Triết lý đạo Phật hay là Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm - phần 3


http://www.trungvuong.us/gallery/albums/album36/Hoa_sen_4.sized.jpg



Bài Thứ Năm

I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình, 
thì tâm này là ai? 
II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng. 
III.- Cái thấy tức tất cả các pháp. 
IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng. 
V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi. 
VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi thị". 
VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo. 
VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có". 
IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh. 
X.- Phật bác cái chấp: "nhơn duyên sanh". 
XI.- Phật day: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn được 
XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh". 
XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rõ chơn tâm. 
XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa phải là chơn tâm. 
XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.


I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI "THẤY" LÀ MÌNH THÌ THÂN TÂM NÀY LÀ AI?

A-Nan thưa Phật: -Bạch thế tôn! Nếu cái "thấy" này thật là "tâm" con, thì thân tâm của con hiện nay đây là ai? Và nếu cái "thấy" thật là của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho con thấy được nó. 

Lại nữa, thân tâm của con hiện nay đây, biết phân biệt được nó ( cái thấy ) , còn nó không biết phân biệt được thân tâm con. Xin đức Thế Tôn mở lòng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này. 

II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ HÌNH TƯỚNG

Phật dạy A-Nan: Ông nói"cái thấy phải ở trước mặt để ông thấy nó", nói như vậy không phải, vì nếu cái "thấy" thật ở trước mặt ông, ông thấy được nó, thì cái "thấy" đó ở chỗ nào phải có nhất định và phải chỉ ra được . 

Nay ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọlà mặt nhựt, nơi ngăn ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có hình tướng, có thể chỉ ra được cả. Còn cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, thì ông nên lấy tay chỉ chắc chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là cái "thấy" thì cái gì là hư không? Còn nếu cảnh vật là cái "thấy", thì cái gì là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn tượng, ông nên chín chắn phân tích rõ ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái "thấy"cũng như chỉ các vật, không có lầm lộn. 

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con mở tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, thì đều là "vật" chớ không có cái nào là cái "thấy". Dù cho bực Bồ tát cũng không thể phân tích ở nơi muôn vật để chỉ riêng cái "thấy" ra được; huống chi chúng con là bậc sơ học thinh văn, làm sao chỉ được . 
Phật dạy: Phải lắm! 

LƯỢC GIẢI 

Tâm không phải cái hình tướng, cũng như vàng không phải là vòng, kiềng, xoa, xuyến v.v ... 

III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ PHÁP

Phật dạy rằng: Này A-Nan ! Như lời ông nói: "trong các cảnh vật, không thể chỉ riêng cái "thấy" ra được "; vậy nay ông đứng trước cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái "thấy"? 

A-Nan thưa: Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải cái "thấy", thì làm sao thấy được rừng cây. Còn rừng cây là cái "thấy", thì sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải là cái "thấy", thì làm sao thấy được hư không . Còn nếu hư không tức là cái "thấy", thì sao lại gọi là hư không. Con chín chắn suy nghĩ: cái nào cũng là cái "thấy" cả.

Phật dạy: phải lắm! 

Khi đó đại chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang mang lo sợ, vì không biết nghĩa ấy thế nào. 

LƯỢC GIẢI

Tâm đã sanh ra các pháp, thì pháp nào cũng là tâm cả: 
Cũng như vàng đã làm ra các đồ trang sức thì món nào cũng là vàng cả. 

*  *  *

IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG

Phật thấy A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hãi, nên sanh tâm thương xót, liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng: 

-  Như-Lai nói chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại đạo Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên bình tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm lòng thương xót. 

V.- NGÀI VĂN THÙ ĐỨNG LÊN THƯA HỎI

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy lạy Phật , cung kính chắp tay và thưa rằng: 

- Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng đây chưa hiểu cái nghĩa: các cảnh vật là cái "thấy" hay không phải cái "thấy"? 

Bạch Thế Tôn !Các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái "thấy", thì phải chỉ ra được; còn nếu không phải cái "thấy", thì đáng lẽ không thể thấy được. Vì trong đại chúng không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hãi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai duỗi lòng từ bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái "thấy" này, nguyên là gì? Trong đây không có cái "phải" và cái "không phải". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này lý thâm, nên ngài Văn -Thù mới đứng lên thưa hỏi: người học phải suy xét nhiều mới hiểu được. 

Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh thần đồng một thể tánh chơn tâm. Vì chơn tâm thì không thể suy nghĩ và bàn luận được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nguyên nó là cái gì?" (vì không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đãi thị phi, nên nói "trong đó không có cái phải và cái không phải". 

