10. Tương Ưng Mục-kiền-liên, Kinh 500-533

10. TƯƠNG ƯNG MỤC-KIỀN-LIÊN [1]

KINH 500. THÁNH MẶC NHIÊN [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời,  đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương xá. Bấy giờ Đại Mục-kiền-liên đang ở trong núi Kỳ-xà-quật tại thành Vương xá. Tôn giả nói với các Tỳ-kheo :

“Một thời, Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca-lan-đà; tôi đang ở trong núi Kỳ-xà-quật này, một mình ở chỗ vắng nghĩ như vầy: ‘Thế nào là sự im lặng của bậc Thánh?’ Tôi lại nghĩ tiếp: ‘Tỳ-kheo mà tầm tứ đã dứt, [3] nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do đinh sanh, chứng và an trú nhị thiền, đó gọi là sự im lặng của bậc Thánh.’ Tôi lại nghĩ tiếp: ‘Nay ta cũng nên im lặng như bậc Thánh, với tầmc và tứ đã dứt, nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do đinh sanh, chứng và an trú nhiều lần.’ Sau khi đã an trụ nhiều rồi, tâm lại khởi có tầm, có tứ. Bấy giờ đức Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm tôi, tức thì Ngài biến mất ở tinh xá Trúc viên, và hiện ra trong núi Kỳ-xà-quật, trước mặt tôi. Ngài nói với tôi rằng:

“ - Này Mục-kiền-liên, ngươi nên im lặng như bậc Thánh, chớ sinh buông lung.

“Tôi nghe đức Thế Tôn nói xong, liền xa lìa tầm, tứ, nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do định sanh, chứng và an trụ nhị thiền. Ba lần như vậy, Phật cũng dạy tôi ba lần: ‘Ngươi nên im lặng như bậc Thánh chớ buông lung.’ Tôi lại dứt tầm, tứ, nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, hỷ lạc do định sanh,  [132b] chứng và an trụ nhị [4] thiền.

“Nếu nói chân chính, con của Phật sinh từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp, thừa hưởng gia tài Phật pháp, [5] thì chính thân tôi là người này. Vì sao? Tôi là con của Phật sinh từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp, thừa hưởng gia tài Phật pháp; bằng chút phương tiện mà được thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ. Ví như thái tử lớn của Chuyển luân Thánh vương, tuy chưa làm lễ quán đảnh nhưng đã được hưởng vương pháp, không tinh cần phương tiện, mà có thể được năm dục công đức. Tôi cũng như vậy, là con của Phật, không tinh cần phương tiện,mà có thể được thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ. Trong vòng một ngày đức Thế Tôn đã ba lần dùng thần thông đến chỗ tôi, ba lần dạy dỗ tôi, đem chỗ của bậc Đại nhân kiến lập cho tôi.”

Sau khi Tôn giả Mục-kiền-liên nói kinh này xong, các Tỳ-kheo hoan hỷ phụng hành.

KINH 501. VÔ MINH [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương xá, bảo các Tỳ-kheo :

“Một thời,  Thế Tôn ở thành Vương xá, tôi ở trong núi Kỳ-xà-quật, một mình ở chỗ vắng nghĩ như vầy: ‘Thế nào gọi là Thánh trụ?’ [7] Tôi lại nghĩ tiếp: ‘Tỳ-kheo không niệm tất cả tướng, vô tướng, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú chánh thọ vô tướng tâm, [8] đó gọi là Thánh trụ.’ Tôi lại nghĩ: ‘Ta nên ở nơi Thánh trụ này, không niệm tất cả tướng, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú chánh thọ vô tướng tâm,’ và an trụ nhiều lần. Sau khi đã an trụ nhiều rồi, tâm chấp tướng [9] lại sinh. Bấy giờ, đức Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm tôi, trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi cánh tay, bằng sức thần thông biến mất ở tinh xá Trúc viên, và hiện ra ở núi Kỳ-xà-quật, đến trước tôi, bảo tôi rằng: ‘Này Mục-kiền-liên, ngươi nên trụ nơi sự an trụ của bậc Thánh, chớ sinh buông lung.’ Tôi nghe đức Thế Tôn dạy xong, liền lìa tất cả tướng, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú chánh thọ vô tướng tâm. Ba lần như vậy; Thế Tôn cũng ba lần đến dạy tôi: ‘Ngươi nên an trụ nơi Thánh trụ, chớ sinh buông lung.’ Tôi nghe xong, liền xa lìa tất cả tướng, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú chánh thọ vô tướng tâm.

