33. Tương Ưng Câu-tát-la, Kinh 1030-1088

33. TƯƠNG ƯNG CÂU-TÁT-LA [1]

KINH 1030. TAM-BỒ-ĐỀ [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, du hành trong nhơn gian, đến vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-dà, nước Xa-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Thế Tôn ở Câu-tát-la du hành trong nhơn gian, đang đến ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-dà, nước Xá-vệ. Nghe vậy, Vua liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con nghe Thế Tôn tự ký thuyết đã chứng Vô thượng Bồ-đề [3] mà mọi người đã loan truyền; điều này không phải hư vọng và nói quá chăng? Nói như thuyết, nói như pháp, nói tuỳ thuận pháp chăng? Chẳng phải là bị người khác làm tổn thương đồng pháp chăng? Trong khi hỏi đáp, không bị rơi vào chỗ yếu kém chăng?” [4]

Phật bảo Đại vương:

“Những điều họ nói như vậy là lời nói chơn thật, chẳng phải là hư vọng, nói như thuyết, nói như pháp, nói tuỳ thuận pháp. Chẳng phải là bị người khác làm tổn thương đồng pháp. Trong khi hỏi đáp, không bị rơi vào chỗ yếu kém. Vì sao? Này Đại vương, Ta nay thật sự đã đắc Vô thượng Bồ-đề.”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Tuy Thế Tôn đã nói như vậy, nhưng con vẫn còn chưa tin. Vì sao? Vì trong đây còn có nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn tôn túc, trọng vọng, như Phú-lan-na Ca-diếp, Mặc-già-lợi Cù-xá-lê Tử, San-xà-da Tì-la-chi Tử, A-kì-đa Chỉ-xá-khâm-bà-la, Ca-la-câu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử. Những vị đó không [335a] tự tuyên bố đã chứng Vô thượng Bồ-đề. Sao Thế Tôn còn trẻ, tuổi còn nhỏ, xuất gia chưa bao lâu, mà lại tự nói chứng đắc Vô thượng Bồ-đề?”

Phật bảo Đại vương:

“Có bốn thứ tuy trẻ, nhưng không thể xem thường. Những gì là bốn? Vương tử Sát-lị, tuổi tuy trẻ nhỏ, nhưng chó xem thường. Rồng con, [5] tuổi tuy trẻ nhỏ, nhưng chó xem thường.  Đóm lửa tuy nhỏ, nhưng chớ xem thường. Tỳ-kheo tuổi tuy trẻ nhỏ, nhưng chớ xem thường. ”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Đủ hình tướng Sát-lị,

Danh tiếng, dòng quý tộc;

Tuy tuổi còn trẻ nhỏ,

Người trí không thể khinh.

Tất sẽ ở ngôi vua,

Nhớ lại, sinh oán hại.

Cho nên khó thể khinh;

Phải sinh lòng đại kính.

Người khéo biết tự hộ,

Hãy giữ kỹ mạng mình;

Bình đẳng mà tự hộ,

Tránh xa để hộ mạng.

Nơi làng xóm, chỗ vắng,

Nếu gặp rồng con kia;

Chớ cho là rắn nhỏ,

Mà sinh lòng coi thường.

Mình rồng nhỏ nhiều màu,

Cũng nên để yên ổn;

Nam hay nữ khinh rắn,

Đều bị độc làm hại.

Cho nên, để tự hộ,

Hày giữ kỹ mạng mình;

Vì khéo tự hộ này,

Tránh xa để hộ mạng.

Mãnh hoả khi xâm thực ,

Dù ít nhưng không hạn;

Đuốc nhỏ có thể thiêu,

Khắp nơi, nếu củi đủ.

Thiêu từ nhỏ dần lên,

Tận xóm làng thành ấp.;

Cho nên, để tự hộ,

Nên như hộ mạng mình.

Vì khéo tự hộ này,

Tránh xa để tự hộ.

Bị lửa dữ thiêu đốt,

Trăm thứ cỏ cháy rụi.

Tắt rồi, không co rút;

Lửa tắt cỏ lại sinh.

Nếu khinh huỷ Tỳ-kheo,

Người giữ lửa tịnh giới.

Thì đốt mình, con cháu,

Tai nạn lưu trăm đời.

Như đốt cây đa-la,

Không bao giờ sinh lại.

Cho nên phải tự hộ,

Như tự hộ mạng mình;

Vì khéo tự hộ này,

Tránh xa để hộ mạng.

Đủ hình tướng Sát-lị,

Rắn con và đóm lửa;

Đủ tịnh giới, Tỳ-kheo,

Không nên sinh coi thường.

Cho nên phải tự hộ,

Như tự hộ mạng mình;

Vì khéo tự hộ này,

Tránh xa để hộ mạng.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc kia, nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1031. TỔ MẪU [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc có bà nội, người mà vua rất kính trọng, bỗng nhiên mạng chung. [7] Vua đưa ra ngoài thành hoả táng, cúng dường xá-lợi xong, mặc áo tang, tóc bù xù, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên.

Thế Tôn hỏi vua Ba-tư-nặc:

“Đại vương từ đâu lại, mặc đồ tang, tóc bù xù vậy?”

Vua Ba-tư-nặc thưa:

“Bạch Thế Tôn, con đã mất bà nội mà con rất kính trọng. Bà đã bỏ con ra đi. Con đã đưa ra ngoài thành để hoả táng, cúng dường xong, rồi đến Thế Tôn.”

Phật bảo:

“Đại vương thương kính bà nội lắm phải không?”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn. con rất kính trọng, thương mến. Bạch Thế Tôn, nếu đem những gì có được ở trong nước như voi, ngựa, bảy báu, cho đến ngai vàng, đem bố thí hết cho người mà có thể cứu sống bà nội thì con sẽ bố thí hết. Nhưng vĩnh viễn đã không thể cứu được. Kẻ sống người chết mãi mãi xa lìa; nhớ thương, buồn khổ, không tự mình vượt nổi. Con đã từng nghe Thế Tôn nói: ‘Tất cả chúng sanh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng cũng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.’ Hôm nay con mới nhận thấy lời Thế Tôn nói đúng.”

Phật bảo Đại vương:

“Quả thật vậy! Quả thật vậy! Tất cả chúng sanh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng cũng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Phật bảo Đại vương tiếp:

“Cho dù  dòng họ Bà-la-môn, Sát-lị, hay Gia chủ, nếu có sinh thì đều phải chết, không ai không chết. Cho dù  là Đại vương Sát-lị, ở ngôi Quán đảnh, làm vua bốn thiên hạ, được sức tự tại; đối với các địch quốc đều hàng phục, cuối cùng không ai là không chết. Lại nữa, Đại vương, dù sinh trời Trường thọ, làm vua Thiên cung, tự tại khoái lạc, [335c]cuối cùng cũng phải chấm dứt. Lại nữa, Đại vương, Tỳ-kheo A-la-hán các lậu đã hết, đã lìa các gánh nặng, việc cần làm đã làm xong, đã được lợi mình, diệt tận các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát, vị ấy cũng phải chấm dứt, xả thân vào Niết-bàn. Lại nữa, hàng Duyên Giác, kheo điều phục, khéo tịch tĩnh, khi hết thân mạng này, cuối cùng cũng vào Niết-bàn. Chư Phật Thế Tôn đầy đủ mười lực, bốn vô sở uý, hơn tiếng rống sư tử, cuối cùng cũng xả thân vào Bát-niết-bàn. Vì vậy, Đại vương nên biết, tất cả chúng sanh, tất cả côn trùng, cho đến tất cả quỷ thần, có sinh đều phải chết, rốt cùng cũng phải chấm dứt, không có ai sinh ra mà không chết.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Tất cả loài chúng sanh,

Có mạng đều phải chết;

Chúng đi theo nghiệp mình,

Tự nhận quả thiện ác.

Nghiệp ác vào địa ngục,

Làm lành lên trên trời;

Tu tập đạo thắng diệu,

Lậu tậnt, Bát-niết-bàn.

Như Lai và Duyên giác,

Thanh văn Đệ tử  Phật;

Đều phải bỏ thân mạng,

Huống là người phàm phu.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1032. TỰ NIỆM [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh thiền tứ tư duy, tự nghĩ: ‘Thế nào là tự thương yêu mình, thế nào là không tự thương yêu mình [9]?’ Lại nghĩ: ‘Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này không tự thương yêu mình. Nếu người nào thân hành thiện hạnh, khẩu hành thiện hạnh, ý hành thiện hạnh, nên biết những người này tự thương yêu mình.’

Sau khi từ thiền tịnh dậy, vua đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Thế nào là tự thương yêu, thế nào là không tự thương yêu mình?’ Rồi lại nghĩ: ‘Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này không tự thương yêu mình. Nếu người nào thân hảnh thiện hạnh, khẩu hành thiện hạnh, ý hành thiện hạnh, nên biết những người này tự thương yêu mình.’”

Phật bảo Đại vương:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Nếu người nào thân hành [336a] ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này không tự thương yêu. Dầu cho họ tự nói, tự thương yêu, nhưng thật ra không phải tự thương yêu. Vì sao? Vì không có điều xấu ác nào mà người bạn xấu ác làm cho không phải là điều không là thân thương đối với người mà nó không thân thương, không phải là điều được yêu mến đối với người mà nó không yêu mến. [10]   Cho nên những người này không phải tự yêu thương mình.

