9. Tương Ưng Xá-lợi-phất, Kinh 487-499

TỤNG IV. ĐỆ TỬ SỞ THUYẾT [1]

9. TƯƠNG ƯNG XÁ-LỢI-PHẤT [2]

KINH 489. DIÊM-PHÙ-XA [3]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại xóm Na-la, [4] nước Ma-kiệt-đề.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng ở xóm Na-la, Ma kiệt đề.

Khi ấy, có xuất gia ngoại đạo tên là Diêm-phù-xa, [5] là bạn cũ của Xá-lợi-phất, [6] đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất. Sau khi cùng nhau thăm hỏi sức khỏe, ông ngồi xuống một bên, hỏi Xá-lợi-phất:

“Trong pháp luật của Hiền Thánh có việc gì khó?” [7]

Xá-lợi-phất bảo Diêm-phù-xa:

“Chỉ có xuất gia là khó.”

“Xuất gia, cái gì là khó?”

Đáp:

“Ái lạc [8] khó.”

“Ái lạc cái gì là khó?”

Đáp:

“Thường tu tập thiện pháp là khó.” [9]

1. Diêm-phù-xa lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự sự thực hành [10] nào mà tu tập, tu tập nhiều, thường tu tập, thiện pháp tăng trưởng không?”

Đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Diêm-phù-xa nói:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đây là con đường tốt đẹp, đây là sự thực hành tốt đẹp, nếu được tu tập, tu tập nhiều, đối với các pháp thiện thường tu tập để tăng trưởng. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, nếu người xuất gia luôn luôn tu tập con đường này, chẳng bao lâu sẽ nhanh chóng diệt tận được các hữu lậu.”

Khi ấy hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

Tương tự như kinh trên, với nhưng câu hỏi của Diêm-phù-ca, gồm 40 kinh. [11]

2. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [12]

“Thế nào là vị khéo thuyết pháp? Thế nào là vị chánh hướng trong đời? [13] Thế nào là vị thiện thệ trong đời?” [14]

“Nói là Niết bàn; vậy thế nào là Niết bàn?”

Xá-lợi-phất nói:

“Nếu thuyết pháp mà điều phục dục tham, điều phục sân nhuế, điều phục ngu si; đó gọi là vị khéo thuyết pháp. Nếu hướng đến sự điều phục dục tham, hướng đến sự điều phục sân nhuế, hướng đến sự điều phục ngu si; đó gọi là chánh hướng. Nếu tham dục đã bị đoạn tân, đã được biến tri không dư tàn; sân nhuế và ngu si đã bị đoạn tận, đã được biên tri không dư tàn; đó gọi là thiện thệ.”

Lại hỏi:

“Có con đường nào, có sự sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, thường tu tập, có thể phát khởi thiện thệ?” [15]

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến đến chánh định.”

 [126b] Sau khi hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

3. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [16]

“Nói là Niết-bàn; thế nào là Niết-bàn?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Niết bàn là sự đoạn tận vĩnh viễn tham dục; sự đoạn tận vĩnh viễn sân nhuế, ngu si; sự đoạn tẩn vĩnh viễn tất cả các phiền não. Đó gọi là Niết bàn.”

“Có con đường nào, có sự sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, thường tu tập, chứng đắc Niết-bàn chăng?”

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến đến chánh định.”

Sau khi hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

4. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [17]

“Vì sao ở chỗ Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Vì để đoạn trừ tham dục, đoạn trừ sân nhuế, đoạn trừ ngu si nên ở chỗ Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh.” [18]

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều thì có thể đoạn được tham dục, sân nhuế, ngu si không?”

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến đến chánh định.”

Sau khi hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

5. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [19]

“Nói là hữu lậu đã đoạn tận. Vậy thế nào là hữu lậu đã được đoạn tận?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Hữu lậu có ba, [20] đó là dục hữu lậu, hữu hữu lậu, và vô minh hữu lậu. Ba thứ hữu lậu này đã trừ hết, không còn sót, nên gọi là hữu lậu đã được đoạn tận.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, các lậu trừ hết không.”

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến đến chánh định.”

Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả.

6. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [21]

“Nói là A-la-hán; vậy thế nào là A-la-hán?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Tham dục, sân nhuế, ngu si đã trừ sạch không còn sót, gọi là Ấ-la-hán.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, chứng đắc Ấn-la-hán không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

7.Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Nói là A-la-hán; vậy thế nào là A-la-hán?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Tham dục, sân nhuế, ngu si đã vĩnh viễn diệt tận không còn sót, đó gọi là A-la-hán.”

Lại hỏi:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà [126c] tu tập, tu tập nhiều, chứng đắc An-la-hán không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

8. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [22]

“Nói là vô minh; vậy thế nào là vô minh?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Nói là vô minh, là không biết tiền tế, không biết hậu tế, không biết tiền, hậu, trung tế; [23] không biết Phật, Pháp, Tăng; không biết khổ, tập, diệt, đạo; không biết thiện, bất thiện, và vô ký; không biết trong, không biết ngoài. Nếu đối với những sự này hay sự kia mà không biết, bị ám chướngthì đó gọi là vô minh.” [24]

Diêm-phù-xa nói với Xá-lợi-phất:

“Đây là khối u ám vĩ đại.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều,  đọan trừ vô minh không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

9. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là hữu lậu, vậy thế nào là hữu lậu?”

Như trên đã nói. [25]

10. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [26]

“Nói là hữu; vậy thế nào là hữu?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Hữu có ba, đó là dục hữu, sắc hữu, và vô sắc hữu.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

 “Có con đường nào, có hướng đến nào để tu tập, và khi tu tập nhiều thì có thể đọan trừ những hữu này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

11. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [27]

“Nói là hữu thân; [28] vậy thế nào là hữu thân?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Hữu thân, đó là năm thủ uẩn. Thế nào là năm thủ uẩn? Đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào, để đọan trừ hữu thân này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

12. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [29]

“Nói là khổ; vậy thế nào là khổ?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Khổ là chỉ cho sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ân ái xa cách nhau khổ, oán ghét gặp nhau khổ, những gì cầu không được khổ, lược nói về khổ của năm thủ uẩn;đó gọi là khổ.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để có thể đọan trừ [127a] những khổ này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

13. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [30]

“Nói là lưu; [31] vậy thế nào là lưu?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Lưu là chỉ cho dục lưu, hữu lưu, kiến lưu và vô minh lưu.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thể đọan trừ những lưu này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

14. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [32]

“Nói là ách; [33] vậy thế nào là ách?”

Ách cũng nói như lưu.

15. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [34]

“Nói là thủ; [35] vậy thế nào là thủ?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Thủ có bốn, đó là dục thủ, ngã thủ, kiến thủ, và giới thủ.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thể đọan trừ những thủ này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

16. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [36]

“Nói là hệ phược; [37] vậy thế nào là hệ phược?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Phược có bốn, đó là tham dục phược, sân nhuế phược, giới thủ phược, và ngã kiến phược.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

 “Có con đường nào, có sự thực hành nào màtu tập, tu tập nhiều, có thể đọan trừ những phược này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

17. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [38]

“Gọi là kết, vậy thế nào là kết?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Kết có chín, [39] đó là ái kết, nhuế kết, mạn kết, vô minh kết, kiến kiết, tha thủ kết, [40] nghi kết, tật kết, và xan kết.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để màtu tập, tu tập nhiều, có thể đọan trừ những kết này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

18. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [41]

“Gọi là sử, vậy thế nào là sử?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Sử có bảy, đó là tham dục sử, sân nhuế sử, hữu ái sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử và nghi sừ.” [42]

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, [127b] có sự thực hành nào để có thể tu tập, và khi tu tập nhiều, có thể đọan trừ những sử này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

19. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [43]

“Gọi là dục, vậy thế nào là dục?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Dục là, đối với sắc được nhận thức bởi mắt đáng yêu, đáng thích, đáng nhớ nghĩ, mà đam mê sắc. Tiếng được nhận thức bởi tai, hương bởi mũi, vị bởi lưỡi, xúc bởi thân đáng yêu, đáng thích, đáng nghĩ nhớ, nhiễm đắm xúc.