“Các Đại đức, nếu nói chân chính, con của Phật sinh từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp, thừa hưởng gia tài Phật pháp, chính thân tôi là người này. Vì sao? Tôi là con của Phật sinh từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp, thừa hưởng gia tài Phật pháp; bằng chút phương tiện mà được  [132c] thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ. Ví như thái tử lớn của Chuyển luân Thánh vương, tuy chưa làm lễ quán đảnh nhưng đã được hưởng vương pháp, không tinh cần phương tiện, mà có thể được năm dục công đức. Tôi cũng như vậy, là con của Phật, không tinh cần phương tiện,mà có thể được Thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ. Trong vòng một ngày đức Thế Tôn đã ba lần dùngthần thông đến chỗ tôi, ba lần dạy dỗ tôi, đem chỗ của bậc Đại nhân kiến lập cho tôi.”

Sau khi Tôn giả Mục-kiền-liên nói kinh này xong, các Tỳ-kheo hoan hỷ phụng hành.

KINH 502. TỊCH DIỆT [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-Vệ, bấy giờ các Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, A-nan cùng ở chung một phòng nơi vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương xá.

Bấy giờ, vào cuối đêm, trời gần sáng, [11] Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Lạ thay, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên! Hôm nay Tôn giả trụ trong tịch diệt chánh thọ, [12] tôi không nghe tiếng thở [13] của Tôn giả.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên trả lời:

“Đó không phải là tịch diệt chánh thọ mà chỉ an trụ thô chánh thọ. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đêm nay tôi đã hầu chuyện với đức Thế Tôn.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Thế Tôn đang trú tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá vệ, cách đây rất xa, làm sao cùng nói chuyện? Hiện tại Tôn giả đang ở Trúc viên, vậy làm sao hầu chuyện? Hay là Tôn giả đã dùng sức thần thông để đến chỗ Thế Tôn, hay Thế Tôn đã dùng sức thần thông đến chỗ Tôn giả?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Xá-lợi-phất :

“Tôi không dùng sức thần thông đến chỗ đức Thế Tôn. Thế Tôn cũng không dùng thần thông để đến chỗ tôi. Nhưng đối với những lời Phật ở trong thành Vương xá, nước Xá vệ, tôi vẫn nghe được; vì Thế Tôn và tôi đều có thiên nhãn và thiên nhĩ, nên tôi có thể hỏi Thế Tôn, ‘Đựơc nói là ân cần tinh tấn. Thế nào là ân cần tinh tấn?’ Thế Tôn trả lời tôi: ‘Này Đại Mục-kiền-liên, ban ngày Tỳ-kheo đi kinh hành hay tọa thiền, bằng pháp không chướng ngại mà tự tịnh tâm mình. Đầu hôm Tỳ kheo hoặc ngồi hay đi kinh hành, bằng pháp không chướng ngại, mà tự tịnh tâm mình. Vào giữa đêm, Tỳ kheo ra khỏi phòng, rửa chân, trở vào nằm nghiêng sang hông bên phải, hai chân xếp lên nhau, cột niệm vào tướng sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ muốn chổi dậy. Đến cuối đêm, thức dậy từ từ, hoặc ngồi hay đi  [133a] kinh hành, bằng pháp không chướng ngại, mà tự tịnh tâm mình. Này Đại Mục-kiền-liên, đó gọi là Tỳ-kheo ân cần tinh tấn.’”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên :

“Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thật là có sức thần thông lớn, sức công đức lớn, an tọa mà ngồi. Tôi cũng có sức lớn, được cùng ở chung với Tôn giả. Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, ví như núi lớn có người cầm một hòn đá nhỏ ném vào, đá cùng màu vị với núi. Tôi cũng như vậy, được cùng với sức lớn, đức lớn của Tôn giả, ngồi cùng chỗ ngồi. Cũng như vật đẹp đẽ tươi tốt của thế gian được mọi người tôn trọng, đức lớn, sức lớn của Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cũng được các đồng phạm hạnh cung kính tôn trọng. Nếu ai được gặp Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, qua lại kết giao, cung kính cúng dường, người ấy được ích lớn. Nay tôi được cùng Tôn giả Đại Mục-kiền-liên kết giao qua lại, cũng được thiện lợi.”

