"Hạnh Kính Lễ" trong nhà Phật

 

Trong mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, nguyện thứ nhất là kính lễ chư Phật. Lễ chính là có lễ phép, có lễ độ. Lễ là một hình thức biểu hiện sự cung kính của người này đối với người kia. Quí vị đối với người có lễ phép, người khác đối lại quí vị cũng sẽ có lễ phép. Lễ cũng là một trong Ngũ Thường nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Con người sở dĩ khác với loài cầm thú là vì có lễ. Nếu con người mà không có lễ thì cũng chẳng khác gì cầm thú. Vì sao phải lễ phép? Vì chúng ta có tâm cung kính đối với mọi người chung quanh, nên mới hành lễ. Chúng ta cung kính một người hẳn phải được biểu hiện thành lễ. Đối với Chư Phật chúng ta càng phải thể hiện sự lễ phép cung kính.

alt

Trước đây, người Trung Quốc cũng không muốn khấu đầu trước Phật và người dân Mỹ bây giờ cũng thế. Lúc tôi vừa đến nước Mỹ có rất nhiều người bảo tôi rằng: “Người nước Mỹ ghét nhất là việc cúi đầu lễ bái Phật”; tôi bảo họ: “Thế thì rất tốt! Họ không muốn cúi đầu, tôi nhất định khiến họ phải cúi đầu, nếu họ không cúi đầu thì tôi sẽ không dạy Phật pháp cho họ, đó chẳng có gì là quá đáng cả!”. Quí vị cúi đầu trước Phật tôi sẽ dạy Phật pháp cho quí vị; không cúi đầu thì dù quí vị có muốn học Phật pháp với tôi, tôi cũng không dạy. Vì sao? Vì quí vị không có lễ phép đối với Phật thì tôi việc gì phải dạy Phật pháp cho quí vị chứ! Trước đây người Trung Quốc cũng như thế, tin Phật thì tin Phật nhưng lại không muốn cúi đầu lễ Phật. Giống như con vượn không biết lễ Phật, quí vị dạy nó, nó cũng chẳng muốn. Lại còn trâu, ngựa cũng chẳng biết lễ Phật, tuy trong lòng cung kính Phật nhưng chúng cũng không lễ Phật. Tín đồ Phật giáo Trung Quốc trước đây cũng vậy, tuy kính nhưng không lễ, tuy tin nhưng không bái.

Thời Bắc Ngụy (386-535), Tôn giả Lặc-na-ma-đề người Tây Vực đã thấy được tình hình này của người Trung Quốc, tin Phật mà không chịu lễ bái, như thế chẳng có tác dụng gì. Thế rồi, ngài đến Trung Quốc lập ra bảy pháp lễ bái để dạy người Trung Quốc lễ Phật. Trên đà Phật giáo truyền bá đến khắp các nước, đến đâu cũng gặp trường hợp tương tự. Ban đầu Phật giáo truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc không muốn lễ Phật; hiện tại truyền đến nước Mỹ, người Mỹ cũng không muốn lễ Phật. Vì sao không muốn lễ Phật? Là vì xưa nay chưa từng lễ bái, nhân đó tồn tại tướng ngã, ngã mạn cho rằng cái ta này còn to hơn cả núi Tu-di, như thế thì làm sao có thể lễ Phật được? Có người thấy người khác lễ Phật, họ liền đi đến gần đứng như một khúc gỗ; có người đến ngay chỗ người ta lễ Phật ngồi im như một tảng đá..., có rất nhiều dạng biểu hiện khác nhau.

