12. Tương Ưng Ma-ha-ca-chiên-diên, Kinh 545-554

12. TƯƠNG ƯNG MA-HA CA-CHIÊN-DIÊN [1]

KINH 545. THÁO QUÁN TRƯỢNG [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở bên bờ ao Ô-nê, [3] xóm Bạt-lan-na. [4] Lúc ấy có Bà-la-môn cầm gậy và binh nước rửa, [5] đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên. Sau khi thăm hỏi sức khỏe nhau, ông ngồi xuống một bên, hỏi Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Do nhân gì, duyên gì, vua tranh dành với vua; các Bà-la-môn, cư sĩ tranh dành với nhau?”

Ma-ha Ca-chiên-diên trả lời Bà-la-môn:

“Vì do bị trói buộc bởi tham dục [6] nên vua tranh dành nhau với vua; các Bà-la-môn, cư sĩ tranh dành với nhau. ”

Bà-la-môn lại hỏi:

“Do nhân gì, [141c] duyên gì, những người xuất gia tranh giành nhau?”

Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Vì do bị trói buộc bởi kiến dục [7] nên người xuất gia tranh giành với người xuất gia.”

Bà-la-môn lại hỏi:

“Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, có người nào lìa được sự ràng buộc của tham dục; lìa được sự ràng buộc của những kiến dục này chăng?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

Này Bà-la-môn, Đại Sư của tôi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn, đã lìa đươc sự ràng buộc của tham dục, lìa được sự ràng buộc của những kiến dục này.”

Bà-la-môn lại hỏi:

“Phật Thế Tôn hiện nay đang ở chỗ nào?”

Đáp:

“Đức Thế Tôn hiện tại đang ở giữa những người Ba-la-kỳ, nơi rừng rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc, thành Xá vệ, nước Câu-tát-la.”

Bấy giờ, Bà-la-môn từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch vai áo bên hữu, gối phải quỳ sát đất, hướng về nơi ở của Phật chấp tay tán thán: “Nam mô Phật! Nam mô Phật Thế Tôn, Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, vị đã lìa mọi sự ràng buộc của tham dục, hoàn toàn xa lìa mọi sự trói buộc của tham dục, và các kiến dục, sạch hết cội gốc.”

Bấy giờ, Bà-la-môn cầm gậy và binh nước rửa nghe Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói xong, tùy hỷ hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 546. TÚC SĨ [8]

Tôi nghe như vầy:

Khi đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ca chiên diên đang ở bên bờ ao Ô nê thôn Bà-la-na. [9] Bấy giờ, co một số đông Tỳ-kheo tụ tập ở nhà ăn, đang có việc về thọ trì y. Lúc ấy, có Bà-la-môn chống gậy [10] tuổi già, các căn suy yếu, đến chỗ nhà ăn, chống gậy đứng một bên. Sau một hồi im lặng, ông mới nói với các Tỳ-kheo:

“Này các Trưởng lão, tại sao các ông thấy người lớn tuổi, mà không chào hỏi, cung kính mời ngồi?”

Lúc đó, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên cũng ngồi trong chúng. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo Bà-la-môn:

“Theo pháp của chúng tôi, khi có người già cả đến, đều chào hỏi cung kính, lễ bái, mời ngồi.”

Bà-la-môn nói:

“Tôi thấy trong chúng này không có ai già cả hơn tôi, mà chẳng có ai cung kính chào hỏi mời ngồi. Thế sao ông nói rằng theo pháp của ông, nếu thấy có người lớn tuổi thì đều cung kính lễ bái mời ngồi?”

Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Này Bà-la-môn, nếu có người nào già cả đến tám mươi, chín mươi tuổi, tóc bạc, răng rụng, mà chỉ thành tựu được pháp thiếu niên, người này chẳng phải là bậc tôn túc. [11] Ngược lại, tuy là người tuổi trẻ khoảng hai mươi lăm, da trắng tóc đen, [142a] khỏe mạnh, hòan tòan đẹp đẽ, mà thành tựu được pháp của bậc cao niên, được kể vào hàng tôn túc.”

Bà-la-môn hỏi:

“Tại sao gọi là người tám mươi, chín mươi tuổi, tóc bạc răng rụng, lại thành tựu pháp thiếu niên; còn người trẻ tuổi khoảng hai mươi lăm, da trắng tóc đen, khỏe mạnh, đẹp đẽ, lại được kể vào hàng tôn túc?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo Bà-la-môn:

“Có năm phẩm chất của dục, đó là săc được nhận thức bởi mắt, đáng yêu, đáng thích, đáng nhớ nghĩ; tiếng được nhận thức bởi tai, hương được nhận thức bởi mũi, vị được nhận thức bởi lưỡi, xúc được nhận thức bởi thân, đáng yêu, đáng thích, đáng nhớ nghĩ. Đối với năm phẩm chất của dục này, mà không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa niệm tưởng, không lìa khát vọng, này Bà-la-môn, nếu người nào như vậy, dù tám mươi, chín mươi tuổi, tóc bạc, răng rụng, cũng gọi đó là thành tựu pháp thiếu niên. Còn người tuy tuổi mới hai mươi lăm, da tắng, tóc đen, khỏe mạnh, đẹp đẽ, nhưng đối với năm phẩm chất của dục này, mà lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa niệm tưởng, lìa khát vọng; người như vậy, tuy tuổi mới hai mươi lăm, da tắng, tóc đen, khỏe mạnh, đẹp đẽ nhưng thành tựu được pháp của bậc lão nhân thì được kể vào hàng tôn túc.”