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Xá-lợi-phất :

“Nay tôi được cùng với bậc Đại trí, Đại đức Xá-lợi-phất ngồi cùng chỗ ngồi, cũng giống như cầm hòn đá nhỏ ném vào núi lớn, đá cùng màu với núi. Tôi cũng như vậy, được cùng với Tôn giả Xá-lợi-phất ngồi cùng chỗ ngồi, và làm bạn nhau.”

Hai vị chánh sĩ bàn luận xong, mỗi người từ giả về chỗ của mình. [14]

KINH 503. XAN CẤU [15]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Trúc Ca-lan-đà, trong thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Lúc bấy giờ, vua Thích Đề-hoàn Nhơn [16] đang ở trên cung điện thượng diệu. [17] Đêm hôm đó, ông đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cúi đầu đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên. Ánh sáng của Thích Đề-hoàn Nhơn chiếu rực khắp cả núi Kỳ-xà-quật. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhơn ngồi xuống và đọc bài kệ:

Điếu phục bẩn keo kiệt, [18]  

Đại đức tùy lúc thí,

Hiền trong hàng bố thí,

Đời sau thấy thù thắng. [19]

 [133b] Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hỏi Đế Thích:

“Này Kiều-thi-ca [20], thế nào là điều phục tánh keo kiệt, để thấy nơi thù thắng mà ông nói rằng:

Điều phục bẩn keo kiệt,  

Đại đức tùy lúc thí,

Hiền trong hàng bố thí,

Đời sau gặp thù thắng.”

Đế Thích đáp:

“Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, đại tánh bà-la-môn thù thắng, đại tánh sát-lị thù thắng, đại tánh trưởng giả thù thắng, Tứ vương thiên thù thắng, Tam thập tam thiên thù thắng; tất cả đều kính lễ con. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, con được đại tánh bà-la-môn thù thắng, đại tánh sát-đé-lị thù thắng, đại tánh trưởng giả thù thắng, Tứ vương thiên thù thắng, Tam thập tam thiên thù thắng; tất cả đều cung kính làm lễ. Do thấy quả báo này, nên nói bài kệ đó.

“Lại nữa, thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cho đến chỗ mà mặt trời đi khắp, chiếu sáng khắp chỗ, đến ngàn thế giới, ngàn mặt trăng, ngàn mặt trời, ngàn núi chúa Tu di, ngàn Phất-bà-đề-xá, ngàn Uất-đa-la-đề-xá, ngàn Cù-đà-ni-ca, ngàn Diêm-phù-đề, ngàn Tứ thiên vương, ngàn Tam thập tam thiên, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, ngàn Phạm Thiên, gọi là Tiểu thiên thế giới. Trong Tiểu thiên thế giới này, không có cung điện nào sánh bằng cung điện Tì-xà-diên. [21] Cung điện Tì-xà-diên có một trăm lẻ một ngôi lầu, mỗi lầu có bảy lớp, mỗi lớp có bảy phòng, phòng có bảy thiên hậu, mỗi thiên hậu có bảy thị nữ. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, ở trong Tiểu thiên thế giới không có cung điện nào trang nghiêm như Tì-xà-diên. Con thấy do điều phục cáu bẩn keo kiệt, mà có được diệu quả này, nên con nói kệ đó.”

Đại Mục-kiền-liên nói với trời Đế Thích:

“Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông nhờ thấy được quả báo thắng diệu này nên nói bài kệ vừa rồi.”

Thiên Đế Thích sau khi nghe Tôn giả Đại Mục-kiền-liên như vậy, tùy hỷ hoan hỷ, liền biến mất.

KINH 504. ÁI TẬN [22]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Trúc Ca-lan-đà, trong thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ở trong núi Kỳ-xà-quật.  