Chúng ta tin Phật thì phải nên lễ Phật, đến Phật còn không lễ bái thì nói gì đến chuyện tin? cho nên chúng ta nhất định phải lễ bái tượng Phật. Có người hỏi: “Tượng Phật chẳng qua là một khúc gỗ tạc, chúng ta bái tượng gỗ ấy có lợi ích gì?” Tượng Phật gỗ đích thực không phải là Phật, quí vị không nên nhận hiểu lầm. Phật có mặt ở khắp mọi nơi, không có nơi nào mà pháp thân của Ngài không hiện hữu. Tượng gỗ chẳng qua chỉ là một biểu tượng tượng trưng cho Phật mà thôi. Giống như mỗi nước đều có quốc kỳ, và tất cả mọi người đều hướng về quốc kì hành lễ rất kính cẩn. Quốc kì chỉ là một tấm vải hay da làm thành, thế quí vị hướng về nó kính lễ có tác dụng gì? Đó cũng là một dạng đại biểu, quốc kì là đại diện cho sinh mệnh của quốc gia, vì thế người dân hướng về quốc kì kính lễ chính là bày tỏ lòng cung kính đối với đất nước của mình. Tượng Phật cũng vậy, chẳng qua là tượng trưng cho Phật mà thôi, chứ không hề nói tượng Phật ấy chính là Phật. Thế tại sao chúng ta phải đối trước tượng Phật lễ bái? Phật hiện hữu khắp nơi, thế chúng ta có cần phải xoay bốn phương tám hướng lễ lạy chăng? Đó cũng không đúng. Lễ kính tất phải có chỗ quay về nương tựa, phải có chỗ quay về nương tựa tất sẽ có chỗ đại diện cho một mục tiêu. Giống như trong một nước chia ra rất nhiều tỉnh, nếu quí vị phải hướng về mỗi tỉnh, mỗi huyện để kính lễ thì e không đủ thì giờ. Thế nên chỉ cần hướng về một lá quốc kì kính lễ là đủ. Chúng ta hướng về Phật kính lễ, ý nghĩa cũng giống như thế.

Có bảy cách kính lễ Phật:

1. Ngã mạn lễ: Sao gọi là ngã mạn lễ? Chính là thấy người khác lễ bái mình cũng lễ, nhưng tướng ngã hoàn toàn chưa bỏ, lạy Phật mà chẳng chút tự nhiên, và luôn tự hỏi: Tôi lạy Phật để làm gì? Tôi đâu cần phải lạy ông ta? Do nghĩ vậy nên lạy một cách không hoan hỷ, rất miễn cưỡng. Hoặc có người thấy người khác lễ Phật, nếu mình không lễ thì cảm thấy ngượng ngùng nên cũng lễ theo. Tuy lễ Phật nhưng tướng ngã không mất, ngã mạn vẫn còn. Thấy người khác lạy nên họ cũng lạy, nhưng trong lòng lại nghĩ: “Mình thật là mê tín, lễ Phật có tác dụng gì chứ? Thật quá mê tín!”.

2. Cầu danh lễ: Sao gọi là cầu danh lễ? Nghe nhiều người khen ngợi một ai đó rằng: “Người kia lạy Phật rất nhiều, vừa lạy Phật, vừa lạy kinh, vừa sám hối, thật là dụng công tu hành! ”. Nghe mọi người khen ngợi như thế, người này cũng muốn được được tiếng tu hành, nên bắt chước bái Phật và tùy hỷ sám hối. Người này tuy cũng tùy hỷ nhưng chẳng phải lễ Phật một cách chân thật, đó là vì muốn được tiếng tu hành mà lễ nên gọi là cầu danh lễ. Người này không phải tin, cũng chẳng phải không tin mà lễ, chẳng qua là thấy người lễ Phật được mọi người cúng dường, cung kính, ca ngợi là người tu đạo chân chính nên cũng muốn được như vậy mà lễ Phật.

3. Thân tâm xướng hòa lễ: Sao gọi là thân tâm hòa xướng lễ? Chính là khi thấy người khác lễ, mình cũng lễ; mọi người lạy, mình cũng lạy, thân và tâm vọng hướng theo người—người khác như thế nào thì mình cũng như thế ấy, bất luận là lễ Phật có lợi ích hay không, cũng chẳng cần biết lễ Phật là chính tín hay mê tín, cũng chẳng có tâm cầu danh, chỉ là làm theo người khác mà thôi. Cách lễ bái này chẳng có công đức gì, cũng chẳng có lỗi gì, là một việc bình thường.