“Lại nữa, Đại vương, người nào thân hành thiện hạnh, khẩu hành thiện hạnh, ý hành thiện hạnh, nên biết những người này tự thương yêu mình. Dầu cho những người này  tự nói không tự thương tiếc thân mình, nhưng thực ra những người này tự thương yêu mình. Vì sao? Vì không có điều tốt nào mà người bạn tốt làm không phài là đáng thân đối với người mà nó thân, không phải là đáng yêu đối với người mà nó yêu.  Cho nên những người này là người tự thương yêu mình.”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Bảo rằng tự thương mình,

Không nên tạo ác hạnh;

Vì nhân không  ác hạnh,

Nên đã được an lạc.

Bảo rằng tự thương mình,

Quyết không tạo ác hạnh;

Người tạo mọi nghiệp thiện,

Nên đã được an lạc.

Nếu ai tự yêu mình,

Khéo hộ mà tự hộ;

Như vua khéo giữ nước,

Ngoài, canh phòng biên giới.

Nếu ai tự yêu mình,

Khéo tự giữ báu vật;

Như vua khéo giữ nước,

Trong, canh giữ thành quách.

Như tự giữ bảo vật,

Sát-na không gián đoạn;

Sát-na nếu thiếu lo,

Đường ác chịu khổ mãi.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1033. TỰ HỘ [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Thế nào là tự hộ, thế nào là không tự hộ?’ [12] Lại nghĩ: ‘Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này là không tự hộ. Nếu người nào thân hành thiện hạnh, khẩu hành thiện hạnh, ý hành thiện hạnh, nên biết những người này là tự hộ.’

Sau khi từ thiền tịnh dậy, [336b] vua đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Thế nào là tự hộ, thế nào là không tự hộ?’ Rồi lại nghĩ: ‘Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này là không tự hộ. Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này là tự hộ.’”

Phật bảo Đại vương:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Nếu người nào thân hành ác hạnh, khẩu hành ác hạnh, ý hành ác hạnh, nên biết những người này là không tự hộ, mà nói là hay tự phòng hộ. Tuy nói là tự phòng hộ bằng quân voi, ngựa, xe, bộ, dùng chúng để tự phòng hộ, nhưng thực ra không phải là tự phòng hộ. Vì sao? Vì tuy phòng hộ bên ngoài, nhưng không phòng hộ bên trong. Cho nên, Đại vương! Đó gọi là không tự phòng hộ.

“Đại vương, nếu người thân hành thiện hạnh, khẩu hành thiện hạnh, ý hành thiện hạnh, nên biết những người này là tự phòng hộ. Tuy họ không dùng quân voi, ngựa, xe, bộ để tự phòng hộ, nhưng thực ra là tự phòng hộ. Vì sao? Vì phòng hộ bên trong. Đó gọi là khéo tự phòng hộ, chẳng cần phòng hộ bên ngoài.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Khéo phòng hộ thân, khẩu,

Và tất cả ý nghiệp;

Tự hộ bằng tàm quý,

Đó là khéo phòng hộ.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1034. TÀI LỢI [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Thế gian ít có người được tài lợi thắng diệu mà không phóng dật, không tham đắm, không tạo những ác hạnh đối với chúng sanh. Nhưng thế gian có nhiều người được tài lợi thắng diệu là hay sanh ra phóng dật, tăng trưởng tham đắm chúng, khởi lên các tà hạnh.’ Nghĩ vậy rồi, đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Thế gian ít có người được tài lợi thắng diệu, và đối với tài lợi đó không sinh ra phóng dật, không sinh ra tham đắm, không tạo ra tà hạnh. Nhưng thế gian có nhiều người được tái lợi thắng diệu là hay sinh ra phóng dật, sinh ra tham đắm, khởi lên các tà hạnh.’”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Thế gian ít có người được tài lợi thắng diệu [336c] mà không tham đắm, không sinh ra phóng dật, không khởi lên những tà hạnh. Nhưng thế gian có nhiều người được tài lợi thắng diệu, và đối với tài lợi phóng dật, mà khởi lên tham đắm, khởi lên các tà hạnh.’ Đại vương nên biết, những người thế gian kia được tài lợi thắng diệu, đối với tài lợi mà phóng dật, mà khởi tham đắm, làm các tà hạnh; đó là những người ngu si, sẽ chịu khổ lâu dài, không lợi ích. Đại vương, giống như người thợ săn, học trò thợ săn, giăng lưới bắt giết nhiều thú vật, trong rừng hoang vắng; hại chúng sanh khốn khổ, nghiệp ác tăng trưởng. Cũng vậy, người thế gian được tài lợi thắng diệu, đối tài lợi sinh phóng dật, khởi lên tham đắm, tạo các tà hạnh; người ngu si này sẽ chịu khổ não lâu dài, không được lợi ích.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Tham dục nơi tài vật,

Bị tham làm mê say;

Cuồng loạn không tự biết,

Giống như người thợ săn.

Vì sự phóng dật này,

Nên chịu báo khổ lớn.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1035. THAM LỢI [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đang ngự trên chánh điện, [15] tự mình xem xét những việc của quốc vương, thấy giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ, vì tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ, liền tự nghĩ: ‘Hãy ngưng việc xét đoán này, dừng việc xét đoán này. Ta không còn đích thân xét đoán việc nữa. Ta có người con hiền, sẽ bảo nó xét đoán. Làm sao ta có thể nhìn những dòng họ sang cả này, giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ, vì tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ?’ Khi vua Ba-tư-nặc nghĩ vậy xong, liền đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đang ngự trên chánh điện, để tự xét đoán những việc của quốc vương, thấy các giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ, vì tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ. Bạch Thế Tôn, con nhận thấy được điều này rồi, tự nghĩ: ‘Từ nay ta hãy ngưng việc xét đoán này, dừng việc xét đoán này. Ta có người con hiền, sẽ bảo nó xét đoán. Ta không có thể chính mình nhìn những dòng họ sang cả này, giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ, vì [337a] tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ.’”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Các dòng họ sang cả kia, giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ kia, vì tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ. Họ là những người ngu si, sẽ chịu khổ lâu dài, không được lợi ích. Giống như người chài lưới và đệ tử của chài lưới thả câu, giăng lưới nơi sông, suối, khe, rạch giết hại chúng sanh tạo ra khổ lớn. Cũng vậy, Đại vương, các giai cấp Sát-lị, Bà-la-môn, Gia chủ vì tham lợi nên hay dối trá, vọng ngữ. Họ sẽ chịu khổ mãi mãi, không được lợi ích. lâu dài.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Khởi tham muốn tài sản,

Tham dục làm say mê;

Cuồng loạn không tự giác,

Giống như người bắt cá.

Do vì nghiệp ác này,

Nên chịu báo khổ lớn.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1036. XAN LẨN [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nước Xá-vệ này có gia chủ Ma-ha-nam, [17] giàu có nhiều của cải, kho chứa vàng ròng có đến trăm nghìn ức, huống là những của khác. Bạch Thế Tôn, gia chủ Ma-ha-nam giàu có như vậy, nhưng đồ ăn chỉ dùng những thứ như: ăn gạo tấm thô sơ, canh đậu, gừng cũ nát; còn mặc thì áo vải thô, mang giày da đơn; đi thì xe cũ kỹ, đội nón lá cây. Chưa từng nghe ông ta cúng dường, bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, hay thấy ông ấy cung cấp giúp đỡ cho những người nghèo khổ, những người lỡ đường thiếu thốn, nhưng người ăn xin. Khi ăn thì đóng cửa, không để cho các Sa-môn, Bà-la-môn nào hay những người bần cùng, những người lỡ đường, những người ăn xin, trông thấy.”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đại vương, gia chủ này không phải là chánh sĩ, [18] được tài lợi thắng diệu mà không tự thọ dụng, không biết phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp cho vợ con, bà con quyến thuộc, đoái nghĩ đến tôi tớ, giúp đỡ cho người quen biết, không biết tuỳ thời cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, để gieo trồng vào ruộng phước thù thắng, để hướng đến chỗ cao quý, hưởng thụ an lạc lâu dài, đời sau sinh về cõi trời. Được những tài vật thù thắng mà không biết cách dùng rộng rãi để thâu lợi lớn.

“Đại vương, thí như nước được tích chứa trong ao hồ ở giữa đồng hoang, mà không có người dùng đến để uống ăn, tắm rửa, [337b] nước ngay trong đầm bị nung khô tiêu hết. Cũng vậy, kẻ sĩ bất thiện [19] được tài vật thắng diệu, … cho đến không chịu dùng rộng rãi để thâu lợi lớn, thì cũng giống như hồ nước kia vậy.

“Đại vương, có thiện nam tử [20] được tài lợi thắng diệu, sung sướng mà thọ dùng, phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp vợ con bà con quyến thuộc, nghĩ đến tôi tớ, giúp đỡ người quen biết, thường xuyên cũng cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, gieo trồng vào ruộng phước thù thắng, để hướng đến chỗ cao quý, đời sau sinh về cõi trời; được tiền của thù thắng, biết cách thọ dụng rộng rãi để thu lợi lớn gấp bội. Đại vương, giống như bên cạnh thành ấp, làng xóm, có ao nước trong sạch mát mẻ, cây cối che mát, khiến mọi người yêu thích, nhiều người chịu dùng, cho đến loài cầm thú. Cũng vậy, thiện nam tử kia được tài lợi thắng diệu, tự cúng dường tuỳ thích, phụng dưỡng cha mẹ, … cho đến gieo trồng ruộng phước thù thắng, thu lợi rộng lớn.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Hồ nước nơi đồng hoang,

Dù trong mát sạch sẽ;

Mà không người thọ dụng,

Rồi nó cũng khô hết.