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên một mình nơi chỗ vắng thiền tịnh tư duy, suy nghĩ rằng: “Thủa xưa, có lần Thích Đề-hoàn Nhơn, ở trong hang đá núi Giới cách, [23] đã hỏi Thế Tôn về nghĩa ái tận giải thoát. [24] Thế Tôn đã vì ông mà nói, nghe xong ông đã tùy hỷ. Dường như ông ấy còn muốn hỏi lại nghĩa nào đó nữa. [25] Nay ta nên đi đến hỏi về ý tùy hỷ của ông. Nghĩ như vậy rồi, trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi  [133c] cánh tay, Mục-kiền-liên biến khỏi núi Kỳ-xà-quật, đến cõi trời Tam thập tam, đứng  cách một cái ao phân-đà-lợi [26] không xa mấy. Khi ấy, Đế Thích cùng năm trăm thể nữ đang nô đùa nơi ao tắm, có cả âm thanh mỹ diệu của các thiên nữ. Đế Thích từ xa trông thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, liền bảo các thiên nữ:

“Đừng hát nữa! Đừng hát nữa!”

Các thiên nữ liền im lặng. Đế Thích đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cúi đầu lễ sát chân Tôn giả, rồi lui đứng qua một bên.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hỏi trời Đế Thích:

“Trước kia, ở trong núi Giới cách, Ông có hỏi đức Thế Tôn về nghĩa ái tận giải thoát. Sau khi nghe rồi tùy hỷ, vậy thì ý ông thế nào? Vì nghe Phật nói xong tùy hỷ, hay là còn muốn hỏi nghĩa nào khác nữa, mà ông tùy hỷ?”

Thiên Đế Thích đáp:

“Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cõi trời Tam thâp tam của con đa phần là say đắm buông lung theo dục lạc. Hoặc nhớ việc trước, hoặc có khi không nhớ. Đức Thế Tôn hiện ở vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Tôn giả muốn biết những việc con hỏi khi ở trong núi Giới cách, nay xin Tôn giả có thể đến hỏi đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn dạy sao thì Tôn giả cứ theo đó mà thọ trì. Bây giờ, ở chỗ này của con có một cung điện tốt đẹp, mới làm xong chưa bao lâu, mời Tôn giả vào viếng thăm.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên im lặng nhận lời, cùng với Thiên Đế Thích đi vào cung điện. Các thiên nữ vừa thấy Đế Thích đến, liền trổi nhạc trời, ca múa. Đồ vật trang sức bằng anh lạc trên thân họ phát ra âm thanh vi diệu hợp với ngũ nhạc, như âm thanh của những nốt nhạc được trổi hay không khác. Các thiên nữ chợt thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, tất cả đều hổ thẹn, trốn núp vào trong phòng. Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Tôn giả nhìn xem, đất của cung điện này rất bằng phẳng. Tường vách, cột kèo, lầu gác, cửa nẻo, màn lưới tất cả đều trang hòang tốt đẹp.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Đế Thích:

“Này Kiều-thi-ca, nhờ nhân duyên phước đức đã tu thiện pháp trước đây, nên mới thành tựu được kết quả vi diệu này.”

Đế Thích ba lần tự khen ngợi như trên, rồi hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng ba lần trả lời như vậy.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghĩ: “Nay Đế Thích này tự quá buông lung, đắm trước nơi trú xứ của giới thần, [27] ca ngợi đường quán này. Ta sẽ làm cho tâm ông sinh nhàm chán xa lìa.”

Tôn giả liền nhập định, dùng sức thần thông, bấm một ngón chân vào ngôi đường quán này, làm cho tất cả đều chấn động. Sau đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền biến mất. Các thiên nữ  [134a] thấy cung điện bị đảo lộn, rung chuyển, hoảng hốt sợ hãi, vội vàng chạy đến tâu với trời Đế Thích:

“Đây là Đại sư của Kiều-thi-ca, có sức công đức lớn như vậy ư?”

Đế Thích bảo các thiên nữ:

“Vị ấy chẳng phải là Thầy của ta, mà là Đại Mục-kiền-liên, đệ tử của Đại sư; là người phạm hạnh thanh tịnh và có công đức thần lực rất lớn.”

Các thiên nữ thưa:

“Lành thay! Kiều-thi-ca, có được người đồng học, mà có phạm hạnh, công đức, thần lực lớn lao như vậy, huống gì là công đức, thần lực của bậc Đại sư thì không biết thế nào nữa!”