Bấy giờ Bà-la-môn mới nói với Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Như ý nghĩa Tôn giả đã nói, nếu tự xét lại mình thì tuy tôi đã già mà lại nhỏ, còn các vị tuy trẻ tuổi mà đã thành tựu được pháp của bậc cao niên.

“Thưa Tôn giả, thế gian bận nhiều việc tôi xin cáo từ.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Này Bà-la-môn, ông tự biết đúng thời.”

Bà-la-môn sau khi nghe Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói xong, tùy hỷ, hoan hỷ, trở về nhà mình.

KINH 547. MA-THÂU-LA [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở trong rừng rậm. [13] Lúc ấy, quốc vương nước Ma-thâu-la là Tây phương Vương tử [14] đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên, hỏi Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Người Bà-la-môn tự nói, Ta là nhất, kẻ khác là thấp hèn. Ta là trắng, kẻ khác là đen. Bà-la-môn là thanh tịnh, chứ không phải phi bà-la-môn. Chính con Phạm Thiên [15] từ miệng sinh ra, được hóa sinh từ Phạm Thiên, [16] là thừ tự của Phạm Thiên. [17] nên chúng là sở hữu của Bà-la-môn. Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nghĩa này thế nào?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói với vua Ma-thâu-la:

“Đại vương, đây chỉ là ngôn thuyết của thế gian. Người thế gian cho rằng Bà-la-môn là nhất, kẻ khác là thấp hèn. Bà-la-môn là trắng, kẻ khác là đen. Bà-la-môn là thanh tịnh, chứ không phải phi bà-la-môn. Chính [142b] Bà-la-môn được Phạm Thiên sinh, từ miệng sinh ra; được hoa sinh từ Phạm Thiên, là thừ tự của Phạm Thiên. Đại vương nên biết, thật ra đó là nghiệp, là y cứ vào nghiệp.”

Vua nói với Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Đó là những lời nói sơ lược, tôi không hiểu rõ. Xin giải thích phân biệt lại cho.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Bây giờ, tôi sẽ hỏi đại vương, tùy theo câu hỏi mà đại vương trả lời.”

Tôn giả liền hỏi:

“Thưa đại vương, ngài là vua người Bà-la-môn, nơi đất nước của mình có bốn hạng người này, là Bà-la-môn, Sát-lị, cư sĩ, trưởng giả, đều được gọi đến. Ngài dùng tiền của, thế lực khiến họ hầu cận phòng vệ, họ dậy trước ngủ sau, và các mệnh lệnh được chấp hành, tất cả đều được như ý mình không?”

Vua đáp:

“Như ý.”

Tôn giả lại hỏi:

“Tâu đại vương, người Sát-lị làm vua, cư sĩ làm vua, trưởng giả làm vua. Nếu tại đất nước của mình có bốn chủng tánh; họ đều được gọi đến. Nhà vua dùng của cải, thế lực, khiến họ hầu cận phòng vệ; họ dậy trước ngủ sau. Vua ra lệnh làm các việc, có được như ý vua không?”

Vua đáp:

“Như ý. “

“Thưa đại vương, như vậy bốn chủng tánh này, tất cả đều bình đẳng có sai biệt nào? Đại vương, nên biết, bốn chủng tánh này tất cả đều bình đẳng, không có sự sai biệt hơn kém nào.”

Vua Ma-thâu-la bạch Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Thưa Tôn giả, đúng như vậy, bốn chủng tánh này đều bình đẳng, không có sai biệt hơn kém nào.”

“Cho nên, Đại vương, nên biết, bốn chủng tánh này theo ngôn thuyết của thế gian là có sai khác, cho đến, y cứ vào nghiệp, chứ chân thật không có sai biệt.

“Lại nữa, Đại vương, trong đất nước này, nếu dòng Bà-la-môn có người trộm cắp, Vua nên hành xử như thế nào?”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Trong dòng Bà-la-môn nếu có người nào trộm cắp, người ấy sẽ bị đánh bằng roi; bị trói, hoặc bị đuổi ra khỏi nước, hoặc phạt tiền của, hoặc bị chặt tay chân, xẻo tai mũi. Nếu là tội nặng, người ấy sẽ bị giết chết. Kẻ trộm đó dù là dòng Bà-la-môn cũng được gọi là giặc.”

Lại hỏi:

“Thưa Đại vương, nếu trong dòng Sát-lị, cư sĩ, trưởng giả có kẻ trộm cắp, phải làm thế nào?”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Cũng bị phạt đánh roi, bị trói, bị đuổi ra khỏi nước; cũng phạt tiền của, bị chặt tay, chân, xẻo tai, mũi; nếu tội nặng thì bị giết chết.”