“Này Diêm-phù-xa, năm phẩm chất này không phải là dục. Nhưng dục chỉ do giác tưởng tư duy.”

Bấy giờ, Xá-lợi-phất liền nói bài kệ:

Tất cả sắc thế gian,

Không phải ái dục sử, [44]

Duy chỉ là giác tưởng,

Đó chính là người dục. [45]

Bao nhiêu hiện sắc này,

Thường ở tại thế gian,

Điều phục tâm ái dục,

Đó là người thông tuệ.

Diêm-phù-xa hỏi lại Xá-lợi-phất:

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để có thể tu tập, và khi tu tập nhiều, cóthể đọan trừ được những dục này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bà luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

20. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là cái, vậy thế nào là cái?” [46]

Xá-lợi-phất đáp:

“Cái có năm, đó là tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo hối cái, và nghi cái.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để có thể tu tập, và khi tu tập nhiều, có thể đọan trừ được những cái này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

21. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [47]

“Gọi là sự nghỉ ngơi, vậy thế nào là sự nghỉ ngơi?” [48]

Xá-lợi-phất đáp:

“Sự nghỉ ngơi là sự đoạn trừ ba kết sử.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để có thể tu tập, và khi tu tập nhiều, có thể đọan trừ được ba kiết sử này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

22. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [49]

“Nói là người đạt đến chỗ nghỉ ngơi; [50] vậy thế nào là người đạt đến chô nghỉ ngơi?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Người đạt đến sự nghỉ ngơi là người mà ba kiết sử đã bị đoạn, đã được biết.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để có thể đọan trừ được ba kết sử này không?”

Tôn giả [127c] Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

23. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là đạt đến sự nghỉ ngơi tối thượng, [51] vậy thế nào là đạt đến sự nghỉ ngơi tối thượng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Đạt đến sự nghỉ ngơi tối thượng là đã vĩnh viễn đoạn tận tham dục, sân nhuế, và ngu si. [52] Đó gọi là đạt đến sự nghỉ ngơi tối thượng.” [53]

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều thì có thể đạt đến sự nghỉ ngơi tối thượng không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

24. Diêm-phù-xa hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: [54]

“Gọi là đạt đến chỗ nghỉ ngơi tối thượng; [55] vậy thế nào là được chỗ dừng nghỉ bậc thượng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Đạt đến chỗ nghỉ ngơi tối thượng là đối với tham dục vĩnh viễn đã đoạn, đã biết không dư tàn ; đối với sân nhuế, ngu si, vĩnh viễn đã đoạn, đã biết không dư tàn . Đó gọi là chỗ dừng nghỉ bậc thượng.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thể đạt đến chỗ nghỉ ngơi tối thượng không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

25. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Nói là thanh lương, [56] vậy thế nào là thanh lương?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Thanh lương là năm hạ phần kết đã trừ sạch, tức là thân kiến, giới thủ, nghi, tham dục, và sân nhuế.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thể đọan trừ năm hạ phần kết này, để đạt đến thanh lương không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

26. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [57]

“Gọi là người đã được thanh lương, vậy thế nào là người đã được được thanh lương?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Người mà năm hạ phần kêt, đã đoạn tân, đã biến tri, đó gọi là người đã được thanh lương.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, được thanh lương không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

27. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là thanh lương bậc thượng, vậy thế nào là thanh lương bậc thượng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Thanh lương bậc thượng là tham dục, sân nhuế, ngu si đã vĩnh viễn trừ sạch không còn; tất cả mọi thứ phiền não đã vĩnh viễn trừ sạch không còn. Đó [128] gọi là thanh lương bậc thượng.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, đạt được thanh lương bậc thượng không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

28. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Nói là người đạt được thanh lương bậc thượng, vậy thế nào là người đạt được thanh lương bậc thượng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Người đạt được thanh lương bậc thượng là người mà tham dục đã vĩnh viễn đoạn trừ, vĩnh viễn biến tri không dư tàn; đối với sân nhuế, và ngu si đã vĩnh viễn đoạn trừ, vĩnh viễn biến tri không dư tàn. Đó gọi là người đạt được thanh lương bậc thượng.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, được thanh lương bậc thượng này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

29. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: [58]

“Gọi là ái, vậy thế nào là ái?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Ái có ba, đó là dục ái, sắc ái, và vô sắc ái.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thẻ diệt trừ được ba ái này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

30. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là nghiệp đạo, [59] vậy thế nào là nghiệp đạo?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Nghiệp đạo. đó là mười nghiệp đạo bất thiện, tức sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, và tà kiến.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào để diệt trừ mười nghiệp đạo này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bà luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

31. Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là ô uế, vậy thế nào là ô uế?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Uế có ba, đó là tham dục, sân nhuế, và ngu si.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Có con đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, có thể trừ được ba uế này không?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Có, đó là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định.”

 Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy từ giả nhau.

Như kinh uế, cũng vậy các kinh nói về [32] cáu bẩn, [33] cáu ghét, [34] gai nhọn, [35] luyến, và [36] hệ phược cũng như vậy.

KINH 490. SA-MÔN XUẤT GIA SỞ VẤN [60]

Như kinh Diêm-phù-xa hỏi, kinh Sa-môn xuất gia hỏi cũng như vậy.

KINH 491. NÊ THỦY [61]

 [128b] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất cũng đang ở đây. Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất nói với các Tỳ-kheo :

“Tỳ-kheo được vô lượng tam muội, [62] thân tác chứng, thành tựu và an trụ. Nhưng đối với Niết-bàn, sự diệt tận của hữu thân [63], mà tâm vị ấy không hoan hỷ, [64] vẫn luyến tiếc hữu thân. [65] Giống như người tay dính keo mà nắm trên cành cây; tay liền bị dính trên cành không gỡ ra được. Vì sao? Vì keo dính tay.

“Nếu Tỳ-kheo tự thân đã tác chứng vô lượng tam-ma-đề, nhưng tâm không hoan hỷ [66] đối với Niết bàn, sự diệt tận của hữu thân; vẫn luyến tiếc hữu thân, trọn không thể thoát ly, ngay trong đời này không được tùy thuận pháp giáo, cho đến khi mạng chung cũng không sở đắc mà phải sanh lại cõi này; cuối cùng rồi cũng không phá được sự si ám. Như bên cạnh làng có ao bùn; lớp bùn rất sâu. Lâu ngày trời không mưa, nước ao khô cạn, đất nứt nẻ ra. Cũng vậy, Tỳ-kheo ngay trong đời này không được tuỳ thuận pháp giáo, cho đến khi mạng chung cũng không sở đắc, và sẽ trở lại đọa vào cõi này.

“Tỳ-kheo đắc vô lượng tam muội, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú; vị ấy đối với Niết-bàn hữu thân diệt mà tâm sanh ra hâm mộ, không luyến tiếc hữu thân. Giống như người dùng bàn tay khô ráo, sạch sẽ, vịn vào cành cây; tay sẽ không bị dính theo cây. Vì sao? Vì bàn tay sạch. Cũng vậy, Tỳ-kheo đắc vô lượng tam muội, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú, đối với sự diệt tận của hữu thân, [67] Niết-bàn, tâm sanh hâm mộ, không luyến tiếc hữu thân; ngay trong đời này tùy thuận pháp giáo, cho đến khi mạng chung không còn sanh lại cõi này nữa.