*  *  *

VI.- PHẬP DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ "PHẢI" HAY "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)

Phật kêu ngài Văn -Thù và Đại chúng, dạy rằng: 

- Mười phương các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong chơn tâm rồi, thời không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa. “Cái thấy” cùng với cảnh vật “bị thấy”, nguyên là "chơn tâm". Đã là chơn tâm, thì đâu còn có "phải" hay "không phải" nữa. Như ông là Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay "không thật" Văn Thù được không? 

Văn -Thù thưa: -Bạch Thế Tôn ! chính như thế đó, con là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật Văn -Thù" được; vì nếu nói "thật Văn -Thù", thì phải nói ông Văn -Thù giả (thứ hai). Song con nay đã là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật" hay "không thật" được. 

LƯỢC GIẢI 

Chơn tâm không hai, nên không còn thị và phi đối đãi; không thể nói "quấy" đã đành, mà nói "phải" cũng không trúng. Bởi vì nó ngoài vòng đối đãi, cũng như ông Văn -Thù là Văn -Thù, không thể nói:"thật" hay "không thật" được . 

Phật dạy: cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể tánh chơn tâm, vì vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có gì mà nói "phải" hay "không phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh (chơn tâm) trong đó không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải" mặt trăng. 

Nay ông thấy có cái "thấy" và "cảnh vật bị thấy" đó là vọng tưởng; còn đối với thể tánh chơn tâm, thì không còn nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi "chỉ bày" và "không chỉ bày" của ông rồi. 

LƯỢC GIẢI 

Suy nghĩ không tới, nói năng không nhằm. Đại ý đoạn này nói: chỉ có một chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự đối đãi và nói năng phân biệt.

Vì vọng động mà sanh ra có vật chất (cảnh) và tinh thần (tâm). Cũng như chỉ có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không phải mặt trăng; vì lòa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai. 

* * *

VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỔNG VỚI THUYẾT "TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐAO. 

A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! Ngày trước Phật ở tại núi Lăng Già, có dạy cho ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "Các chúng ngoài đạo kia thường chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", còn ta thời nói "Các pháp do nhơn duyên sanh", nên không đồng với thuyết của các ngoại đạo kia". 

Hôm nay nghe lời Phật dạy, thì con hiểu cái "chơn tâm" này in như tự nhiên mà có; chớ không phải "nhơn duyên sanh", vì nó rời tất cả các vọng tưởng điên đảo, không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này, mà không lạc vào thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.

LƯỢC GIẢI 

Cái chơn tâm này, nó tuyệt đối đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn chấp có, không , thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...đều không trúng cả. Song chúng sanh vì cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ, lột hết bẹ này, thì nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác xong thị và phi, thì ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên v.v... Than ôi! Lưới mê nhiều đời chồng chập, thật khó trong một lúc vẫy vùng ra khỏi! 

VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ NHIÊN MÀ CÓ" 

Phật dạy rằng: Ta đã dùng nhiều phương tiện và thành thật chỉ dạy cho tường tất như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê muội chấp là tự nhiên nữa. 

A-Nan nếu thật tự nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái "thấy" này, lấy gì làm cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái "sáng" làm tự nhiên hay lấy cái "tối"làm tự nhiên? Lấy cái "trống không " làm tự nhiên hay lấy cái "ngăn bít" v.v...làm tự nhiên? 

A-Nan, nếu lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể của nó như vậy, thì khi tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái "tối" v.v...làm thể tự nhiên của nó, thì khi sáng đến, cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...

IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN DUYÊN SANH"

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái thấy này nếu không phải tự nhiên mà có, thì chắc do nhơn duyên sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? Xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy. 

X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN SANH" 

Phật bác rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay ta hỏi ông: Cái thấy này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái tối mà có? Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít v.v...mà có? 

A-Nan, nếu nhơn duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông phải không thấy được cái tối; còn nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít v.v...cũng vậy.

XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN ĐƯỢC. 

Phật dạy: A-Nan! Ông phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải "nhơn", không phải "duyên", không phải "tự nhiên", và cũng không phải "không tự nhiên", không cái "phi", không cái "bất phi", không cái "thị", không cái "phi thị", nó rời tất cả tướng, mà chính là tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới, dùng lời nói luận bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, ly danh tự tướng). 

Nếu ông để tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, thì cũng như người quơ tay chụp bắt hư không; chỉ thêm mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp bắt hư không cho được. 

LƯỢC GIẢI 

Đến chỗ cao siêu tuyệt diệu, thì không còn suy nghĩ, luận bàn được; nếu còn suy nghĩ luận bàn được thì không phải là cao siêu tuyệt diệu. 