Cũng vậy của thắng diệu,

Mà ở nơi người ác;

không thể tự thọ dụng,

Cũng không thương giúp ai.

Luống tự gom góp khổ,

Chứa rồi tự tiêu tán.

Người trí được của nhiều,

Tự mình vui thọ dụng;

Thí khắp làm công đức,

Giúp đỡ cho thân thuộc;

Tuỳ chỗ cần cung cấp,

Như trâu chúa lãnh đàn.

Bố thí cùng thọ dụng,

Không mất cơ hội cần;

Theo lẽ thọ mạng chung,

Sinh thiên hưởng phước lạc.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1037. VÔ TỬ [21]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nước Xá-vệ có gia chủ Ma-ha-nam mạng chung, nhưng không có con cháu. Vua Ba-tư-nặc mới đem tài sản không có con, không có thân thuộc nhập hết về nhà vua. Vua Ba-tư-nặc hằng ngày phải đi xem xét tài sản, thân thể dính bụi bặm, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên.

Bấy giờ Thế Tôn hỏi vua Ba-tư-nặc:

“Đại vương từ đâu đến, thân thể dính [337c] bụi bặm và có vẻ mệt nhọc?”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, gia chủ Ma-ha-nam nước này mạng chung, để lại tài sản nhưng không con, nên tất cả phải nhập về nhà vua. Con phải trông coi, liệu lý nên bụi bặm dính vào người và mệt nhọc. Từ nhà đó con đến đây.”

Phật hỏi vua Ba-tư-nặc:

“Gia chủ Ma-ha-nam kia giàu có nhiều của lắm sao?”

Vua đáp:

“Bạch Thế Tôn, rất giàu. Tiền của rất nhiều, tiền vàng của báu có đến trăm nghìn ức, huống lại là những của khác. Bạch Thế Tôn, ông Ma-ha-nam kia lúc còn sống mặc thô sơ, ăn uống cực khổ. Nói đầy đủ như trên.”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Ông Ma-ha-nam kia vào thời quá khứ, gặp Bích-chi-phật Đa-la-ca-thi [22] có cúng dường một bữa ăn, nhưng không có tín thanh tịnh, không cung kính cúng dường, không tự tay cúng dường. Sau khi cúng rồi, lại hối tiếc, nói rằng: ‘Cơm này ta có thể cho những tôi tớ của mình. Không tội gì lại đem cho Sa-môn!’ Nhờ phước bố thí này, bảy lần được sinh lên trời Tam Thập Tam, và bảy lần sinh vào nước Xá-vệ này thuộc dòng họ tối thắng, tiền của giàu có bậc nhất. Nhưng vì khi cúng dường vị Bích-chi-phật kia với tín không thanh tịnh, không cung kính cúng dường, không tự tay cúng dường; sau khi cúng dường rồi lại hối tiếc, nên dù nơi khi sinh ra tuy được giàu có, nhưng phải thọ dụng quần áo thô sơ, ăn uống khổ cực, ngoạ cụ, nhà cửa, xe cộ thô sơ cũ kỹ. Ngay từ đầu chưa nếm qua được sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đẹp để tự an thân. Lại nữa, Đại vương!

“Lại nữa, Đại vương, trước kia gia chủ Ma-ha-nam đã giết người anh khác mẹ của mình để chiếm lấy tài sản. Vì tội này nên trải qua trăm nghìn năm phải đoạ vào địa ngục. Tội báo ấy còn sót nên sinh vào nước Xá-vệ bảy lần thọ thân mà thường không có con; tài sản bị tịch thâu về nhà vua. Đại vương, gia chủ Ma-ha-nam nay mạng chung, phước báo bố thí quá khứ đã hết, mà đời này ông lại keo kiệt, tham lam, buông lung đối với tài sản, nhân tạo tội ác, sau khi mạng chung ở đây sẽ đoạ địa ngục, chịu nhiều khổ não.”

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, gia chủ Ma-ha-nam sau khi mạng chung sẽ đoạ vào địa ngục chịu khổ đau phải không?”

Phật đáp:

“Đúng vậy, Đại vương! Đã đoạ vào địa ngục.”

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghĩ đến ông mà rơi lệ, lấy áo lau nước mắt, nói kệ:

Của cải, kim bảo thật,

Voi ngựa đồ dùng tốt;

Nô bộc, trẻ hầu hạ,

Cùng nhà cửa ruộng nương.

Tất cả đều bỏ lại,

Thần thức đi một mình;

 [338a]Vận phước số đã hết,

Vĩnh viễn bỏ thân người.

Nay họ sở hữu gì?

Đem theo được những gì?

Với cái gì không bỏ,

Như bóng đi theo hình?

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Chỉ có nghiệp tội, phước,

Người nào đã tạo ra;

Thì đó là sở hữu,

Họ sẽ thường mang theo.

Sống chết chưa từng lìa,

Giống bóng đi theo hình.

Như người ít tư lương,

Đi xa gặp nạn khổ.

Người không tu công đức,

Phải qua khổ đường ác.

Như người nhiều tư lương,

Đi xa được an lạc.

Người tu đức thuần hậu,

Luôn hưởng vui cõi lành.

Như người đi chơi xa,

Lâu năm về an ổn.

Người thân và bằng hữu,

Tụ tập đón mừng vui;

Người khéo tu công đức,

Chết đây sinh nơi khác.

Những thân quyến của họ,

Gặp nhau tâm hoan hỷ.

Cho nên phải tu phước,

Tích tụ thành vĩnh cửu.

Phước đức hay vì người,

Kiến lập vui đời khác;

Phước đức được trời khen,

Vì tu hành chân chánh.

Hiện tại người không chê,

Chết sinh lên cõi trời.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1038. TẾ TỰ [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc tổ chức đại tế hội [24] rộng lớn. Vì đại tế hội nên đem cả nghìn con trâu đực [25] cột vào trụ, và những đồ vật cúng tế. Cho mời hết các ngoại đạo khác nhau, từ xa đến tụ tập đông đủ nơi đại tế hội của vua Ba-tư-nặc.

Lúc ấy, có nhiều Tỳ-kheo, sáng sớm khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc mở đại tế hội rộng lớn. Nói đầy đủ như trên, … cho đến các ngoại đạo, tất cả đều đến tập họp. Nghe rồi, sau khi khất thực xong, các vị trở về tinh xá cất y bát, rửa chân, rồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát [338b] chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm hôm nay, các Tỳ-kheo chúng con khóac y , ôm bát vào thành Xa-vệ khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc mở đại hội rộng rãi. Nói đầy đủ như trên, … cho đến các ngoại đạo khác đều tập họp đến chỗ đại hội.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Tháng tháng [26] mở đại hội,

Cho đến số trăm nghìn; [27]

Không bằng chánh tín Phật,

Bằng một phần mười sáu.

Cũng vậy, tín Pháp, Tăng,

Từ tâm với chúng sanh;

Phước của đại hội kia,

Không bằng phần mười sáu.

Nếu người ở thế gian,

Ức năm [28] tạo nghiệp phước;

Không bằng một phần bốn.

Kính lễ vị trực tâm. [29]

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành

KINH 1039. HỆ PHƯỢC [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nổi giận, bắt nhiều người trong nước bỏ tù, gồm các Sát-lị, nào Bà-la-môn, Tì-xá, Thủ-đà-la, Chiên-đà-la, trì giới hay phạm giới, tại gia hay xuất gia đều bị trói, bị xiềng xích, bị cùm, hoặc bị cột dây. Bấy giờ sáng sớm, có các Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc bắt giữ nhiều người,… cho đến xiềng xích, cột trói. Sau khi khất thực xong, các Tỳ kheo trở về tinh xá cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay các Tỳ-kheo chúng con vào thành khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc bắt giữ nhiều người, … cho đến xiềng xích, cột trói.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Chẳng phải dây,cùm, xích,

Là trói buộc kiên cố.

Tâm ô nhiễm, luyến tiếc

Của báu, tiền, vợ con:

Dây trói bền lâu nhất;

Tuy lỏng nhưng khó thoát.

Người trí không luyến tiếc

Lạc thú ngũ dục đời.

Đó là dứt được trói,

An ổn siêu xuất thế. [31]

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1040. CHIẾN ĐẤU (1) [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. [338c] Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi nước Ma-kiệt-đà chống đối nhau. Vua Ma-kiệt-đề A-xà-thế khởi bốn thứ quân: voi, ngựa, xe, bộ, kéo đến nước Câu-tát-la. Vua Ba-tư-nặc nghe bốn thứ quân của vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi kéo đến, cũng tập họp bốn thứ quân voi, ngựa, xe, bộ ra nghinh chiến. Bốn thứ quân của vua A-xà-thế đắc thắng, bốn thứ quân của vua Ba-tư-nặc thua, tán loạn thối lui.Một mình một, vua xe chạy trở về thành Xá-vệ.