“Cho nên, Tỳ-kheo, phải siêng năng phương tiện phá tan vô minh. Cũng như bên cạnh làng có ao bùn, nước từ bốn phía chảy vào, trời lại hay mưa, nước thường vào ao đầy dẫy, đồ bẩn chảy ra hết, ao nước này trở nên trong sạch. Cũng vậy Tỳ khso ngay trong đời này mà tùy thuận pháp giáo; cho đến khi mạng chung sẽ không còn sanh trở lại cõi này. Bỡi vậy, Tỳ-kheo, phải siêng năng phương tiện phá tan vô minh.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Tôn giả dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 492. THỪA THUYỀN NGHỊCH LƯU [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất cũng đang ở đây. Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất nói với các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo a-luyên-nhã, [69] hoặc ở giữa đất trống, trong rừng, dưới bóng cây, nên học như vầy: Quay vào bên trong mà tư duy, quán sát, tự biết trong tâm còn có dục tưởng không? Nếu không tự biết được, [128c] ở nơi cảnh giới hoặc ở nơi tịnh tướng, ở đó sẽ có ái dục khởi lên, trái với hạnh viễn ly. [70] Giống như người dùng sức chèo thuyền nghịch dòng đi lên, thân nếu hơi mệt mỏi, biếng nhác, thuyền quay trở lại, xuôi dòng đi xuống. Cũng vậy, Tỳ-kheo khi tư duy tịnh tưởng, trở lại sinh ra ái dục, trái với hạnh viễn ly. Tỳ-kheo này tu học, tu phương tiện thấp kém, hành không thuần tịnh. Vì vậy lại bị ái dục cuốn trôi, không được pháp lực, tâm không tĩnh lặng, tâm không chuyên nhất; đối với tịnh tướng kia theo đó mà sinh ái dục, trôi nổi lăn lóc, trái với hạnh viễn ly. Nên biết, Tỳ-kheo này, không dám tự xác nhận là đối với năm phẩm chất của dục mà ly dục, giải thoát.

“Nếu Tỳ-kheo nào ở nơi đất trống, trong rừng hoặc dưới bóng cây, tư duy như vầy: ‘Trong nội tâm ta đã ly dục chưa?’ Tỳ-kheo này sẽ ở nơi cảnh giới hoặc tiếp nhận tịnh tướng, mà biết tâm mình đã xa lìa tướng ấy, không tuỳ thuận tiến vào dòng xoáy. Giống như lông chim vào lửa thì bị quắn lại, không giản nở ra. Cũng vậy, Tỳ-kheo nào, hoặc tiếp nhận tịnh tướng mà tuỳ thuận viễn ly, không tuỳ thuận tiến vào dòng xoáy.

“Tỳ-kheo, nên biết như vầy, đối với phương tiện thực hành tâm không biếng nhác, chứng đắc pháp, tịch tĩnh, tĩnh chỉ, an ổn, khoái lạc, thuần tịnh nhất tâm, và tự nói: ‘Ta sau khi tư duy, đối với tịnh tướng mà tuỳ thuận viễn ly, tùy thuận tu đạo, có thể tự xác nhận, đối với năm phẩm chất của dục, đã ly dục giải thoát.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Tôn giả dạy, hoan hỷ, phụng hành.

KINH 493. KHÔ THỌ [71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đang ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Bấy giờ, sáng sớm, Tôn giả đắp y mang bát ra khỏi núi, vào thành Vương xá khất thực; thấy bên lề đường một cây đại thọ khô liền đến bên cây này trải tọa cụ ngồi ngay thẳng, và nói với các Tỳ-kheo :

“Tỳ-kheo tu tập thiền tứ, đạt được thần thông, tâm được tự tại, muốn biến cây khô này thành đất, nó sẽ thành đất liền. Vì sao? Vì trong cây khô này có địa giới. Cho nên Tỳ-kheo có sức thần thông, tâm muốn tạo ra đất, tức thì thành đất không khác. Nếu có Tỳ-kheo nào đạt được sức thần thông, tự tại như ý, mà muốn khiến cây này thành nước, lửa, gió, vàng, bạc v.v… tất cả đều thành tựu không khác. Vì sao? Vì cây khô này có thủy giới. Cho nên, Tỳ kheo [129a] thiền tứ, được sức thần thông, tự tại như ý; nếu muốn khiến cây khô này thành vàng, tức thì thành vàng không khác, và những vật khác cũng đều thành tựu như vậy. Vì sao? Vì cây khô này có các giới. Cho nên, Tỳ-kheo thiền tứ, được sức thần thông, tự tại như ý, nến muốn làm thành các vật khác thì cũng đều thành tựu không khác. Tỳ-kheo nên biết, khi Tỳ-kheo thiền tứ, cảnh giới thần thông không thể nghĩ bàn. Cho nên, Tỳ-kheo phải tinh cần thiền tứ, học các thần thông.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Tôn giả dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 494. GIỚI [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đang ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo :

“Người phạm giới, vì phá giới nên sở y sút giảm, tâm không an trú với sự an lạc. [73] Vì tâm không an trú với sự an lạc nên mất hoan hỷ, tĩnh chỉ, an lạc, tam-muội tịch tĩnh; mất tri kiến như thật, [74] sự yếm ly, ly dục, giải thoát, vĩnh viễn không thể đạt được vô dư Niết bàn. Giống như cây bị mục thì tất cả cành, lá, hoa, trái đều không thể thành tựu. Tỳ-kheo phạm giới lại cũng như vậy, công đức sút giảm, [75] tâm không an trú với sự an lạc. Vì tâm không an trú với sự an lạc [76] nên mất hoan hỷ, tĩnh chỉ, an lạc, tam-muội tịch tĩnh; mất tri kiến như thật, sự yếm ly, ly dục, giải thoát. Do thói thất giải thoát nên vĩnh viễn không thể đạt được vô dư Niết bàn.

“Tỳ-kheo trì giới, căn bổn đầy đủ, sở y đầy đủ, tâm được tin vui. Vì được tin vui nên tâm được hoan hỷ, tĩnh chỉ, an lạc, đạt đến tam muội tịch tĩnh, thấy biết như thật, yếm ly, ly dục, giải thoát. Do được giải thoát, nhanh chóng đạt đến vô dư Niết bàn. Ví như gốc cây không bị mục, thời cành, lá, hoa, trái đều được thành tựu. Tỳ-kheo trì giới lại cũng như vậy, căn bổn đầy đủ, sở y đầy đủ, tâm được tin vui. Vì được tin vui nên tâm được hoan hỷ, tĩnh chỉ, an lạc, đạt đến tam muội tịch tĩnh, thấy biết như thật, yếm ly, ly dục, giải thoát. Do được giải thoát, nhanh chóng đạt đến vô dư Niết bàn.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đã nói xong, hoan hỷ phụng hành.

KINH 495. TRÁNH [77]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu các Tỳ-kheo khởi lên tranh cãi với nhau, có Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo cử tội. Nhưng tì-kheo này, nếu không bằng vào tư duy đúng mà tự phản tỉnh quán sát, nên biết, Tỳ-kheo này ngang ngạnh lâu dài, tranh cãi, kiện tụng [129b] càng tăng, chống đối nhau, nuôi hận càng ngày càng sâu. Đối với những tội lỗi đã khởi lên, không thể dùng chánh pháp luật ngăn chận cho dừng lại được.

“Nếu Tỳ-kheo đã khởi lên việc tranh tụng, nhưng Tỳ-kheo phạm tội, hay Tỳ-kheo cử tội, bằng vào tư duy đúng mà tự phản tỉnh quán sát, chịu khiển trách, nên biết, Tỳ-kheo này không ngang ngạnh lâu dài, không chống đối nhau, hận thù không còn tăng trưởng; đối với tội đã khởi có thể dùng chánh pháp luật để ngăn chận cho dừng lại.