Bởi thế nên Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông Duy-Ma-Cật ngậm miệng tại thành Tỳ-Da, tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm day mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều vì cái lý cao siêu, không thể luận bàn được. 

*  *  *

XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN DUYÊN SANH"

A-Nan thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu không phải "nhơn" không phải "duyên", tại sao đức Thế Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: "Cái thấy phải đủ bốn duyên mới sanh"; như nhơn hư không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào? 

Phật dạy rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng về phần sự tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ không phải chỉ cho lý tánh tuyệt đối (bản thể) vậy. 

LƯỢC GIẢI 

Về phương diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần hiện tượng) nói về "thức", thì Phật nói có căn, trần, thức và nhơn duyên v.v...Còn đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) thì không còn danh tướng, nói năng kêu gọi hay suy nghĩ được.

Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu không thể suy nghĩ và luận bàn được". Kinh này là nói về phần lý tánh tuyệt đối. 

*  *  *

XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY" ĐỄ CHỈ  RÕ CHƠN TÂM

Phật hỏi: Này A-Nan! Bây giờ ta hỏi ông: người đời thường nói "tôi thấy". Vậy thế nào là "thấy" và thế nào là không "thấy"? 

A-Nan thưa: Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái vật, thì gọi là "thấy"; còn không có ánh sáng, chẳng thấy các vật, thì bảo rằng "không thấy" 

Phật dạy: Nếu không có ánh sáng mà bảo là không thấy, thì khi tối đến đáng lẽ ông cũng không thấy được cái "tối"? Còn như ông thấy được cái "tối", thì khi đó chẳng qua không có ánh sáng mà thôi, chớ sao lại nói "không thấy"? 

Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái "sáng", mà ông cho cho là thấy, thì khi sáng ông không thấy được cái "tối", đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy mới phải. Như vậy,thời "tối" vá "sáng" cả hai đều phải bảo là "không thấy" hết. 

Bởi thế, ông nên biết: "tối" và "sáng" hai món trần tướng nó tự thay đổi với nhau, còn cái "thấy" của ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy "tối" và "sáng" đều gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói "không thấy"? 

XIV.- PHẬT CHỈ CÁI THẤY KHÔNG PHẢI VỌNG, SONG CHƯA PHẢI LÀ CHƠN TÂM   

(Đoạn này nguyên ở trước, nay dịch giả đem lại đây cho thuận nghĩa). 

Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy" của ông đó, không phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó cũng như mặt trăng thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh. 

LƯỢC GIẢI 

Mặt trăng chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy, nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là dụ cho vọng tưởng phân biệt. 

Đại ý đọan này nói cái "thấy" không phải vọng tâm, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nghãi là nó gần với chơn tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng thứ hai do lòa con mắt mà có; nó không phải bóng mặt trăng dưới nước,nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh. 

*  *  *

Phật dạy: A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, thì cái "thấy" của ông không phải là cái "sáng"; khi ông thấy tối, cái "thấy" của ông không phả là cái "tối"; khi ông thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái "trống không"; khi ông thấy ngăn bít cái "thấy" của ông không phải là cái "ngăn bít". 

LƯỢC GIẢI 

Nói cái "thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái "nghe, hay, biết". Nói "sáng, tối, trống, bít" là chỉ chung cho các cảnh vật.

Đại ý bài này nói: Khi thấy các cảnh vật, thì cái "thấy" không phải là cảnh vật. 

*  * *

XV.-PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU. 

Phật dạy:- Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi; ông nên hiểu thêm lên một từng nữa: Khi "chơn tâm đã khởi ra cái "thấy" (cái giác quan ), thì cái "thấy" không phải là "chơn tâm"; cái "thấy" còn cách biệt với chơn tâm, (vì còn một lớp mê), cái "thấy" không thể bì kịp với "Chơn tâm "" (đoạn này Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm) 

LƯỢC GIẢI 

Mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm) khởi ra hiện tượng ( các giác quan) thì hiện tượng không phải là bản thể, hiện tượng còn cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể bì kịp bản thể. Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng không phải hoàn toàn là nước, sóng còn xa biệt với nước ( vì bị gió xao động), sóng không thể bì kịp nước. 

Đành rằng "tâm" cùng với cái "thấy" v.v...không hai, nhưng vì mê nên tâm biến ra các giác quan thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy, nghe, hay, biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi thì cái thấy nghe hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa ngộ thì không thể nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm được. 

Cũng như nước với sóng không khác, nhưng vì gió động nên nước biến thành sóng; lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nước cách biệt với sóng. Đến khi hết gió xao động thì sóng trở lại thành nước. Nhưng khi còn động thì không thể nói sóng đó là nước.