Bấy giờ sáng sớm, có các Tỳ-kheo, khóac y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe vua Ma-kiệt-đà A-xà-thế con bà Vi-đề-hy đem bốn thứ quân đến nước Câu-tát-la; vua Ba-tư-nặc khởi bốn thứ quân ra nghinh chiến. Bốn thứ quân của vua Ba-tư-nặc thua, tán loạn rút lui, vua Ba-tư-nặc khốn đốn sợ hãi, một mình một xe chạy trở về thành Xá-vệ. Nghe rồi, khất thực xong, các Tỳ-kheo trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Hôm nay các Tỳ-kheo chúng con vào thành Xá-vệ khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc và vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hy khởi bốn binh. Nói đầy đủ như trên, … cho đến một mình một xe chạy trở về thành Xá-vệ.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Chiến thắng thêm oán thù,

Bại khổ nằm không yên;

Thắng bại bỏ cả hai,

Nằm yên vui tịch tịnh. [33]

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1041. CHIẾN ĐẤU (2) [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và vua Ma-kiệt-đề A-xà-thế con bà Vi-đề-hi chống đối nhau. Vua Ma-kiệt-đề A-xà-thế con bà Vi-đề-hi khởi bốn thứ quân kéo đến nước Câu-tát-la. Vua Ba-tư-nặc khởi bốn thứ quân gấp đôi ra nghinh chiến. Bốn thứ quân của vua Ba-tư-nặc đắc thắng, bốn thứ quân của vua A-xà-thế thua, khiếp phục tán loạn. Vua Ba-tư-nặc bắt sống vua A-xà-thế, và thu được tiền tài, bảo vật, xe cộ, ngựa voi. Bắt sống vua A-xà-thế, vua khiến chở cùng xe, đi đến chỗ Phật. Sau khi cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đây là [339a] vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, mà con không bao giờ oán hận. Nhưng người này lại gây oán kết; đối với người tốt mà tạo điều không tốt. Song người này là con của bạn con. Con sẽ thả ra, cho trở về nước.”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Lành thay, Đại vương! Thả cho người đi, bệ hạ sẽ được an ổn lợi ích lâu dài.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Cho dù sức tự tại,

Thường hay xâm lược người;

Sức tăng thì càng oán,

Bội thu lợi mình người. [35]

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc và vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hy, nghe những gì Phật dạy hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1042. BẤT PHÓNG DẬT (1) [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Chánh pháp của Thế Tôn, là pháp hiện tiền, xa lìa sự thiêu đốt, không đợi thời tiết, thông suốt đến nơi, được thấy ngay trong hiện tại, bằng tự giác mà chứng biết. [37] Pháp này là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải ác tri thức, ác bạn đảng.’ Nghĩ vậy rồi, đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ yên tĩnh, tự nghĩ: Chánh pháp của Thế Tôn, là pháp hiện tiền, xa lìa sự thiêu đốt, không đợi thời tiết, thông suốt đên nơi, được thấy ngay trong hiện tại, bằng tự giác mà chứng biết. Pháp này là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải ác tri thức, ác bạn đảng”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Chánh pháp của Thế Tôn, là pháp hiện tiền, xa lìa sự thiêu đốt, không đợi thời tiết, thông suốt đên nơi, được thấy ngay trong hiện tại, bằng tự giác mà chứng biết. Pháp này là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải ác tri thức, ác bạn đảng.’ Vì sao? Ta là thiện tri thức, khiến chúng sanh có pháp sinh được giải thoát khỏi sanh; chúng sanh có pháp già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, đều giải thoát khỏi tất cả.

“Đại vương, có một thời Ta ở tại tinh xá Sơn cốc, thành Vương Xá. [38] Khi ấy Tỳ-kheo A-nan-đà một mình ở nơi yên tĩnh, tư duy tự nghĩ: ‘Một nửa phạm hạnh là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải là ác tri thức, ác bạn đảng.’ Nghĩ như vậy rồi, đến chỗ Ta, cúi đầu lễ sát chân Ta, ngồi lui qua một bên, bạch Ta rằng:

“ - BạchThế Tôn, con một mình ở nơi chỗ yên tĩnh, tư duy, tự nghĩ: ‘Một nửa phạm hạnh là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải là ác tri thức, ác bạn đảng.

“Lúc ấy Ta bảo rằng:

“A-nan, đừng nói những lời như vầy: [339b] ‘Một nửa phạm hạnh là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải là ác tri thức, ác bạn đảng.’ Vì sao? Phạm hanh thanh bạch, thuần nhất, mãn tịnh này, chính là thiên tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải là ác tri thức, ác bạn đảng. Vì sao?  Ta thường vì các chúng sanh làm thiện tri thức. Vì những chúng sanh này có sinh, nên biết, chánh pháp của Thế Tôn ngay trong đời này khiến thoát khỏi sự sanh; đối chúng sanh có già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, lìa các nhiệt não, khiến cho thoát khổ não, không đợi thời tiết, hiện tại,  thông suốt dẫn đến, bằng tự giác mà chứng biết; thì đó gọi là thiện tri thức, thiện bạn đảng, chẳng phải là ác tri thức, ác bạn đảng.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Khen ngợi không buông lung,

Đó là chánh giáo Phật;

Tu thiền không buông lung,

Mau đạt được lậu tận.

Phật nói kinh này xong. Vua Ba-tư-nặc sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1043. BẤT PHÓNG DẬT (2) [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Có hay không  một pháp mà được tu tập, tu tập nhiều, trong hiện tại được sở nguyện đầy đủ, đời sau cũng được sở nguyện đầy đủ; sở nguyện cả đời này và đời sau đều được đầy đủ?’ Nghĩ vậy rồi, đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, một mình con ở chỗ yên tĩnh, tự nghĩ: Có hay không  một pháp mà được tu tập, tu tập nhiều, trong hiện tại được sở nguyện đầy đủ, đời sau cũng được sở nguyện đầy đủ; sở nguyện cả đời này và đời sau đều được đầy đủ?”

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, Đại vương! Có một pháp mà được tu tập, tu tập nhiều, trong hiện tại được sở nguyện đầy đủ, đời sau cũng được sở nguyện đầy đủ; sở nguyện cả đời này và đời sau đều được đầy đủ. Đó là pháp thiện không buông lung. Pháp thiện không buông lung mà được tu tập, tu tập nhiều, trong hiện tại được sở nguyện đầy đủ, đời sau cũng được sở nguyện đầy đủ; sở nguyện cả đời này và đời sau đều được đầy đủ.

“Đại vương, thí như những công trình gì được làm ở thế gian, chúng đều nương vào đất mà được kiến lập. Pháp thiện không buông lung cũng như vậy, được tu tập, tu tập nhiều thì trong hiện tại được sở nguyện đầy đủ, đời sau cũng được sở nguyện đầy đủ; sở nguyện cả đời này và đời sau đều được đầy đủ.

“Như lực, cũng vậy, hạt giống, rễ, lõi, loài đi trên bộ, đi dưới nứoc, sư tử, nhà cửa, [40] cũng nói như vậy.

“Cho nên, Đại vương, [339c] nên trụ không buông lung; nên nương vào không buông lung. Nếu Đại ương an trụ không buông lung, nương vào không buông lung, Phu nhơn sẽ nghĩ: ‘Đại vương đã trụ không buông lung, nương vào không buông lung, thì nay ta cũng nên như vậy, trụ vào không buông lung, nương vào không buông lung.’ Phu nhơn đã như vậy, đại thần, thái tử, mãnh tướng cũng như vậy. Cũng vậy, nhân dân trong nước cũng sẽ nghĩ: ‘Đại vương đã trụ không buông lung, Phu nhơn, đại thần, thái tử, mãnh tướng đã trụ vào không buông lung, nương không buông lung, chúng ta cũng như vậy, nên trụ vào không buông lung, nương vào không buông lung.’ Đại vương, nếu người nào trụ vào không buông lung, nương vào không buông lung, người có thể tự hộ. Phu nhơn, thể nữ cũng có thể tự bảo vệ, và kho tàng của báu sẽ tăng lên thật nhiều.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Xưng tán không buông lung,

Chê bai sự buông lung.

Đế Thích không buông lung,

Làm Chúa Trời Đao-lợi.

Xưng tán không buông lung,

Chê bai sự buông lung.

Có đủ không buông lung,

Thâu giữ gồm hai nghĩa.

Một hiện tại được lợi,

Hai đời sau cũng vậy.

Đó gọi là hiện quán,

Của người trí sâu xa. [41]

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tuỳ hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1044. TAM PHÁP [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tư duy, tự nghĩ: ‘Có ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Những gì là ba? Đó là già, bệnh, chết. Như vậy là ba pháp mà tất cả thế gian không yêu, không mến. Nếu không có ba pháp mà thế gian không yêu, không mến này, thì chư Phật Thế Tôn cũng không xuất hiện ở đời, và thế gian cũng không biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì con người diễn nói rộng rãi. Vì có ba pháp này mà tất cả thế gian không yêu, không mến này là già, bệnh, chết; nên chư Phật Như Lai mới xuất hiện ở đời, và thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì con người diễn nói rộng rãi.’ Vua Ba-tư-nặc nghĩ vậy rồi, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, đem những điều suy nghĩ kia bạch Thế Tôn.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

“Đúng vậy, Đại vương! Đúng vậy, [340a] Đại vương! Đây có ba pháp mà thế gian không yêu, không mến  là già, bệnh, chết, … cho đến thế gian biết có pháp mà chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi vì con người diễn nói rộng rãi. ”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Xe báu của vua đi,

Cuối cùng cũng hư hoại.