“Thế nào là Tỳ-kheo bằng tư duy đúng mà tự phản tỉnh quán sát? Tỳ-kheo nên tư duy như vầy: ‘Ta thật sự không phải, không tốt, không nên tạo tội, để cho người khác bắt gặp mình. Nếu ta không tạo tội này thì người kia sẽ không bắt gặp. Vì người kia bắt gặp ta phạm tội, khiến họ không vui vẻ, và hiềm trách nên cử tội. Còn những Tỳ-kheo khác nếu nghe cũng sẽ hiềm trách. Cho nên việc tranh tụng xảy ra lâu dài, tính nganh ngạnh càng tăng, và tranh cãi với nhau. Đối với những tội đã khởi, không thể dùng pháp luật chánh ngăn chận cho dừng lại được. Nay ta tự biết như mình đã nộp thuế.’ [78] Đó gọi là Tỳ-kheo đối với những tội đã khởi có thể tự quán sát.

“Thế nào là Tỳ-kheo cử tội có thể tự phản tỉnh quán sát? Tỳ-kheo cử tội nên nghĩ như vầy: ‘Trưởng lão Tỳ-kheo này phạm tội không tốt khiến ta bắt gặp. Nếu vị ấy không phạm tội không tốt đó thì ta đâu có bắt gặp. Vì ta đã bắt gặp tội của người này khiến không vui nên phải nói ra. Còn những Tỳ-kheo khác nếu bắt gặp thì cũng sẽ không vui, và cung sẽ nêu tội. Sự tranh tụng cứ như vậy kéo dài tăng trưởng không dừng, không thể dùng pháp luật chánh để ngăn chận những tội đã làm, khiến cho dừng lại. Từ ngày hôm nay ta tự mình từ bỏ nó, như mình nộp thuế.’ Như vậy Tỳ-kheo cử tội nên khéo y cứ vào tư duy đúng, để nội tỉnh quán sát.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, người có tội và người cử tội phải y cứ vào tư duy đúng, tự quán sát đừng để cho sự ngang ngạnh tăng trưởng thêm lên. Này các Tỳ-kheo, không nên tranh tụng nữa, nếu việc tranh tụng có khởi lên thì có thể dùng pháp luật chánh ngăn chận khiến nó dừng lại.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe rồi, hoan hỷ phụng hành.

KINH 496. CỬ TỘI [79]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo cử tội muốn cử tội người khác, khiến cho tâm an trụ, cần có bao nhiêu pháp để có thể cử tội người khác?”

Phật dạy Xá-lợi-phất :

“Nếu Tỳ-kheo nào khiến tâm an trụ, có đủ năm pháp có thể cử tội người khác. [129c] Năm pháp đó là: Thật, chứ không phải không thật. Đúng thời, chứ không phải phi thời. Ích lợi, chứ chẳng phải không ích lợi. Nhu nhuyến, chứ không thô bạo. Từ tâm, chứ không sân hận. Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo nào muốn cử tội thì phải đủ năm pháp này mới được cử tội người khác.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo bị cử tội, phải dùng bao nhiêu pháp để có thể tự an tâm mình?”

Phật dạy Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo bị cử tội phải nhờ vào năm pháp khiến cho tâm mình được an. Phải nghĩ rằng, ‘Người này do đâu mà biết đươc? Hãy là sự thật chứ đừng là không thật. Mong cho đúng thời, chứ đừng khiến phi thời. Mong cho vì ích lợi chứ đừng khiến không vì ích lợi. Mong nhu nhuyến, đừng khiến thô bạo. Mong là từ tâm, đừng khiến sân hận. Này Xá-lợi-phất, người bị cử tội phải đủ năm pháp này thì mới tự an được tâm mình.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con thấy có sự cử tội người khác mà không thật, chứ chẳng phải thật; phi thời, chứ chẳng phải đúng thời; không vì ích lợi, chứ chẳng phải vì ích lợi; thô bạo, chứ không nhu nhuyến; sân nhuế, chứ không có từ tâm. Bạch Thế Tôn, đối với Tỳ-kheo cử tội người khác mà không đúng sự thật đó, phải dùng bao nhiêu pháp vì lợi ích khiến cho hối cải?”

Phậy dạy Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo cử tội mà không đúng sự thật, phải dùng năm pháp vì lợi ích khiến cho hối cải. Nên nói với người ấy rằng, ‘Trưởng lão, hôm nay trưởng lão cử tội, không thật chứ chẳng phải thật. Trưởng lão nên hối cải. Phi thời chứ chẳng phải đúng thời; không vì ích lợi, chứ chẳng phải vì ích lợi; thô bạo, chứ không nhu nhuyến; sân nhuế, chứ không có từ tâm. Trưởng lão nên hối cải.’ Này Xá-lợi-phất, đối với Tỳ-kheo cử tội người khác mà không đúng sự thật, phải dùng năm pháp vì lợi ích này, khiến cho hối cải, cũng khiến cho Tỳ-kheo trong vị lai không cử tội người khác mà không đúng sự thật.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo bị cử tội không đúng sự thật, phải dùng bao nhiêu pháp để khiến cho không bị biến tâm [80]?”

Phật dạy Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo bị cử tội không đúng, phải nhờ vào năm pháp để không tự biến tâm. Người này phải nghĩ như vầy, ‘Tỳ-kheo kia cử tội không thật, chứ chẳng phải thật; phi thời chứ chẳng phải thời; không vì lợi ích chứ chẳng phải vì lợi ích, thô bạo chứ chẳng phải nhu nhuyến, sân hận chứ không phải từ tâm. Ta thật sự không biến tâm.’ Tỳ-kheo bị cử tội không thật đó phải nhờ vào năm pháp này để tự an tâm mình, không tự biến tâm.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có Tỳ-kheo cử tội đúng sự thật, chứ không phải không thật; đúng thời không phải không đúng thời; vì ích lợi chứ không phải không vì ích lợi; nhu nhuyến chứ không phải thô bạo; từ tâm chứ không phải sân hận; Tỳ-kheo cử tội đúng đó nên bằng bao nhiêu pháp vì lợi ích để không bị cải biến?”

Phật bảo Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo [130a] cử tội đúng sự thật, nên bằng năm pháp vì lợi ích để khiến cho không bị biến cải. Nên nói như vầy, ‘Trưởng lão, ngài đã cử tội đúng sự thật chứ không phải không thật; đúng thời chứ không phải phi thời; vì ích lợi chứ không phải không vì ích lợi; nhu nhuyến chứ không phải thô bạo; từ tâm chứ không phải sân hận.’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo nào cử tội đúng thì phải bằng năm pháp lợi ích này để khiến Tỳ-kheo đó không bị biến tâm, và cũng để cho Tỳ-kheo vị lai cử tội người khác đúng mà không bị biến tâm.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo bị cử tội đúng, phải bằng bao nhiêu pháp vì lợi ích để không bị biến tâm?”

Phật dạy Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo bị cử tội đúng, phải bằng năm pháp lợi ích này để không bị biến tâm. Nên nói như vầy, ‘Tỳ-kheo này cử tội đúng chứ không phải không đúng, ông chớ biến tâm; đúng thời chứ không phải phi thời; nghĩa lợi chứ không phải không nghĩa lợi; nhu nhuyến chứ không phải thô bạo; có từ tâm chứ không phải sân hận, ông chớ biến tâm.”

Xá-lợi-phất bạch phật:

“Bạch Thế Tôn, con thấy Tỳ-kheo bị cử tội đúng mà lại sân hận. Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo bị cử tội đúng mà sân hận, phải dùng bao nhiêu pháp để tự giải toả đối với sân hận?”