-  Như thế thời ông làm sao lại nói là "nhơn duyên, tự nhiên, hòa hợp, và phi hòa hợp"được . các ông là hàng Thinh văn, trí thức hẹp hòi, không thông hiểu được thật tướng (chơn tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ và cố gắng tiến lên tu hành, chớ nên giải đãi trên con đường bồ đề. 


Bài Thứ Sáu

I.-A-nan không hiểu hỏi Phật 
II.- Phật chỉ hai món vọng thấy 
III.- Dụ về nghệp chung của cá nhơn . 
IV.- Dụ về nghiệp chung của đồng loại 
V.- Lấy nghiệp riêng để chỉ rõ nghiệp chung 
VI.- Phật chỉ các pháp đều về chơn tâm 
VIII.-A-nan ngi cái nghĩa bốn đại hòa hiệp sanh 
IX.- Phật quở A-nan học nhiều mà nhiều mà không hiểu 
X.- Phật nói cái tánh của bốn đại phi hòa-hiệp 
XI.- Đất từ chơn tâm biến hiện 
XII.- Lửa từ chơn tâm biến hiện 
XIII.- Nước từ chơn tâm biến hiện 
XIV.- Gió từ chơn tâm biến hiện 

I.-A-NAN KHÔNG HIỂU HỎI PHẬT 

A-Nan thưa Phật:- Bạch Thế Tôn,vừa rồi Phật nói cái nghĩa "nhơn duyên, tự nhiên hòa hiệp và bất hòa hiệp ", chúng con còn chưa hiểu, nay lại nghe Phật nó đến nghĩa " tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm ..." chúng con lại còn thêm mù mịt nữa. Cúi xin đức Như lai duỗi lòng từ bi, chỉ dạy cho chúng con ngộ được chơn tâm thanh tịnh, sáng suốt này. 

II.- PHẬT CHỈ HAI MÓN VỌNG THẤY 

Phật dạy: -A-Nan ông phải chín chắn nghe, ta sẽ vì các ông phân biệt chỉ dạy, cũng khiến cho chúng sanh đời sau ngộ được đạo quả Bồ đề.

Này A-Nan , tất cả chúng sanh bị sanh tử luân hồi trong thế gian, đều do hai món điên đảo phân biệt vọng thấy, tức nơi đó phát sanh ra nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ luân hồi. 

LƯỢC GIẢI 

Từ nơ tâm vọng động sanh ra các nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ hay vui. Cũng như người, từ mê mà sanh ra ngủ, từ nơi ngủ đó mà hiện ra các cảnh vật vui, buồn rồi chịu lấy buồn vui. 

* * *

-Thế nào là hai món? -1- Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhơn. 2. - Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp chung của nhơn loại.

III.- DỤ VỀ NGHỆP CHUNG CỦA CÁ NHƠN .

- A-Nan, sao gọi là cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhơn?

- Dụ như người nhặm con mắt, ban đêm dòm đèn thấy có vòng tròn lòa đỏ năm màu (ngũ uẩn). 

Ý ông ghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu ấy, của đèn hay của cái thấy? 

A-Nan, nếu ông nói "của đèn" thì sao những người không nhặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người nhặm mắt mới thấy thôi? 

Nếu nói "cái vầng đỏ đó của cái thấy, thì cái thấy đã thành vầng đỏ; vậy người nhặm con mắt thấy vầng đỏ, thì bảo là thấy cái gì? (vì cái thấy đã thành vầng đỏ rồi, thì không thể nói thấy vầng đỏ nữa được)

Lại nữa nếu ông chấp "cái vầng đỏ rời đèn mà riêng có ", thời đáng lẽ ông xem bàn ghế chung quanh đều có vầng đỏ cả. Còn nói "vầng đỏ rời cái thấy mà riêng có", thì không cần con mắt thấy. Vậy thì tại sao người nhặm mắt thấy có vầng đỏ? 

Thế nên phải biết: cái mà sáng là ở nơi đèn, cái thấy vì bệnh mắt mà có bóng lòa. Cái "bóng lòa " và cái "thấy lòa"đều do nơi mắt nhặm. Còn cái thấy được lòa nhặm, thì "cái thấy" đó không phải nhặm.

Nên không thể nói: -  Cái vầng đỏ này là “đèn” hay “thấy” và “không phải đèn” hay “không phải thấy”, mà chính do mắt nhặm hiện ra.

LƯỢC GIẢI 

Đại ý đoạn này Phật nói: Vì vô minh vọng động ( nhặm) mà thấy có cái cảnh vật hiện ra như vậy (lòa đỏ). Chớ không phải do chơn lý (dụ đèn) hay chơn trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ngoài chơn lý hay chơn trí. 