Thân này cũng như vậy,

Biến chuyển  sẽ về già. [43]

Chỉ chánh pháp Như Lai,

Không có tướng suy, già.

Người nhận chánh pháp này,

Luôn đến chỗ an ổn.

Phàm phu luôn suy yếu,

Hình tướng tệ, xấu xí;

Suy già đến tàn lụn,

Người ngu tâm mê muội.

Nếu người sống trăm tuổi,

Thường lo chết theo đến;

Già bệnh đuổi theo nhau,

Dò xét liền gia hại.

Phật nói kinh này xong. Vua Ba-tư-nặc sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ đảnh lễ rồi ra về. [44]

KINH 1045. ƯNG THÍ [45]

 [304a1]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc [46] đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nên thí cho những người nào?”

Phật đáp:

“Đại vương, tùy vào sở thích của tâm.”

Vua Ba-tư-nặc lại bạch Phật:

“Nên thí chỗ nào để được quả báo lớn?”

Phật đáp:

“Đại vương, đây là câu hỏi khác. Câu hỏi, ‘Nên thí chỗ nào.’ Đây là một câu hỏi khác. Lại hỏi, ‘Thí chỗ nào sẽ được quả báo lớn.’ Đây lại là câu hỏi khác.

“Bây giờ Ta hỏi Đại vương, và cứ tùy ý trả lời Ta:

“Này Đại vương, giả sử nước này, khi lâm trận chiến đấu, tập họp các chiến sĩ, trong đó có một người con trai của Bà-la-môn từ phương Đông đến, tuổi nhỏ, ấu trĩ, yếu ớt, xinh đẹp, da trắng, tóc đen, không tập võ nghệ, không học sách lược chiến thuật, sợ hãi rút lui, khiếp nhược không thể tự an được, không dám nhìn kẻ địch; hoặc đâm hay bắn, đều không có phương tiện, không thể tổn thương địch. Thế nào, Đại vương, người như vậy Đại vương có thưởng không?”

Vua bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không thưởng.”

“Cũng vậy, Đại vương, có đồng tử Sát-lị từ phương Nam đến. Đồng tử  Tì-xá từ phương Tây tới. Đồng tử Thủ-đà-la từ phương Bắc tới, không có võ thuật, giống như con trai của Bà-la-môn từ phương Đông. Vua có thưởng không?”

Vua bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không thưởng.”

Phật hỏi Đại vương:

“Khi nước này tập họp quân vào trận chiến đấu, có đồng tử Bà-la-môn từ phương Đông đến, trẻ tuổi, xinh đẹp, da trắng tóc đen, giỏi võ nghệ, biết cách chiến đấu, dũng cảm không sợ hãi, khổ chiến không rút lui, đứng yên xem xét tình hình, múa đao cự địch, có thể làm thương tổn, phá hoại. Thế nào, Đại vương, người như vậy Đại vương có trọng thưởng không?”

Vua bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con sẽ trọng thưởng.”

“Cũng vậy, Đại vương, có đồng tử Sát-lị từ phương Nam đến. Đồng tử  Tì-xá từ phương Tây tới. Đồng tử Thủ-đà-la từ phương Bắc tới, trẻ tuổi, xinh đẹp, da trắng tóc đen, giỏi võ nghệ, biết cách chiến đấu, dũng cảm không sợ hãi, khổ chiến cự địch, đều như những đồng tử Bà-la-môn từ phương Đông đến. Những chiến sĩ như vậy, nhà vua có thưởng không?”

Vua bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn. con sẽ trọng thưởng.”

Phật nói:

“Này Đại vương, cũng vậy, Sa-môn, Bà-la-môn, xa lìa năm chi, thành tựu năm chi, kiến lập phước điền; nếu ai bố thí vào ruộng phước này thì  được phước lợi lớn, được quả báo lớn. Những gì là lìa bỏ năm chi? Tham dục cái, sân nhuế, ngu si, trạo hối, nghi cái đã đoạn, đã biến tri. [304b] Đó gọi là lìa bỏ năm chi. Những gì là thành tựu năm chi? Thành tựu vô học giới thân, vô học định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân. Đó gọi là thành tựu năm chi.

“Này Đại vương, người nào lìa bỏ năm chi, thành tựu năm chi, kiến lập phước điền; thí vào ruộng phước này sẽ được quả báo lớn.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Múa kiếm chiến đấu giỏi,

Là dũng sĩ kham năng;

Vì sự chiến đấu ấy,

Nên theo công trọng thưởng.

Không thưởng dòng danh tiếng,

Người khiếp nhược, yếu hèn.

Nhẫn nhục tu hiền lương,

Thấy Đế, lập phước điền.

Đủ luật nghi Hiền Thánh,

Thành tựu trí thâm diệu.

Dù dòng họ thấp hèn,

Kham làm ruộng phước thí.

Y thực, tiền của báu,

Giường nằm cùng các loại;

Đều nên thí cung kính,

Do trì giới thanh tịnh.

Mé rừng vắng, xa người,

Đào giếng, cấp bộ hành.

Bắc cầu qua khe suối.

Làm quán trọ đường xa:

Chúng đa văn giới đức,

Đi đường có chỗ nghỉ.

Thí như mây dày giăng,

Sấm chớp vọng vang rền;

Mưa rơi khắp mặt đất,

Trăm cỏ chen rau vươn;

Cầm thú thảy vui vẻ,

Nông phu cũng vui mừng.

Cũng vậy, tâm tịnh tín,

Văn, tuệ, xả keo bẩn;

Tiền của, ăn uống đủ,

Thường thí ruộng phước tốt.

Lớn tiếng, càng khuyến khích, [47]

Như mưa sấm ruộng tốt;

Công đức chảy nhuần khắp,

Thấm ướt tâm thí chủ.

Được nổi tiếng, giàu có,

Và quả lớn Niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1046. SÁNG TỐI [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“ Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn chết rồi có [304c] sinh trở lại dòng Ba-la-môn hay sinh vào nhà Sát-lị, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?”

Phật nói:

“ Đại vương, sao được như vậy! Đại vương, nên biết, có bốn loại người. Những gì là bốn? Có một loại người từ tối vào tối; có một loại người từ tối vào sáng; có một loại người từ sáng vào tối; và có một loại người từ sáng vào sáng.

“Đại vương, thế nào là loại người từ tối vào tối? Có người sinh vào nhà dòng thấp hèn, như sinh vào nhà Chiên-đà-la, nhà người săn bắn, bắt cá, làm đồ tre, nhà người kéo xe, và những nhà làm nghề nghiệp công xảo hạ tiện khác; bần cùng, đoản mạng, hình thể tiều tụy, mà lại hành theo nghề nghiệp thấp kém, làm sai dịch hạ tiện cho người. Đó gọi là tối. Ở trong chỗ tối này, thân lại làm việc  ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Vì những lý do này, khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh vào đường ác, rơi vào trong  địa ngục. Giống như người từ tối vào tối, từ nhà xí vào nhà xí, lấy máu rửa máu, bỏ ác lấy ác. Người từ tối vào tối cũng lại như vậy, cho nên gọi là từ tối vào tối.

“Thế nào là từ tối vào sáng? Người sinh vào nhà thấp hèn, cho đến làm sai dịch hạ tiện cho người. Đó gọi là tối. Nhưng người ở trong tối này, thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Do những hành vi này, khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào đường lành, được hóa sinh cõi trời. Thí như người lên giường, [49] cỡi ngựa, từ ngựa tiến lên voi; từ tối vào sáng cũng lại như vậy. Đó gọi là người từ tối vào sáng.

“Thế nào là người từ sáng vào tối? Có người đời sinh vào gia đình giàu sang khoái lạc như nhà dòng lớn Sát-lị, dòng lớn Bà-la-môn, nhà dòng lớn trưởng giả, cùng sinh vào những gia đình giàu có khoái lạc khác, có nhiều tiền bạc, của cải, nô tỳ, người sai khiến, nhóm họp nhiều người thân quen, thân thể xinh đẹp, thông minh trí tuệ. Đó gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, người ấy thân làm điều ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Vì lý do này, khi thân hoại mạng chung, nó sinh vào đường ác, rơi vào trong địa ngục. Giống như có người từ lầu cao, rơi xuống cỡi voi lớn, xuống voi lớn cỡi  ngựa, xuống ngựa đi xe, xuống xe ngồi giường, xuống giường đi đất, từ đất rơi xuống hầm hố. Người từ sáng vào tối lại cũng như vậy.

“Thế nào là có người từ sáng vào sáng? Có người sinh vào nhà giàu sang vui vẻ, ... cho đến [305a] hình tướng xinh đẹp. Đây gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, người ấy thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Vì lý do này, khi thân hoại mạng chung, nó sinh lên đường lành, được hóa thân cõi trời. Giống như có người từ lầu quán đến lầu quán; ... cho đến từ giường đến giường, người từ sáng vào sáng cũng lại như vậy. Đó gọi là từ sáng vào sáng.”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Người bần cùng khốn khổ,

Không tín, thêm sân hận;

Tưởng tà ác, xan tham,

Si mê không cung kính.

Gặp Sa-môn, đạo sĩ,

Người đa văn, trì giới;

Hủy báng, không khen ngợi,

Ngăn người cho và nhận.

