô bảo:

- Ông hãy tìm nơi khác, nếu Tri Sự biết được e khó cho ông.

Tiệm Nguyên bèn bỏ đi, đến ngôi chùa nhỏ dưới núi, một hôm nghe người tụng Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa đến đoạn: “Nên dùng thân tỳ kheo được độ, liền hiện thân tỳ kheo mà vì nói pháp…” Sư liền tỏ ngộ.

Tiệm Nguyên thắc mắc hỏi: Sanh ư! Tử ư? Nếu thật cố định là sanh, là tử, sao Đạo Ngô không nói xác định đi? Bảo “Chẳng nói, chẳng nói” là có đáp chưa? Nếu Tiệm Nguyên nhanh mắt, ngay đó liền rõ sanh tử không thể nói, ngay sanh tức vô sanh thì hay biết mấy, đâu phải nhọc nhằn đến nơi khác! Khi nghe đến Phẩm Phổ Môn liền ngộ, là ngộ cái gì? Bồ Tát Quán Thế Âm có 32 ứng thân, vậy thân nào là thân thật của Bồ Tát? Thân đó hiện, thân đó mất, Ngài có thật mất chăng? Vậy có gì là cố định thật?

Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã có đoạn Phật dạy: “TẤT CẢ CHÚNG SANH XƯA NAY THANH TỊNH. GIẢ SỬ KHIẾN CHO CHƯ PHẬT Ở TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP XƯỚNG NÓI: “CHÚNG SANH CHÚNG SANH”, MÀ KHÔNG QUYẾT ĐỊNH THẬT CÓ CHÚNG SANH CÓ THỂ ĐƯỢC!” Cho thấy, dù Phật có nói tên chúng sanh, nhưng không phải do nói đến tên đó mà thành chúng sanh thật. Nên nói: “Mê là chúng sanh, giác tức Phật”, cả hai đều là tên, thể đó vốn không hai, không phải có một cái thể Phật riêng. Vậy nói chúng sanh nhưng đâu phải là chúng sanh mãi! Mê đâu phải mê mãi! Mê vĩnh viễn! Nếu thế thì hết tu hành, vì dù có tu cũng không đổi được. Sự thật, nếu người khéo quán chiếu trở lại nguồn tâm, mở sáng mắt trí tuệ thì hết mê. Hết mê tức là giác. Đã giác thì hết tên chúng sanh, mà chuyển thành tên Thánh, tên Phật! Đó là một con đường vươn lên, một sức mạnh để tu hành chuyển hóa: Trừ tâm niệm mặc cảm mình làm chúng sanh ngu si mãi! Mình nghiệp chướng sâu dày hết còn mong gì tu hành nữa! Đây là ý niệm nguy hiểm, khiến người thoái hóa, chôn vùi mình mãi mãi trong tội lỗi. Vì vậy, vô ngã là một diệu lý sâu xa, không dễ gì LÝ LUẬN QUA LOA mà hiểu hết, chỉ phải THỰC SỰ SỐNG TRONG ĐÓ mới tự cảm nhận không thể nghĩ bàn. Nếu chỉ hiểu vô ngã là không có ta thật, có gì dính dáng? Cho nên vô ngã, cuối cùng đưa đến vô sở đắc, sạch hết mọi chỗ được, mọi kiến giải đã có.

Thiền sư Linh Huấn ở với Ngài Quy Tông một thời gian, khi từ giã đi, Quy Tông hỏi:

- Ông đi đâu?

Sư thưa:

- Con về Lãnh Trung.

Quy Tông bảo:

- Ông ở đây nhiều năm, sửa sang hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột.

Sửa sang hành lý xong, Sư đến trước Quy Tông, Quy Tông bảo:

- Lại gần đây!

Sư đến gần, Quy Tông bảo:

- Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!

Sư nghe lời này, liền quên chỗ hiểu trước.

Vậy Phật pháp cao tột ở chỗ nào? Chúng ta nghe nói Phật pháp cao tột, liền tưởng là một câu gì đó khác thường, một đạo lý thật cao siêu, không ngờ chỉ một câu nói bình thường, giản dị, tâm mong muốn để hiểu liền dứt! Nên nói: “QUÊN CHỖ HIỂU TRƯỚC”. Đây là chỗ người học thiền chân thật không thể hời hợt bỏ qua! Còn thấy TA NGỘ, TA ĐƯỢC là còn phải xét lại!

IV. CUỐI CÙNG CÓ TA HAY KHÔNG?

Nói không ngã, sạch hết mọi chỗ chấp, chỗ bám, chỗ đắc, vậy cuối cùng thế nào? Không còn gì hết sao? Đây là chỗ nhiều người học đạo thắc mắc, nghi ngờ.