4. Trí tịnh lễ: Sao gọi là trí tịnh lễ? Trí là trí tuệ, tịnh là thanh tịnh; dùng trí tuệ chân chính, thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình để lễ Phật. Đó là cách lễ Phật của người có trí tuệ. Quí vị lễ Phật như thế thì sẽ không phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Đó là thân nghiệp thanh tịnh. Lúc quí vị lễ Phật không có tâm tham, tâm si, tâm sân mà chỉ có tâm cung kính để lễ Phật, nên ý nghiệp cũng được thanh tịnh. Khi quí vị lễ Phật, miệng niệm Phật hoặc trì tụng kinh chú, như thế khẩu nghiệp cũng chẳng phạm vào ỷ ngữ, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt. Đó là khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, lại đem trí tuệ chân chính để lễ Phật, đó gọi là trí tịnh lễ.

5. Biến nhập pháp giới lễ: Sao gọi là biến nhập pháp giới lễ? Lúc lễ Phật nên quán tưởng thân ta tuy chưa thành Phật, nhưng tâm tính của ta thì có mặt khắp cả pháp giới. Nay ta đối trước Phật lễ Phật và đồng thời cũng có thể kính lễ khắp hết chư Phật khắp pháp giới; chẳng phải chỉ lễ riêng một vị Phật mà đối trước mỗi vị Phật đều có hóa thân của ta đang cung kính hướng về đảnh lễ và cúng dường Chư Phật Bồ-tát. Đó gọi là “nhất thiết duy tâm tạo”. Tâm của quí vị biến khắp pháp giới, nên thân cũng đầy khắp pháp giới. Quí vị lễ Phật với tâm niệm như thế thì mỗi lạy của quí vị cũng cùng khắp pháp giới. Có người hỏi: Thế nào gọi là pháp giới? Con đã nghe Kinh mấy ngày mà chẳng biết pháp giới là gì. Tất cả những gì thuộc tam thiên đại thiên thế giới đều bao hàm trong pháp giới, ở bên trong Pháp giới chứ không phải bên ngoài pháp giới. Tâm của quí vị là tận cùng hư không, rộng đầy pháp giới, nên sự kính lễ của quí vị cũng tận cùng hư không, khắp đầy pháp giới và công đức mà quí vị đạt được cũng như thế. Đó gọi là biến nhập pháp giới lễ.

6. Chính quán tu hành chí thành lễ: Chính quán là chuyên tâm quán tưởng lễ Phật. Chúng ta lễ bái một vị Phật cũng chính là lễ bái cả pháp giới Chư Phật, lễ bái cả pháp giới Chư Phật cũng chính là lễ bái một vị Phật. Bởi vì Chư Phật trong mười phương ba đời đồng một pháp thân. Đó được gọi là “Phật Phật đạo đồng”. Chúng ta phải vận tâm chuyên nhất quán tưởng lễ Phật, không để vọng tưởng xen vào, không nên thân thì đang bái Phật mà tâm lại chạy đến rạp chiếu phim, hoặc chạy đến trường đua ngựa, vũ trường, quán rượu hay quán cơm. Tóm lại, không  nên như người lữ hành không cần mua vé lang thang khắp các nơi, thoắt ở trên trời, thoắt xuống dưới đất, lúc thì chạy qua New York và cũng chẳng biết về lại San Francisco như thế nào, lại còn cho rằng mình có thần thông, kì thật ngay đến quỉ thông cũng chẳng có. Không nên nói là thần thông mà đó chính là vọng tưởng, còn gọi là tà quán, không có chính quán.