Những người như vậy đó,

Từ nay đến đời khác,

Sẽ đọa vào địa ngục;

Là từ tối vào tối.

Nếu có người bần cùng,

Tín tâm, ít sân hận;

Thường sinh tâm tàm quý,

Bố thí lìa keo bẩn.

Gặp Sa-môn, Phạm chí,

Người đa văn, trì giới;

Khiêm cung mà thưa hỏi,

Tùy nghi khéo cúng cấp.

Khuyên người nên bố thí,

Khen người cho và nhận.

Người tu thiện như vậy,

Từ nay đến đời khác.

Sinh đường lành cõi trời,

Là từ tối vào sáng.

Người giàu có khoái lạc,

Không tín, nhiều sân hận;

Tưởng ác, xan tham, tật,

Tà mê không cung kính.

Gặp Sa-môn, Phạm chí,

Hủy báng không khen ngợi;

Cản trở người bố thí,

Và ngăn người đến nhận.

Những người ác như vậy,

Từ nay đến đời sau,

Rơi vào khổ địa ngục;

Là từ sáng vào tối.

Nếu người giàu của cải,

Tín tâm, không sân hận;

Thường sinh tâm tàm quý,

Bố thí, lìa sân nhuế.

Gặp Sa-môn, Phạm chí,

Người đa văn, trì giới,

Trước nghinh tiếp thưa hỏi,

Tùy nghi cấp vật cần.

 [305b] Khuyên người nên cúng dường,

Khen người cho và nhận.

Những người như thế đó,

Đời này đến đời sau,

Sinh cõi Tam Thập Tam,

Là từ sáng vào sáng.

Phật nói kinh này xong,  vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1047. NÚI ĐÁ [50]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ sáng sớm, [51] vua Ba-tư-nặc thân dính đầy bụi bặm, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên.

Phật hỏi:

“Đại vương từ đâu đến?”

Vua đáp:

“Bạch Thế Tôn, con từ pháp của Quán đảnh vương, [52] tự tại trong loài người, [53] tinh cần phương tiện, thống lĩnh cõi đất, thống lý vương sự,  đã đi  xem xét mọi  nơi; rồi đến đây.”

Phật bảo Đại vương:

“Nay Ta hỏi Đại vương, cứ tùy ý trả lời Ta. Thí như có người từ phương Đông lại, có tín, có duyên, [54] chưa từng giả dối, đến tâu với vua rằng: ‘Tôi từ phương Đông lại, thấy một núi đá, rất vuông vức to lớn, không bị đục thủng, không bị phá hoại, cũng không xói lở, đang nghiền đất mà đến. Tất cả cây cỏ và sinh vật đều bị nghiền nát.’ Từ phương Nam, Tây, Bắc cũng có người đến, có tín, có duyên, chưa từng giả dối, đến tâu với vua rằng: ‘Tôi thấy một núi đá rất vuông vức to lớn, không bị đục thủng, không bị phá hoại, cũng không xói lở, đang nghiền đất mà đến. Tất cả cây cỏ và sinh vật đều bị nghiền nát.’ Ý Đại vương thế nào? Sự việc khủng bố, hiểm ác, chết chóc lớn lao như vậy xảy đến; vận của chúng sanh đã hết; sinh làm người thật khó. Đại vương sẽ phải tính sao?”

Vua bạch Phật:

“Nếu như vậy, không còn cách tính nào khác, chỉ còn cách tu thiện, chuyên tâm phương tiện nơi pháp luật của Phật .”

Phật bảo Đại vương:

“Cớ sao lại nói là những chuyện hiểm ác khủng bố xảy đến cho đời, sát hại hết chúng sanh, thân người khó được, chỉ còn phải thực hành theo pháp, hành nghĩa, hành phước, phải chuyên tinh phương tiện nơi giáo pháp của Phật? Vì sao không nói địa vị của Quán đảnh vương, đứng đầu trên mọi người, uy quyền tự tại, thống lãnh đại địa, sự vụ, nhân dân để đối phó sự viêc ấy?”

Vua bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đó là nói khi thanh bình, thì vương vị Quán đảnh là đứng đầu mọi người, thống lãnh cõi đất, để doanh lý mọi việc. Dùng tài sản đấu tài sản. Dùng voi đấu voi. Dùng xe đấu xe. Dùng bộ đấu bộ. [305c] Hoặc thắng hoặc bại, ngay lúc đó không thẻ tự chủ. Cho nên, con nói đến khi sự việc hiểm ác khủng bố xảy đến, chúng sanh vận cùng, thân người khó được; khi đó không có kế nào khác, mà chỉ còn có thực hành theo pháp, hành nghĩa, hành phước, chuyên tâm quay về nương tựa nơigiáo pháp của Phật.”

Phật nói với Đại vương:

“Quả thật vậy! Quả thật vậy! Thường xuyên bị nghiền nát, nghĩa là kiếp ác, già, bệnh, chết, khổ, não, nghiền nát chúng sanh, sẽ phải làm sao? Chính là phải tu nghĩa, tu phước, tu thiện, tu từ, ở trong Phật pháp tinh cần phương tiện.”

Bấy giờ, Phật nói kệ:

Như có núi đá lớn,

Cao rộng không hoại khuyết;

Khắp từ bốn phương đến,

Nghiền nát đại địa này.

Không binh mã, chú thuật,

Sức mạnh để phòng ngự.

Kiếp ác, già, bệnh, chết,

Thường nghiền nát chúng sanh.

Bốn chủng tộc, dòng lớn,

Thợ săn, Chiên-đà-la,

Tại gia và xuất gia,

Người trì giới, phạm giới.

Tất cả bị nghiền nát,

Không ai cứu hộ được.

Cho nên người trí tuệ,

Quán sát lợi tự mình.

Xác lập tín thành tịnh,

Tin Phật, Pháp, Tăng bảo;

Thân, khẩu, ý thanh tịnh,

Tùy thuận theo chánh pháp.

Đời này được tiếng khen,

Mạng chung sinh lên trời.

Phật nói kinh này xong,  vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1048. XÀ-KỲ-LA [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên.

Khi ấy có bảy người Ni-kiền Tử, bảy người Xà-kì-la, [56] bảy người  Nhất-xá-la, [57] thân thể thô lớn, đang đi lượn quanh, rồi đứng trước của tinh xá Kỳ-hoàn. Vua Ba-tư-nặc từ xa trông thấy họ đang lượn quanh ngoài cửa, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi ra trước cửa, chấp tay thưa hỏi, và tự xưng tên ba lần: “Tôi là vua Ba-tư-nặc, vua xứ Câu-tát-la.”

Bấy giờ, Phật hỏi vua:

“Vì cớ gì, hôm nay bệ hạ lại cung kính những người đó, chấp tay thưa hỏi, ba lần xưng tên họ?”

Vua bạch Phật:

“Con tự nghĩ, ở thế gian nếu có những vị A-la-hán, [306a] thì chính họ là những vị đó.”

Phật dạy nói với vua Ba-tư-nặc:

“Này bệ hạ, thôi đủ rồi! Chính bệ hạ cũng không phân biệt được đó có phải là A-la-hán thật, hay không phải là A-la-hán, vì không có được tha tâm trí. Vã lại cần phải gần gũi, xem xét giới hạnh của họ, [58] một thời gian lâu mới có thể biết được; chớ tự quyết vội vàng. Hãy xem xét kỹ, không chỉ hời hợt; [59] hãy dùng trí tuệ, chớ không phải vô trí. Phải kinh qua các khổ cực khó khăn, mới có khả năng tự mình biện biệt, [60] đối chiếu so sánh, thật giả sẽ phân biệt được. Thấy lời nói mới biêt sự sáng suốt, [61] chứ không thể phân biệt vội vàng, cần phải dùng trí tuệ tư duy quán sát.”

Vua bạch Phật:

“Kỳ diệu thay, Bạch Thế Tôn, Lý này được kheo nói. Phải tiếp xúc chuyện trò một thời gian lâu, quán sát giới hạnh của họ ... cho đến thấy sự nói năng hiểu biết rõ ràng.

“Con có người nhà cũng đi xuất gia. Mang hình tướng cũng như những người này, đi khắp các nước. Rồi khi trở về lại, khi cởi bỏ y phục kia, là trở lại hưởng thọ ngũ dục. Cho nên, nên biết, Thế Tôn nói đúng. Hãy cùng họ sống chung để xem xét giới hạnh của họ, ... cho đến nói năng mà biết có trí tuệ.”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Không do thấy hình tướng,

Biết thiện ác của người.

Không phải vừa gặp nhau,

Mà cùng đồng tâm chí.

Điều kín hiện thân, miệng,

Tâm tục không kềm thúc;

Giống như miéng đồng xi, [62]

Thếp lên lớp vàng ròng.

Trong ôm lòng tạp mọn,

Ngoài hiện oai nghi Thánh;

Đi khắp các quốc độ,

Lừa dối khắp thế gian.

Phật nói kinh này xong,  vua Ba-tư-nặc nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1049. THẤT VƯƠNG [63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đứng đầu Vua Ba-tư-nặc cùng bảy vị Quốc vương [64] và các vị Đại thần cùng họp nhau, [306b] bàn luận như vầy:

“Trong ngũ dục, cái nào nhất?”

Có người nói:

“Sắc là nhất.”