Như trước đã nói, không ngã là không cái NGà TƯỞNG, không cái giả ngã, tức lầm cái giả cho là thật, không phải ta mà nhận bướng cho là ta, để thành tạo nghiệp chịu khổ. Song người đạt vô ngã, thì trong đó “CÁI GÌ BIẾT RÕ VÔ NGÔ mà chỉ dạy lại cho mọi người còn mê? Nếu hoàn toàn không có cái thật, vậy gọi lầm là lầm cái gì? Không phải thật ta mà lầm cho là thật ta, mới gọi là lầm! Do đó, khi mọi Ý NIỆM SAI LẦM về Ta đã sạch thì chân ngã hiện bày! Cho nên, phá là PHÁ CÁI Ý NIỆM, cái tưởng về ta, chứ không phải có cái ta thật bị phá. Nếu thấy thật có cái ta bị phá, thành ra có CÁI TA THỨ HAI để phá nó rồi! Rốt cuộc vẫn lẩn quẩn chưa rời bóng dáng cái Ta.

Có vị tăng hỏi Thiền Sư Bổn Tịch ở Tào Sơn:

- Thế nào là kiếm không mũi?

Sư đáp:
- Chẳng do rèn luyện mà thành.
- Dụng của nó thế nào?
- Người gặp đều chết.
- Người chẳng gặp thì sao?
- Cũng phải rơi đầu.
- Người gặp đều chết là lẽ cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lại rơi đầu?
- Ông chẳng thấy nói “hay sạch tất cả” sao?
- Sau khi sạch hết thì thế nào?
- Mới biết có cây kiếm này.

Thường thì kiếm phải có cán, có mũi, đây hỏi kiếm không mũi là sao? Muốn chỉ cái gì? Tức không phải hỏi cây kiếm của thế gian rồi, mà muốn chỉ kiếm vô tướng nơi mình. Kiếm đó, đâu phải do tạo tác mà thành, vì có tạo tác là thuộc sanh diệt rồi. Nên Sư đáp: “CHẲNG DO RÈN LUYỆN MÀ THÀNH”. Tuy nó không tướng, không do tạo tác thành, nhưng dụng của nó thì ghê hồn, không thể nghĩ bàn, không một bóng dáng gì còn lại với nó được. Nên “GẶP, CHẲNG GẶP” đều chết, nghĩa là dứt bặt cả hai bên đối đãi, không chỗ cho tình thức hiểu biết, phân biệt đến được. Khi sạch hết mọi tình chấp phân biệt rồi, không phải không còn gì hết, mà ngay đó liền rõ có cây kiếm này! Tức là sạch hết tình chấp phân biệt hai bên có mang cái ngã trong đó, thì chân thật hiện tiền sờ sờ ngay đó, thật tướng Bát Nhã lồ lộ rõ ràng. Nhưng vì phải vượt qua ý niệm đối đãi mới cảm nhận được, nên các Ngài không thể nói cho người còn đem tình phân biệt để hiểu! Do đó hỏi đến chỗ này, các Ngài thường im lặng, hoặc hét, khiến người hết tưởng tượng. Song cái này ở đâu mà khó nói như vậy? Sự thật không ở đâu cả, mà ở ngay chính mình, trong chỗ chúng ta sống hằng ngày đây thôi, chỉ tự chúng ta chẳng chịu nhận mà đành lang thang tìm kiếm!

Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã dạy rõ ràng: “Ở TRONG ÁNH SÁNG NÀY, GIƠ TAY MÚA CHÂN NHƯ SỐ CÁT SÔNG HẰNG, ĐẾN KHI HỎi TỚi THÌ AI NẤY THẢY NÓI CHẲNG ĐƯỢC, GIỐNG HỆT NGƯỜi GỖ. HOÀN TOÀN LÀ CHÍNH MÌNH THỌ DỤNG, NHÂN ĐÂU CHẲNG BIẾT?”

Chính ngay chỗ chúng ta giơ tay múa chân, đi qua, đi lại hằng ngày đây, nếu không có ánh sáng kia thì cái gì khiến ra như thế? Ai chen vào đây để làm những việc đó? Không ai chen vào hết, thì chính mình thọ dụng tất cả đó, tại sao hỏi đến lại mờ mịt không biết? Giả sử là người bị tâm thần, mất sáng suốt thì không biết cũng được đi, trái lại chúng ta vẫn đang sáng suốt rõ ràng đây, sao hỏi đến lại không biết? Có đau chăng? Chính đó Phật, Tổ gọi chúng ta là mê, là tự cô phụ chính mình là chỗ này!

Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục có bài kệ tóm kết về bài NÓI RỘNG SẮC THÂN là:

Vô vị chân nhân xích nhục đoàn
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man.
Thùy tri vân quyện trường không tịnh
Thúy lộ thiên biên nhất dạng san.
Tạm dịch:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng, trắng trắng chớ lầm nhau.
Ai biết, mây tan trời trong vắt,
Ven trời sương biếc núi một màu.