*  *  *

IV.-DỤ VỀ NGHIỆP CHUNG CỦA ĐỔNG LOẠI 

- A-Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng thấy của đồng loại? - Dụ như trong thế giới này có nhiều nước. Nhưng chỉ có một nước vì dân chúng đồng tạo ác nghiệp, nên đều cảm thấy có các điềm không tốt, như sao chổi, sao phướn, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng v.v...Còn dân chúng ở các nước khác thời đều không thấy và cũng không nghe. 

V.- LẤY NGHIỆP RIÊNG ĐỂ CHỈ RÕ NGHIỆP CHUNG 

-  Này A-Nan , như người nhặm con mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên "vọng thấy"cái đèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt nhặm mới thành ra lòa, chớ "cái thấy" đó không lòa. 

So sánh như các ông ngày hôm nay, thấy có núi, sông, thế giới và chúng sanh đó, đều do cái “nhặm lòa từ vô thỉ"( vô minh vọng động từ vô thỉ) cho nên mới thấy cảnh vật hiện ra như vậy. 

Các ông nên biết:"mắt thấy" (kiến) với cảnh vật bị thấy ( kiến duyên) hiện tiền đây, đều do cái "vọng thấy" (giác minh) hiện ra. Cái "vọng thấy" đó ( giác kiến) nó lòa nhặm, chớ cái chơn tâm không lòa nhặm.

Cái chơn tâm biết được cái lòa nhặm đó ( giác sở giác sảnh) nó không phải ở trong lòa nhặm (giác phi sảnh trung).

Như thế thời làm sao bảo cái chơn tâm đó là các cảm giác thấy, nghe, hay biết được ư? Đây chính là cái nghĩa:"tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm v.v...ông mới vừa hỏi trước". 

Thế nên, nay ông thấy "tôi", thấy "ông" cùng thấy "thế giới" và "chúng sanh ", đều do ông lòa nhặm (vô minh vọng động) mà thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó nó lòa nhặm, cho nên không thể bảo nó ( chơn tâm) là "cái thấy". 

LƯỢC GIẢI 

Đại ý đọan này nói: từ nơi chơn tâm, vì vô minh vọng động, nên khởi ra có căn và cảnh (cái thấy và cái bị thấy). Vì các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô minh vọng động hiện ra cả. Còn "chơn tâm" vì không phải là vô minh , nên không thể gọi nó ( chơn tâm) là cái cảm giác: nghe, thấy, hay, biết được . 

Đây là giải lại cái nghĩa ở đọan trước nói: "chơn tâm sanh ra cái thấy v.v. ( kiến kiến chi thời) cái thấy v.v...không phải là chơn tâm ( kiến phi thị kiến). Cái thấy nó còn xa cách chơn tâm v.v.v.." 

Nên nhớ lỗi tại "vô minh vọng động", chớ không phải lỗi tại cái "thấy" và "cảnh bị thấy". Cũng như tại nhặm chớ không phải lỗi tại " cái thấy" của con mắt và" bóng lòa ".

* * *

VI.-PHẬT KẾT THÚC LẠI 

A-Nan , một người nhặm mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên họ thấy có cái vầng đỏ; cũng như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung tạo của họ, nên đồng thấy những điềm không lành hiện ra. 

Lên một tầng nữa, là toàn cả chúng sanh trong mười phương thế giới ngày nay đây, đều do "vô minh vọng động từ vô thỉ" nên đồng vọng thấy có thế giới chúng sanh hiện ra vậy.

Từ nơi chơn tâm, vì hư vọng nên hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hiệp mà vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp mà vọng diệt đi. 

Nếu các ông xa lìa được các duyên hòa hiệp cùng bất hòa hiệp, và trừ hết các nhơn sanh tử rồi, thì cái chơn tâm thường trụ thanh tịnh, bất sanh bất diệt hiện ra, và các ông được viên mãn đạo Bồ Đề. 

LƯỢC GIẢI 

Phật lấy một người nhặm đế dụ một nước thấy điềm ác; lấy một nước để dụ chúng sanh trong mười phương. Vì vô minh vọng động từ vô thỉ, nên thấy có chúng sanh và thế giới. Cũng như người nhặm mắt thấy có vầng đỏ. Nếu hết nhặm thì vầng đỏ không còn, lúc ấy con mắt lành mạnh tự hiện. 
Cũng như vô minh vọng tưởng hết, thì thế giới chúng sanh chẳng còn. Lúc bấy giờ chơn tâm sáng suốt hện ra, được viên mãn đạo Bồ đề, thế gọi là bực Đại Giác. 