Lại có người nói:

“Thanh, hương, vị, xúc là nhất.”

Trong đó có người nói:

“Chúng ta mỗi người đều cho của mình là nhất, rốt cùng không thể phán định. Hãy cùng nhau đến Thế Tôn, hỏi về nghĩa này. Cứ theo lời dạy Thế Tôn, sẽ cùng nhau ghi nhớ thọ trì.”

Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc dẫn đầu bảy vị Quốc vương và các Đại thần, quyến thuộc, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, chúng con bảy vị Quốc vương, và các Đại thần, bàn luận như vầy: ‘Công năng năm thứ dục lạc, thứ nào hơn hết?’ Trong số này, có người nói sắc là hơn hết; có người nói thanh là hơn hết; có người nói hương là hơn hết; có người nói vị là hơn hết; có người nói xúc là hơn hết. Cuối cùng không thể quyết định. Nên chúng con đến hỏi Thế Tôn, rốt cùng cái nào hơn hết?”

Phật nói với các vua:

“Mỗi người đều nói lên theo ý thích của mình, còn Ta thì nói khác. Vì lý do này, Ta nói về công năng của ngũ dục. Nhưng đối với sắc, có người  tự vừa ý, chỉ yêu mến một thứ sắc, là thõa mãn chí nguyện của mình. Giả sử có những sắc đẹp hơn, nhưng không phải sở ái của họ, thì sẽ không đụng đến, không ngó ngàng đến. Nên chỉ nói thứ sắc sở ái của mình là nhất không còn sắc nào vượt lên trên nó. Như người yêu mến sắc; thanh, hương, vị, xúc cũng đều như vậy; những gì mình sở ái, liền cho đó là tối thắng, rồi hoan hỷ, ưa đắm. Cho dù có thứ vượt trên thứ đó nữa, nhưng vì không phải là sở dục của họ, nên họ không đụng đến, không ngó ngàng đến. Chỉ có những gì ta yêu là tối thắng tối diệu, không gì so sánh, không gì trên được.”

Bấy giờ giữa chúng có một Ưu-bà-tắc tên là Chiên-đàn [65] từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai hữu, chấp tay bạch Phật rằng:

“Thế Tôn, con muốn nói rõ! Thiện thệ, con muốn nói rõ!”

Phật nói với Ưu-bà-tắc:

“Chiên-đàn, hãy nói rõ đi! Chiên-đàn, hãy nói rõ đi!”

Khi ấy Ưu-bà-tắc Chiên-đàn liền nói kệ rằng:

Vua Ương-già quý tộc,

Đeo ngọc, chuỗi anh lạc.

Dân Ma-kiệt vui họp:

Như Lai hiện nước này.

Tiếng đồn vang khắp nơi,

Như núi chúa Tuyết sơn;

Như hoa sen thanh tịnh,

Trong sạch không vết nhơ,

Nở theo ánh mặt trời,

Hương thơm xông khắp nước.

Hiện sáng nước Ương-kỳ, [66]

Như mặt trời giữa không.

Quán tuệ lực Như Lai,

Như đêm đốt đuốc sáng;

Là mắt, ánh sáng lớn,

Đến Người để quyết nghi.

Khi ấy các Quốc vương đều khen rằng:

“Ưu-bà-tắc Chiên-đàn khéo nói!”

Bấy giờ, bảy vị quốc vương cởi bảy cái áo báu tặng cho Chiên-đàn.

Bảy vị quốc vương sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Khi Ưu-bà-tắc Chiên-đàn biết các vị quốc vương đã đi rồi, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai phải, chấp tay bạch Phật:

“Hôm nay bảy vị quốc vương để lại cho con bảy cái áo thượng hảo hạng này, xin Thế Tôn vì lòng thương xót mà nhận bảy cái ái này.”

Bấy giờ, Thế Tôn vì lòng thương xót nên nhận bảy cái áo đó. [306c] Ưu-bà-tắc Chiên-đàn hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ rồi ra về.

KINH 1050. SUYỂN TỨC [67]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc, với thân thể mập lớn, mồ hôi ướt đẫm, đi đến chỗ Phật,  cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, hơi thở hỗn hễn.

Bấy giờ, Thế Tôn nói vua Ba-tư-nặc:

“Đại vương, thân thể mập quá!”

Đại vương bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Quả thật vậy! Con đang lo về cái thân quá mập, và thường rất khổ sở, nhờm chán, hổ thẹn, vì cái thân mập béo này.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Người nên tự cột niệm,

Khi ăn biết tiết độ;

Thì các thọ sẽ giảm,

Yên ổn mà sống lâu.

Khi ấy có một thiếu niên tên là Uất-đa-la [68] ngồi giữa hội chúng. Vua Ba-tư-nặc nói với Uất-đa-la rằng:

“Khanh có thể ghi nhớ bài kệ vừa được nói này từ Thế Tôn. Rồi đến mỗi bữa ăn, hãy đọc lên cho ta được không? Nếu được; ta sẽ ban cho mười vạn tiền vàng, và  sẽ thường xuyên ban cho thức ăn.”

Uất-đa-la tâu vua:

“Xin vâng lời dạy. Tôi sẽ đọc!”

Sau khi vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ rồi ra về.

Khi ấy Uất-đa-la biết vua đã đi rồi, đến trước Thế Tôn xin nhận bài kệ Phật đã nói. Khi Vua ăn, cứ mỗi bữa vua ăn đều tụng lên, tâu rằng “Đại vương! Đức Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, đã nói bài kệ này:

Người nên tự cột niệm,

Khi ăn biết tiết độ;

Thì các thọ sẽ giảm,

Yên ổn mà sống lâu.”

Như vậy, từ đó trở đi, vua Ba-tư-nặc thân thể gầy thon lại, tướng mạo xinh đẹp. Ở trên lầu, hướng về chỗ Phật ở, Vua cung kính chấp tay quỳ sát đất, nói ra ba lần như vầy:

“Nam mô kính lễ Thế Tôn, Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nam mô kính lễ Thế Tôn, Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nam mô kính lễ Thế Tôn, Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Đã ban cho con những lợi ích trong hiện tại và đời sau. Đời này, đời sau được lợi ích do biết tiết độ ăn uống.”


 [1] Tương ưng Câu-tát-la, gồm các kinh Đại chánh 1145-1150 (đầu quyển 42) và 1226-1240 (quyển 46, trừ 4 kinh đầu). Quốc dịch, quyển 36, “Tụng vii. Kệ. 4. Tương ưng Câu-tát-la”. Ấn Thuận, “Tụng viii. Tám chúng. 20. Tương ưng Sát-lợi” Phật quang, quyển 42. Tương đương Pāli, S. 3. Kosalasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, quyển 46, kinh 1226. Tương kinh Câu-tát-la, phần II, từ kinh 1226-1240, Hội biên và Quốc dịch đều để lên đầu Tương ưng, phù hợp với Pāli, S. 3. Kosalasaṃyutta. Biệt dịch No 100 củng để các knh này lên phần đầu. Nhưng đây theo thứ tự trong Đại chánh nên thuận tiên để lại thành phần sau. Pāli, S. 3. 1. Daharo. Biệt dịch, No 100(53).

 [3] Nguyên Hán: a-nậu-đa-la tam-miêu-tam-bồ-đề 阿耨多羅三藐三菩提. Pāli: anuttaraṃ sammāsaṃbodhiṃ.

 [4] So sánh câu văn có nội dung tương tự, kinh Đại chánh 113 (tr. 38a16): Không có sai lầm chang? Không huỷ báng Thế Tôn chăng? Nói như thuyết chăng? Nói như pháp chăng? Không bị người khác chất vấn khiến rơi vào bế tắc chăng?

 [5] Hán: long tử 龍子, rồng con. Đoạn sau, cũng nói là tiểu xà 小蛇. Pāli: urago, con rắn.

 [6] Đại chánh, kinh 1227. Pāli, S. 3. 22. Ayyakā. Biệt dịch, No 100(54), No 125(26.7).

 [7] Bản Pāli, bà sống 120 tuổi.

 [8] Đại chánh, kinh 1228. Pāli, S. 3. 4. Piya.

 [9] …tự niệm,…bất tự niệm 云何為自念云何為不自念. Pāli: kesaṃ nu kho piyo attā, kesaṃ appiyo attā ti, “đối với ai ta (tự ngã ) là thân yêu? Đối với ai, ta (tự ngã) không là thân yêu?”

 [10] So sanh Pāli: yañhi appiyo appiyassa kareyya, taṃ te attanāva attano karonti; tasmā téaṃ appiyo attā, “Điều gì mà người không thân thương (=kẻ thù) có thể làm cho người không thân thương (=kẻ thù), điều đó ta (tự ngã) làm cho ta (tự ngã) cũng vậy; vì vậy, đối với chúng, tự ngã không phài là thân thương (=kẻ thù).”

 [11] Đại chánh, kinh 1229. Pāli, S. 3. 5. Attānurakkhita. Biệt dịch, No 100(56).

 [12] Pāli: kesaṃ nu kho rakkhito attā, kesaṃ arakkhito attā ti, “Đối với những ai tự ngã được thủ hộ?  Đối với những ai tự ngã không được thủ hộ?”

 [13] Đại chánh, kinh 1230.S. 3. 6. Appakā. Biệt dịch, No 100(58)

 [14] Đại chánh, kinh 1231. S. 3. 7. Atthakaraṇa. Biệt dịch, No 100(57).