Tu hành chính quán là không khởi lên vọng tưởng, bái Phật thì phải nhất tâm lễ bái, tâm không thể làm hai việc cùng một lúc, không thể đang bái Phật ở đây mà tâm vọng hướng về nơi khác. Lễ Phật có sự chính quán như thế thì quí vị lễ một vị Phật còn hơn lễ trăm, nghìn, vạn vị Phật; một lạy vượt xa hơn cả người lễ cả trăm, nghìn, vạn lạy mà bị vọng tưởng xen vào. Vì thế tu hành cần phải từ nơi cửa nhất tâm mà vào. Quí vị cần phải học biết pháp môn, nếu quí vị không biết pháp môn thì tuy là cũng lễ Phật như những người khác, nhưng người ta lễ Phật chỉ thuần lễ Phật còn quí vị lễ Phật mà tâm khởi lên vọng tưởng: “Đợi lễ Phật xong mình sẽ đi uống một ly cà phê, hay là uống một ít rượu”. Quí vị vọng tưởng như thế thì chẳng phải chính quán tu hành chí thành lễ, đó là tà quán. Lúc lễ Phật chẳng chịu nhất tâm, lại toàn khởi vọng tưởng, lễ bái như thế chẳng có công đức gì cả.

7. Thật tướng bình đẳng lễ: Thật tướng lễ là lễ mà chẳng lễ, chẳng lễ mà lễ. Có người nói: “Ồ, lễ mà chẳng lễ, chẳng lễ mà lễ, thế thì tôi không lễ Phật chính là lễ Phật rồi!” Chẳng phải lí giải như thế. Nghĩa là tuy quí vị lễ Phật mà chẳng chấp vào tướng lễ Phật chứ chẳng phải quí vị không lễ Phật rồi cho là mình đã lễ Phật, như thế sẽ trở thành một dạng vọng tưởng điên cuồng. Giống như có người đến đây nói với tôi là ông đã từng đi vào trong hư không. Nói như thế thật là ngu si quá đỗi! Loại người như thế quả không có thuốc chữa, không có cách nào cứu được. Vì sao như vậy? Vì tính chấp trước của họ quá nặng nề.

Thật tướng bình đẳng lễ chính là bình đẳng lễ bái Tam bảo, không chấp vào tướng, cung kính Phật, cung kính pháp, cung kính tăng, không có phân biệt đối tượng lễ bái, một niệm cũng chẳng sinh, một niệm cũng chẳng diệt. Đây chính là pháp thật tướng bình đẳng bất sinh bất diệt. Nên nói: “Một niệm không sinh toàn thể hiện”. Quí vị thật có thể lễ Phật đạt đến một niệm không sinh thì lúc ấy mười phương thế giới liền hiện toàn thân. Thân này của quí vị tuy ở đây, nhưng lại lớn đồng pháp giới, đó chính là thật tướng, thật tướng vô tướng. Quí vị lễ bái mà không có tướng nhân, ngã, chúng sinh và thọ giả, cùng với pháp giới hợp thành một thể thì khi ấy thân của quí vị cũng chính là pháp giới, pháp giới cũng chính là thân này của  quí vị. Quí vị xem, như thế có vi diệu không chứ! Trước đây thân của quí vị chỉ là một điểm nhỏ của núi Tu-di, núi Tu-di ở trong pháp giới giống như một hạt vi trần mà thôi. Quí vị không nên cho rằng núi Tu-di là to lớn. Hiện tại, núi Tu-di ở trong pháp thân của quí vị, pháp thân của quí vị bao trọn lấy núi Tu-di, quí vị xem như thế có vi diệu không! Hết thảy vạn vật ở trong vũ trụ, không có vật nào mà chẳng được bao trùm bởi pháp tính của quí vị, cho nên chẳng có gì mà quí vị không hiểu rõ. Thật tướng bình đẳng lễ là một cảnh giới bất khả tư nghì, nếu quí vị có thể lễ Phật đạt đến cảnh giới ấy, quí vị nói xem chỗ vi diệu ấy thể nói hết đặng không? Không bao giờ nói hết.