“Như vậy, thưa Đại vương, há không phải bốn chủng tánh đều bình đẳng sao? Hay có sự sai khác nào chăng?”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Ý nghĩa của chúng là như vậy. Thật sự không có bất cứ một sai biệt hơn kém nào.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên [142c] lại nói với vua:

“Đại vương, nên biết, về bốn chủng tánh này, ngôn thuyết của thế gian nói Bà-la-môn là nhất, kẻ khác là thấp hèn. Bà-la-môn là trắng, kẻ khác là đen. Bà-la-môn là thanh tịnh, chứ không phải phi bà-la-môn. Chính Bà-la-môn được Phạm Thiên sinh, từ miệng sinh ra; được hoa sinh từ Phạm Thiên, là thừ tự của Phạm Thiên. Đó có phải căn cứ vào nghiệp, chân thật nghiệp là sở y chăng?”,

Lại hỏi:

“Đại vương, nếu người Bà-la-môn sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời ác, hai lưỡi, nói thêu dệt, tham, nhuế, tà kiến, tạo mười nghiệp đạo bất thiện, người ấy sẽ sinh vào cõi ác hay cõi lành? Từ nơi vị A-la-ha [18] vua đã nghe được những gì?”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Bà-la-môn tạo mười nghiệp đạo bất thiện sẽ đọa vào đướng ác.Từ nơi A-la-ha tôi nghe như vậy. Sát-lị, cư sĩ, trưởng giả cũng nói như vậy.”

Lại hỏi:

“Thưa Đại vương, nếu Bà-la-môn nào làm mười nghiệp đạo thiện, xa lìa sát sanh, cho đến có chánh kiến, người ấy sẽ sinh vào nơi nào? Cõi thiện hay cõi ác? Từ nơi vị A-la-ha vua đã nghe được những gì? “

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Nếu Bà-la-môn làm mười nghiệp đạo thiện thì sẽ sinh vào cõi thiện. Từ nơi A-la-ha tôi nghe như vậy. Sát-lị, cư sĩ, trưởng giả cũng nói như vậy.”

Lại hỏi:

“Thế nào, Đại vương, bốn chủng tánh như vậy, là có bình đẳng không, hay có sai biệt hơn kém gì chăng?”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Theo nghĩa như vậy thì là bình đẳng, không có gì sai biệt hơn kém gì.”

“Cho nên, Đại vương, nên biết, bốn chủng tánh này đều bình đẳng không có sai biệt hơn kém gì. Theo ngôn thuyết thế gian mà nói, Bà-la-môn là nhất, kẻ khác là thấp hèn. Bà-la-môn là trắng, kẻ khác là đen. Bà-la-môn là thanh tịnh, chứ không phải phi bà-la-môn. Chính Bà-la-môn được Phạm Thiên sinh, từ miệng sinh ra; được hoa sinh từ Phạm Thiên, là thừ tự của Phạm Thiên. Nên biết, nghiệp là chân thật, là y cứ vào nghiệp.”

Vua thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Thật đúng như những gì ngài đã nói đó. Tất cả đều chỉ là ngôn thuyết của thế gian, nên nói Bà-la-môn là nhất, kẻ khác là thấp hèn. Bà-la-môn là trắng, kẻ khác là đen. Bà-la-môn là thanh tịnh, chứ không phải phi bà-la-môn. Chính Bà-la-môn được Phạm Thiên sinh, từ miệng sinh ra; được hoa sinh từ Phạm Thiên, là thừ tự của Phạm Thiên. Nhưng đều do nghiệp là chân thật, là y cứ vào nghiệp.”

Vua Ma-thâu-la nghe Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói xong, tùy hỷ hoan hỷ [143a] làm lễ rồi đi.

KINH 548. CA-LÊ [19]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở trong tinh xá Câu-la-la-tra, nước A-bàn-đề. [20]

Sáng sớm, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đắp y, mang bát, vào tinh xá Câu-la-la-tra [21] tuần tự đi khất thực, đến nhà Ưu-bà-di Ca-lê-ca. [22]

Khi ấy, Ưu-bà-di trông thấy Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, liền sửa soạn chỗ ngồi, rồi mời ngồi, đảnh lễ sát chân Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên xong, đứng lui qua một bên, thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Như những gì đức Thế Tôn đã dạy, trả lời câu hỏi của đồng nữ Tăng-kỳ-đa. [23] Thế Tôn đã nói trong bài kệ những câu hỏi của đồng nữ Tăng-kỳ-đa:

Thật nghĩa ở tại tâm,

Tịch diệt mà không loạn. [24]

Hàng phục quân dũng mãnh,

Sắc đẹp đẽ đáng yêu. [25]

Một mình, chuyên thiền tứ,

 Nếm thiền lạc vi diệu,

Đó gọi là xa lìa,

Các bạn bè thế gian.

Các bạn bè thế gian,

Không gần gũi ta được.

“Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, bài kệ này của Thế Tôn, ý nghĩa như thế nào?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên trả lời ưu-bà-di:

“Này Chị, có một Sa-môn Bà-la-môn nói: Biến xứ định về đât; [26] không còn gì hơn đây để cầu mong quả này. [27] Này Chị, nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với biến xứ định về đất, mà được thanh tịnh trong sáng, sẽ thấy được căn bản của nó, [28] thấy được sự tai hại, thấy được sự diệt tận, thấy đuợc con đường đứ đến sự diệt tận. Vì thấy được cội gốc, thấy được sự tai hại, thấy được sự diệt tận, thấy được con đường đưa đến sự diệt tận, nên đạt được nghĩa chân thật tại tâm, tuy tịch diệt nhưng không lọan.