Phật dạy Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo bị cử tội đúng mà khởi lên sân hận, phải dùng năm pháp để tự giải toả. Nên nói vơi người ấy rằng, ‘Trưởng lão, Tỳ-kheo cử tội ông là đúng sự thật chứ không phải không thật, ông chớ sân hận … cho đến từ tâm chứ không phải sân hận.’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo bị cử tội đúng mà khởi lên sân hận, nên dùng năm pháp này để đối với sân hận được giải tỏa.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có người cử tội đúng, có người không đúng; đối với hai người này con tự an tâm. Nếu kia đúng sự thật thì con phải tự biết. Nếu kia không đúng thì con phải tự hóa giải rằng, ‘Điều đó không đúng, nay ta tự biết là không có cái lỗi này.’ Bạch Thế Tôn, con phải như vậy, như những gì Thế Tôn đã dạy trong kinh thí dụ xẻ gỗ, [81] dạy các Sa-môn : ‘Nếu có giặc đến bắt ông dùng cưa, cưa xẻ thân ông. Các ông đối với giặc mà khởi lên niệm ác, nói lời ác, tự sinh ra chướng ngại. Cho nên, Tỳ-kheo, nếu bị giặc dùng cưa, cưa xẻ thân các ông, các ông đối với giặc chớ khởi lòng ác, và nói lời ác, chỉ tự làm chướng ngại mình mà thôi. Đối vớí những người đó nên sinh lòng từ bi, không oán, hận; chứng nhập, thành tựu và trú với từ tâm cùng khắp bốn phương cảnh giới.’ Cho nên, bạch Thế Tôn, con phải như vậy, như lời Thế Tôn đã dạy, là đối với cái khổ thân bị cưa xẻ mà còn tự [130b] an nhẫn; huống chi những cái khổ nhỏ nhặt, hay những lời phỉ báng nhỏ nhặt mà không an nhẫn được. Vì mục đích của Sa-môn, vì ước muốn của Sa-môn, muốn đoạn trừ pháp bất thiện, muốn tu tập pháp thiện thì đối với pháp bất thiện này nên đoạn trừ; đối với pháp thiện thì nên phương tiện tu tập tinh cần, khéo tự phòng ngừa, buộc niệm tư duy, không để buông lung. Hãy tu học như vậy.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu con cử tội Tỳ-kheo khác, đúng sự thật chứ không phải không thật; đúng thời chứ không phải không đúng thời; có nghĩa lợi chứ không phải không nghĩa lợi; nhu nhuyến chứ không phải thô bạo; có từ tâm chứ không phải sân hận, nhưng có Tỳ-kheo bị cử tội kia vẫn ôm lòng thù hận.”

Phật hỏi Xá-lợi-phất :

“Tỳ-kheo loại nào khi nghe cử tội mà mà sanh tâm thù hận?”

Xá-lợi-phất bạch phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo kia cong vạy, giả dối, lừa gạt, bất tín, không tàm quý, biếng nhác, mất niệm, không định, ác tuệ, ngã mạn, trái với hạnh viễn ly, không kính giới luật, không trọng Sa-môn, không siêng năng tu học, không tự tỉnh quán sát, vì kế sống mà xuất gia, không vì cầu Niết bàn; những người như vậy nghe con cử tội liền sinh sân nhuế.”

Phật hỏi Xá-lợi-phất :

“Những hạng Tỳ-kheo nào nghe ngươi cử tội mà không sân hận?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo tâm không cong vạy, không giả dối, lừa gạt, có chánh tín, biết tàm quý, tinh cần chánh niệm, chánh định, trí tuệ, không ngã mạn, không bỏ hạnh xa lìa, kính sâu giới luật, trọng hạnh Sa-môn, tôn sùng Niết bàn, vì pháp xuất gia, không vì kế sống; những Tỳ-kheo như vậy nghe con cử tội thì hoan hỷ nhận lãnh như uống cam lồ. Như người nữ dòng Sát-lị hay Bà-la-môn tắm gội sạch sẽ, được hoa đẹp đẽ, yêu thích, đội lên đầu, cài lên đầu. Cũng vậy, Tỳ-kheo không cong vạy, không giả dối, lừa gạt, chánh tín, có tàm quý, tinh cần, chánh niệm, chánh định, trí tuệ, không ngã mạn, tâm giữ hạnh xa lìa, kính sâu giới luật, trọng hạnh Sa-môn, siêng tu tập, tự tỉnh, vì pháp xuất gia, chí cầu Niết bàn, Tỳ-kheo như vậy khi nghe con cử tội vui vẻ nhận lãnh như uống cam lồ.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Nếu Tỳ-kheo này cong vạy, giả dối, lừa gạt, bất tín, không hổ thẹn, biếng nhác, mất niệm, không định, ác tuệ, ngã mạn, trái với hạnh xa lìa, không kính giới luật, không trọng hạnh Sa-môn, không cầu Niết bàn, vì kế sống xuất gia, đối Tỳ-kheo như vậy không nên dạy dỗ và nói chuyện. Vì sao? Vì những Tỳ-kheo này phá [130c] phạm hạnh. Tỳ-kheo không cong vạy, không giả dối, không lừa gạt, có tín, có tàm quý, tinh cần, chánh niệm, chánh định, trí tuệ, không ngã mạn, tâm giữ hạnh viẽn ly, kính sâu giới luật, trọng hạnh Sa-môn, chí sùng Niết bàn, vì pháp xuất gia, những Tỳ-kheo như vậy phải nên dạy dỗ. Vì sao? Vì những Tỳ-kheo này thường tu phạm hạnh, có thể tự đứng vững.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 497. NA-LA-KIỀN-ĐÀ [82]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trụ tại Na-la-kiền-đà, [83] trong vườn Am-la của người buôn vải. [84]

Bấy giờ, Xá-lợi-phất đi đến chỗ Phật. Sau khi đảnh lễ dưới chân Phật, Tôn giả ngồi sang một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, con tin sâu xa Thế Tôn rằng, trí tuệ của các Sa-môn, Bà-la-môn dù là quá khứ, vị lai hay hiện tại thảy đều không bằng sự giác ngộ [85] của Thế Tôn, huống lại là hơn!”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất! Lành thay những lời nói hi hữu đệ nhất này, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, tự nói tin sâu xa Thế Tôn rằng, trí tuệ của các Sa-môn, Bà-la-môn dù là quá khứ, vị lai hay hiện tại thảy đều không bằng sự giác ngộ của Thế Tôn, huống lại là hơn!”

Phật hỏi Xá-lợi-phất:

“Ngươi có thể biết rõ về tăng thượng giới của Phật quá khứ chăng?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không biết.”

Đức Phật lại hỏi Xá-lợi-phất :

“Ngươi có biết pháp như vậy, tuệ như vậy, minh như vậy, giải thoát như vậy, và an trụ như vậy của Phật quá khứ chăng?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không biết.”

Phật lại bảo Xá-lợi-phất :

“Ngươi có biết rõ tăng thượng giới của Phật vị lai, cùng pháp như vậy, tuệ như vậy, minh như vậy, giải thoát như vậy, và an trụ như vậy chăng?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không biết.”

Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Ngươi có biết rõ giới tăng thượng của Phật hiện tại, cùng pháp như vậy, tuệ như vậy, minh như vậy, giải thoát như vậy, và an trụ như vậy chăng?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không biết.”