 [15] Chánh điện 正殿. Pāli: atthakaraṇa, công đường hay pháp đường.

 [16] Đại chánh, kinh 1232. S. 3. 19. Aputtaka. Biệt dịch, No. 100(59), No. 125(23.4).

 [17] Ma-ha-nam 摩訶男. S. ibid., sāvatthiyaṃ seṭṭhi gahapati kālaṅkato, môt gia chủ giàu có ở Sāvatthi đã chết.

 [18] Chánh sỹ 正士. Pāli:  asappuriso, con người không cao thượng, khong phải chân nhân, không phải thượng nhân.

 [19] Bất thiện sỹ phu 不善士夫. Đồng nhất với phi chánh sỹ trên. Pāli: asappuriso.

 [20] Thiện nam tử 善男子. Trái với phi chánh sỹ hay bất thiện sỹ phu ở trên. Pāli: sappuriso.

 [21] Đại chánh, kinh 1233. S. 3. 20. Aputtaka. Biệt dịch, No 100(60).

 [22] Đa-ca-la-thi-khí Bích-chi-phật 多迦羅尸棄辟支佛. Pāli: Tagarasikhiṃ pacceka-sambuddhaṃ. Cf. M.iii. 69.

 [23] Đại chánh, kinh 1234. S. 3. 9. Yañña. Biệt dịch, No 100(61).

 [24] Đại hội 大會. Pāli: mahāyañño paccupaṭṭhito, tổ chưc đại tế đàn, lễ hiến tế sinh vật cho thần linh.

 [25] Đặc ngưu 特牛.  Pāli:  pañca ca usabhasatāni, pañca ca vacchatarasatāni, pañca ca vacchatarisatāni, pañca ca ajasatāni, pañca ca urabhasatāni, 500 bò đực, 500 bê đực, 500 bê cái, 500 sơn dương, 500 con cừu.

 [26] Các bản Tống-Nguyên-Minh: nhật nhật: ngày ngày. Ấn thuận, Phật quang đọc là ngyệt nguyệt: tháng tháng 月月.

 [27] Bài kệ nầy không có trong  S.ibid., nhưng, cf. Dh. 106: māse māse sahassena, yo yajetha sataṃ samaṃ, ekañca bhāvitattānaṃ muhuttampi pūjaye, mỗi tháng với trăm nghìn, tế tự cho đến trăm năm, không bằng chỉ một lần cúng dường người tự mình tu tập.

 [28] Bản Cao-ly & Ấn thuận đọc là ức niên 億年; Phật quang đọc là cánh niên 竟年, theo bản Thánh, va dẫn Biêt dịch: mãn túc nhất niên trung 滿足一年中.

 [29] Trực tâm 直心.  Pāli: ujupaṭipanna, trực hành hay chất trực hành, chỉ Tăng, đệ tử Phât, thực hành Thánh đạo tám chi. Cf. Pháp uẩn 3, tr. 463a. Cf. Dh. 108: yaṃ kiñci yiṭṭha va hutaṃ va loke, saṃvaccharaṃ yajetha puññapekkho; sabbampi taṃ na catubhāgameti abhivādanā ujjagatesu seyyo, trong đời này, vì mong cầu phước đức mà tế tự hay hiến tế cả trăm năm, tất cả không bằng một phần tư của sự kinh lễ đối với vị Chất trực hành bậc nhất.

 [30] Đại chánh, kinh 1235. S. 3. 10. Bandhana. Biệt dịch No 100(62).

 [31] Cf. Dh. 345-346.

 [32] Quốc dịch, phẩm 2. S. 3. 14. Saṅgāma.  Biệt dịch, No 100(63).

 [33] Cf. Dhp. 201.

 [34] Đại chánh, kinh 1237. S. 3. 15. Saṅgāma. Biệt dịch, No 100(64).

 [35] Cf., Pāli, S.ibid.,  vilumpateva puriso, yāvassa upakappati; yadā caññe vilumpanti, so vilutto viluppati, con người vì lợi mình mà cướp đoạt người khác; khi cướp đoạt người khác, thì người cướp đoạt cũng bị cướp đoạt.

 [36] Đại chánh, kinh 1238. S. 3. 18. Appamāda. Biệt dịch, No 100(65).

 [37] cf. Saṅgīti, D.iii. 227: Tham chiếu, Tập dị 7 (tr. 393b)

 [38] Sơn cốc tinh xá 山谷精舍. Bản Pāli, giữa những  người họ Thích, một thị trấn của người Thích–ca, gọi là Nagaraka.

 [39] S.3 .2. 7. Appamāda. Biệt dịch, No 100(66), No 26(141).

 [40] Bản Pāli, chỉ nêu một thí dụ: cũng như dấu chân cua tất cả mọi loài thú bộ hành đều lọt vào trong dấu chân voi. Vì chân voi lớn nhất. Cũng vậy… không buông lung…

 [41] Pāli: atthābhisamayā dhīro paṇḍitoti pavuccati, do chiêm nghiệm ý nghĩa này, người khôn ngoan được gọi là bậc hiền trí.

 [42] Đại chánh, kinh 1240. S. 3. 3. Rājā. Biệt dịch, No 100(67), No 125(26.6).

 [43] Cf. Dhp. 151.

 [44] Đại chánh, hết quyển 46.

 [45] Đại chánh, kinh 1145. Pāli,  S. 3. 3. Issatta.  Biệt dịch, N0 100(68).

 [46] Ba-tư-nặc 波斯匿. Pāli: Pasenadi.

 [47] Để bản: cao xướng tăng hoan ái高唱增歡愛. Bản khác: cao xướng tăng khuyến thọ. Cf. No 100(68): khuyến nhượng ích tiến dữ 勸讓益進與. Pāli: āmodamāno pakireti detha dethāti bhāsati, phát tán với tâm hoan hỷ, nói rằng: các ngươi hãy bố thí! các ngươi hãy bố thí!

 [48] Đại chánh, kinh 1146. Pāli, S. 3.21. Puggala. Biệt dịch, No 100(69).

 [49] Hán: đăng sàng 登床. Pāli: pathaviyā pallaṅkaṃ āroheyya, “người từ đất nhảy lên kiệu.”

 [50] Đại chánh, kinh 1147. Pāli, S. 3. 25. Pabbatūpamā. Biệt dich, N0 100(70).

 [51] Bản Cao-ly, Ấn Thuận: nhật nhật 日日; mỗi ngày. Biệt dịch: nhật trung, giữa trưa. Phật quang: bạch nhật, ban ngày. Pāli: divā divassa, buổi sáng sớm. Các bản Hán phân tích từ lặp lại diva khác nhau.

 [52] Quán đảnh vương . Pāli: Khattiya-muddhāvasitta-rājan, Vua thuộc dòng sát-đế-lị, đăng quang bằng phép quán đảnh.

 [53] Pāli: issariyamadamattaṃ, kiêu hãnh với vương quyền.

 [54] Hán: hữu tín, hữu duyên 有信有緣. Pāli: saddhāyiko paccayiko, người thân tín, đáng tin cậy.

 [55]Đại chánh, kinh 1148,  Pāli, S. 3. 11. Jaṭila. Biệt dịch, No 100(71).

 [56] Xà-kỳ-la 闍祇羅. Pāli: jaṭila, đạo sỹ bện tóc.

 [57] Nhất-xá-la 一舍羅. Pāli: ekasāṭaka, ngoại đạo một y (khoác một mảnh vải duy nhát).

 [58] Pāli: saṃvāsena … sīlaṃ veditabbaṃ, bằng sự sống chung mà biết được giới hạnh của một người.

 [59] Pāli: saṃvohārena … soceyyaṃ veditbbaṃ, bằng nghiêp vụ chung  mới biết được sự thanh tịnh của một người.

 [60] Pāli: āpadāsu … thāmo veditabbo, trong những khổ nạn mới biết sức chịu đựngcủa một người.

 [61] Hán: kiến thuyết tri minh 見說知明. Pāli: sākacchāya … paññā viditabbā, cùng đàm luận mới biết trí tuệ của một người.

 [62] Đại chánh: 鋀石銅? Ấn Thuận, Phật quang: thâu thạch đồng 鍮石銅, loại đồng đỏ. Pāli: patirūpako mattikakuṅḍalo, hoa tai bằng đất sét được thếp vàng.

 [63] Đại chánh, kinh 1149. Pāli,  S. 3. 12. Pañcảājāno. Biệt dịch, No 100(72); No 125(33.1.).

 [64] Pāli: năm vua.

 [65] Chiên-đàn ưu-bà-tắc 栴檀優婆塞. Pāli: Candanaṅgaliko upāsako.

 [66] Hán: Ương-kỳ quốc minh hiển 央耆國明顯. Pāli: aṅgīrasaṃ passaṃvirocamānaṃ, “hãy xem Aṅgīrasa ánh sáng chói lọi.” Trong Pāli, Aṅgīrasa là xưng hiệu thường dùng để chỉ Phật, vì dòng họ Gotama nguyên thủy thuộc bộ tộc Aṅgīrasa. Bản Hán hiểu đây là tên một nước.

 [67] Đại chánh, kinh 1150. Pāli, S. 3. 13. Doṇapāka. Biệt dịch, No 100(73).

 [68] Uất-đa-la 鬱多羅. Pāli: Sudassano māṇavo.