KINH 505. ĐẾ THÍCH [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trên tảng đá mềm xốp màu xám, [29] tại cõi trời Tam thập tam, cách cây Ba-lê-da-đa-la, [30] loại cây đàn hương câu-tì-đà-la, [31] không xa. Phật an cư ở đó để thuyết pháp cho Mẫu thân và chư thiên cõi trời Tam thập tam. Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang an cư ở vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Lúc bấy giờ, toàn thể bốn chúng cùng đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, lễ sát chân, rồi cùng ngồi xuống một bên, thưa Tôn giả Mục-kiền-liên:

“Tôn giả có biết đức Thế Tôn đang an cư ở đâu không?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Tôi nghe Thế Tôn đang ở trên tảng đá mềm xốp màu xám, tại cõi trời Tam thập tam, cách cây Ba-lê-da-đa-la, loại cây đàn hương câu-tì-đa-la, không xa. Phật an cư ở đó để thuyết pháp cho Mẫu thân và chư thiên cõi trời Tam thập tam.”

Sau khi nghe Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói vậy, tất cả bốn chúng đều tùy hỷ, hoan hỷ, đứng dậy làm lễ mà lui.

Bấy giờ bốn chúng đã qua ba tháng an cư, lại cùng nhau đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, cúi đầu lễ sát chân Tôn giả, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vì bốn chúng mà nói pháp, khai thị, chỉ giáo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ. Sau khi khai thị, chỉ giáo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ, Tôn giả ngồi im. Khi ấy, bốn chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ và thưa với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, nên biết, chúng tôi không được gặp đức Thế Tôn đã lâu, lòng rất khao khát muốn gặp đức Thế Tôn. Xin Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nếu không mệt mỏi, hãy vì chúng tôi mà lên cõi trời Tam thập tam, thay cho chúng tôi hầu thăm đức Thế Tôn, có được ít bệnh ít não, đi đứng an lạc, nhẹ nhàng không? Tôn giả bạch với đức Thế Tôn là bốn chúng ở Diêm-phù-đề mong muốn gặp Thế Tôn, nhưng vì không có thần lực để bay lên cõi trời Tam thập tam kính lễ đức Thế Tôn được, còn Trời Tam thập tam vì có thần lực nên họ có thể đi xuống nhơn gian. Cúi xin đức Thế Tôn rủ lòng thương xót trở lại cõi Diêm-phù-đề.”

Tôn giả Mục-kiền-liên  [134b] im lặng nhận lời. Khi bốn chúng biết Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã im lặng nhận lời rồi, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ ra về.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên biết bốn chúng đã đi, liền nhập định, trong khoảnh khắc như đại lực sĩ co duỗi cánh tay, từ nước Xá-vệ biến mất, hiện ra trên tảng đá mềm xốp màu xám, tại cõi trời Tam thập tam, cách cây Ba-lê-da-đa-la, loại cây đàn hương câu-tì-đà-la, không xa.

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang thuyết pháp với vô lượng quyến thuộc của thiên chúng cõi trời Tam thập tam đang vây quanh. Tôn giả Mục-kiền-liên vừa trông thấy đức Thế Tôn, liền hân hoan vui mừng, nghĩ rằng: “Nay Thế Tôn thuyết pháp cho đại chúng chư thiên đang vây quanh, không khác gì chúng hội ở cõi Diêm-phù-đề.”

Khi ấy, Thế Tôn biết được ý nghĩ trong tâm của Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, bèn nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Này Đại Mục-kiền-liên, không phải là do tự lực của chư thiên. Khi Ta muốn thuyết pháp cho chư thiên, chư thiên kia liền vân tập đến. Khi Ta muốn khiến họ đi, họ lập tức trở về. Chư thiên kia theo tâm Ta mà đến, tùy tâm Ta mà đi.”

Tôn giả Mục-kiền-liên cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Có vô số đại chúng chư thiên vân tập. Trong thiên chúng này, phải chăng có vịđời trước đã từng nghe pháp được thuyết từ Phật Thế Tôn, đã đạt chứng đắc bất hoại tịnh, [32] nên khi thân hoại mạng chung lại sinh đến cõi này?”

Phật bảo Đại Mục-kiền-liên:

“Quả thật vậy! Quả thật vậy! Trong hàng chư thiên đang vân tập ở đây, có vị đời trước nghe pháp, đã chứng đắc bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới, nên khi thân hoại mạng chung lại sinh đến cõi này.”

