Bản dịch Khóa Hư Lục của cư sĩ Thiều Chửu

Cư sĩ Thiều Chửu đã để lại một sự nghiệp trước tác Phật học đáng trân trọng, trong đó có ngót 50 dịch phẩm bao gồm một số kinh sách căn bản của nhà Phật.

Bài viết này sơ bộ khảo sát bản dịch Khóa hư lục(1) của ông, qua đó tìm hiểu những đặc điểm và những cống hiến của ông trên lĩnh vực dịch thuật.

Khóa hư lục là tác phẩm đặc sắc của Trần Thái Tông làm sau khi truyền ngôi, xuất gia tu thiền, nghiên cứu đạo Phật mà Phan Huy Chú đã khái quát là “ý văn tỏ rõ niềm yêu thích cảnh đẹp núi rừng, coi ngang lẽ sống chết, chí thú khoáng đạt”(2).

Khóa hư lục “Là một bộ sách quan trọng và xưa nhất mà chúng ta còn giữ được” và “Trần Thái Tông không chỉ là một nhà tu hành đắc đạo, lại là một nhà triết học sâu sắc và một thi sĩ trữ tình dào dạt chủ trương thanh tĩnh một cách rất sôi nổi xúc động. Tất cả những bài kệ đều là thơ; thơ thất ngôn, ngũ ngôn hoặc tứ ngôn; tất cả những bài khác đều là văn biền ngẫu chặt chẽ và đầy hình tượng”(3).

Với Khóa hư diễn nghĩa, Thiều Chửu đã chọn dịch và giới thiệu đúng một tác phẩm có giá trị lớn cùng với Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, Đạo giáo nguyên lưu, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh... là những cột mốc quan trọng trong lịch sử Phật học Việt Nam. Ông nhận định “Thực là một bộ kinh cứu khổ cho đời”, “Quyển trên thuyết rõ cái sắc thân người ta là giả, là không, người ta ở đời phải chịu bốn nỗi sinh, già, ốm, chết như núi như bể, phải biết trông gương các bậc hiền triết mà tu, mới mong thoát khỏi; quyển giữa và quyển dưới thì dạy đủ các phép sám hối tu trì...”, “Trong kho sách Phật nước nhà có lẽ bộ này là hoàn toàn đặc sắc hơn cả, cho nên dịch giả định kêu là Kinh khóa hư thì có lẽ hay hơn”(4).

Về nội dung, Khóa hư lục là một tập bài giảng về lẽ hư không, trình bày cái bản thể chân như, cái sự tính siêu việt và trạng thái tinh thần yên tĩnh không hề chấp trước để có thể thực hiện sự kiến tính. Tác giả Khóa hư lục đã kết hợp hài hòa phép đốn ngộ với phép tiệm ngộ, con đường giải thoát tự lực với con đường giải thoát bằng tha lực, đã quan tâm không chỉ sự giải thoát của bậc thượng trí mà cả sự giải thoát của hạng hạ trí. Đó cũng là nét đặc sắc của Thiền tông đời Trần.

Nội dung sâu sắc và giá trị lớn lao đến như vậy đã khiến cho Khóa hư lục trên thực tế là một tác phẩm rất khó dịch.

Chính Thiều Chửu đã thành thật thừa nhận: “Trong bộ sách này có nhiều đoạn ý nghĩa cực kỳ sâu xa,… dịch giả chưa dám quyết là đúng, dám xin các bậc cao minh sửa đổi lại cho, khi nào tái bản chúng tôi chữa vào…”(5).

Không riêng Thiều Chửu, một học giả uyên bác như Đào Duy Anh cũng nói tương tự: “ Khóa hư lục là một tài liệu khó phiên dịch và chú giải, chúng tôi đã cố gắng vận dụng hết sức hiểu biết của mình nhằm cung cấp những tài liệu chính xác cho những người nghiên cứu trẻ tuổi; song như ếch ngồi đáy giếng, kiến thức còn nhiều phần chật hẹp, xin các nhà bác nhã, nhất là trong giới Phật học, thứ cho cái tội đánh trống qua cửa nhà sấm, mà lấy lượng khoan dung uốn nắn cho”(6).

Để khắc phục khó khăn trong dịch thuật, mỗi dịch giả thường xác định cho mình một nguyên tắc làm việc nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tín và nhã nhiều khi không thống nhất được, thậm chí gay gắt với nhau.

Cách làm của Thiều Chửu là: “Nguyên văn chữ Hán là thể văn biền ngẫu, cứ lối văn Hán mà bàn thì tụng đọc có vẻ thanh thú, nhưng dịch sang Quốc văn mà cứ theo thể văn Hán thì ý nghĩa không rõ ràng tách bạch. Cứ ý dịch giả thì mỗi lối chữ có một thể văn riêng, đọc sách cần phải hiểu nghĩa, nên dịch giả dịch theo lối tản văn cho dễ hiểu. Những câu nào có điển tích khó, có bài lược giải ở dưới sách”(7).