VII.-PHẬT CHỈ CÁC PHÁP ĐỀU TRỞ VỀ CHƠN TÂM 

- A-Nan, ông còn chưa hiểu: các trần tướng huyễn hóa đó là nơi tâm sanh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất (đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận). 

Cái "tướng" (hiện tượng) của nó thì huyễn vọng, còn "tánh" (bản thể) của nó lại chơn thường. 

Nào là: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới đều do nhơn duyên hư vọng hòa hiệp tạm có sanh; nhơn duyên biệt ly, hư vọng tạm gọi là diêt. 

Các ông không biết: nào sanh, diệt, khứ, lai đều gốc ở nơi chơn tâm thường trụ . Trong thể tánh chơn như thường trụ này, tìm kiếm cái khứ, lai, mê, ngộ, sanh tử v.v...quyết không thể được. 

LƯỢC GIẢI 

Hiện tượng các pháp thì vọng, mà bản thể của các pháp lại chơn . đứng về phần hình tướng( hiện tượng) các pháp thì thấy có sanh, diệt, khứ, lai. Còn đứng về phần bản tánh (bản thể) thời tìm cái khứ, lai, sanh, diệt, mê, ngộ không thể được . 

VIII.-A-NAN NGHI CÁI NGHĨA BỐN ĐẠI HÒA HIỆP SANH  

A-Nan thưa Phật rằng:-- Bạch Thế Tôn, trước kia ngài thường nói" tất cả các vật trong thế gian đều do bốn đại hòa hiệp sanh". Tại sao ngày hôm nay, Như Lai bác bỏ cả thuyết "nhơn duyên " và "tự nhiên". Chúng con không biết nghĩa này thế nào? Cúi xin đức Từ tôn chỉ dạy nghĩa trung đạo rốt ráo cho chúng con. 

LƯỢC GIẢI 

Phật đã nhiều lần bác cả nhơn duyên và tự nhiên, màông A-Nan vẫn còn chấp mãi. Cũng vì lưới nghi nhiều lớp, không thể một lần lột hết được ! 

IX.- PHẬT QUỞ A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG HIỂU  

Phật dạy rằng: -Ông trước kia nhàm chán quả Thinh văn, Duyên giác là thuộc về Tiểu-thừa, phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề, cho nên ta mới vì ông chỉ bày nghĩa lý cao thượng thứ nhứt (đệ nhứt nghĩa đế). 

Tại sao nay ông còn đem lời nói tầm thường trong thế gian, là thuyết "nhơn duyên" để tự ràng buộc lấy mình? 

Ông tuy học nhiều mà không hiểu chi cả; cũng như người trong thế gian nói đến tên món thuốc này, món thuốc kia, đến khi thuốc thật đem ra trước mắt, thì họ không thể phân biệt được , thật đáng thương xót ! 

Ông nên chăm chú nghe, nay ta sẽ vì các ông, cùng với những người tu về Đại -thừa đời sau, mà phân biệt chỉ dạy, để cho các ông thông hiểu được thật tướng (chơn tâm). 

A-Nan yên lặng, lóng nghe lời Phật dạy. 

X.- PHẬT NÓI CÁI TÁNH CỦA TỨ-ĐẠI PHI HÒA HIỆP  

A-Nan, ông nói rằng: "Do bốn đại hòa hiệp sanh ra tất cả vật". Này A-Nan, nếu cái thể tánh (bản tánh) của bốn đại kia không có hòa hiệp, thời nó không thể hòa với cái gì được; cũng như hư không, không hòa hiệp với các vật. Còn nó có hòa hiệp, thời đồng với vật biến hóa (hiện tượng sanh diệt) nghĩa là, trước sau thành nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sanh diệt nối nhau, sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử, xoay tròn như vòng lửa, không dứt đoạn. 

LƯỢC GIẢI 

Ông A-Nan lấy "hình tướng" (hiện tượng) của tứ đại có hư vọng hòa hiệp mà hỏi. Còn Phật chỉ cái "thể tánh" (bản thể) của tứ đại không hòa hiệp, cũng như hư không, để giải thích. Nếu nó (tánh) có hòa hiệp thì cũng đồng như các tướng (tứ đại) có sanh diệt. 

* * *

XI.- ĐẤT TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN 

- A-Nan, ông xem đất kia, lớn là quả địa cầu, còn nhỏ là hạt bụi (vi trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực vi) ra làm bảy phần, thì thành hạt bụi lân hư (gần với hư không). Cái giáp ranh của sắc tướng tột đến chừng đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư) ra làm một lần nữa, thì thành hư không. Thế thì rõ ràng hư không do chẻ bụi mà có, không phải do hòa hiệp sanh. 