Ở trên nói sơ lược có bảy cách lễ bái Tam bảo. Nếu nói rộng ra thì phép lễ có rất nhiều, ba trăm lễ nghi, ba nghìn oai nghi. Ở Trung Quốc có một bộ kinh lễ gọi là Lễ Kí, chuyên viết về các cách lễ nghi. Trong Lễ Kí nói mỗi người ngồi ở vị trí nào đều có qui định, người lớn có chỗ ngồi của người lớn, trẻ em có chỗ ngồi của trẻ em, người nam có chỗ ngồi của người nam, người nữ có chỗ ngồi của người nữ, người già có chỗ ngồi của người già, không thể ngồi lộn xộn. Tôi chỉ đơn cử một điều : Trẻ em phải ngồi chỗ nào? Lễ Kí nói: “Em bé ngồi ở góc”. Trẻ em phải ngồi ở bên góc, không được ngồi chính diện.

Giảng đến lễ, nhơ khi nhỏ lúc 12 tuổi tôi rất chú trọng lễ phép. Chú trọng lễ phép như thế nào? Tôi rất thích người khác cung kính mình. Cung kính như thế nào? Khi nhỏ tôi thích làm hoàng đế, thông thường những đứa bé trong thôn, khi thì năm mươi, lúc thì một trăm đứa, tất cả đều nghe theo sự chỉ huy của tôi. Tôi bảo chúng bạn đấp lên một ụ đất khá lớn, rồi tôi ngồi chễm chệ trên đống đất đó và bảo chúng lạy tôi. Thật lạ, những đứa trẻ ấy không hề phản đối, hướng về phía tôi mà lạy, tất cả đều nghe theo lệnh của tôi.

Đến năm mười hai tuổi, tôi nhìn thấy cảnh một đứa bé chết, lúc ấy tôi mới biết là con người rồi sẽ chết, thế là từ đó về sau tôi cải đổi thói quen xấu ấy, không bắt các đứa bé lạy tôi nữa, trái lại tôi hướng đến người khác để lạy. Sự việc đó bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ cha và mẹ tôi. Sáng sớm đến lạy cha mẹ, chiều tối cũng lạy cha mẹ. Lạy cha ba lạy, lạy mẹ ba lạy, như thế sáng lạy sáu lạy, tối lạy sáu lạy. Về sau tôi nghĩ trên thế giới này không chỉ riêng có cha mẹ của mình mà còn có trời, có đất, có vua và cả thầy nữa. Thế rồi tôi lại lạy trời, lạy đất, lạy vua, và lạy thầy. Bấy giờ tôi còn chưa biết thầy của tôi là ai, do vì chưa gặp được thầy nhưng trong lòng tôi đã nghĩ thế này: “Tương lai mình nhất định sẽ có một vị thầy, tuy hiện tại mình chưa gặp được thầy song cần phải lạy thầy trước”. Vì thế mà tôi mới lạy trời, lạy đất, lạy vua, lạy cha mẹ và lạy thầy như thế. Nếu y theo cách nói của mọi người thì đó là điều hết sức mê tín.