Phật bảo Xá-lợi-phất :

“Nếu Ngươi không biết trong tâm của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại sở hữu các pháp đó, tại sao ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, tán thán như vầy: ‘Con tin sâu xa Thế Tôn rằng: trí tuệ có được của các Sa-môn, Bà-la-môn dù là quá khứ, vị lai hay hiện tại thảy đều không bằng trí tuệ Thế Tôn, huống lại là hơn!’”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

 [131a] “Bạch Thế Tôn, con không biết giới hạn trong tâm [86] của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng con có thể biết giới hạn về pháp [87] của chư Phật Thế Tôn. Con nghe pháp được Thế Tôn nói, càng lúc càng sâu xa, càng lúc càng thù thắng, càng lúc càng tăng thượng, càng lúc càng vi diệu. Con nghe pháp được Thế Tôn nói, khi biết một pháp tức thì đoạn một pháp, biết một pháp liền chứng một pháp, biết một pháp tức thì tu tập một pháp, cứu cánh đối với pháp. Cho nên đối với Đại sư con có tín thanh tịnh, và tâm thanh tịnh. Thế Tôn là bậc Đẳng Chánh Giác.

“Bạch Thế Tôn, như quốc vương có thành trì ở biên giới, vòng thành vây quanh vuông vức, bốn mặt kiên cố, chắc chắn, chỉ có một cửa, không có cửa thứ hai. Vua sai người đứng giữ cửa; nhân dân ra vào đều từ cửa này. Việc đi ra hoặc đi vào, tuy người giữ cửa này không biết số người nhiều hay ít, nhưng biết nhân dân chỉ đi từ cửa này, không đi chỗ khác. Cũng vậy, con biết chư Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác quá khứ đã đoạn tận năm triền cái là những thứ não lọan tâm, khiến cho tuệ lực suy kém, bị rơi vào chướng ngại, không hướng đến Niết bàn; đã an trú bốn niệm xứ; đã tu tập bảy giác phần; đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác. Chư Phật Thế Tôn đời vị lai cũng đã đoạn tận năm triền cái là những thứ não lọan tâm, khiến cho tuệ lực suy kém, bị rơi vào chướng ngại, không hướng đến Niết bàn; đã an trú bốn niệm xứ; đã tu tập bảy giác phần; đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác. Nay, chư Phật Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác hiện tại cũng đã đoạn tận năm triền cái là những thứ não lọan tâm, khiến cho tuệ lực suy kém, bị rơi vào chướng ngại, không hướng đến Niết bàn; đã an trú bốn niệm xứ; đã tu tập bảy giác phần; đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Này Xá-lợi-phất, chư Phật quá khứ, vị lai, và hiện tại thảy đều đã đoạn tận năm triền cái là những thứ não lọan tâm, khiến cho tuệ lực suy kém, bị rơi vào chướng ngại, không hướng đến Niết bàn; đã an trú bốn niệm xứ; đã tu tập bảy giác phần; đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 498. THẠCH TRỤ [88]

Tôi nghe như vầy:

Một thời,  đức Phật trú tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Khi ấy có Tỳ-kheo Nguyệt Tử [89] là đệ tử của Đề-bà-đạt-đa, [90] đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất thăm hỏi xong đứng qua một bên. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tỳ-kheo Nguyệt Tử :

“Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa [131b] có thường thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo nghe không?”

Nguyệt Tử thưa:

“Thưa có thuyết pháp.”

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tỳ-kheo Nguyệt Tử :

“Đề-bà-đạt-đa thuyết pháp thế nào?”

Tỳ-kheo Nguyệt Tử thưa Tôn giả Xá-lợi-phất :

“Đề-bà-đạt-đa thuyết pháp như vầy: ‘Tỳ-kheo với tâm pháp mà tu tâm, [91] Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận rằng, Ta đã ly dục, giải thoát khỏi năm dục công đức.’”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tỳ-kheo Nguyệt Tử :

“Đề-bà-đạt-đa của ông sao không thuyết pháp như vầy, ‘Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, lìa tâm dục, lìa tâm sân nhuế, lìa tâm ngu si, được pháp không tham, được pháp không sân và không si, không trở lại pháp dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu; Tỳ-kheo ấy có thể tự xác nhận, ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa’?”

Tỳ-kheo Nguyệt Tử thưa:

“Vị ấy không thể như vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất .”

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tỳ-kheo Nguyệt Tử:

“Nếu có Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, có thể xa lìa tâm tham dục, tâm sân nhuế và tâm ngu si, được pháp không tham, không nhuế và không si, Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Ví như gần thôn ấp có núi đá lớn, không thể cắt đứt được, không thể phá nát và xuyên thủng được, nó dày đặc và kín mít. Giả sử có gió từ phương Đông thổi tới, không thể làm cho nó lay động, cũng không thể vượt qua nó để đến phương tây. Cũng vậy, gió từ phương Nam, Tây, Bắc và bốn góc thổi đến cũng không thể làm cho nó lay động và vượt qua khỏi nó. Cũng vậy, Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, có thể xa lìa tâm tham dục, tâm sân nhuế và tâm ngu si, được pháp không tham, không nhuế và không si, Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Ví như cọc trụ nhân-đà [92] bằng sắt được cắm sâu vào trong đất, đắp đất lên chặt kín, gió bốn phía có thổi đến cũng không thể lay động được. Cũng vậy, Tỳ-kheo Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, có thể xa lìa tâm tham dục, tâm sân nhuế và tâm ngu si, được pháp không tham, không nhuế và không si, Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Ví như trụ đá dài mười sáu khủy tay, cắm vào lòng đất tám khủy tay, gió bốn phương thổi đến cũng không thể lay động được. Cũng vậy, Tỳ-kheo Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, có thể xa lìa tâm tham dục, [131c] tâm sân nhuế và tâm ngu si, được pháp không tham, không nhuế và không si, Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Ví như người đốt lửa chưa cháy, cháy rồi thì không đốt nữa. Cũng vậy, Tỳ Tỳ-kheo với tâm pháp mà khéo tu tâm, có thể xa lìa tâm tham dục, tâm sân nhuế và tâm ngu si, được pháp không tham, không nhuế và không si, Tỳ-kheo này có thể tự xác nhận: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe rồi, hoan hỷ phụng hành.

KINH 499. TỊNH KHẨU [93]

Tôi nghe như vầy:

Một thời,  đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương xá.  Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất cũng đang ở đó.

Sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Vương xá khất thực. Khất thực xong, Tôn giả ngồi dưới bóng cây thọ trai. Trong lúc ấy có nữ ngoại đạo xuất gia Tịnh Khẩu [94] từ trong thành Vương xá đi ra có chút việc, gặp Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi ăn dưới bóng cây, bà tiến đến hỏi:

“Sa-môn đang ăn phải không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Vâng, đang ăn.”

Lại hỏi:

“Sao, Sa-môn cúi mặt xuống [95] mà ăn chăng?”

Đáp:

“Thưa tỷ muội, không.”

Lại hỏi:

“Ngữa mặt lên [96] mà ăn chăng?”

Đáp:

“Thưa tỷ muội, không.”

Lại hỏi:

“Xoay mặt bốn phương [97] mà ăn chăng?”

Đáp:

“Thưa tỷ muội, không”

Lại hỏi:

“Xoay mặt bốn góc [98] mà ăn chăng?”

Đáp:

“Thưa tỷ muội, không.”