Còn Đào Duy Anh thì nói: “Về cách dịch thì chúng tôi cố gắng dịch sát nghĩa và ý, theo đúng thể thơ và biền ngẫu của nguyên văn”(8).

Như vậy, cứ theo tuyên ngôn của các vị thì dường như Thiều Chửu có phần trọng tín hơn nhã. Tuy nhiên, đọc kỹ bản dịch của ông, đối chiếu với nguyên văn thì thấy nhìn chung đó là một bản dịch vừa tín vừa nhã, mặc dù có đôi chỗ ông tỏ ra không câu nệ tính biền ngẫu cân đối. Nhưng trên tổng thể vẫn bảo toàn được chất lượng văn học rất cao của nguyên tác. Nhiều đoạn văn dịch còn truyền đạt được nhạc tính của câu văn. Xin nêu vài đoạn làm thí dụ:

Nguyên tác:

“Nhất thiên minh mị, thôn thôn liễu lục hoa hồng;
Vạn lý phong quang , xứ xứ oanh đề điệp vũ”.

Thiều Chửu dịch:

“Một trời sáng đẹp, nơi nơi hoa thắm liễu xanh;
Muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh kêu bướm liệng.”

Nguyên tác:

“Mật lâm mậu thụ, kim phong nhất phiến kỉ phù sơ;
Thanh chướng thủy phong, ngọc lộ sơ thùy tăng lãnh lạc”.

Thiều Chửu dịch:

“Cây xanh rừng rậm, gió vàng một trận thấy lơ thơ;
Ngàn biếc non xanh, móc ngọc vừa sa thêm lạnh lẽo.”

Nguyên tác:

“Điêu tường tuấn vũ dĩ hề vi,
Tích ngọc đôi kim nhi hà dụng.
Dạ đài u yểm, không văn sóc xúy sưu sưu;
Truyền hộ trường quynh, đãn kiến sầu vân thảm thảm”.

Thiều Chửu dịch:

“Tường hoa nhà rộng có làm chi,
Kho ngọc đống vàng vô dụng hết
Dạ đài khép kín, luống nghe gió bấc vì vèo,
Tuyền hộ đóng tràn, chỉ thấy mây sầu ngùn ngụt.

Nguyên tác:

“Lân kê báo ngọ, hi ngự đương dương.
Liêu thiên chi hồng thái phương trung;
Táp địa chi lục dương thủy chính.
Ảnh chiếu nhi đình hoa lộng ngọc,
Phong lai nhi đê liễu dao kim,
Huy huy chước chước diêu dao đài,
Toái toái đoàn đoàn trùng ngọc thế.
Thú lư hương niểu, thiên đình nhật lệ bích tiêu trung;
Tiên chẩm thụy nùng, trú vĩnh lậu hi chu các thượng.
Thịnh hạ tắc kim lưu thạch thước;
Long đông tắc vụ liễm tuyết tiêu.
Phong trung nhi tạp ế toàn thu;
Li chính nhi quần âm tận tảo.
Đối cảnh tính thiên động triệt;
Đương thời tâm địa chiếu dung.
Đầu đầu tổng hữu quang minh;
Bộ bộ liễu vô hắc ám.”

Thiều Chửu dịch:

“Vàng dương đứng bóng tròn xoe,
Tiếng gà láng giềng báo ngọ.
Vẻ hồng trời đang đứng giữa;
Màu xanh liễu mới thấy khoe.
Nắng giọi hoa sân như ngọc múa
Gió đưa cành liễu tựa vàng tô.
Long lanh chói lói ánh dao đài,
Thấp thoáng trập trùng lồng bệ ngọc.
Thơm lừng lò thú, trời quang nhật tỏ chốn mây xanh;
Ngủ kỹ gối tiên, ngày vắng lậu thưa nơi gác tía.
Mùa hạ thì đá sôi vàng chảy,
Mùa đông thì sương lở, tuyết tan.
Đứng bóng thì đám bụi thu quang,
Sáng tỏ thì mây mù quét sạch.
Đối cảnh tính trời sáng suốt,
Đang khi tâm địa soi thông.
Thảy đều sáng chưng
Sạch không đen tối.”

Tôi muốn nói thêm rằng khi dịch lại Khóa hư lục năm 1974, Đào Duy Anh cũng rất coi trọng bản dịch của Thiều Chửu ở thập kỷ 30, bằng chứng là trong các chú thích của mình, học giả họ Đào đã hơn một lần nhắc đến Thiều Chửu.

Như trường hợp ở bài Kệ vô thường cuối quyển hạ, có cụm từ “phùng Hoàng diện công”, Đào Duy Anh đã ghi chú: “Phúc Điền hòa thượng giải là gặp Phật Di - đà, chúng tôi cũng theo nghĩa ấy mà dịch. Thiều Chửu dịch là Phật - đà.