Này A-Nan, như lời ông nói: "Do hòa hiệp sanh ra các vật trong thế gian". Vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhứt này (lân hư), phải dùng bao nhiêu hư không hòa hiệp lại mới thành ra nó? Không lẽ hạt bụi nhỏ nhứt này hòa hiệp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhứt ( lân hư trần). 

LƯỢC GIẢI 

Nếu nói"các vật do hòa hiệp thành" thì hạt bụi nhỏ nhất này cũng phả do hòa hiệp mà thành. 
Vậy thì lấy cái gì hòa hiệp thành hạt bụi này. Nếu nói "lấy hư không hòa hiệp lại thành" thì phi lý. Còn không lấy hư không thì lấy cái gì hòa hiệp thành ra nó? (vì ông A-Nan chấp các pháp do hòa hiệp mà sanh). Nếu nói lấy sắc tướng hòa hiệp, thì thành ra một vật lớn, chớ không phải là thành hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư trần) nữa. 

- Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt (lân hư) ra thành hư không, thì rõ ràng hư không không phải do hòa hiệp thành. Nếu nói do hòa hiệp thành, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hiệp lại mới thành hư không? không thể hư không tự nó hòa hiệp thành hư không? 

LƯỢC GIẢI 

Vì chấp "các pháp do hòa hiệp mà có". Vậy hư không lấy cái gì mà thành? Không lẽ lấy hư không hòa hiệp thành hư không . đoạn trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn này Phật chỉ hư không, đều phi hòa hiệp cả. 

*  *  *

- Vậy nên biết: khi sắc hòa hiệp thì không phải hư không, khi hư không hòa hiệp thì không phải sắc. Cái sắc còn có thể chia chẻ ra được, chớ hư không làm sao mà hòa hiệp cho được? 

LƯỢC GIẢI 

Đại ý đoạn này, Phật nói các pháp hư vọng như huyễn, như hóa, phi hòa, phi hiệp, do chúng sanh mê vọng mà thấy in tuồng như thật. 

*  *  *

Các ông không biết: trong chơn tâm, tánh (bản thể) của sắc là chơn không (tâm); tánh (bản thể) của không là chơn sắc (tâm). Nó vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới; tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy. Chúng sanh không biết, chấp là nhơn duyên sanh, hay tự nhiên có v.v...những cái chấp đó, đều do thức tâm phân biệt so đo cả. Phàm có nói năng, phân biệt, thì đều không đúng. 

LƯỢC GIẢI 

Thật ra các vật ở giữa này, không có nhứt định vật gì, thật là vật gì cả. Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp như thế nào, thì nó hiện ra như thế ấy. Đối vối chúng sanh đó, nó thật hay đúng với loài đó thôi. 

Như chén nước đây, nếu đồng nghiệp loài người thì đều thấy thật là nước; còn đối với con vi trùng trong chén nước, thì không phải là nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó. 

Hay như cái bàn gỗ này, đối với loài người thì thấy nó là cái bàn thật, chớ đối với con mọt, thì lại không thành cái bàn nữa, mà thật là món ăn của chúng. 

Thêm một tỷ dụ nữa, như thân này đối với loài người, thì thấy thật là thân người, chớ đối với con vi trùng trong thân, thì không thành cái thân nữa, mà thật là một thế giới bao la vô tận của nó. 

Vậy thì thấy thật nước hay thật chỗ ở, thật cái bàn gỗ hay thật món ăn, thấy thật thân người hay thật thế giới, đều tùy theo tâm niệm phân biệt nhận định riêng của mỗi loài như thế nào, thì nó thành ra thế nấy. Nên trong kinh nói: "tùy tâm biến hiện". 

Chúng ta thường thấy: Khi nào tâm ta vui vẻ, thì thấy cảnh vật chung quanh đều vui, cho đến ngủ chiêm bao cũng thấy cảnh vui hiện ra. Trái lại, khi nào tâm ta buồn phiền thì thấy cảnh vật chung quanh cũng buồn bực; mỗi mỗi đều do tâm mình biến hiện ra cả, nên có câu: 

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!"

XII.-LỬA TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN  

- A-Nan , lửa không có tự thể, nó chỉ gá các duyên mà sanh. ông hãy xem những nhà trong thành này, khi họ muốn nấu ăn, thì họ cần cái kiến (dương tọai) đưa ra trước mặt trời lấy lửa. Này A-Nan , lửa ấy nếu nhơn hòa hiệp mà có, thì nó từ trong cái kiến sanh, từ bùi nhùi ra, hay từ nơi mặt nhựt đến? 