“Này Chị, cũng vậy biến xứ định về nước, biến xứ định về lửa, biến xứ định về gió, biến xứ định về màu xanh, biến xứ định về màu vàng, biến xứ định về màu đỏ, biến xứ định về màu trắng; biến xứ định về hư không, biến xứ định về thức là tối thượng để cầu mong quả này.

“Này Chị, nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào cho đến, biến xứ định về thức, mà được thanh tịnh trong sáng, sẽ thấy căn bản, thấy được sự tai hại, thấy được sự diệt tận, thấy được con đường đưa đến sự diệt tận. Vì thấy được căn bản, thấy được sự tai hại, thấy được sụ diệt tận, thấy con đường đưa đến sự diệt tận, nên đạt được nghĩa chân tại tâm, [143b] tịch diệt mà không loạn, khéo thấy, khéo nhập. Cho nên Thế Tôn trả lời bài kệ Những câu hỏi của Đồng nữ Tăng-kì-đa:

Thật nghĩa ở tại tâm,

Tịch diệt mà không loạn.

Hàng phục quân dũng mãnh,

Sắc đẹp đẽ đáng yêu.

Một mình, chuyên thiền tứ,

Nếm Thiền lạc vi diệu,

Đó gọi là xa lìa,

Bạn bè của thế gian.

Các bạn bè thế gian,

Không gần gũi ta được.

“Này Chị, vì tôi hiểu Thế Tôn bằng ý nghĩa như vậy mà nói kệ như vậy.”

Ưu-bà-di thưa:

“Lành thay, Tôn giả! Tôn giả đã nói nghĩa chân thật. Xin Tôn giả nhận lời mời thọ trai của con.”

Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên im lặng nhận lời.

Ưu-bà-di Ca-lê-ca biết Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đã nhận lời mời rồi, liền sắm sửa các thứ đồ ăn thức uống ngon lành, cung kính tôn trọng, tự tay dâng thức ăn. Khi Ca-lê-ca biết Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đã thọ thực, rửa bát, súc miệng xong, liền sửa soạn một chỗ ngồi thấp trước Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, cung kính nghe pháp. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên vì nữ cư sĩ mà nói các pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến cho hoan hỷ xong, sau đó Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 549. LY [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ . Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên cũng ở ở tại vườn Cấp cô độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ .

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo các Tỳ-kheo:

“Phật Thế Tôn, Như Lai, Ứng cũng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, là bậc Kiến giả, [30] nói sáu pháp ra khỏi chỗ khổ, đạt đến chỗ thù thắng; nói nhất thừa đạo khiến cho chúng sanh được thanh tịnh, lìa mọi sự khổ não, dứt hết lo buồn, được pháp chơn như. Sáu pháp ấy là gì? Đó là, Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là pháp sở hành thanh tịnh: Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Thánh đệ tử do niệm Như Lai, là pháp sở hành nên hành, nên lìa giác tưởng tham dục, lìa giác tưởng sân nhuế, lìa giác tưởng não hại. [31] Thánh đệ tử ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo [143c] trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ nhất ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.

“Lại nữa, Thánh đệ tử luôn niệm tưởng Chánh pháp, niêm: Pháp Luật hiện tại của Thế Tôn, lìa mọi nhiệt não, phi thời gian, thông suốt, tức duyên ngay trong đời này mà tự giác ngộ. Lúc Thánh đệ tử niệm Chánh pháp, không khởi giác tưởng tham dục, giác tưởng sân nhuế, não hại; như vậy, Thánh đệ tử đã ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ hai ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.

“Lại nữa, Thánh đệ tử luôn niệm Tăng pháp: Là bậc thiện xảo thú hướng, chân chánh thú hướng, trực chỉ thú hướng, bình đẳng thú hướng, tu hạnh tùy thuận, Đó là hướng Tu-đà-hòan, đắc quả Tu-đà-hòan; hướng Tư-đà-hàm, đắc quả Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc quả A-na-hàm ; hướng A-la-hán, đắc quả A-la-hán. Như vậy, bốn đôi, tám bậc, đó gọi là Tăng đệ tử của Thế Tôn, đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến, là phước điền vô thượng của thế gian, là nơi cúng dường, cung kính, lễ bái. Khi Thánh đệ tử niệm Tăng, không khởi giác tưởng tham dục, sân nhuế, não hại, như vậy, Thánh đệ tử sẽ thoát khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ ba ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.

“Lại nữa, Thánh đệ tử niệm giới đức, niệm: Giới không khuyết, giới không vỡ, giới thuần hậu, giới không lìa, giới không trộm lấy, giới khéo rốt ráo, giới đáng khen ngợi, giới mà bậc phạm hạnh không ghét bỏ. Nếu Thánh đệ tử khi niệm giới, tự nhớ nghĩ những giới đã được thành tựu trong thân, ngay lúc ấy không khởi [144a] giác tưởng tham dục, sân nhuế, não hại, như vậy là Thánh đệ tử đã ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ tư ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.

“Lại nữa, Thánh đệ tử niệm Thí pháp, tâm tự hoan hỷ: Nay ta đã lìa cáu bẩn xan tham; [32] dù là tại gia mà tâm bố thí với sự giải thoát, thường thí, xả thí, vui thí, thành tựu sự bố thí, bố thí bình đẳng. Nếu Thánh đệ tử khi niệm thí pháp mà tự mình bố thí, không khởi giác tưởng tham dục, sân nhuế, não hại, như vậy, Thánh đệ tử đã ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ năm ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.

“Lại nữa, Thánh đệ tử luôn niệm Thiên đức, niệm: Tứ vương thiên, Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên. Ai với tín tâm thanh tịnh, khi mạng chung ở nơi nay sẽ sinh lên các cõi trời. Ta cũng như vậy, với tín, giới, thí, văn, tuệ, mạng chung ở nơi này, ta sẽ được sinh lên các cõi trời. Như vậy, khi Thánh đệ tử niệm công đức chư thiên, không khởi giác tưởng tham dục, sân nhuế, não hại, như vậy, Thánh đệ tử đã ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si, và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ năm ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh đuợc thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

KINH 550. HA-LÊ [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên ở tại tinh xá họ Thích trong thôn Ha-lê.

 [144b] Bấy giờ trưởng giả Ha-lê Tụ lạc [34] đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên, thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Như bài kệ Thế Tôn trả lời những câu hỏi của Ma-kiền-đề trong kinh Nghĩa phẩm: [35]

Đoạn tất cả các dòng,

Lấp kín nguồn nước chảy;

Sống thân cận làng xóm,

Mâu ni không khen ngợi.

Đối năm dục trống rỗng,

Quyết không đầy trở lại;

Lời tranh tụng thế gian,

Chung cuộc không xảy nữa.

“Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, kệ này có ý nghĩa gì?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên trả lời Gia chủ:

“Con mắt là dòng chảy. Tham phát khởi bởi thức con mắt. Nương vào giới con mắt mà tham dục chảy trào ra, nên gọi là dòng chảy. [36] Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là dòng chảy tham phát khởi bởi ý thưc. Nương vào ý giới mà tham dục chảy trào ra, nên gọi là dòng chảy.”

Gia chủ lại hỏi Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Thế nào gọi là không chảy trào ra?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Thức con mắt, y trên sắc được nhận thức bởi mắt mà phát sinh ái hỷ; nếu chúng dứt sạch, vô dục, diệt tận, tich tĩnh, tịch diêt, đó gọi là không chảy trào ra. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý; là ý thức, y trên pháp được nhận thức bởi ý mà phát sinh tham dục, nếu chúng dứt sạch, vô dục, diệt tận, tich tĩnh, tịch diêt, đó gọi là không chảy trào ra.”

Lại hỏi:

“Thế nào là nguồn?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Duyên con mắt và sắc sinh ra thức con mắt. Ba sự hòa hợp sinh xúc. Duyên xúc sinh thọ, hoặc thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ không lạc. Từ đó phát xuất dòng nhiễm trước. Tai, mũi, lưỡi, thân; ý, ý thức, pháp, cả ba hòa hợp sinh xúc. Duyên xúc sinh cảm thọ, hoặc thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ không lạc. Dòng ái hỷ y nơi thọ này phát xuất, đó gọi là nguồn của dòng.

“Thế nào là lấp nguồn của dòng này? Sự hệ luỵ do giới con mắt tiếp nhận cảnh giới tâm pháp; nếu sự hệ luỵ này dứt sạch, vô dục, diệt tận, tịch tĩnh, tịch diệt, đó gọi là lấp nguồn của dòng. Sự hệ luỵ do tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp nhận cảnh giới tâm pháp; nếu sự sự hệ lụy này dứt sạch, vô dục, diệt tận, tịch tĩnh, tịch diệt, đó gọi là lấp nguồn của dòng.”

Lại hỏi:

“Thế nào là thân cận, tán thán nhau? [37]

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đáp:

“Tại gia, xuất gia thân cận nhau, cùng mừng, [144c] cùng lo, cùng vui, cùng khổ, việc gì cũng đều làm chung, đó gọi là thân cận, tán thán nhau.”

Lại hỏi:

“Thế nào là không khen ngợi? [38]

Tại gia, xuất gia không cùng thân cận, không cùng mừng, không cùng lo, không cùng khổ, không cùng vui; phàm làm việc gì cũng đều không cùng nhau vui vẻ tán thành, đó gọi là không khen ngợi.”

“Thế nào dục không trống không?”

“Có năm phẩm chất của dục: sắc được nhận thưc bởi mắt, đáng ưa, đánh thích, đáng nghỉ nhớ, đăm trước sâu, nuôi lớn dục. Tiếng bởi tai, hương bởi mũi đối với hương, vị bởi lưỡi đối với vị, xúc bởi thân đối với xúc, đáng ưa, đánh thích, đáng nghỉ nhớ, đắm trước sâu, nuôi lớn dục. Đối với năm dục này mà không lìa tham, không lìa ái, không lìa nhớ nghĩ, không lìa khao khát, đó gọi là dục không trống không.”

“Thế nào gọi là dục trống không?”

“Đối với năm dục này mà lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa nhớ nghĩ, lìa khát khao, đó gọi là dục trống không.”

“Nói bị hệ luỵ trói buộc bởi ngã, đó là khi tâm pháp trở lại đầy. Tỳ-kheo A-la-hán kia đã đoạn tận các lậu, cắt đứt gốc rễ của chúng, như chặt đứt ngọn cây đa-la, đời vị lai sẽ không sinh trở lại nữa, làm sao lại cùng với kẻ khác tranh tụng.

“Cho nên, Thê tôn trả lời câu hỏi của Ma kiền đề trong kinh Nghĩa phẩm bằng bài kệ:

Đoạn tất cả các dòng,

Lấp kín nguồn nước chảy;

Sống thân cận làng xóm,

Mâu ni không khen ngợi.

Đối năm dục trống rỗng,

Quyết không đầy trở lại;

Lời tranh tụng thế gian,

Chung cuộc không xảy nữa.

“Đó gọi là sự phân biệt nghĩa lý bài kệ mà Như Lai đã nói.”

Bấy giờ, Gia chủ Ha-lê Tụ lạc khi nghe Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói xong, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ rồi ra về.

KINH 551. HA-LÊ (2) [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở tại tinh xá của họ Thích trong thôn Ha-lê. Vị gia chủ thôn chủ Ha-lê [40] đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên cúi đần đảnh lễ sát chân Tôn giả, rồi ngồi xuống một bên, thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Như lúc đức Thế Tôn ở trong hang đá núi Giới cách đã nói với Thiên Đế Thích rằng: Này Kiều-thi-ca, nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào mà giải thoát vô thượng với sự diệt tận ái, [41] tâm khéo chân chánh giải thoát, rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyệt đối thanh tịnh. Làm thế nào mà ở trong pháp luật này đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Con mắt, thức con mắt, sắc được nhận thức bởi con mắt, [145a] nương nhau sinh hỷ. Nếu hỷ này đoạn tận, vô dục, diệt tận, tịch diêt, tĩnh chỉ, ngay trong pháp luật này sẽ đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh. Tai, mắt, lưỡi, thân, ý, ý thức; pháp được nhận thức bởi ý nhau sinh ra hỷ. Nếu hỷ này đoạn tận, vô dục, diệt tận, tịch diêt, tĩnh chỉ, ngay trong pháp luật này sẽ đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh.”

Gia chủ thôn chủ Ha-lê, sau khi nghe lời chỉ dạy của Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ ra về.

KINH 552. HA-LÊ (3) [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở tại tinh xá của họ Thích trong thôn Ha-lê. Vị gia chủ thôn chủ Ha-lê đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên cúi đầu đảnh lễ sát chân Tôn giả, rồi ngồi xuống một bên, thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Như khi Thế Tôn ở trong hang đá núi Giới cách đã nói với Đế Thích rằng: Này Kiều-thi-ca, nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào mà giải thoát vô thượng vơi sự dứt sạch ái, tâm khéo chân chánh giải thoát, đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh. Làm thế nào mà ở trong pháp luật này đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh?”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Tỳ-kheo đối với sự hệ lụy đắm trước nơi cảnh giới của tâm pháp được tiếp nhận bơi giới con mắt; sự hệ luỵ ấy nêu đã dứt sạch, vô dục, diệt tận, tịch diệt, tĩnh chỉ, ở trong pháp luật này mà đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh. Đối với sự hệ lụy đắm trước nơi cảnh giới của tâm pháp được tiêp nhận bởi tai, mũi, lưỡi, thân, ý gới; sự hệ luỵ ấy nêu đã dứt sạch, vô dục, diệt tận, tịch diệt, tĩnh chỉ, ở trong pháp luật này mà đạt đến rốt ráo biên tế, tốt ráo vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, tuyêt đối thanh tịnh.”

Gia chủ thôn chủ Ha-lê sau khi nghe Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nói xong, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ ra về.

KINH 553. HA-LÊ (4) [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở trong thôn Ha-lê của họ Thích. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nghe gia chủ chủ thôn Ha-lê mắc bệnh khổ. Sau khi nghe vậy, vào buổi sáng sớm, Tôn giả đắp y mang bát vào thôn Ha-lê khất thực, lần lượt đến nhà gia chủ thôn chủ Ha-lê. Gia chủ chủ thôn Ha-lê [145b] từ xa trông thấy Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, ông muốn rời chỗ nằm đứng dậy. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên thấy gia chủ muốn đứng dậy, liền bảo gia chủ:

“Gia chủ chớ đứng dậy! May còn có chỗ ngồi, tôi có thể tự ngồi nơi đó.”

Tôn giả lại nói với gia chủ:

“Thế nào gia chủ, tật bệnh có chịu đựng được không? Mọi thứ đau đớn của thân thể có thuyên giảm không? không tăng thêm chăng?”

Gia chủ đáp:

“Thưa Tôn giả, bệnh con rất khó nhẫn chịu. Những sự đau đớn của thân thể càng tăng thêm, không bớt chút nào!”

Gia chủ liền nói ba thí dụ như kinh Xoa-ma Tỳ-kheo [44] đã nói trước.

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Cho nên, ông nên tu tập bất hoại tịnh đối với Phật, tu tập bất hoại tịnh đối với Pháp, tu tập bất hoại tịnh đối với Tăng, tu tập và thành tựu Thánh giới. Nên học như vậy.”

Gia chủ đáp:

“Bốn bất hoại tín như đức Phật đã dạy, con đã thành tựu được tất cả. Hiện tại con đã thành tựu Phật bất hoại tịnh, Pháp bất hoại tịnh, Tăng bất hoại tịnh, và đã thành tựu Thánh giới.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Ông nên nương vào bốn pháp bất hoại tịnh này mà tu tập sáu pháp niệm. Nên niệm công đức Phật: Ngài là Như Lai, Ứng cũng, Đẳng Chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Nên niệm công đức Pháp là, Chánh pháp, luật của Thế Tôn, ngay trong đời này mà xa lìa các phiễn não bức rức, pháp được thông đạt phi thời gian, duyên tự mình mà giác ngộ. Nên niệm công đức Tăng, là bậc thiện xảo thú hướng, chân chánh thú hướng, trực chỉ thú hướng, bình đẳng thú hướng, tu hạnh tùy thuận, Đó là vị hướng Tu-đà-hòan, đắc quả Tu-đà-hòan; hướng Tư-đà-hàm, đắc quả Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc quả A-na-hàm ; hướng A-la-hán, đắc quả A-la-hán. Như vậy, bốn đôi, tám bậc, đó gọi là Tăng đệ tử của Thế Tôn, đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến, là phước điền vô thượng của thế gian, là nơi cúng dường, cung kính, lễ bái. Nên niệm công đức giới, tự giữ gìn chánh giới, không hủy, không kguyết, không vỡ, không nát, là gới chẳng trộm lấy, giới cứu cánh, giới đáng khen ngợi, giới phạm hạnh, giới không bị ghét bỏ. Nên niệm công đức bố thí là, tự mình nghĩ đến bố thí, tự tâm cảm thấy hân hoan, xả bỏ keo kiệt, tham lam; tuy ở tại gia nhưng tâm bố thí giải thoát, thường bố thí, vui vẻ bố thí, bố thí đầy đủ, bố thí bình đẳng. Nên niệm công đức chư thiên là, niệm trời Tứ vương, trời Tam thập tam, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất đà, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, ai với tín và giới thanh tịnh, khi chết ở cõi này được sinh về trong các cõi kia. Ta cũng như vậy, nhờ tín, giới, trí, văn, tuệ thanh tịnh, nên được sinh về [145c] trong các cõi trời kia.

“Này gia chủ, như vậy nên biết nương vào bốn pháp bất hoại tịnh và thêm sáu niệm xứ nữa.”

Gia chủ thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“Bốn pháp bất hoại tịnh và sáu niệm xứ mà Đức Thế Tôn đã nói, ở đây, tất cả con đều thành tựu. Con đang tu tập niệm đức Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệmgiới, niệm thí, niệm thiên.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

“Lành thay! Gia chủ có thể tự xác nhận là đắc quả A-na-hàm.”

Bấy giờ, gia chủ thưa:

“Mời Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên ở lại đây thọ trai.”

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nhận lời mời. Gia chủ thôn chủ Ha-lê, biết Tôn giả đã nhận lời, liền sửa sọan đầy đủ đồ ăn thức uống ngon, tự tay cúng dường. Thọ trai xong, sau khi rửa bát, súc miệng, Tôn giả vì gia chủ nói pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ, xong Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 554. HA-LÊ (5) [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-Vệ . Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở trong thôn Ha-lê của họ Thích. Lúc đó có gia chủ ở Bát thành [46] tên là Đà-thí [47] thân bị bệnh khổ. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nghe gia chủ Đà-thi mắc bệnh, sáng sớm đắp y mang bát vào Bát thành khất thực, lần lượt đến nhà gia chủ Đà-thí. Như kinh gia chủ Ha-lê đã nói như vậy.

 


 [1] Hội biên, Tụng vi. Đệ tử sở thuyết, 31. Tương ưng Đại Ca-chiên-diên, gồm các kinh Đại chánh 546-555 (nửa sau quyển 20).

 [2] Đại chánh, kinh 546. Pāli, A. 2. 4. 6.  Ārāmadaṇḍa (i. 66).

 [3] Ô-nê trì 烏泥池. Pāli: Kaddamadaha (ao bùn).

 [4] Bạt-lan-na tụ lạc 跋蘭那聚落. Pāli: Varaṇāya.

 [5] Chấp tháo quán trượng phạm chí 執澡灌杖梵志; Bà-la-môn cầm bậy và bình nước rửa. Chư quán, bản Cao ly 灌: tưới nước; bản Tống 盥 rửa tay; bản Nguyên-Thánh 罐: cái hủ. Pāli: Ārāmadaṇḍa brāhmaṇo.

 [6] Tham dục hệ trước 貪欲繫著. Pāli: kāmarāgābhinivesavinibandha, hệ lụy bởi tham nhiễm dục

 [7] Kiến dục hệ trước. Pāli: diṭṭhirāgābhinivesavinibandha, hệ lụy bởi tham nhiễm kiến

 [8] Đại chánh, kinh 547. Người lớn tuổi. Pāli, A.2.4.7 Kaṇḍarāyana (i. 67).

 [9] Bà-la-na 婆羅那; xem cht. kinh trên. Pāli: Madhurāyaṃ Gundāvane, trong rừng Gundā, vương quốc Madhura.

 [10] Chấp trượng phạm chí 執杖梵志. Pāli: Bà-la-môn Kaṇḍarāyana.

 [11] Hán: túc sĩ 宿士. Pāli: atha kho bālo na therotveva saṅkhyaṃ gacchati, ‘(người bị chi phối bởi dục vọng) người như vậy được gọi là người ngu, chứ không phải là trưởng lão.” Pāli, bāla chỉ người ngu, cũng có nghĩa là con nít.

 [12] Đại chánh, kinh 548. Pāli, M.84 Madhurasutta.

 [13] Trù lâm 稠林. M 38: Madhurāyaṃ Gundāvane.

 [14] Tây phương vương tử 西方王子. M 38, vua nước Madhura tên là Avantiputta.

 [15] Bản Hán: Bà-la-môn tử 婆羅門子; không phân biệt brahmā (Phạm thiên) với brāhmaṇa (bà-la-môn).

 [16] Nguyên Hán: Bà-la-môn 婆羅門. Xem cht. 15 trên.

 [17] Bản Hán: thị Bà-la-môn sở hữu 是婆羅門所有. Pāli: brahmadāyādā.

 [18] A-la-ha 阿羅呵; Pāli: ārahā, tức A-la-hán; ở đây chung các bậc Thánh được tôn sùng, không phải riêng A-la-hán trong hàng Thanh văn của Phật.

 [19] Đại chánh, kinh 549. Pāli, A.10. 26 Kālī.

 [20] A-bàn-đề quốc Câu-la-la-tra tinh xá 阿槃提國拘羅羅 [口*宅]精舍. A 10. 26: ở vương quốc Avantī, thị trấn Kuraraghara, trong núi Pavatta.

 [21] Hán: nhập. Có sự nhầm lẫn về địa danh trong bản Hán.

 [22] Ca-lê-ca 迦梨迦. Pāli: Kuraragharikā Kālī, vợ của người thợ săn chim ưng (?). A 10. 26: ưu-bà-di Kālī đi đến chỗ Tôn giả.

 [23] Tăng-kì-ni đồng nữ sở vấn 僧耆多童女所問. Pāli: Kumāripañha, ‘những câu hỏi của Đồng nữ.” Không nói tên người hỏi.

 [24] Hán: thật nghĩa tồn ư tâm, tịch diệt nhi bất loạn 實義存於心, 寂滅而不亂. Pāli: atthassa pattiṃ hadayassa santiṃ, đạt đến mục đích (ý nghĩa), và sự tịch tĩnh của tâm.

 [25] Pāli: jetvā senaṃ piyasātarūpaṃ, hàng phục đội quân sắc khả ái, khả hỷ.

 [26] Hán: địa nhất thiết nhập xứ chánh thọ 地一切入處正受: môn chánh thọ  có đề mục là nhất thiết nhập (hay biến xứ: tập trung trên tính phổ biên của đối tượng) với đối tượng là đất, một trong 10 đối tượng của đề mục thiền định biến xứ. Pāli: paṭhavīkasiṇa-samāpatti.

 [27] Pāli: paṭhavīkasiṇasamāpattiparamā kho bhaginī eke samaṇabrāhmaṇā attho’ ti abhinibbattesuṃ, “Một số Sa-môn, Bà-la-môn cho rằng địa biến xứ đẳng chí là mục đích (ý nghĩa) tối thượng.”

 [28] Đây chỉ vị ngọt của định. Pāli: assāda.

 [29] Đại chánh, kinh 550. Pāli, A.6.26 Kaccāna.

 [30] Hán: sở tri sở kiến 所知所見.

 [31] Tham dục giác, sân nhuế giác, hại giác; tức ba bất thiện tầm.

 [32] Xam tham cấu 慳貪垢. Pāli: maccheramala.

 [33] Đại chánh, kinh 551. Pāli, S.22.3 Hāliddikāni.

 [34] Ha-lê Tụ lạc trưởng giả 訶梨聚落長者, Ha-lê tụ lạc chủ; xem kinh tiếp theo. Pāli: Hāliddikāni-gahapati.

 [35] Nghĩa phẩm, Ma-kiền-đề sở vấn 義品摩揵提所問. Pāli: Aṭṭhakavaggiye Māgandiyapañhe (Sn. 4. 9).

 [36] Hán: lưu 流. Pāli: rūpadhātu viññāṇassa oko, rūpadhāturāgavinibaddhañca pana viññāṇam okasāriti vuccati, ‘Sắc giới là nhà của thức; và thức bị trói buộc bởi sắc giới tham được gọi là người ở trọ nhà.”

 [37] Pāli: kathaṃ ca gāme santhavajāto hoti, ‘Thế nào là sự hoà thuận trong thôn xóm?”

 [38] Pāli: ‘Thế nào là không gần gũi xóm làng?”

 [39] Đại chánh, kinh 552. S.22.4 Hāliddikāni.

 [40] Ha-lê tụ lạc chủ trưởng giả 訶梨聚落主長者. Pāli: ḥāliddikāni gahapati.

 [41] Ái tận giải thoat. Pāli: taṇhākkhayavimutti; Cf. M.37 Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttam.

 [42] Đại chánh, kinh 553. S. 35. 130. Hāliddako.

 [43] Đại chánh, kinh 554.

 [44] Kinh 105.

 [45] Đại chánh, kinh 555.

 [46] Bát thành 八城. Pāli: Aṭṭhaka-nāgara.

 [47] Đà-thí 陀施. Pāli: Dasama.