Lại hỏi:

“Tôi hỏi Sa-môn đang ăn phải không, Sa-môn đáp là đang ăn. Tôi hỏi ngữa mặt lên mà ăn chăng, Sa-môn đáp là không. Hỏi cúi mặt xuống mà ăn chăng, Sa-môn đáp không. Hỏi xoay mặt bốn phương mà ăn chăng, Sa-môn đáp là không; hỏi xoay mặt bốn góc mà ăn chăng, Sa-môn đều trả lời không. Những gì Sa-môn nói như vậy là có ý nghĩa gì?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Này tỷ muội, những Sa-môn, Bà-la-môn có kiến thức về sự vật, [99] có kiến thức về hoành pháp, [100] kiếm ăn một cách tà mạng, những Sa-môn, Bà-la-môn này cúi mặt mà ăn. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào ngước mặt nhìn xem hiện tượng trăng sao, kiếm ăn một cách tà mạng như vậy thì Sa-môn, Bà-la-môn này là ngữa mặt mà ăn. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào làm sứ giả cho người khác, kiếm ăn một cách tà mạng, những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy là xoay mặt bốn phương mà ăn. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào làm thầy thuốc trị các thứ bệnh, [101] kiếm ăn một cách tà mạng, những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy là xoay mặt [132a] bốn góc mà ăn. Này tỷ muội, tôi không thuộc vào cách kiếm ăn theo bốn thứ tà mạng này, mà tôi chỉ theo đúng pháp kiếm ăn để tự nuôi sống. Cho nên, tôi nói là không phải là bốn cách ăn tà mạng đó.”

Khi xuất gia ngoại đạo tên là Tịnh Khẩu nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ từ giả, rồi bà đi đến chỗ ngã tư đường trong thành Vương xá, khen ngợi rằng: ‘Sa-môn Thích tự nuôi sống chân chính, [102] tự nuôi sống rất chân chính! Nếu người nào muốn bố thí cúng dường, nên cúng dường cho Sa-môn Thích tử; nếu muốn tạo phước, nên đến Sa-môn Thích tử tạo phước.”

Lúc ấy các Sa-môn ngoại đạo nghe xuất gia nữ ngoại đạo tên là Tịnh Khẩu khen ngợi Sa-môn họ Thích, bèn khởi tâm tật đố hại bà ấy. Nữ ngoại đạo ấy bị họ hại chết, được sinh lên cõi trời Đâu-suất, nhờ sinh lòng tin đối với Tôn giả Xá-lợi-phất.

 


 [1] Quốc dịch “Tụng iv.” Ấn Thuận Hội biên, “Tụng vi,” và ghi chú: “Nguyên phụ vào ‘Tạp nhân tụng.’ Nhưng nguyên trong Đại chánh đã biệt lập, đề ‘Đệ tử sở thuyết tụng đệ tứ.’ Từ quyển 18-22; phân thành 6 Tưong ưng: “1. Xá-lợi-phất, 2. Mục-kiền-liên, 3. A-na-luật, 4. Đại Ca-chiên-diên, 5. A-nan, 6. Chất-đa-la.” Tương đương Pāli, các Samyutta: S.38.Jambukhādaka, S.39. Sāmaṇaḍaka, S.40. Moggalāna, 41. Citta.

 [2] Chú của Ấn Thuận Hội biên (hạ): “28. Tương ưng Xá-lợi-phất, gồm 81 kinh. 72 Kinh đầu tương đương Pāli các Samyutta: S.38, S.39.” GGòm các kinh Đại chánh 490-500 (nửa đầu quyể 18).

 [3] Đại chánh kinh 490. Quốc dịch, kinh số 1210; Hội biên, kinh số 1476; Phật quang, kinh số 489. Tương đương Pāli, S.38. 1-16. Nibbāna, và tiếp theo.

 [4] Na-la tụ lạc 那羅聚落. Pāli: Nālakagāmaka.

 [5] Diêm-phù-xa 阎浮車. Pāli: Jambukhādaka-paribbājaka.

 [6] Chú giải Pāli nói ông là cháu.

 [7] Đoạn đối thoại, tương đương Pāli, S.38.16 Dukkara.

 [8] Ái lạc 愛樂; Pāli: abhirati, đây chỉ sự vui thú đời sống xuất gia.

 [9] Bản Pāli: “thực hành pháp và tùy pháp là khó.”

 [10] Hữu đạo hữu hướng. Pāli: atthi maggo atthi paṭipadā, có đạo, và đạo tích.

 [11] Thực tế bản Hán chỉ có 36.

 [12] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.3 Dhammavādī.

 [13] Thế gian chánh hướng 世間正向. Pāli: loke suppaṭipanna, vị hành trì chân chánh, hay khéo hành trì trong đời.

 [14] Thế gian thiện thệ 世間善逝. Pāli: loke sugata, vị đã khéo léo đi đến (Niết-bàn).

 [15] Bản Pāli: “Có con đường nào dẫn đến sự dứt trừ tham dục, sân nhuế, ngu si?”

 [16] Đoạn vấn đáp, Pāli S.38.1 Nibbāna.

 [17] Đoạn vấn đáp, Pāli S.38.4 Kimatthi.

 [18] Bản Pāli: dukkhassa pariññatthaṃ, “vì mục đích biến tri khổ.”

 [19] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.8 Āsavā.

 [20] Bản Pāli, ba lậu: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tayo āsvā: kāmāsavo, bhavāsavo, avijjāsavo.

 [21] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.2 Arahattaṃ.

 [22] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.9. Avijjā.

 [23] Tiền tế, hậu tế, trung tế: giới hạn quá khứ tối sơ, giới hạn tận cùng vị lai, giới hạn trung gian.

 [24]. Bản Pāli: dukkhe aññāṇaṃ dukkhasamudaye aññāṇaṃ dukkhanirodhe aññāṇaṃ dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ, ayaṃ vuccati avijjā, “không biết khổ, không biết tập khởi của khỏ, không biết sự diệt khổ, không biết con đường dẫn đến diệt khổ; đó được nói là vô minh.”

 [25] Xem đoạn 5 ở trên.

 [26] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.13 Bhava.

 [27] Đoạn vấn đáp, S.38.15 Sakkāya.

 [28] Hán: hữu thân 有身, hay tự thân. Pāli, sakkāya; f. S.ii., tr. 159: katamo bhikkhave sakkāyo? pañcūpādāna-kkhandhā tassa vacanīyaṃ, “Thế nào là hữu thân?  Năm thủ uẩn, được nói là hữu thân.”

 [29] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.14 Dukkha.

 [30] Đoạn vấn đáp, S.38.11 Ogha.

 [31] Lưu 流; đay chỉ bộc lưu 瀑 流: dòng nước lũ. Pāli: ogha.

 [32] Đoạn vấn đáp, như trên.

 [33] Ách 扼. Chính xác軛, chỉ gọng cày. Pāli: cattāro yogā.

 [34] Đoạn vấn đáp, S.38.12 Upādāna.

 [35] Thủ 取. Pāli: cattāri upādānāni.

 [36] Đoạn vấn đap, không có trong bản Pāli.

 [37] Phược 縛; tức Tập dị 8, tr. 399, thân hệ 身繫, có bốn: tham thân hệ, sân, giới cấm, thử thật chấp thân hệ. Pāli, D.33: cattāro ganthā, abhijjhā kāyagantho, vyāpādo kāyagantho, sīlabbataparrāmāso kāyagantho, idaṃsaccābhiniviseso kāyagantho.

 [38] Đoạn vấn đáp, bản Pāli không có.

 [39] Xem Tập dị 19, tr.446a25

 [40]  Tập dị 19, tr. 446b9: thủ kêt 取結, “Hai thủ đựoc gọi là thủ kêt; kiến thủ và giới cấm thủ.” Pāli, parāmāsa, gồm diṭṭhiparāmāsa, sīlabbatapaāmāsa.

 [41] Đoạn vấn đáp không có trong bản Pāli.

 [42] Sử 使: tùy miên 隨眠. D.33, satta anusayā: kāmarāgānusayo, paṭighānusayo, diṭṭhānusayo, vicikcchānusayo, mānāusayo, bhavarāgānusayo, avijjānusayo.

 [43] Đoạn vấn đáp không có trong bản Pāli.

 [44] Ái dục sử 愛欲使, hay ái dục tuỳ miên; Pāli: kāmarāgānusaya.

 [45] Hán: sĩ phu dục 士夫欲.