Về sau tôi lại nghĩ trên thế giới này còn có thánh nhân nên tôi lại lạy thánh nhân;  nghĩ đến có hiền nhân nên tôi lạy hiền nhân. Sau nữa tôi còn biết trên thế giới này có Phật nên hướng về lạy Phật; lạy Bồ-tát, lạy Thanh văn, Duyên giác. Tiếp đến tôi lại nghĩ trên thế giới này còn có những người thật tốt, tôi lại lạy người tốt; trên thế giới này có người thiện, tôi lại lạy người thiện. Tôi lại nghĩ những vị ấy thường làm điều thiện giúp  đỡ người khốn cùng vì thế tôi thay thế người khốn cùng lạy tạ những vị ấy. Tôi lại nghĩ những người ác cũng thật đáng thương, tôi lại đại diện cho những người ác này khấu đầu lạy Phật, xin Phật tha thứ xá miễn những lỗi lầm cho họ, giúp họ cải ác làm lành. Tôi lại thay thế cho tất cả những người có tội trên thế gian này khấu đầu lạy Phật, hướng về Phật sám hối; thay thế cho những người không hiếu thuận với cha mẹ ở trên đời này sám hối với Phật. Tôi lại cho rằng mình là kẻ xấu nhất trong những người xấu, tôi nên lạy Phật thay thế cho tất cả bọn họ.

Cứ như thế sau này mỗi lần lễ lạy, tôi đều lạy đúng tám trăm ba mươi lạy. Tôi lễ lạy vào thời gian nào? mách nhỏ quí vị: sự tu hành của tôi rất kì quái! Sáng sớm khi mọi người còn chưa tỉnh giấc, tôi đã dậy mặc áo sạch, rửa mặt, ra bên ngoài thắp một cây hương và bắt đầu lạy. Bất kể là gió bão, mưa đổ, tuyết rơi, tôi cũng phải lạy, thậm chí tuyết rơi tôi cũng không để ý là lạnh đóng băng hay lạnh mát, tôi úp tay trên tuyết để lạy. Lạy tám trăm ba mươi lạy cứ quì xuống, đứng lên; đứng lên, quì xuống, thời gian ước khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Buổi tối đợi sau khi mọi người đều đi ngủ tôi lại ra ngoài để lạy. Cứ như thế, tôi đã lạy trong nhiều năm cho đến sau khi tôi ở nơi mộ mẹ thủ hiếu mới giảm bớt số lần lạy, mỗi ngày chỉ lạy chín  lạy. Không lạy nhiều như trước nữa, như vậy sẽ đỡ mất thời gian rất nhiều. Tôi nghĩ rằng mọi người đều muốn biết quá khứ tôi đã lễ Phật như thế nào, nên mới nói sơ qua như thế.

Nguyện thứ nhất “lễ kính chư Phật”, chẳng phải chỉ là đảnh lễ Đức Phật Thích Ca hay Phật A-di-đà mà một lễ là tất cả lễ; một Phật là hết thảy Phật. Đảnh lễ một vị Phật chính là đảnh lễ tất cả các đức Phật, đảnh lễ tất cả các đức Phật chính là đảnh lễ một vị Phật. Đảnh lễ tất cả Phật mà không chấp tất cả Phật, đảnh lễ một Phật cũng không chấp vào một Phật, đó là thực hành thật tướng bình đẳng lễ. Dù là lễ hết thảy Chư Phật hay một vị Phật nhưng cũng không chấp vào tướng ấy. Không nên nói: “Lần này công đức của mình thật lớn, mình đã lễ nhiều Phật như thế, người khác tu không thể bì kịp mình”. Lễ Phật không nên chấp vào tướng, đó gọi là kính lễ chư Phật.

Kính lễ chư Phật, chư Phật có cần chúng ta kính lễ không? Chúng ta lễ Phật thì Phật cũng là Phật, chúng ta không lễ Phật thì Phật vẫn là Phật. Hoàn toàn không phải vì chúng ta lễ Phật mà Phật mới có thêm lợi ích, Phật mới vĩ đại hơn; còn chúng ta không lễ Phật thì Phật chịu thiệt thòi, Phật bị lu mờ hơn. Chúng ta lễ Phật là thể hiện tâm cung kính của ta đối với Phật, còn Phật thì chẳng tăng cũng chẳng giảm, vì thế lễ Phật chúng ta không nên có tâm chấp trước.

Trích từ bài giảng Phẩm Tịnh Hạnh - Kinh Hoa Nghiêm của Hòa Thượng Tuyên Hóa

Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thành