Nếu lửa từ mặt nhựt đến, cháy được bùi nhùi trong tay của ông, thì những cây rừng và các cảnh vật nóvừa trải qua đó đáng lẽ đều phải bị cháy cả. 

Còn nói"lửa từ trong kiến sanh ra cháy cái bùi nhùi", sao cái kiến người cầm đó không cháy? Và cái bàn tay của người cầm cũng không cháy? 

Còn nói"lửa trong bùi nhùi sanh" thì cần gì phải có bàn tay cầm cái kiến hứng ánh sáng mặt trời mới có lửa? 

Ông nên chín chắn xem xét: cái kiến ở nơi tay người cầm, mặt nhựt thời ở trên trời, bùi nhùi thì nằm tại đất. Cái kiến và mặt trời vẫn xa nhau, không phải hòa, không phải hiệp. Vậy thì lửa này từ đâu mà đến cháy đây? Không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có? 

Các ông không biết trong chơn tâm, tánh( bản thể) của lửa ( tâm ) là thật không; tánh ( bản thể ) của không ( tâm ) mới là lửa thật. Nó vẫn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy. 

Nếu một người cầm kiến lấy lửa, thì một chỗ đó có lửa hiện ra. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm kiến lấy lửa, thì khắp tất cả trong thế gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng nghiệp của chúng sanh mà hiện ra đó thôi, chớ không có xứ sở gì. Người thế gian không biết, dùng thức tâm hư vọng phân biệt mê lầm chấp cho nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...phàm có nói năng, phân biệt đều không đúng sự thật. 

LƯỢC GIẢI 

Đại ý như đoạn trên ( đất) 

*  *  *

XIII.-NƯỚC TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN 

- A-Nan , tánh nước không tịnh, đứng chảy chẳng thường. Như trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên, Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v...Các vị này thường lấy nước mặt trăng hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng trong, cầm hột châu phương chư hứng mặt trăng, thì có nước chảy ra ở thau. 

Vậy nước ấy từ hột châu sanh? Hay từ hư không ra? Hay từ mặt trăng đến? 

A-Nan , nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước;vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trải qua cây cối các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả; nếu thế thì cần gì phải có hột châu phương chư ( hột châu lấy nước)? Song sự thật các cảnh vật không ngập ướt, thì rõ ràng nước ấy không phải từ mặt trăng đến. 

Còn nói"nước từ hạt châu ra", thì hột châu nếu đã chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần gì phải chờ nửa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước? 

Còn nói"nước từ hư không sanh" thì hư không vô biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhơn gian cho đến thiên thượng, tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả. 

Ông nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu để cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu mà đến? Không lẽ không nhơn đâu mà nó tự có.  
Ông không biết trong chơn tâm, tánh ( bán thể) của nước ( tâm ) thật không; tánh ( bản thể ) của không (tâm ) thật nước, vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó hiện ứng như thế nấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó có nước. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm hột châu lấy nước, thì khắp cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp chướng trong chúng sanh mà phát hiện ra; nó không có phương hướng xứ sở gì. Người trong thế gian không biết, lầm chấp nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không đúng cả. 

XIV.-GIÓ TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN 

- A-Nan, tánh gió không tịnh, động và tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y bay ra, hay từ hư không bay đến, hay từ nơi mặt người sanh? 

A-Nan, nếu gió này từ cái y bay ra, thì cái y đã thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay sao? Ta hay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chổ nào? Chẳng lẽ trong y có chỗ cất (để) gió.

Nếu gió từ hư không sanh, vậy thời khi ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư không thường còn, thì gió cũng phải thường sanh, nếu khi nào không có gió, thì hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể diệt (hết) chớ hư không làm sao diệt được.

Nếu hư không có sanh diệt, thời không gọi là hư không; còn gọi là hư không thời làm sao lại sanh ra gió được. 

Còn ông nói "gió từ nơi mặt người bị phất sanh"; nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó lại phất ngược trở lại mặt người bị phất. 

Ông nên chính chắn xem xét: Cái y là ở nơi ông, cái mặt là thuộc về người kia (bị phất), còn hư không thì tự yên lặng; gió (động) với hư không (lặng) tánh khác nhau, không hòa không hiệp, vậy gió từ nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.

Các ông không biết trong chơn tâm, tánh (bản thể) của gió (tâm) là thật gió, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sanh phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời có một chút gió sanh ra. Nếu tất cả mọi người trong thế giới đều phất y, thì cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sanh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ sở gì. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so đo, lầm chấp là nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.



 Trích PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa