30. Tương Ưng tỳ kheo, Kinh 966-987

TỤNG VII. KỆ

30. TƯƠNG ƯNG TỲ KHEO [1]

KINH 966. THIỆN SINH [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tôn giả Thiện Sanh [3] vừa mới cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà; đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo. Hãy biết thiện nam tử Thiện Sanh này có hai chỗ xinh đẹp: [4] một là cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà; hai là đã tận trừ các hữu lậu, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại tự biết tác chứng: [5] ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Tịch tĩnh, sạch các lậu,

Tỳ-kheo dẹp rực rỡ;

Ly dục, đoạn các kết,

Niết-bàn, không tái sinh.

Mang thân tối hậu này,

Hàng phục giặc ma oán.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 967. XÚ LẬU [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ-kheo [7] hình tướng xấu xí khó coi, bị các Tỳ-kheo khinh mạn, đi đến chỗ Phật. Khi ấy bốn chúng đang vây quanh bên Thế Tôn, thấy Tỳ-kheo này đến, tất cả đều có ý khinh mạn, nói với nhau rằng: “Tỳ-kheo đang đến kia là ai? Hình tướng xấu xí, khó coi, bị mọi người khinh mạn vậy?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Tỳ-kheo nên bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy Tỳ-kheo đang đến kia, hình tướng thô xấu, khó coi đang đi đến đây, bị mọi người khinh mạn không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Vâng, [276b] chúng con đã thấy vậy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đối với Tỳ-kheo này, các ngươi chớ có khởi ý tưởng kinh mạn. Vì sao? Tỳ-kheo này đã tận trừ các lậu, những việc cần làm đã làm xong, đã vất bỏ gánh nặng, đã đoạn tận các hữu kết, chánh trí, tâm thiện giải thoát. Này các Tỳ-kheo, các ngươi chớ xét đoán lầm người. Chỉ có Như Lai mới có khả năng xét đoán người.”

Tỳ-kheo này đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi xuống một bên.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy Tỳ-kheo này cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Vâng, chúng con đã thấy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đối với Tỳ-kheo này, các ngươi chớ có ý khinh mạn,... cho đến các ngươi chớ xét đoán lầm người. Chỉ có Như Lai mới có khả năng biết được người.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Chim bay cùng thú chạy,

Tất cả sợ sư  tử.

Sư tử vua loài thú,

Không có loài nào bằng.

Cũng vậy, người trí tuệ,

Tuy nhỏ nhưng mà lớn.

Chớ chấp thân tướng họ,

Mà sinh tâm khinh mạn;

Nào cần thân to lớn,

Thịt nhiều không trí tuệ.

Trí tuệ hiền thắng này,

Chính là bậc thượng sỹ.

Ly dục, đoạn các kết,

Niết-bàn, không tái sinh.

Mang thân tối hậu này,

Hàng phục các ma quân.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 968. ĐỀ-BÀ [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà,, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa [9] có được lợi dưỡng từ A-xà-thế con bà Tì-đề-hi, [10] vua nước Ma-kiệt-đà. [11] Hằng ngày cùng đoàn thị tùng với năm trăm cổ xe đến chỗ Đề-bà-đạt-đa; hằng ngày đem năm trăm chõ đồ ăn cúng dường Đề-bà-đạt-đa. Đề-bà-đạt-đa dẫn năm trăm người thành nhóm riêng [12] nhận sự cúng dường này.

Lúc bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Vương Xá khất thực, nghe Đề-bà-đạt-đa có những lợi dưỡng như vậy,... cho đến nhóm riêng năm trăm người hưởng thụ sự cúng dường này. Khất thực xong, họ trở về tinh xá cất y bát, rửa chân, rồi đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm chúng con khóac y, ôm bát [276c] vào thành Vương Xá khất thực, nghe Đề-bà-đạt-đa có lợi dưỡng như vậy,... cho đến dẫn nhóm riêng năm trăm người hưởng thọ sự cúng dường này.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi chớ nói Đề-bà-đạt-đa đang được lợi dưỡng. Vì sao? Đề-bà-đạt-đa này nếu hưởng thọ lợi dưỡng riêng thì đời này tự hoại và đời sau cũng bị hoại. Ví như cây chuối, lau, tre sinh quả liền chết, năm sau cũng hư hoại. Cũng vậy, Đề-bà-đạt-đa nếu thọ nhận sự cúng dường này, đời này bị hoại, đời sau cũng bị hoại. Thí như con la [13] mang thai thì chết; cũng như vậy Đề-bà-đạt-đa nếu thọ nhận các lợi dưỡng thì đời này bị hoại, đời sau cũng bị hoại. Đề-bà-đạt-đa ngu si kia sẽ tùy theo thời gian nhiều ít hưởng thụ lợi dưỡng này mà phải lâu dài chịu khổ, không lợi ích. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy học như vầy: ‘Dù có lợi dưỡng đến, tôi cũng không sinh tâm nhiễm trước.’”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Chuối sinh quả liền chết,

Lau tre cũng như vậy.

La mang thai thì chết;

Người vì tham mà chết.

Thường làm điều phi nghĩa,

Biết nhiều không khỏi ngu;

Pháp lành ngày tổn giảm,

Cành khô, rễ cũng tàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng.

KINH 969. TƯỢNG THỦ [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nước Xá-vệ có Thủ Tỳ-kheo [15] là người họ Thích, mạng chung tại nước Xá-vệ.

Lúc ấy, sáng sớm có nhiều Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe Thủ Tỳ-kheo họ Thích mạng chung ở nước Xá-vệ. Sau khi vào thành Xá-vệ khất thực trở về, họ cất y bát, rửa chân xong, rồi đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm hôm nay các Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe Thủ Tỳ-kheo dòng họ Thích mạng chung ở nước Xá-vệ. Thế nào, bạch Thế Tôn, Thủ Tỳ-kheo mạng chung sẽ sinh về nơi nào? Thọ sinh thế nào? Đời sau ra sao?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Thủ Tỳ-kheo này thành tựu ba pháp bất thiện. Hãy khi mạng chung sẽ sinh vào địa ngục, đường dữ. Những gì là ba pháp bất thiện? Tham dục, sân nhuế và ngu si. Ba pháp bất thiện này trói buộc tâm. Thủ Tỳ-kheo dòng họ Thích sẽ sinh vào địa ngục, đường dữ.”

 [277a] Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Tham dục, sân nhuế, si,

Trói buộc tâm con người;

Phát từ trong, tự hại.

Như lau, tre ra hoa.

Tâm không tham, nhuế, si,

Đó là tuệ sáng suốt;

Phát từ trong, không hại,

Đó gọi là thắng sỹ [16].

Cho nên hãy trừ tham,

Tăm tối si, sân nhuế;

Tỳ-kheo trí tuệ sáng,

Khổ tận, bát-niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 970. NAN-ĐÀ (1) [17]

Như Thủ Tỳ-kheo, kinh Nan-đà cũng nói như vậy.

KINH 971. NAN-ĐÀ (2) [18]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Nan-đà con Di mẫu của Phật, [19] thích mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa. Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nan-đà là con Di mẫu của Phật, thích mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:

“Ngươi đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà nói Nan-đà rằng: ‘Đại Sư cho gọi ngươi.’”

Tỳ-kheo kia vâng lời Thế Tôn dạy đến nói với Nan-đà:

“Thế Tôn cho gọi thầy.”

Nan-đà nghe bảo liền đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Phật bảo Nan-đà:

“Có thật ngươi thích mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa không?”

Nan-đà bạch Phật:

“Thật vậy, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Nan-đà:

“Ngươi là con Di mẫu của Phật, dòng quí tộc xuất gia, không nên mặc y phục đẹp, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa. Ngươi nên tự nghĩ như vầy: ‘Ta là con bà Di mẫu của Phật, dòng quí tộc xuất gia. Hãy trú ở a-lan-nhã, đi khất thực, thọ trì y phấn tảo, luôn luôn tán thán sự thọ trì y phấn tảo, ưa ở chỗ núi, khe, không tham luyến ái dục.”

Sau khi vâng lời Phật dạy, Nan-đà trú ở a-lan-nhã, đi khất thực, mặc y phấn tảo, luôn luôn khen ngợi sự thọ trì phấn tảo, ưa ở chỗ núi, khe, không tham luyến ái dục.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

 [277b] Nan-đà, Ta muốn ngươi,

Tu tập a-lan-nhã;

Đi khất thực từng nhà,

Thân trì y phấn tảo.

Thích ở chỗ núi khe,

Không tham luyến ngũ dục.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Nan-đà nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 972. ĐÊ-SA [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Đê-sa [21] tự nghĩ: “Ta là anh em con cô của Thế Tôn. Hãy không tu tập phải cung kính, không cần quan tâm, cũng cần phải sợ nễ, không chịu để can gián.” Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Đề-sa tự nghĩ mình là anh em con cô của Thế Tôn nên không tu tập cung kính, không cần quan tâm, cũng không cần sợ nễ, không chịu để can gián.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo một vị Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy đến chỗ Tỳ-kheo Đề-sa nói rằng: ‘Đại Sư cho gọi ngươi.’”

Tỳ-kheo kia vâng lời Phật dạy đến chỗ Tỳ-kheo Đề-sa nói:

“Thế Tôn cho gọi thầy.”

Tỳ-kheo Đề-sa liền đi đến chỗ phật, cúi đầu lễ Phật và lui ngồi một bên. Phật bảo Đề-sa:

“Có thật ngươi nghĩ rằng:  Ta là anh em con cô của Thế Tôn nên không tu tập cung kính, không cần quan tâm, không phải sợ nễ, không chịu để can gián chăng?”

Tỳ-kheo Đê-sa bạch Phật:

“Thật vậy, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo Đề-sa:

“Ngươi không nên nghĩ thế. Ngươi phải nghĩ rằng: ‘Ta là anh em cô của Thế Tôn nên phải cung kính, sợ nễ, nhẫn chịu sự can gián.’”

Lúc ấy Thế Tôn liền nói kệ:

Lành thay, ngươi Đê-sa!

Trừ sân nhuế là tốt;

Chớ sinh tâm sân hận.

Người sân giận không tốt.

Nếu hay lìa sân mạn,

Tu hành tâm khiêm hạ;

Sau đó ở nơi Ta,

Tu tập các phạm hạnh.

Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Đề-sa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 973. TỲ-XÁ-KHƯ [22]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Tỳ-xá-khư Bán-xà-lê Tử [23] tụ họp ở [277c] nhà cúng dường, [24] thuyết pháp cho số đông các Tỳ-kheo, ngôn từ hoàn hảo, giọng tốt trong trẻo cú vị rõ ràng, chính xác, lời nói phù hợp với trí tuệ; thính giả thích nghe, lời nói lưu lóat, hiển bày ý nghĩa sâu xa, khiến các Tỳ-kheo nhất tâm lắng nghe.

Khi ấy Thế Tôn đang nhập chánh thọ ban ngày, [25] với thiên nhĩ thanh tịnh hơn tai người thường, nghe tiếng thuyết pháp. Ngài xuất định, đi đến giảng đường, ngồi trước đại chúng và nói với Tỳ-kheo Tỳ-xá-khư Bán-xà-lê Tử:

“Lành thay, lành thay, Tỳ-xá-khư! Ngươi có thể ở nơi nhà cúng dường này mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo, với ngôn từ hoàn hảo, cho đến, hiển hiện ý nghĩa sâu xa, khiến các Tỳ-kheo chuyên tinh, kính trọng. Ngươi hãy thương xuyên thuyết pháp như vậy cho các Tỳ-kheo, khiến các Tỳ-kheo chuyên tinh kính trọno, nhất tâm ưa nghe, sẽ được ích lợi lâu dài, sông an lạc. “

Bấy giơi Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu không có thuyết pháp,

Khó phân rõ ngu, trí.

“Đây ngu! Đây trí tuệ!”

Không do đâu hiển hiện.

Khéo nói pháp thanh lương,

Nhờ thuyết, trí mới tỏ.

Thuyết pháp là sáng chiếu,

Sáng chói cờ Đại Tiên.

Phật nói Kinh này xong; Tỳ-xá-khư Bán-xà-lê Tử nghe những gì Phât dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ rồi lui.

KINH 974. NIÊN THIẾU [26]

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có số đông Tỳ-kheo ở nhà cúng dường, tụ tập cùng nhau may y. Lúc đó có một Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia chưa bao lâu, mới vào pháp luật, không muốn phụ giúp các Tỳ-kheo may y.

Bấy giờ các Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, lui ngồi một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, các Tỳ-kheo tụ tập ở nhà cúng dường để may y. Có một Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia chưa bao lâu, mới vào pháp luật, không muốn phụ giúp các Tỳ-kheo may y.”

Bấy giờ đức Phật hỏi vị Tỳ-kheo trẻ ấy:

“Có thật ngươi không muốn giúp đỡ các Tỳ-kheo may y chăng?”

Tỳ-kheo trẻ kia bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, tùy theo khả năng của con mà con phụ giúp.”

Thế Tôn khi đó biết được tâm niệm của Tỳ-kheo trẻ tuổi, mới bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi chớ nói với [27] Tỳ-kheo trẻ này. [278a] Vì sao? Vì Tỳ-kheo này được bốn pháp tăng tâm, [28] đang chánh thọ hiện pháp lạc trú [29], chẳng phải do cố gắng mà được. Tỳ-kheo ấy theo bản tâm của mình, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, xuất gia học đạo, tăng tiến tu học, ngay trong hiện tại tự biết tự tác chứng: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ:

Kém nổ lực, đức mỏng,

Trí tuệ ít: không thể

Hướng thẳng đến Niết-bàn,

Thoát khỏi gông phiền não.

Hiền nhơn trẻ tuổi này,

Sớm được chỗ thượng sĩ;

Ly dục tâm giải thoát,

Niết-bàn dứt tái sinh.

Mang thân tối hậu này,

Hàng phục các ma quân.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 975. TRƯỞNG LÃO [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên Thượng Tọa, [31] sống một mình tại một nơi, cũng thường hay khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, khất thực xong trở về một mình, và một mình ngồi thiền tư.

Bấy giờ, trong chúng có nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có Tôn giả tên là Thượng Tòa sống một mình, cũng thường hay khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, khất thực xong trở về một mình, và một mình ngồi thiền tư.”

Khi đó Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:

“Ông hãy đến chỗ Tỳ-kheo Thượng Tòa noi rằng: ‘Đại sư cho gọi ngươi.’”

Tỳ-kheo ấy vâng lời Phật dạy, đến nói lời như trên với Tỳ-kheo Thượng Tòa. Tỳ-kheo Thượng Tòa vâng lời đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui ngồi một bên. Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Thượng Tòa:

“Ngươi có thật sống một mình nơi chỗ vắng, khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, ra khỏi làng một mình, ngồi thiền tư một mình chăng?”

Tỳ-kheo Thượng Tòa bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, thật như vậy.”

Phật bảo Tỳ-kheo Thượng Tòa:

“Này Tỳ-kheo, ngươi như thế nào sống một mình, khen ngợi người sống một mình, một mình đi khất thực, một mình trở về chỗ ở, và một mình ngồi thiền tư?”

Tỳ-kheo Thượng Tòa bạch Phật:

“Con chỉ ở một mình nơi vắng vẻ, khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, ra khỏi làng một mình, ngồi thiền tư một mình.”

Phật bảo Tỳ-kheo Thượng Tòa:

 [278b]“Ngươi là kẻ sống một mình, Ta không nói là chẳng phải sống một mình. Nhưng lại có lối sống một mình thắng diệu hơn. Sao gọi là lối sống một mình thắng diệu? Đó là Tỳ-kheo phía trước thì khô cằn, phía sau thì diệt tận, ở giữa thì không tham hỷ. [32] Đó là Bà-la-môn tâm không còn do dự, đã xả ưu hối, lìa các hữu ái, đoạn các kết sử. Đây gọi là sống một mình không có lối sống nào thắng diệu hơn nữa.”

Khi ấy Phật nói kệ:

Chiếu sáng khắp tất cả,

Biết khắp các thế gian;

Chẳng chấp tất cả pháp,

Lìa hết tất cả ái.

Ai thích sóng như vậy,

Ta nói là độc trụ.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Thượng Tòa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ cáo từ.

KINH 976. TĂNG-CA-LAM [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tôn giả Tăng-ca-lam [34] du hành nhơn gian ở Câu-tát-la, tới nước Xá-vệ, rừng cây Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc. Tỳ-kheo Tăng-ca-lam kia có vợ cũ đang ở trong nước Xá-vệ, nghe tin Tỳ-kheo Tăng-ca-lam du hành trong nhơn gian, từ Câu-tát-la đến nước Xá-vệ, đang ở trong rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Nghe vậy, cô liền mặc y phục đẹp, trang điểm hoa anh lạc, ôm con đi thẳng đến Kỳ-hoàn, đến trước phòng Tỳ-kheo Tăng-ca-lam.

Trong lúc Tôn giả Tăng-ca-lam ra khỏi phòng đi kinh hành ngoài đất trống, người vợ cũ kia tiến đến trước mặt Tôn giả và nói:

“Đứa bé này còn nhỏ quá, anh bỏ con thơ đi tu, ai sẽ nuôi dưỡng nó?”

Tỳ-kheo Tăng-ca-lam không nói chuyện với nàng. Người vợ ba lần nói như vậy, Tỳ-kheo cũng không nói gì. Người vợ lại nói:

“Tôi đã nói cho anh biết ba lần như vậy mà anh chẳng nói với tôi, chẳng ngó ngàng tới, bây giờ tôi sẽ bỏ đứa bé này.”

Người vợ liền bỏ đứa nhỏ ngay đầu đường kinh hành mà đi và nói:

“Này Sa-môn, đây là con của ông. Ông hãy tự nuôi nấng. Nay tôi bỏ nó mà đi.”

Tôn già Tăng-ca-lam cũng chẳng nhìn đến đứa bé. Người vợ ấy lại nói:

“Sa-môn này chẳng để ý gì đến đứa nhỏ. Chắc có lẽ ông đã được chỗ khó được của bậc Tiên nhơn. Lành thay! Sa-môn chắc hẳn đã được giải thoát.”

Thiếu phụ không toại nguyện, đành ôm con đi.

Bấy giờ, Thế Tôn đang nhập chánh thọ ban ngày, với thiên nhĩ siêu việt hơn người thướng, Ngài nghe được những lời của người vợ cũ của Tôn giả Tăng-ca-lam, liền nói kệ:

Thấy đến: chẳng hoan hỷ,

Thấy đi: cũng chẳng buồn;

 [278c]Những tụ hội thế gian,

Giải thoát chẳng nhiễm trước.

Ta nói Tỳ-kheo kia,

Chơn thật Bà-la-môn.

Thấy đến: chẳng hoan hỷ,

Thấy đi: cũng chẳng buồn.

Không nhiễm cũng không buồn,

Hai tâm đều vắng lặng;

Ta nói Tỳ-kheo này,

Là chơn Bà-la-môn.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tăng-già-lam nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ làm lễ rồi đi.

KINH 977. A-NAN [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn già A-nan một mình ở chỗ vắng suy nghĩ: “Có ba thứ hương chỉ bay theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió. Những gì là ba? Đó là hương rễ cây, hương thân cây, và hương của hoa. Có chăng loại hương nào bay theo chiều gió, cũng bay ngược gió, cũng bay vừa thuận gió ngược gió?”

Suy nghĩ như thế, buổi chiều hôm đó sau khi từ thiền tịnh giấc, A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, và lui đứng một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ vắng tự nghĩ thầm: Có ba thứ hương chỉ bay theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió. Những gì là ba? Đó là hương rễ cây, hương thân cây, và hương của hoa. Có chăng loại hương nào bay theo chiều gió, cũng bay ngược gió, cũng bay vừa thuận gió ngược gió?”

Phật bảo Tôn già A-nan:

“Đúng thế! Đúng thế! Có ba thứ hương chỉ bay theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió. Những gì là ba? Đó là hương rễ cây, hương thân cây, và hương của hoa.

“Này A-nan, cũng có hương bay theo chiều gió, bay ngược gió, và cũng bay thuận gió ngược gió. Này A-nan, hương bay theo chiều gió, bay ngược gió, và cũng bay theo thuận gió ngược gió, đó là: thiện nam tử hay người thiện nữ sống ở thành ấp, tụ lạc, thành tựu pháp chân thật, suốt đời không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống ruợu. Người thiện nam người thiện nữ như vậy đều được người thiện trong tám phương, cùng phương trên, phương dưới, thảy đều tán thán rằng: ‘Ổ phương kia, làng kia, có người thiện nam, người thiện nữ trì giới thanh tịnh, thành tựu pháp chơn thật, suốt đời không sát sinh... cho đến không uống ruợu.’ Này A-nan, đây gọi là thứ hương hoa bay theo chiều gió, bay ngược chiều gió và cũng bay thuận gió và ngược gió.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Chẳng phải hương rễ, cành,

Có thể bay ngược gió.

Chỉ có hương tịnh giới,

Của thiện nam thiện nữ;

 [279a]Ngược, thuận bay các phương,

Không đâu không nghe biết.

Đa-ca-la, [36] chiên-đàn,

Ưu-bát-la, mạt-lợi;

So sánh các mùi hương,

Giới hương là hơn hết.

Hương thơm như chiên-đàn,

Lan tỏa có giới hạn;

Chỉ có hường giới đức,

Xông ngát tận cõi trời.

Hương thơm của tịnh giới,

Chánh thọ, không phóng dật;

Chánh trí và giải thoát,

Ma đạo không thể vào.

Đây là đạo an ổn,

Đạo này rất thanh tịnh;

Hướng thẳng diệu thiền định,

Bứt dây trói của ma.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ làm lễ rồi đi.

KINH 978. OANH PHÁT [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật du hành trong nhơn gian ở nước Ma-kiết-đề, cùng với một ngàn vị Tỳ-kheo. Xưa kia họ là những người xuất gia bện tóc, [38] nay đều đắc quả A-la-hán, các lậu đã diệt tận, việc làm đã xong, xả bỏ các gánh nặng, chóng được tự lợi, sạch các hữu kết, chánh trí thiện giải thoát. Phật cùng các Tỳ-kheo đi đến tại rừng Trượng lâm, tháp Thiện kiến lập. [39]

Bình-sa [40] vua nước Ma-kiệt-đề, nghe Thế Tôn du hành trong nhơn gian tại nước Ma-kiệt-đề, đang đến ở trong rừng Trượng lâm, tháp Thiện kiến lập. Vua cùng với các Tiểu vương, quần thần và đoàn tùy tùng, xe cộ một muôn hai nghìn chiếc, ngựa một muôn tám nghìn, người đi bộ theo đông vô số. Các Bà-la-môn, Gia chủ trong nước Ma-kiệt-đề đều đi theo.

Vua rời khỏi thành Vương Xá, đi đèn chỗ Thế Tôn, cung kính cúng dường. Tới đầu đường, Vua xuống xe đi bộ. Lúc tiến vào đến cửa trong, Vua dẹp bỏ năm thứ nghi trượng, dở mão, dẹp bỏ lọng, quạt, dao, gươm, cởi giày da. Vua đến trước Phật, sửa lại y phục tề chỉnh, trật vai áo bên phải, đảnh lễ Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, tự xưng danh tánh và, bạch Phật:

“Thế Tôn, con là Bình-sa, vua nước Ma-kiệt-đề.”

Phật nói với Bình Sa vương:

“Đại vương, ngài là Bình-sa. Mời Đại vương an tọa.”

Bình-sa vương lại lễ dưới chân Phật, từ tốn ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ Uất-tì-la Ca-diếp [41] cũng đang ngồi tại đấy. Trong khi đó các Gia chủ Bà-la-môn nghĩ rằng: “Có phải Đại Sa-môn này theo [279b] Uất-tì-la Ca-diếp tu phạm hạnh, hay là Uất-tì-la Ca-diếp theo Đại Sa-môn tu phạm hạnh?”

Thế Tôn biết được tâm niệm của các Gia chủ, Ngài liền nói kệ hỏi:

Uất-tì-la Ca-diếp,

Thấy lợi gì nơi đây,

Bỏ sự phụng thờ xưa,

Thờ lửa và các việc?

Nay hãy nói nghĩa kia:

Vì sao bỏ thờ Lửa?

Uất-tì-la Ca-diếp nói kệ bạch Phật:

Tiền tài thức ăn ngon,

Nữ sắc, quả ngũ dục;

Quán sát vị lai thọ,

Đấy đèu là cáu bẩn.

Thế nên đều ném bỏ,

Sự thờ lửa trước kia.

Thế Tôn lại nói kệ hỏi:

Ông chẳng đắm thế gian,

Năm dục tiền, vị, sắc...;

Sao lại bỏ Trời, Người?

Ca-diếp, tùy nghĩa nói.

Ca-diếp lại nói kệ đáp Thế Tôn:

Thấy đạo lìa hữu dư,

Lối Vô dư tịch diệt,

Vô sở hữu, bất trước,

Không đường khác, đạo khác.

Thế nên đều ném bỏ,

Lối tu thờ lửa trước.

Hành đại tế các thứ,

Phụng thờ nước, hoặc lửa.

Ngu si chìm trong đó,

Chí cầu đạo giải thoát.

Mù, không mắt trí tuệ,

Hướng sinh, già, bệnh, chết.

Chẳng thấy con đường chánh,

Trọn lìa nẻo sinh tử.

Nay mới nhờ Thế Tôn,

Được thấy đạo vô vi,

Lực mà Đại long nói,

Được qua bên bờ kia.

Mâu-ni rộng cứu giúp,

An úy vô lượng chúng,

Nay mới biết Cù-đàm,

Bậc siêu xuất chơn đế.

Đức Phật lại nói kệ khen Ca-diếp:

Lành thay! Này Ca-diếp,

Trước suy xét phi ác,

Kế phân biệt tìm cầu,

Mới đến nơi tốt dẹp.

“Này Ca-diếp, Ông nên an úy tâm đồ chúng của Ông.”

Khi ấy Uất-tì-la Ca-diếp [279c] liền nhập chánh thọ, do sức thần túc, hướng về phương Đông, bay lên hư không, hiện ra bốn thứ thần biến: đi, đứng, nằm, ngồi. Vào trong lửa tam-muôi, toàn thân rỗng sáng tỏa ra sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, sắc hồng. Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trở lại thiêu đốt thân. Trên thân ra nước để rưới nước lên thân. Hoặc trên thân ra lửa để đốt thân kia; dưới thân tuôn nước để tưới ướt thân. Hiện bày các thứ thần thông biến hóa xong, Ca-diếp cúi đầu lễ Phật và bạch:

“Bạch Thế Tôn, Phật là Thầy của con. Con là đệ tử.”

Phật bảo Ca-diếp:

“Ta là Thầy của Ông. Ông là đệ tử. Ông hãy ngồi xuống trở lại chỗ ngồi thích hợp.”

Tôn giả Uất-tì-la Ca-diếp ngồi lại chỗ cũ. Các Gia chủ Bà-la-môn xứ Ma-kiệt-đề đều nghĩ thầm: “Uất-tì-la Ca-diếp đã quyết định theo Đại Sa-môn tu hành phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong. Bình-sa Vua xứ Ma-kiệt-đề, cùng các Gia chủ Bà-la-môn sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ rồi cáo từ.

KINH 979. ĐÀ-PHIÊU (1) [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật trú tại thành Vương Xá, trong vườn Trúc, Ca-lan-đà,, có Đà-phiêu Ma-la Tử, [43] quê cũ ở thành Vương Xá, lo việc Tăng chúng, phân chia thức ăn uống và các vật dụng: giường nằm, chỗ ngồi, ... và xếp đặt phiên thứ sai thỉnh rất chu đáo. Lúc đó, có Tỳ-kheo Từ Địa [44] trải qua ba lần nhận thức ăn thô dở. Trong khi ăn, lòng cảm thấy khó chịu, cay đắng nghĩ thầm: “Quái lạ thay! Khổ thay! Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử chắc cố tình đem thức ăn dở để là xúc não ta, khiến ta khi ăn cảm tháy cực khổ. Ta phải làm sao gây bất lợi cho y mới được?”

Tỳ-kheo Từ Địa có một cô em gái là Tỳ-kheo-ni tên Mật-đa-la [45] đang ở trong chúng Tỳ-kheo-ni nơi vườn của vua thuộc thành Vương Xá. Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đi đến chỗ Tỳ-kheo Từ Địa, cúi đầu lễ chân Từ Địa rồi đứng một bên. Tỳ-kheo Từ Địa không nhìn đến cũng không mở lời.

Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la nói với Tỳ-kheo Từ Địa:

“A-lê! [46] Vì sao không ngó ngàng và chẳng nói chuyện với tôi?”

Tỳ-kheo Từ Địa nói:

“Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử nhiều lần đem thức ăn thô dở để làm xúc não tôi, khiến tôi khi  ăn cảm thấy cực khổ. Còn cô thì cứ bỏ mặc tôi.”

Tỳ-kheo-ni nói:

“Làm gì bây giờ?”

Tỳ-kheo Từ Địa nói:

“Cô hãy đến Thế Tôn bạch như vầy: ‘Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử là kẻ phi pháp, không ra gì, đã cùng con làm điều trái phạm, phạm tội ba-la-di.’ Tôi sẽ làm chứng và nói: [280a] ‘Bạch Thề tôn, đúng như lời em gái con đã nói.’

Tỳ-kheo-ni nói:

“A-lê! Làm sao tôi lại đem tội ba-la-di để vu báng cho Tỳ-kheo phạm hạnh?”

Tỳ-kheo Từ Địa bảo:

“Nếu cô không làm như thế, tôi và cô từ nay chấm dứt tình anh em. Cô đừng lui tới đây để chuyện trò, thăm hỏi nhau nữa.”

Tỳ-kheo-ni im lặng một hồi, suy nghĩ rồi nói:

“A-lê khiến tôi làm như thế, tôi sẽ vâng theo lời dạy.”

Tỳ-kheo Từ Địa bảo:

“Cô hãy đợi tôi đi đến Thế Tôn trước, cô sẽ đi theo sau.”

Tỳ-kheo Từ Địa đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ rồi lui đứng một bên. Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đi theo sau, đảnh lễ Phật rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có một việc không đẹp thay! Thật phi lý thay! [47] Đà-phiêu Ma-la Tử đã làm điều phi phạm hạnh với con, phạm tội Ba-la-di!”

Tỳ-kheo Từ Địa lại bạch Phật:

“Như lời nói của em gái con, trước đây con đã biết.”

Bấy giờ, Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử đang ở giữa đại chúng.

Thế Tôn nói với Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử:

“Ông có nghe lời nói này không?”

Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử bạch:

“Bạch Thế Tôn, con đã nghe.”

Phật bảo Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử:

“Hôm nay ngươi như thế nào?”

Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử bạch Phật:

“Như Thế Tôn đã biết! Như Thiện thệ đã biết!”

Phật bảo Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử:

“Ngươi nói như Thế Tôn đã biết, nay chẳng hợp thời. Bây giờ ngươi có nhớ thì nói nhớ, không nhớ thì nói không nhớ.”

Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử bạch:

“Con không tự nhớ.” [48]

Trong lúc đó Tôn giả La-hầu-la đang đứng phía sau cầm quạt hầu Phật, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Không đẹp thay! Thật phi lý thay! Tỳ-kheo-ni này nói: ‘Tôn giả Đà-phiêu Ma-la Tử cùng với con làm điều phi phạm hạnh. Tỳ-kheo Từ Địa lại nói: ‘Bạch Thế Tôn, Đúng thế! Trước đây con đã biết như em con đã nói.’”

Phật bảo La-hầu-la:

“Bây giờ, Ta hỏi La-hầu-la, tùy ý ngươi đáp lời Ta. Nếu Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đến nói với Ta rằng: ‘Thật Không đẹp thay! Thật phi lý thay! La-hầu-la cùng con làm điều phi phạm hạnh, phạm tội Ba-la-di.’ Tỳ-kheo Từ Địa lại bạch với Ta: ‘Thưa đúng như vậy, trước đây con đã biết, như lời em gái con nói.’ Ngươi sẽ làm thế nào?”

La-hầu-la bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Nếu con nhớ con sẽ nói nhớ, nếu không nhớ sẽ nói không nhớ.”

Phật bảo La-hầu-la:

“Này người ngu si! Ngươi còn nói được những lời này, huống chi Đà-phiêu Ma-la Tử là Tỳ-kheo thanh tịnh, [280b] cớ sao không nói được những lời như vậy?”

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy tác pháp ức niệm [49] đối với Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử. Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la, hãy tác pháp tự ngôn diệt. [50] Với Tỳ-kheo Từ Địa, Tăng thực hiện tích cực giáo giới can gián và khiển trách: [51] ‘Ngươi thấy gì? Thấy ở đâu? Do nhân duyên gì đến để thấy?’”

Thế Tôn dạy như vậy xong, Ngài rời chỗ ngồi đứng lên vào phòng tọa thiền. Khi ấy các Tỳ-kheo để cho Tỳ-kheo Đà-phiêu tự ức niệm. Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la, cho pháp diệt tránh bằng tự nhận. Với Tỳ-kheo Từ Địa, Tăng tích cực giáo giới can gián và khiển trách: ‘Ngươi thấy gì? Thấy ở đâu? Do nhân duyên gì đến để thấy?’ Trong khi can ngăn như thế, Tỳ-kheo Từ Địa nói rằng: “Đà-phiêu Ma-la Tử không làm chuyện phi phạm hạnh; không phạm ba-la-di. Đà-phiêu-ma-la Tử đã ba phen cho tôi thức ăn tệ, đáng sợ, khiến tôi khi ăn cảm thấy cực khổ. Hãy tôi đối với Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử mà có sự thiên vị, giận hờn, ngu si, sợ hãi. Hãy cố ý nói như thế. Nhưng thật sự Đà-phiêu Ma-la Tử là người thanh tịnh, vô tội.”

Chiều hôm ấy, Thế Tôn từ thiền định ra, đến trước đại chúng trải tòa, ngồi xuống.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, chúng con đã cho Tỳ-kheo Đà-phiêu-ma-la Tử tự ức niệm. Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la cho pháp diệt tránh bằng tự nhận. Với Tỳ-kheo Từ Địa thì tích cực giáo giới can gián. Tỳ-kheo ấy nói rằng: ‘Đà-phiêu Ma-la Tử thanh tịnh vô tội..’”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Vì sao ngu si, chỉ vì việc ăn uống, mà cố ý vọng ngữ?”

Lúc ấy, Thế Tôn liền nói kệ:

Nếu hay xả một pháp,

Biết mà cố vọng ngữ;

Chẳng kể gì đời sau,

Điều ác nào chẳng làm.

Thà ăn viên sắt nóng,

Như lửa than cháy hừng;

Không vì phạm giới cấm,

Ăn của thí cho Tăng.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 980. ĐÀ-PHIÊU (2) [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn trúc Ca-la-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, Tôn giả Đà-phiêu Ma-la Tử đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui đứng một bên, bạch Phật:

Bạch Thề tôn, con xin vào Bát-niết-bàn NGAY trước Phật .”

Thế Tôn im lặng, Tôn giả ba lần bạch như vậy. Phật bảo Đà-phiêu Ma-la Tử:

“Các pháp hành hữu vi đều như vậy cả.”

Khi ấy, [280c] Tôn già Đà-phiêu Ma-la Tử liền ngay trước Phật nhập tam-muội. Bàng chánh thọ như vậy, hướng về phương Đông, Tôn giả  bay lên hư không hiện bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nhập vào tam-muội lửa, dưới thân phát ra lửa, cả thân rỗng sáng; ánh sáng chiếu khắp các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng. Dưới thân ra lửa, trở lại thiêu thân. Trên thân ra nước rưới ướt trên thân. Hoặc trên thân ra lửa thiêu đốt thân, dưới thân ra nước rưới ướt trên thân. Khắp cả mười phương hiện bày các sự biến hóa xong, Tôn giả liền ở trong hư không, trong thân phát ra lửa tự thiêu thân, vào Vô dư Niết-bàn giới, tiêu tận, tịch diệt, khiến không còn sót một mảy bụi, ví như trong hư không thắp cây đèn, dầu, tim đều hết. Đà-phiêu Ma-la Tử ở trong hư không đã nhập diệt, thân tâm đều bặt hết cũng như thế.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Ví như đốt hòn sắt,

Lửa bừng sáng rực rỡ;

Sức nóng dần dần tắt,

Nào biết đi về đâu?

Cũng thế, sự giải thoát,

Vượt bùn lầy phiền não;

Đã cắt đứt các dòng,

Nào biết đi về đâu?

Chóng đắc dấu bất động,

Nhập Vô dư Niết-bàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 981. TẶC [53]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú tại nước Ương-cù-đa-la [54] du hành nhân gian. Khi đi qua trong rừng Đà-bà-xà-lê-ca, [55] Ngài gặp những người chăn bò, người chăn dê, người nhặt củi, cỏ và các người làm việc khác. Họ trông thấy Thê tôn đang đi trên đường, đều vội vàng bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, chớ đi theo con đường này. Phía trước có tên cướp Ương-cù-lị-ma-la [56] chuyên môn khủng bố người.”

Đức Phật nói với các người này:

“Ta không sợ.”

Nói xong, Ngài cứ theo đường mà đi. Họ nói ba lần, đức Phật vẫn cứ đi. Từ xa Phật trông thấy Ương-cù-lị-ma-la, tay cầm dao chạy thẳng đến. Thế Tôn dùng thần lực hiện thân đi từ từ, khiến cho Ương-cù-lị-ma-la chạy như bay cũng không kịp. Chạy theo đến mệt đuối, Ương-cù-lị-ma-la từ xa nói với Thế Tôn:

“Đứng lại, đứng lại, chớ đi!”

Thế Tôn vừa đi vừa đáp:

“Ta luôn dừng. Ngươi không tự dừng đó thôi.”

Lúc ấy Ương-cù-lị-ma-la nói kệ:

Sa-môn vẫn rảo nhanh,

Lại nói ‘Ta luôn dừng.’

 [281a]Nay tôi mệt, dừng nghỉ.

Sao nói ‘Ngươi  chẳng dừng.’?

Thế Tôn lại nói kệ đáp:

Ương-cù-lị-ma-la,

Ta nói Ta thường dừng:

Với tất cả chúng sanh,

Đã dừng mọi đao trượng.

Ngươi khủng bố chúng sanh,

Nghiệp ác không chịu dừng.

Với tất cả côn trùng,

Ta dứt dùng đao gậy.

Với côn trùng bé nhỏ,

Ông bức bách đe dọa;

Cố tạo nghiệp hung ác,

Trọn chẳng lúc nào thôi.

Ta đối mọi sinh vật, [57]

Dừng thôi mọi đao, gậy.

Ông đối với các thần,

Luôn làm khổ, bức bách.

Tạo tác ác nghiệp đen,

Đến nay không dừng nghỉ.

Ta dừng nơi chính minh, [58]

Hoàn toàn không buông lung.

Ông chẳng thấy Bốn Đế,

Nên chẳng dừng buông lung.

Ương-cù-lị-ma-la nói kệ bạch Phật:

Lâu mới gặp Mâu-ni,

Nên theo đường chạy đuổi;

Nay nghe lời vi diệu,

Sẽ bỏ điều ác xưa.

Nói ra như thế rồi,

Liền buông bỏ đao gậy;

Dập đầu dưới chân Phật,

Xin cho con xuất gia.

Phật đầy lòng từ bi,

Đại Tiên tràn thương xót;

Gọi Tỳ-kheo, thiện lai!

Xuất gia thọ cụ túc.

Ương-cù-lị-ma-la sau khi xuất gia, thường một mình ở chỗ vắng, chuyên tâm tư duy lý do khiến thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chánh tín xuất gia, học đạo, sống không nhà, tinh tấn tu phạm hạnh, ngay trong hiện tại tự biết tác chứng: ‘Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’ Lúc ấy Ương-cù-lị-ma-la đắc quả A-la-hán, giác ngộ, giải thoát, hỷ lạc, Tôn giả liền nói kệ:

Vốn mang tên ‘Bất hại’ [59]

Mà lại sát hại nhiều.

Nay được tên ‘Kiến Đế’,

Xa lìa sự sát hại.

 [281b]Thân không giết, không hại,

Miệng, ý cũng như thế;

Nên biết ‘chơn bất sát’,

Chẳng bức bách chúng sanh.

Rửa sạch tay vấy máu,

Gọi Ương-cù ma-la;

Trôi nổi giữa dòng sâu,

Tam quy làm dừng bặt.

Đã quy y Tam bảo,

Xuất gia được cụ túc;

Thành tựu được tam minh,

Làm xong điều Phật dạy.

Trị bò, dùng gậy đánh,

Luyện voi, dùng móc sắt;

Bậc huấn luyện Trời, Người,

Chẳng dùng đến dao gậy.

Dao bén nhờ đá mài,

Tên thẳng nhờ lửa ấm;

Chặt gậy nhờ búa rìu,

Tự chế, nhờ trí tuệ.

Người trước kia buông lung,

Sau đó tự kềm chế,

Người ấy chiếu thế gian

Như mây tan trăng hiện.

Người trước kia buông lung,

Sau biết tự chế ngự,

Nơi dòng đời ân ái,

Chánh niệm mà vượt ra.

Người tuổi trẻ xuất gia,

Siêng tu lời Phật dạy;

Sẽ soi sáng thế gian,

Như mây tan trăng hiện.

Người tuổi trẻ xuất gia,

Siêng tu lời Phật dạy;

Nơi dòng đời ân ái,

Bằng chánh niệm vượt qua. 

Ai sống bằng nghiệp ác,

Nhờ thiện nay trừ diệt;

Người ấy chói thế gian,

Như mây tan trăng hiện. 

Người trước gây nghiệp dữ,

Nhờ thiện nay trừ diệt;

Trong dòng đời ái ân,

Chánh niệm mà siêu xuất.

Tôi đã làm nghiệp ác,

Chắc hướng đến đường dữ;

Đã nhận lấy báo ác,

Nợ trước vay đã trả.

Những ai thù ghét tôi,

Mong nghe chánh pháp này,

Được pháp nhãn thanh tịnh,

Với tôi tu hành nhẫn.

Chẳng còn khởi tranh cãi,

Nhờ ân lực của Phật.

Kẻ oán tôi hành nhẫn,

Cũng thường khen ngợi nhẫn.

Tùy thời được nghe pháp,

Nghe rồi tu hành theo.

 [281c] Phật nói kinh này xong, Ương-cù-lị-ma-la nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 982. TÁN-ĐẢO-TRA [60]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn trúc Ca-la-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo kia, lúc sáng sớm đi ra bên bờ sông Tháp-bổ, [61] cởi y phục để trên bờ, xuống sông tắm rửa. Tắm xong, ông lên bờ khoác sơ một cái y đợi thân khô.

Khi ấy có một thiên tử từ thân tỏa ra ánh sáng, chiếu sáng bên sông Tháp-bổ, bảo Tỳ-kheo rằng:

“Ông trẻ tuổi xuất gia, tươi trắng, tóc đen, đang ở vào lứa tuổi tráng thịnh đẹp đẽ. Đáng nên hưởng thụ ngũ dục, trang nghiêm chuỗi ngọc, xức dầu thơm, đeo tràng hoa, tự vui sướng với năm dục. Nhưng sao bây giờ lại trái với người thân, quay lưng với thế tục, khiến họ phải khóc lóc biệt ly; cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà? Sao lại bỏ cái vui hiện tiền mà tìm cái lợi  phi thời?” [62]

Tỳ-kheo đáp:

“Tôi không xả bỏ cái lạc hiện tại, để tìm cầu cái lạc phi thời. Thật sự chính tôi đang xả bỏ cái lạc phi thời, được lạc hiện tiền.”

Thiên tử hỏi Tỳ-kheo:

“Thế nào là xả bỏ cái lạc phi thời, được lạc hiện tiền?”

Tỳ-kheo đáp:

“Như Thế Tôn nói, dục là phi thời, [63] vị ngọt ít mà khổ nhiều; ít lợi nhiều nạn. Tôi nay trong các pháp hiện thực đã lìa sự thiêu đốt, chẳng đợi thời tiết, hay tự thông đạt, hiện tiền quán sát, duyện tự tâm mà tri giác. [64] Này Thiên tử, như thế gọi là xả bỏ cái lạc phi thời, được niềm lạc hiện tiền.”

Thiên tử lại hỏi Tỳ-kheo:

“Điều mà Như Lai nói là thế nào, rằng dục là phi thời, ít vui, nhiều khổ? Điều mà Như Lai nói là thế nào, rằng lợi lạc trong đời hiện tai,...cho đên,  tự giác tri?”

Tỳ-kheo đáp:

“Tôi trẻ tuổi, mới xuất gia, không thể nói rõ hết ý nghĩa chánh pháp luật của Như Lai. Thề tôn đang ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, gần đây. Ông có thể đến hỏi Thế Tôn điều nghi ngờ. Thế Tôn sẽ nói, tùy sự ghi nhớ mà lãnh thọ.”

Thiên tử lại nói:

“Này Tỳ-kheo, nơi chỗ Như Lai đang có nhiều chư Thiên oai lực vây quanh. Tôi trước chưa hỏi, không dễ gì đến được. Tỳ-kheo, nếu có thể vì tôi bạch trước Thế Tôn, tôi sẽ đi theo.”

Tỳ-kheo đáp:

“Tôi sẽ vì ông mà đi đây.”

Thiên tử thưa với Tỳ-kheo:

“Vâng, Tôn giả đi. Tôi đi theo sau Tôn giả.”

Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, lui đứng một bên; rồi tường thuật lại đầy đủ cuộc vấn đáp với Thiên tử cho Thế Tôn nghe, và bạch:

“Bạch Thế Tôn, vị Thiên tử này nếu là người thành thật chốc lát sẽ đến. [282a] Nếu không thành thật tất sẽ không đến.”

Lúc ấy vị Thiên tử kia từ xa nói vọng lại với Tỳ-kheo:

“Tôi đã ở  đây. Tôi đã ở đây.”

Bây giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Chúng sanh theo ái tưởng, [65]

Do ái tưởng mà trụ.

Vì chẳng biết rõ ái,

Nên bị chết tuỳ tiện. [66]

Phật bảo Thiên tử:

“Ông giải thích bài kệ này rồi mới có thể hỏi.”

Thiên tử bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không hiểu! Bạch Thiện thệ, con không hiểu!”

Đức Phật nói kệ và bảo Thiên tử:

Nếu biết cái được yêu,

Ở đó không sinh yêu.

Người không có sự này,

Người khác không thể nói. [67]

Phật bảo Thiên tử:

“Ông hiểu nghĩa này rồi có thể hỏi câu khác.”

Thiên tử bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không hiểu! Bạch Thiện thệ, con không hiểu!”

Đức Phật lại nói kệ:

Ai thấy: bằng, hơn, kém,

Ắt có ngôn luận sinh.

Ba việc chẳng khuynh động:

Không yếu mền, trung, thượng. [68]

Phật bảo Thiên tử:

“Hiểu được nghĩa này thì có thể hỏi.”

Thiên tử bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không hiểu! Bạch Thiện thệ, con không hiểu!” Đức Phật lại nói kệ:

Đoạn ái và danh sắc, [69]

Trừ mạn, không ràng buộc;

Tịch diệt, dừng sân nhuế,

Lìa kết, bặt dục vọng.

Chẳng thấy nơi Trời, Người,

Đời này, và đời khác. [70]

Phật bảo Thiên tử:

“Ông hiểu nghĩa này rồi mới nên hỏi.”

Thiên tử bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Con đã hiểu. Thưa Thiện thệ! Con đã hiểu.”

Đức Phật nói kinh này xong, Thiên tử nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ biến mất.

KINH 983. BẠT-CHẨN [71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà,, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo kia [72] cuối đêm đến bên bờ sông Tháp-bổ, cởi y phục để trên bờ, xuống sông tắm rửa, tắm xong lên bơ khoác sơ một cái y đợi thân khô. Khi ấy có một thiên tử từ thân tỏa ra ánh sáng, chiếu sáng bên sông Tháp-bổ, bảo Tỳ-kheo rằng:

“Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Đây là gò mả, [73] ban đêm bốc khói, ban ngày bốc lửa. Người Ba-la-môn kia thấy vậy, nói rằng: ‘Hãy phá cái gò mả này đi! Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’Lại thấy con rùa lớn. [74] Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi con rùa này đi. [282b] Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’ Lại thấy có cái cù lâu, [75] Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cái cù lâu này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’ Lại thấy có miếng thịt. [76] Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi miêng thịt này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’  Lại thấy chỗ giết chóc. [77] ‘Trừ đi chỗ giết chóc này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’ Lại thấy cái lăng-kỳ, [78] Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cái  lăng kỳ này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’ Lại thấy có hai đường. Bà-la-môn thấy rồi nói: . ‘Trừ đi hai đường này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’ Lại thấy có một cánh cửa. Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cánh cửa này. Hãy đào lên, người trí! Hãy cầm lấy gươm đao!’Lại thấy có con rồng lớn. [79] Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Dừng lại, chớ bỏ qua con rồng to. Phải nên cung kính.’

“Này Tỳ-kheo! Ông hãy đem luận này đến hỏi Thế Tôn. Như lời Phật dạy, ông theo đó thọ trì. Vì sao? Tôi không thấy ai trong thế gian này, Chư thiên, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn nào mà có thể làm hài lòng đối với luận này. Trừ Như Lai, và các Đệ tử, hay những người nghe từ đó rồi nói lại.”

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo sau khi nghe luận này từ Thiên tử ấy, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui ngồi một bên. Tỳ-kheo đem các luận của Thiên tử kia hỏi Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, thế nào là gò mả? Thế nào là đêm thì bốc khói? Thế nào là ngày thì lửa cháy? Thế nào là Bà-la-môn? Thế nào là đào lên? Thế nào là người trí? Thế nào là gươm đao? Thế nào là con rùa lớn? Thế nào là cù lâu? Thế nào là miếng thịt? Thế nào là chỗ giết chóc? Thế nào là lăng-kỳ? Thế nào là hai đường? Thế nào là cánh cửa? Thế nào là con rồng lớn?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Gò mả là cái thân sắc gồm sắc đại thô phù của chúng sanh, bẩm thọ di thể của cha mẹ, ăn uống, y phục che chở, tắm rửa trau chuốt, nuôi dưỡng. Tất cả đều là pháp biến hoại, ma diệt. Ban đêm bốc khói nghĩa là giữa đêm có người thức dậy mà trầm tư suy tính. [80] Ban ngày lửa cháy nghĩa là thực hành theo lời dạy tạo các nghiệp thân, miệng. [81] Bà-la-môn nghĩa là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Đào lên, nghĩa là nổ lực tinh tấn. Người trí nghĩa là đa văn Thánh đệ tử. Gươm đao là gươm đao trí tuệ. Con rùa lớn nghĩa là năm triền cái. [82] Cù lâu [83] nghĩa là phẫn hận. Khúc thịt là bỏn xẻn tật đố. Giết chóc nghĩa là [282c] công năng năm dục. [84] Lăng-kỳ nghĩa là vô minh. Hai đường là nghi hoặc. Cánh cửa là ngã mạn. Con rồng to là bậc lậu tận A-la-hán.

“Như vậy, này Tỳ-kheo, những điều mà Đại Sư cần làm cho đệ tử, đó là do thương yêu, do nghĩ tưởng đến, vì lợi ích an ủi. Nhừng điều cần làm cho các ngươi, Ta đã làm rồi. Các ngươi hãy làm những việc cần làm. Hãy ở chỗ vắng trong rừng, trong nhà trống, chỗ núi non, nơi hẻo lánh, trong hang núi .v.v... trải cỏ hoặc lá cây để ngồi, tư duy thiền định, không khởi buông lung, chớ để sau này phải hối tiếc. Đó là giáo huấn của Ta.”

Phật liền nói kệ:

Nói thân là gò mả,

Tầm tứ: đêm bốc khói;

Nghiệp là lửa ban ngày.

Bà-la-môn: Chánh giác.

Tinh tấn: chăm khai quật,

Người trí tuệ sáng suốt,

Dùng gươm bén trí tuệ.

Bậc thăng tiến, chán lìa.

Năm triền cái; rùa lớn,

Phẫn hận là cù lâu;

Xan tật là khúc thịt,

Năm dục, nơi giết chóc.

Vô minh là lăng-kỳ,

Nghi hoặc là hai đường;

Cánh cửa hiện ngã mạn,

Rồng, La-hán lậu tận.

Cứu cánh dứt các luận,

Nên Ta nói như vậy.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 984. TÀM QUÝ [85]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc uyển, trú xứ của Tiên nhơn, tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn khóac y ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Lúc ấy có một Tỳ-kheo kia không trụ tâm, tâm tán loạn, không gìn giữ các căn. Tỳ-kheo kia sáng sớm khóac y ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực, từ xa trông thấy Thế Tôn, vội thu nhiếp các căn, nhìn thẳng mà đi. Thế Tôn nhìn thấy Tỳ-kheo kia nhiếp trì các căn, nhìn thẳng rảo bước đi. Sau khi thấy vậy, Phật vào thành. Khất thực xong, Ngài trở về tinh xá cất y, bát, rửa chân xong, vào phòng tọa thiền.

Chiều hôm ấy, sau khi từ thiền tịnh đạy, Ngài vào trong Tăng chúng, trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, bảo các Tỳ-kheo:

“Sáng nay Ta khóac y, ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực thấy có một vị Tỳ-kheo vì không trụ tâm nên tâm tán loạn, các căn buông thả, cũng khóac y, ôm bát vào thành khất thực. Tỳ-kheo ấy từ xa thoáng trông thấy Ta liền vội vàng tự nhiếp trì, đây là ai vậy?”

Khi ấy vị Tỳ-kheo kia từ chỗ ngồi đứng lên sửa lại y phục, đến trước Phật, trật vai áo bên hữu, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con sáng sớm vào thành khất thực, tâm tán loạn, không thu nhiếp các căn. Con đang đi thoáng thấy Thế Tôn từ xa, con liền tự thúc liễm tâm, nhiếp trì các căn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Ngươi thấy Ta rồi, có thể tự thúc liễm tâm và nhiếp trì các căn. Này Tỳ-kheo, pháp này phải nên như vậy. Nếu gặp Tỳ-kheo cũng nên tự nhiếp trì. Nếu lại gặp Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng nên nhiếp trì các căn như vậy sẽ được lợi ích, an ổn, khoái lạc, lâu dài.”

Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo khác nói kệ khen ngợi:

Với tâm kia mê loạn,

Không chuyên trụ hệ niệm;

Sáng sớm mang y bát,

Vào thành ấp khất thực.

Dọc đường thấy Đại sư,

Đầy oai đức, dung nghi;

Vui mừng sinh tàm quý,

Liền nhiếp trì các căn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. [86]

Kinh 985. KHỔ CHỦNG [87]

Tôi nghe như vầy.

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc dã, tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn khóac y, ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Lúc ấy, cũng có Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành khất thực, đứng dưới gốc cây bên đường, vì nương vào ác tham nên sinh giác tưởng bất thiện. Thế Tôn thấy Tỳ-kheo kia đứng dưới gốc cây, y chỉ vị ngọt ác tham [88] nên sinh ra giác tưởng bất thiện, [89] bảo rằng:

“Này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Chớ gieo trồng hạt giống đắng, [90] để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra.  Nếu Tỳ-kheo nào gieo trồng hạt giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra, mà muốn cho ruồi nhặng không tranh nhau bu lại, thì điều đó không thể có được.”

Lúc đó Tỳ-kheo kia tự nghĩ: “Thế Tôn đã biết được niệm ác trong tâm ta.” Chợt lòng cảm thấy sợ hãi, [283b] toàn thân lông dựng đứng.

Bấy giờ, Thế Tôn sau khi vào thành khất thực, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân, rồi vào phòng tọa thiền. Chiều hôm ấy, từ thiền tịnh dậy, Ngài vào trong Tăng, trải tòa ngồi trước đại chúng, và bảo các Tỳ-kheo:

“Sáng sớm nay, Ta khóac y ôm bát vào thành khất thực thấy một Tỳ-kheo đứng dưới gốc cây, nương vào ác tham dục, phát sinh giác tưởng bất thiện. Khi Ta Thấy vậy liền bảo rằng: ‘Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Chớ gieo trồng hạt giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra.  Nếu Tỳ-kheo nào gieo trồng hạt giống đắng, để rồi xông lên mùi thối, nước rỉ chảy ra, mà muốn cho ruồi nhặng không tranh nhau bu lại, thì điều đó không thể có được.’ Lúc đó, Tỳ-kheo kia liền tự nghĩ: ‘Phật đã biết được tâm niệm của ta.’ Lòng cảm thấy hổ thẹn, sợ hãi đến nỗi lông dựng cả lên, rồi theo đường mà đi.”

Khi ấy, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai áo bên hữu, chắp tay bạch Phật: 

“Bạch Thế Tôn, thế nào là hạt giống đắng? Thế nào là sinh hôi thối? Thế nào là nước rỉ chảy? Thế nào là ruồi nhặng?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Phẫn nộ, phiền oán gọi là hạt giống đắng. [91] Công đức ngũ dục gọi là sinh hôi thối. Đối với sáu xúc nhập xứ không nhiếp luật nghi gọi là chất nước rỉ chảy. Khi đã không nhiếp xúc nhập xứ, các tâm ác bất thiện, tham ưu tranh nhau sinh ra, đó gọi là ruồi nhặng.” [92]

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Tai mắt không phòng hộ,

Tham dục theo đó sinh;

Đó gọi là giống đắng,

Hôi thối, nước rỉ chảy

Các mùi vị tầm tứ,

Y ác tham nêm thưởng.

Nơi làng xóm, chỗ vắng,

Ban ngày hoặc ban đêm,

Viễn ly, tu phạm hạnh,

Cứu cánh biên tế  khổ.

Nếu nội tâm tịch tĩnh,

Quyết định biết chân thật.

Thức ngủ thường an lạc,

Ruồi nhặng ác tận diệt.

Thân cận bậc chánh sĩ,

Khéo nói đường Hiền thánh;

Biết rõ tám chánh đạo,

Không tái sinh thân sau.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 986. SANG VƯU [93]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong Thế Tôn trở về tinh xá, rửa chân rồi vào rừng An-đà tọa thiền.

 [283] Khi ấy có một Tỳ-kheo cũng sáng sớm khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, rữa chân rồi vào rừng An-đà nhập chánh thọ ban ngày, [94] dưới một bóng cây. Khi Tỳ-kheo này nhập chánh thọ ban ngày, vì nương vào tâm nếm vị tham dục nên khởi lên giác tưởng ác bất thiện. Khi ấy có thiên thần đang ở tại rừng An-đà tự nghĩ: “Tỳ-kheo này, thật không tốt đẹp, không thích hợp, ngồi thiền ở trong rừng An-đà mà tâm nếm vị ác tham, khởi lên giác tưởng bất thiện. Ta nên đến quở trách.” Nghĩ xong liền đến nói với Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Đang nổi nhọt, bướu phải không?”

Tỳ-kheo đáp:

“Tôi sẽ trị cho khỏi.”

Thiên thần bảo Tỳ-kheo:

“Bệnh nhọt như cái vạc  sắt, làm sao có thể bình phục được?”

Tỳ-kheo bảo:

“Chánh niệm, chánh trí đủ có thể bình phục.”

Thiên thần bạch rằng:

“Tốt thay! Lành thay! Đó là cách trị bệnh nhọt chơn thật của Hiền Thánh. Trị bệnh nhọt như vậy, cuối cùng có thể bớt, mà không bao giờ còn phát tác nữa.”

Chiều hôm ấy, Thế Tôn từ thiền tịnh dậy, trở về vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,  vào trong Tăng, trải tòa ngồi trước đại chúng và bảo các Tỳ-kheo:

“Sáng sớm nay Ta khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, khất thực xong trở về rừng An-đà tọa thiền, nhập chánh thọ ban ngày. Có một Tỳ-kheo cũng sáng sớm khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, rữa chân rồi vào rừng An-đà nhập chánh thọ ban ngày, dưới một bóng cây. Khi Tỳ-kheo này nhập chánh thọ ban ngày, vì nương vào tâm nếm vị tham dục nên khởi lên giác tưởng ác bất thiện. Khi ấy có thiên thần đang ở tại rừng An-đà tự nghĩ: ‘Tỳ-kheo này, thật không tốt đẹp, không thích hợp, ngồi thiền ở trong rừng An-đà mà tâm nếm vị ác tham, khởi lên giác tưởng bất thiện. Ta nên đến quở trách.’ Nghĩ xong liền đến nói với Tỳ-kheo: ‘Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Đang nổi nhọt, bướu phải không?’ Nói đầy đủ như trên... cho đến như vậy Tỳ-kheo: ‘Tốt thay! Hay thay! Đó là cách trị bệnh của Hiền thánh.’”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Con người nổi nhọt, bướu,

Tự sinh ra bệnh khổ;

Mong cầu dục thế gian,

Tâm nương vào ác tham.

Vì sinh ra nhọt, bướu,

Ruồi nhặng tranh nhau đến;

Nhọt, bướu là tham cầu,

Ruồi nhặng là ác giác.

Cùng các tâm tham nếm,

Thảy đều từ ý sinh;

Đục khoét tâm con người,

Để cầu hoa danh lợi.

Lửa dục càng hừng hực,

Vọng tưởng giác bất thiện ;

Thân tâm ngày đêm suy.

Xa lìa đạo tịch tĩnh.

Nếu nội tâm vắng lặng,

Trí quyết định sáng suốt;

 [284a]Không còn nhọt bướu kia,

Thấy Phật, đường an ổn .

Con đường chánh sĩ đi,

Hiền thánh khéo tuyên nói;

Con đường trí sáng biết,

Không còn thọ các hữu.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 987. NGẨU CĂN [95]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở nơi giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu, tại nước Tì-xá-li. Bấy giờ sáng sớm, có nhiều Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Tì-xá-li khất thực. Khi đó, cũng có một Tỳ-kheo tuổi trẻ, xuất gia chưa bao lâu, không quen rành pháp luật. Hãy lúc khất thực không biết thứ tự trước sau; các Tỳ-kheo khác thấy vậy, nói với vị ấy:

“Thầy tuổi còn trẻ, mới xuất gia, chưa biết pháp luật: không được đi  vượt qua, không được đi ngang hàng. Đi khất thực mà trước sau không theo thứ tự, thì lâu dài sẽ chịu khổ và không bao giờ được lợi ích.”

Tỳ-kheo tuổi trẻ thưa:

“Các Thượng tọa cũng vượt thứ lớp, không theo trước sau, đâu phải chỉ một mình tôi.”

Đã ba lần như vậy, họ vẫn không thể làm cho vị ấy dừng lại. Các Tỳ-kheo đi khất thực xong, trở về tinh xá cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm chúng con khóac y, ôm bát vào thành Tì-xá-li khất thực. Có một Tỳ-kheo tuổi trẻ, xuất gia nơi pháp luật này chưa bao lâu, khi đi khất thực không theo thứ tự trước sau, lại đi ngang hàng. Các Tỳ-kheo đã ba lần can gián nhưng vẫn không chịu, mà nói rằng: ‘Các Thượng tọa cũng không có thứ tự, sao lại rầy tôi?’ Các Tỳ-kheo chúng con đã ba lần răn nhắc, vẫn không chịu nghe nên chúng con đến bạch Thế Tôn. Cúi xin Thế Tôn vì thương xót mà dẹp trừ điều phi pháp.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Như trong đầm không, có hồ nước lớn, có một voi đực [96] to lớn ở trong đó, nhổ những củ rễ, rửa sạch bùn đất sau đó ăn chúng. Ăn rồi, thân thể nó mập mạp, sung sức và nhiều an lạc. Vì lý do này nên luôn luôn sống với hỷ lạc. Có một con voi thuộc chủng tộc khác, hình thể̉ gầy yếu, bắt chước con voi đực kia, nhô củ̉ rễ, nhưng rửa không sạch, còn để lẫn bùn đất mà ăn. Ăn vào không tiêu, thân thể không mập mạp mà trở thành gầy yếu, vì vậy nên gần kề đến chết, hoặc giống cái khổ của chết.

“Cũng vậy, Tỳ-kheo tôn túc, đức đô,̣ học đạo lâu ngày, không ưa thích hí tiếu, vì tu phạm hạnh đã lâu, được Đại Sư thường khen ngợi; cũng được các vị đồng phạm hạnh có minh trí khác lại càng khen ngợi hơn. Các Tỳ-kheo này nương nơi thành ấp, làng xóm; sáng sớm khóac y, ôm bát [284b] vào thành khất thực, khéo giữ gìn thân miệng, khéo nhiếp các căn, chuyên tâm cột niệm, có thể khiến cho người nào không tin phát lòng tin, người đã có lòng tin sẽ không biến đổi. Khì được tài lợi, y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men; họ không nhiễm, không đắm, không tham, không ham, không mê, không đeo đuổi; mà thấy được lỗi lầm, tai hại, thấy sự xuất ly chúng, sau đó mới dùng. Ăn xong, thân tâm đều đượm vẻ an lạc, sắc được tươi, sức được khỏe. Vì nhân duyên này Tỳ-kheo luôn luôn được an lạc.

“Tỳ-kheo tuổi trẻ kia xuất gia chưa bao lâu, chưa quen rành pháp luật,  y theo các bậc trưởng lão, nương vào nơi làng xóm. Khi khóac y, ôm bát vào thôn khất thực, mà không khéo hộ thân, không gìn giữ các căn, không chuyên cột niệm, không thể khiến cho người chưa tin phát lòng tin, và người đã tin không thay đổi. Nếu được tài lợi, y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men, mà sinh nhiễm, đắm, tham lam, đeo đuổi, không thấy lỗi lầm, tai hại, không thấy sự thoát ly; vì tâm tham nếm thức ăn này. Hãy không thể làm cho thân vui tươi, an ổn, sung sướng được. Vì ăn như vậy nên đi dần cái chết, hoặc khổ giống như chết. Nói là chết có nghĩa là xả giới, hoàn tục, mất chánh pháp, chánh luật. Khổ giống như chết nghĩa là phạm chánh pháp luật, không biết tội tướng, không biết trừ tội.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Long tượng nhổ rễ sen,

Nước rửa sạch rồi ăn.

Voi giống khác bắt chước,

Ăn rễ dính lẫn bùn.

Vì ăn nhầm bùn đất,

Gầy yếu bệnh đến chết.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.


 [1] Tương ưng Tỳ kheo, Tụng VII, gồm các kinh Đại chánh, kinh  1062-1083 (trọn quyển 38 & 3 kinh dầu quyển 39). Ấn Thuận Hội biên, “Tụng viii. Tám chúng. 17. Tương ưng Tỳ kheo”. Quốc dịch, quyển 32, “Tụng vii. Kệ. 1. Tương ưng Tỳ kheo”, 2 phẩm, 22 kinh. Phật quang, quyển 38, kinh 1050-1068. Tương đương Pāli, S. 21. Bhikkhusaṃyutta.

 [2] Đại chánh, quyển 38, kinh 1062. Pāli, S. 21. 5. Sujāto. Biệt dịch, No 100(1).

 [3] Thiện Sanh 善生. Pāli: Sujāta.

 [4] Hán: nhị xứ đoan nghiêm 二處端嚴. Pāli; ubhayena … sobhati, sáng chói với hai điều.

 [5] Hán: tự tri tác chứng 自知作證. Pāli: sayaṃ abhiññā sacchikatvā, bằng thắng trí mà tự mình chứng nghiệm (chứng ngộ)

 [6] Đại chánh, kinh 1063. Pāli, S. 21. 6. Bhaddi. Biệt dịch, No 100(2).

 [7] S. 21. 6: [Lakuṇḍaka]Bhdddiya.

 [8] Đại chánh, kinh 1064. Pāli, S. 17. 36. Ratha. Cf. A. 4. 68. Davadatta. Biệt dịch, No 100(3).

 [9] Đề-bà-đạt-đa 提婆達多. Pāli: Devadatta.

 [10] Ma-kiệt-đà vương A-xà-thế Tỳ-đề-hy-tử摩竭陀王阿闍世毘提希子. S. 17. 36:  Ajātasattukumāro, Vương tử Ajātasattu, chưa làm Vua.

 [11] A-xà-thế Tỳ-đề-hy-tử 阿闍世毘提希子. S. 17. 36:  gọi là Vương tử Ajātasattu,  vì chưa làm Vua.

 [12] Biệt chúng 別眾; một số Tỳ kheo trong Tăng  tách thành nhóm riêng sinh hoạt biệt lập.

 [13] Hán: cự hư 駏驉; giống thú hình như ngựa (Từ hải). Pāli: assatara, giống lừa lai ngựa.

 [14] Đại chánh, kinh 1065. Biệt dịch, No 100(4).

 [15] Thủ Tỳ kheo 手比丘. Biệt dịch: Tượng Thủ Tỳ kheo`. Pāli, hoặc Hattha (Tay), hoặc Hatthi (Voi).

 [16] Đê bản: thắng xuất 勝出. TNM: thắng sỹ 勝士. No 100(4): thắng trượng phu 勝丈夫.

 [17] Đại chánh, kinh 1066. S. 21. 8. Nanda. No 100(5).

 [18] Đại chánh, kinh 1067. No 100(6); cf. No 125(18.6). Cf. Pāli, S. 21. 8. Nando.

 [19] Nan-đà 難陀佛姨母子. Pāli: Nando Bhagavato mātucchāputto.

 [20] Đại chánh, kinh 1068. Pāli, S.21.9. Tisso. No 100(7).

 [21] Đê-sa 低沙. No 100(7): Trất-sư 窒師. Pāli: Tôn giả Tissa, con trai của Bá mẫu  (pitucchāputto) của Thế Tôn

 [22]  Đại chánh, kinh 1069. Pāli, S. 21. 7. Visākho; cf. A. 4. 48. Visākho. Biệt dịch, No 100(8).

 [23] Tỳ-xá-khư Bát-xà-lê Tử 毘舍佉般闍梨子. Pāli: Visākho Pañcālaputto.

 [24] Cúng dường đường 供養堂. Pāli: upaṭṭhānasālā, giảng đường, thị giả đường, cần hành đường; thường dùng làm phòng cho các Tỳ kheo trong Răng viện.

 [25] Trú chánh thọ 晝正受, chỉ sự nghỉ trưa. Bản Pāli: sāyaṇhasamayaṃ patisallāna.

 [26] Đại chánh, kinh 1070. Pāli, S. 21. 4. Navo. Biệt dich, No 100(9).

 [27] Pāli: mā … etassa bhikkhuno ujjhāyittha, các ngươi chớ hiềm trách Tỳ kheo này.

 [28] Bốn pháp tăng tâm 四增心法; hay bốn tăng thượng tâm. Pāli: catunaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ, bốn thiền tăng thượng tâm.

 [29] Chánh thọ hiện pháp an lạc trú 正受現法安樂住. Pāli: diṭṭhadhamma-sukhavihārānaṃ nikāmalābhī, tùy ý mà đạt được hiện pháp lạc trú (trạng thái an lạc do bốn thiền).

 [30] Đại chánh, kinh 1071. Pāli, S. 21. 10. Theranāmo.  Biệt dịch, No 100(10).

 [31] Pāli: Theranāmako.

 [32] Pāli: yaṃ atītaṃ taṃ pahīnaṃ, yaṃ anāgataṃ paṭinissaṭṭhaṃ, paccuppannesu attabhāvapaṭilābhesu chandarāgo suppaṭivinīto, đoạn tận cái đã qua, khước từ cái chưa đến, khéo chế ngự tham dục trong những lợi dưỡng cho bản thân.

 [33] Đại chánh, kinh 1072. Pāli, cf. Ud. 1.8. Bodhi-vagga. Biệt dịch, No 100(11).

 [34] Tăng-ca-lam 僧迦藍. Pāli: Saṅgāmaji.

 [35] Đại chánh, kinh 1073. Quốc dịch, “1. Tưong ưng Tỳ kheo. Phẩm 2.” Pāli, A. 3. 79. Gandha. Biệt dịch, No 100(12), No 116, No 117, No 125(23.5).

 [36] Đa-ca-la 多迦羅. Pāli: tagara, cây cam tùng, cách hương.

 [37] Đại chánh, kinh 1074. Cf. No 26(62): Tần-tì-sa-la vưong nghinh Phật, phần đầu.Pāli, Cf. Luật tạng, Mahāvagga, Vin. i. 35 (Seniya Bimbisāra). Biệt dịch, No 100(13).

 [38] Oanh phát xuất gia 縈髮出家. Pāli: jaṭila. Đây chỉ các anh em Urvela-Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) và các đệ tử của họ.

 [39] Thiện kiến lập chi-đề Trượng lâm 善建立支提杖林. No 100(13): Thiện trụ thiên từ, lâm trung 善住天寺祠祀林中. Pāli: Laṭṭivane Suppaṭṭha-cetiya.

 [40] Ma-kiệt-đề Vương Bình-sa 摩竭提王瓶沙. Pāli: rājā Magadho Seniyo Bimbíāro.

 [41] Uất-bề-la Ca-diếp 鬱鞞羅迦葉. Pāli: Uruvela-Kassapa.

 [42] Đại chánh, kinh 1075. Pāli, Pāli, cf., Luật tạng, Cullavagga, Vin. ii. 74ff. Biệt dịch, No 100(14). Cf. Tứ phần 4, Ngũ phần 3, Tăng kì 7, Thập tụng 4.

 [43] Đà-phiêu Ma-la Tử 陀驃摩羅子. Pāli: Dabba Mallaputta.

 [44] Từ Địa 慈地. Pāli: Mettiya-bhummajaka.

 [45] Mật-đa-la 蜜多羅. Pāli: Mettiyā.

 [46] A-lê 阿梨.; Ấn Thuận sửa lại, đọc là A-xà-lê (Pāli: ācariya), mà Hán dịch là giáo thọ sư hay quỹ phạm sư. Nhưng đây là phiên âm từ Skt. ariya (Pāli: ayya): “Thưa Ngài/ Thưa Đức Ông” Từ xưng hô của người nhỏ đối vơi người lớn.

 [47] Hán: bât thiện bất loại不善不類, Pāli: nacchannaṃ nappaṭỉūpaṃ.

 [48] Bất ức niệm不憶念; danh từ Luật, nghĩa là “không phạm tội.”

 [49] Danh từ Luật: đây chỉ pháp diệt tránh,  bằng ức niệm tỳ-ni, để Taqưng phápn quyết Tỳ kheo vô tội. Pāli: sati-vinayo.

 [50] Tự ngôn diệt 自言滅; hay tự ngôn trị, danh từ Luật, chỉ pháp diệt tránh bằng phán quyết của Tăng với sự tự nhận của người phạm giới. Pāli: paṭiññātakara.

 [51] Cực thiện ha gián 極善呵諫, từ luật: yết-ma ha gián, áp dụng trường hợp Tỳ kheo phạm Tăng già bà-thi-sa, sau ba lần khiển trách, mới áp dụng luật trị phạt.

 [52] Đại chánh, kinh1076. Pāli, cf. Ud. 8. 9. Pāṭaḷigāmiya-vagga. No 100(15).

 [53] Đại chánh, kinh 1077. Pāli, cf. M. 86. Aṅgulimāla-sutta. Biệt dịch, No 100(16). No 125(38.6).

 [54] Ương-cù-đa-la 央瞿多羅. Không rõ địa danh này. 

 [55] Đà-bà- xà-lê-ca 陀婆闍梨迦. No 100(16): Đào hà thọ lâm 桃河
<lb n="0378b18"/>樹林.

 [56] Ương-cù-lợi-ma-la 央瞿利摩羅. Pāli: Aṅgulimāla.

 [57] Nguyên Hán:Thần 神. Đoạn kệ này không có Pāli tương đương. Đây chác là dịch từ bhūta, quỷ thần, cũng chỉ các loại thảo mộc.

 [58] Để bản: tức pháp 息法. TNM: tự pháp. No 100(16): ngã lạc ư kỹ pháp 我 樂 於 己法.

 [59] Bất Hại 不害. Pāli: Ahiṃsa, tên của Aṅgulimāla do cha mẹ đặt.

 [60] Đại chánh, kinh 1078. Pāli, S. 1. 20. Samiddhi. Biệt dịch, No 100(17)

 [61].  Tháp-bổ hà 搨補河. Pāli: Tapodā, tên hồ lón ngoại thành Vương xá.

 [62] Pāli: mā sandiṭṭikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvī’ti, chớ xả bỏ cái hiện thực, mà chạy theo cái lệ thuộc thời gian. Chỉ sự tu tập đòi hỏi nhiều thời gian. Bản Hán doc akālika.Cf. No 100(17): sao không hưởng thụ ngũ mục, mà phi thời xuất gia?

 [63].  Pāli: kālikā hi āvuso kāmā, dục vọng vốn lệ thụôc thời gian.

 [64] Pāli: sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī ti, “Phap này (của Phật) là hiện thực (được thấy ngay hiện tại), không lệ thuộc thời gian, hãy đến đẻ thấy (là pháp thực chứng), có khả năng hướng dẫn (đến Niết-bàn), được chứng biết từ nội tâm bởi kẻ Trí.

 [65] Ái tưởng 愛想. Pāli: akkheyyasaññino sattā, chúng sinh có tưởng về danh (tên gọi người và vật)

 [66] Pāli: akkheyyaṃ apariññāya, yogamāyanti maccuno, do không biết rõ danh nên bị Tử thần trói đi.

 [67] Pāli: akkheyyañca pariññāya,  akkhātāraṃ na maññati; tañca tassa na hoti, yena naṃ vajjā na tassa atthi, do biêt rõ cái bị gọi tên, nó không suy tưởng đến tên gọi. Ai không có điều này, người đó không có lầm lỗi.

 [68] Pāli: tīsu vidhāsu avikampamāno, samo visesī ti na tassa hoti, ai không dao động trong ba sự này, người đó không có ý nghĩ hơn, kém.

 [69] Pāli: acchehi taṇhaṃ idha nāmarūpe, hãy đoạn trừ ái nơi danh sắc

 [70] Không thể tìm thấy vị ấy nơi trời, người…

 [71] Đại chánh, kinh 1079. Pāli, cf. M. 23. Vammīka. Biệt dịch, No 100(18), No 125(39.9).

 [72] Pāli: Tôn giả Kumārakassapa, sống trong rừng Andhavana (Ám lâm).

 [73] Hán: khâu trũng 丘塚. Pāli: vammīka, ổ kiến hay gò mối.

 [74] Bản Pāli, đào lần đầu, thấy cái then cửa (laṅgi).

 [75] Cù lâu 氍氀. Không hiểu ý. Pāli, đào lên lần thứ hai: uddhumāyika, thây sình (hay con nhái?).

 [76] Nhục đoạn 肉段. Pāli, lần thứ ba: dvidhāpatha, hai con đường.

 [77] Đồ sát xứ 屠殺處. Pāli, lần thứ tư: caṅgavāraṃ, chiêc thuyền (khúc gỗ được moi ruột).

 [78] Lăng-kỳ 楞耆. Pāli: laṅgi, cái then cửa. Bản Pāli, lần thứ năm: kummo, con rùa.

 [79] Đại long 大龍. Pāli: nāga, con rắn hổ mang.

 [80] Tùy giác tùy quán 隨覺隨觀. Pāli: anuvitakketi anuvicāreti, truy tầm, suy tưởng.

 [81] Pāli: rattiṃ anuvitakketvā anuvcāretvā  divā kammante payojeti kāyena vācāya, sau khi ban đêm suy tầm, suy tương, ban ngày thực hiện công việc bằng thân hay miệng.

 [82] Tức năm triền cái. Pāli, con rùa, chỉ cho  năm thủ uẩn.

 [83] Pāli: uddhumāyika.

 [84] Pāli: asisūnā.

 [85] Đại chánh, kinh 1080. Biệt dịch, No 100(19).

 [86] Bản Hán, hết quyên 38.

 [87] Đại chánh, quyên 39, kinh 1081. Quốc dịch, quyển 33, “Tụng vii. Kệ. 1. Tương ưng Tỳ kheo” tiếp theo. Pāli, A. 3. 126. Kaṭuviya. Biệt dịch, No 100(20).

 [88] Hán: y ác tham thị 依惡貪嗜. Pāli: rittassādaṃ bāhirassādaṃ, (hưởng thọ) vị trống không, vị ngoại giới.

 [89] Pāli: muṭṭhassatiṃ asampajnaṃ asamāhitaṃ vibhantacittaṃ pākantimdriyaṃ, mất chánh niệm, không tỉnh giác, không tập trung, tâm loạn động, các căn phóng túng.

 [90] Pāli: mā… attānaṃ kaṭuviyam akāsi, đừng làm tự thân hư thối. Pāli: kaṭuviyaṃ: dồ thối nát, thối rữa, đồ ăn dư thiu thối (ucchiṭṭhakato), trong bản Hán là kaṭuka, đắng, khổ.

 [91] Pāli: abhijjhā kaṭuviyaṃ, tham chấp là thối rữa.

 [92] Pāli: abhijjhā… kaṭuvuyaṃ vyāpādo āmâgndho pāpakā ạkusalā vitakkā makkhikā, tham là thối nát, sân là mùi hôi thối, tầm cầu ác bất thiện là ruồi nhặng.

 [93] Đại chánh, kinh 1082. Biệt dịch, No 100(21).

 [94] Tức nghỉ trưa.

 [95] Đại chánh, kinh 1083. Pāli, S. 20. 9. Nāgo. Biệt dịch, No 100(22).

 [96] Hán: long tượng 龍象.