 [46] Cái 蓋, hay triền cái. Để bản chép nhầm là dưỡng. Pāli, pañca nīvaraṇāni: kāmacchanda-, vyāpāda-, thīnamiddha-, uddhaccakukkucca.

 [47] Đoạn vấn đáp, Pāli, S.38.5 Assāso.

 [48] Hán: tô tức 穌息. Pāli: assāsa, nguyên chỉ hơi thở vào, hơi thở điều hoà: trạng thái ngưng nghỉ, an ổn.

 [49] Đoạn vấn đáp, như kinh trên.

 [50] Đắc tô tức 得穌息. Pāli: assāsapatta.

 [51] Hán:  thượng tô tức 上穌息. Pāli: paramassāsa.

 [52] Pāli: assāso ... channam phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtam pajānāti, “đạt đến sự nghỉ ngơi là biết như thực về sự tập khởi, sự tiêu diệt, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của sáu xuc xứ.”

 [53] Pāli: ... viditvā anupādā vimutto hoti, “sau khi biết, giải thoát vơi sự không chấp thủ.”

 [54] Đoạn vấn đáp không có trong bản Pāli.

 [55] Hán: thượng tô tức xứ 上蘇息處.

 [56] Thanh lương 清涼, hay trạng thái mát lạnh. Pāli: sītibhūta.

 [57] Đoạn vấn đáp không có trong Pāli.

 [58] Đoạn vấn đap, Pāli, S.38.10 Taṇhā.

 [59] Hán: nghiệp tích 業跡. Pāli: kammapatha.

 [60] Đại chánh, kinh 491. “Những câu hỏi của Sa-môn xuất gia.” Nội dung gần giống các kinh trên.

 [61] Đại chánh, kinh 492. “Ao bùn.” Pāli, A.4.178 Jambāli.

 [62] Bản Pāli: santaṃ cetovimutti, tịch tĩnh tâm giải thoát. Sớ thích, tâm giải thoát thuộc sắc và vô sắc giới hệ (rūpārūpāvacaraṃ cittavimuttiṃ).

 [63] Hán: hữu thân diệt 有身滅. Pāli: sakkāyanirodha.

 [64] Hán: tâm bất lạc trước 心不樂着. Pāli: na pakkhandati: không tiến tới, hay không phấn chấn.

 [65] Bản Pāli, A.ii, tr. 165: sakkāyanirodhe cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati nādhimuccati,  “(Vị ấy khi tác ý hữu thân diệt) đối với hữu thân diệt mà tâm không thăng tiến, không trừng tịnh, không an trú, không quyết tín..”

 [66] Xem cht. 63 trên.

 [67] Để bản: hữu thức diệt 有識滅; có lẽ chép nhầm.

 [68] Đại chánh, kinh 493. “Cỡi thuyền đi ngược dòng.”

 [69] Hán: a-luyện-nhã Tỳ-kheo 阿練若比丘: a-lan-nhã Tỳ kheo, vô sự Tỳ kheo. Pāli: araññaka-bhikkhu, Tỳ-kheo sống trong rừng.

 [70] Trái với đời sống ẩn dật.

 [71] Đại chánh, kinh 494. Pāli, A.6.41 Dārukkhndha.

 [72] Pāli, A.5.168 Sīla; 10.4 Upanisā; 11.4-5 Upanissā. Tham chiếu Hán, No 26 Trung, 48 Giới kinh.

 [73] Hán: sở y thối giảm tâm bất lạc trú 所依退減心不樂住. Pāli: hatūpaniso hoti sammāsamādhi, “tư trợ (sở y) của chánh định bị tổn hại.”

 [74] Pāli: sammāsamādhivipannassa hatūpanisaṃ hoti yathābhūtaññāṇadassanaṃ, “do thối thất chấnh định, tư trợ (sở y) của tri kiên như thực bị tổn hại.”

 [75] Hán: công đức (thối giảm) 功德. Đoạn trên dịch là sở y. Pāli: hatūpanisā.

 [76] Hán: bất tín lạc 不信樂: không còn tin tưởng.

 [77] Đại chánh, kinh 496.

 [78] Hán: thâu thuế 輸稅. Bản Tống: thâu di 輸移. Không rõ nghĩa.

 [79] Đại chánh, kinh 497. Pāli, A.5.167 Codanā.

 [80] Hán: biến hối 變悔.

 [81] Hán: Giải tài kinh 解材經. Không rõ xuất xứ.

 [82] Đại chánh, kinh 498. Pāli, S.47.12 Nālandā. Tham chiếu, D.28 Sampasādanīya-suttanta.

 [83] Na-la-kiền-đà 那羅揵陀. Pāli: Nālandā.

 [84] Mại y giả A-ma viên 賣衣者菴羅園. Pāli: Pāvārikambava.

 [85] Nguyên Han: bồ-đề. Pāli: sambodhui.

 [86] Hán: bất tri… tâm chi phân tề 心之分齊. Pāli: cetopariyañāṇa n’atthi, “không có nhận thức về tâm tư…” Bản Hán đọc ceto-paryanta  (giới hạn của tâm tư) thay vì ceto-pariya (động thái của tâm tư)

 [87] Hán: pháp chi phân tề 法之分齊. Pāli: dhammanvaya: tổng tướng (tính loại tợ) của pháp.

 [88] Đại chánh, kinh 499. Pāli, A.9.26 Silāyūpa.

 [89] Nguyệt Tử ti-kheo 月子. Pāli: Candikaputta.

 [90] Đề-bà-đạt-đa 提婆達多. Pāli: Devadatta.

 [91] Hán: tâm pháp tu tâm 心法修心. Pāli: cetassā cittaṃ suparicitam, tâm hoàn toàn được được tích tập bởi tâm ý.

 [92] Hán; nhân-đà đồng trụ 因陀銅柱; Pāli: indakhīla, cọc trụ trước cổng chợ để làm mốc. Bản Pāli không dẫn thí dụ này.

 [93] Đại chánh, kinh 500. Pāli, S.28.10 Sucimukhī.

 [94] Tịnh Khẩu ngoại đạo xuất gia ni 淨口外出家尼; theo cách dịch này, đây không phải là tên riêng. Pāli: Sucimukhī.

 [95] Hán: hạ khẩu thực 下口 食, chỉ sự kiếm ăn bằng tự canh tác. Pāli: adhomukha.

 [96] Hán: ngưỡng khẩu thực 仰口食; kiếm ăn bằng sự xem thiên văn. Pāli: ubbhamukha.

 [97] Hán: phương khẩu thực 方口食; tu sỹ kiếm ăn bằng cách làm mai mối, thông sứ, liên lạc viên cho cư sỹ. Pāli: disāmukha.

 [98] Hán: tứ duy khẩu 四维口; kiếm ăn bằng sự bói toán. Pāli: vidisāmukha.

 [99] Hán: minh ư sự 明於事. Pāli: vatthuvijjā, được hiểu là môn học về đất đai, nhà cửa; trạch địa minh, gia tướng học; một thứ phong thuỷ học. Chính xác, có lẽ là môn học về chú thuật trấn yểm thổ trạch.

 [100] Hán: minh ư hoành pháp 明於橫法. Pāli: tiracchānavijjā, kiến thức về súc vật (động vật đi ngang), bàng sinh minh, hay động vật học. Chính xác, loại chú thuật về súc vật.

 [101] Pāli: aṅgavijjātiracchānavijjāya micchājivena jīvīkaṃ kappenti, “kiếm sống một cách tà mạng bằng chi tiết học (khoa xem tướng tay chân), súc sinh học.”

 [102]. Hán: tịnh mạng tự hoạt 淨命自活. Pāli: dhammikaṃ āhāraṃ āhārenti, “Họ ăn thức ăn đúng pháp.”