Hay ở bài Khải bạch ở đầu quyển Trung, có hai câu:

“Tiêu trung mộng lí kí hôn hôn,
Giác hậu tâm đầu do nhiễu nhiễu”

Đào Duy Anh dịch:

“Nửa đêm giấc mộng đã mơ hồ,
Tỉnh dậy mối lòng đà vội vã.”

và chú thích rằng “dịch theo Thiều Chửu và Nguyễn Trọng Thuật” .

Bản dịch của Thiều Chửu là:

“Trong đêm hồn mộng đã mơ màng,
Tỉnh dậy tâm đầu còn bối rối.”

Đặc biệt là ở bài Khuyến phát tâm văn trong quyển Thượng, có điển tích “Thực bính vong thê” (ăn bánh bỏ vợ), Đào Duy Anh đã chú thích rõ ràng: “Về điều này ông Thiều Chửu (Tạp chí Đuốc Tuệ) có lời chú rằng theo kinh Bách dụ thì có hai vợ chồng nhà nọ có một cái bánh, không ai chịu nhường ai, sau quyết định rằng trong hai người hễ ai nói trước thì không được ăn bánh. Hai người ngồi lặng im nhìn bánh cho đến đêm có đứa kẻ trộm vào ăn trộm, thấy hai vợ chồng ngồi yên như thế, lấy đồ xong bèn đến trêu người vợ. Thấy chồng ngồi yên, người vợ tức quá mắng chồng là đồ ngốc, người chồng thấy vợ nói liền vỗ tay đắc thắng lấy bánh ăn, để mặc cho kẻ trộm trêu ghẹo vợ”.

Chỉ một mẩu chú thích nhỏ này cho thấy thái độ nghiêm túc, trung thực của học giả Đào Duy Anh khi kế thừa thành quả nghiên cứu của người khác, đồng thời cũng nói lên sự trọng thị của ông đối với bản dịch của Thiều Chửu.

Cũng như vậy, ở trường hợp dịch chữ “lũy lí” (vốn nghĩa là cái sọt, cái giành để đựng đất) trong bài Phổ thuyết sắc phân, Đào Duy Anh đã dùng lại cách dịch “lấy nong mà đậy” của Thiều Chửu và ghi chú rõ “dịch theo Thiều Chửu”.

Tưởng không cần dẫn chứng rườm rà thêm cũng có thể kết luận rằng: Mặc dù từ năm 1974 đã ra đời bản dịch Khóa hư lục của Đào Duy Anh, một bản dịch chất lượng cao mà ưu điểm nổi trội tuyệt đối là công phu khảo cứu phiên âm sách Khóa hư giải âm của Phúc Diễn hòa thượng viết bằng chữ Nôm ở thế kỷ XIX, cùng với phần dịch thêm Những bài luận và tự kèm 368 mục chú thích cực kỳ tỉ mỉ, uyên bác; nhưng bản dịch Thiều Chửu vẫn giữ nguyên giá trị của nó, xứng đáng là một bản dịch tín nhã đạt, là một cột mốc không thể nào quên trong lịch trình dịch chú Khóa hư lục, và cả trong lịch sử dịch thuật của nước nhà.

Đương nhiên, bản dịch của Thiều Chửu chưa phải là toàn bích. Như trường hợp ông dịch chữ “thác thược” thành “cái túi” trong câu:

“Bất luận thượng trí hạ ngu, tận thuộc phôi thai chi nội;
Khởi vấn nhất nhân triệu tính, hàm quy thác thược chi trung”.

Dịch thành:

“Chẳng kể chi bậc rất khôn hay bậc rất ngu, đều ở trong bào thai cả;
Chẳng kể chi một người hay cả muôn họ, đều về cái túi kiền khôn ráo.”

Đúng ra, “thác thược” là cái ống bễ lò rèn, đây chỉ cái lò tạo hóa.

Tuy nhiên, chỉ một vài lỗi nhỏ ấy không thể làm lu mờ công lao phiên dịch cả một bộ sách lớn và khó như Khóa hư lục.

Phan Văn Các (Theo tạp chí Hán Nôm)

--------

CHÚ THÍCH:

(1) Khóa hư diễn nghĩa, Thiều Chửu biên dịch (tái bản lần thứ nhất), Đuốc Tuệ, 1939.

(2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, q. XLV Văn tịch chí, Bản dịch Viện sử học, Nxb. KHXH, H. 1992. tập III, tr.161.

(3) Khóa hư lục, phụ thơ của Tuệ Trung thượng sĩ, Đào Duy Anh giới thiệu, phiên dịch và chú giải. Nxb. KHXH, H. 1974, Lời đầu sách, tr.11.

(4), (5), (7) Thiều Chửu, sđd, Thể lệ dịch kinh, tr. 2.

(6), (8) Đào Duy Anh, sđd, Lời đầu sách, tr.13.