Tức ngay nơi sắc thân này, ngay cái thân máu thịt đỏ au này, có con người chân thật không địa vị, ngôi thứ, ngồi sẵn trong đó. Tại sao chúng ta không sống với con người chân thật đó, mà nhận cái ta vô thường sanh diệt này để chịu khổ? Tuy nhiên, cũng chớ vội vàng hấp tấp nhận lầm cái tướng hồng hồng, trắng trắng của da thịt kia cho là “CON NGƯỜI CHÂN THẬT” thì nguy! Cái tướng trắng trắng, hồng hồng của mấy cục thịt đó không lâu cũng thúi sình, trả về cát bụi thôi. Nếu khéo tu hành quán chiếu, mây mờ vô minh tan hết, thìcả một trời tâm trong vắt vô tận, trước mắt hiện bày một thể như như, còn gì che đậy được nữa? TƯỚNG HỒNG HỒNG, TRẮNG TRẮNG KIA LÀM SAO NHỐT ĐƯỢC, NGĂN ĐƯỢC THỂ THÊNH THANG NÀY?

V. TÓM KẾT

Tóm lại TA LÀ GÌ? Ta chỉ là một khái niệm, là cái tưởng tượng thôi, vốn không có thật thể, nên chỉ gọi là ngã tưởng. Do đó, người tu hành chân chánh mà còn mang nặng tình chấp ngã thì khó tiến đạo! Quên ngã thì không cầu tiến, vẫn tiến! Khi chúng ta hết làm thì mắt sáng ngời, rõ ra xưa nay chưa từng thiếu vắng bao giờ, còn phải chạy tìm ở đâu?

Có vị tăng hỏi thiền sư Duy Khoan:

- Đạo ở đâu?

Sư đáp:

- Ở ngay trước mắt.

Vị ấy hỏi thêm:

- Sao con không thấy?

Sư bảo:

- Vì ông có ngã.

Tăng hỏi lại:

- Con có ngã nên con không thấy, vậy Hòa thượng thì sao?

Sư bảo:

- Có ông, có ta rồi cũng chẳng thấy.

Tăng hỏi tiếp:

- Không con, không Hòa thượng thì sao?

Sư đáp:

- Không ông, không ta còn ai cầu thấy!

Rõ ràng đạo ngay đây thôi, chỉ quên cái tình chấp ngã này, bặt cái niệm ta người thì hiện tiền sáng rỡ chưa từng mất đi đâu! Còn muốn cầu thấy, chính là chưa thấy. Nhất là còn cố ôm cái ta này mãi, mà muốn thấy đạo, hoặc cho là mình thấy đạo, hẳn còn xa lắm!

Có kệ:

Ta có, phiền não có.
Ta không, phiền não không.
Có không hai đều dứt.
Chánh định mặc thong dong.

Người tu hành tiến hay không, hãy xem kỹ lại điểm này! Và đây kết thúc bằng đoạn nhân duyên này:

Tam Tạng Đại Nhĩ từ Thiên Trúc đến Trung Hoa, tự nói đã được tha tâm thông. Vua Đường mời Quốc sư Huệ Trung thử xem thật giả. Quốc sư hỏi Tam Tạng:

- Nghe nói ông được tha tâm thông phải chăng?

Tam Tạng thưa:

- Chẳng dám.

Quốc sư liền khởi ý đến bến đò Tây Xuyên, hỏi Tam Tạng:

- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?

Tam Tạng đáp:

- Hòa thượng là thầy một nước, sao lại đến bến đò Tây Xuyên xem đò đua?

Sư lại khởi ý đến cầu Thiên Tân, hỏi Tam Tạng:

- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng ở đâu?

Tam Tạng đáp:

- Hòa Thượng là thầy một nước, sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn?

Sư liền hỏi Tam Tạng:

- Ông hãy nói, hiện giờ lão tăng ở đâu?

Tam Tạng lặng thinh không biết chỗ đi. Sư nạt:

- Cáo tinh! Tha tâm thông ở chỗ nào?

Tại sao hai lần trước, Tam Tạng thấy được, đáp trúng? Đến lần thứ ba, vì sao Tam Tạng mờ mịt không biết? Ngay lúc đó Quốc sư ở đâu? Có phải ĐANG ĐỐI DIỆN HIỆN TIỀN, mà Tam Tạng lại lầm qua, đành bị quở! Bởi Tam Tạng chỉ lo ĐUỔI THEO CÁI BÓNG của Quốc sư, đến khi Quốc sư đối trước lại mê! Mọi người cần thấy CHỖ TAM TẠNG KHÔNG THỂ THẤY QUỐC SƯ đó, liền rõ “TA LÀ GÌ?”


Thượng Tọa Thích Thông Phương