Khi ấy Thiên Đế Thích thấy Thế Tôn và Tôn giả Mục-kiền-liên cùng khen ngợi, cùng nói chuyện với các thiên chúng rồi, ông liền thưa với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, trong chúng hội chư thiên ở đây, tất cả đều từ đời trước đã từng nghe chánh pháp, đã chứng đắc bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới, nên khi thân hoại mạng chung lại sinh đến cõi này.”

Lúc đó có một Tỳ-kheo thấy Thế Tôn và Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng Đế Thích trao đổi những lời tốt đẹp, Tỳ-kheo ấy nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, chư thiên đến trong pháp hội này đều là những người từ đời trước đã từng nghe chánh pháp, đã chứng đắc bất hoại tịnh đối với Phật, pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới, sau khi thân hoại mạng chung lại sinh đến cõi này.

Lúc ấy  [134c] có một thiên tử từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai bên hữu, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con cũng đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật, nên lại sinh đến đây.”

Lại có Thiên tử nói:

“Con đã thành tựu được bất hoại tịnh đối với Pháp.”

Có vị nói:

“Đã đạt được bất hoại tịnh đối với Tăng.”

Có vị nói:

“Đã thành tựu được Thánh giới, nên lại sinh đến cõi này. “

Vô lượng ngàn số chư thiên như vậy, đến trước Thế Tôn mỗi người tự ký thuyết là đã đạt được pháp Tu-đà-hoàn, rồi tất cả ở trước Phật liền biến mất.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên biết chúng chư thiên đi chưa bao lâu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch vai bên hữu, bạch Phật:

“Bạch Thê tôn, bốn chúng ở cõi Diêm-phù-đề xin cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, kính hầu thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, đi, đứng an lạc, nhẹ nhàng không? Bốn chúng nhớ mong, trông gặp Thế Tôn. Lại nữa, bạch Thế Tôn, chúng con ở nhân gian không có thần lực để bay lên cõi trời Tam thập tam kính lễ Thế Tôn, nhưng chư thiên có thần lực, công đức lớn nên có thể bay xuống cõi Diêm-phù-đề. Cúi xin đức Thế Tôn thương xót bốn chúng, mà trở về cõi Diêm-phù-đề.”

Phật bảo Mục-kiền-liên:

“Ngươi hãy trở về nói với người cõi Diêm-phù-đề rằng, Sau bảy ngày nữa Thế Tôn sẽ từ cõi trời Tam thập tam trở lại cõi Diêm-phù-đề, dưới cây Ưu-đàm-bát, phía bên ngoài cổng ngoài của thành Tăng-ca-xá [33].

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vâng lời dạy Thế Tôn, liền nhập chánh định, trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi cánh tay, từ cõi trời Tam thập tam biến mất, hiện đến Diêm-phù-đề, báo với bốn chúng rằng:

“Các người nên biết, sau bảy ngày nữa Thế Tôn sẽ từ cõi trời Tam thập tam trở lại cõi Diêm-phù-đề, dưới cây Ưu-đàm-bát, phía bên ngoài cổng ngoài của thành Tăng-ca-xá.”

Đúng như bảy ngày đã hẹn, đức Thế Tôn từ cõi trời Tam thập tam trở lại Diêm-phù-đề, dưới cây Ưu-đàm-bát, phía bên ngoài cổng ngoài của thành Tăng-ca-xá. Thiên long, quỷ thần cho đến Phạm Thiên, đều theo Thế Tôn xuống nơi này. Ngay lúc bấy giờ, gọi chỗ hội này là chỗ Trời Xuống. [34]

KINH 506. CHƯ THIÊN [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Bấy giờ có bốn mươi Thiên tử [36] đến chỗ Tôn giả Mục-kiền-liên, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên.

Đại Tôn giả Mục-kiền-liên nói với các Thiên tử:

“Lành thay! Các Thiên tử đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và tịnh giới.”

Khi đó bốn mươi Thiên tử từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch vai bên hữu, chấp tay thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

 [135a] “Chúng con nhờ đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và Thánh giới, nên được sinh lên cõi Trời.”

Có một Thiên tử nói:

“Con đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật.”

Có vị nói:

“Con đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp.”

Có vị nói:

“Con đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Tăng.”

Có vị nói:

“Con đã thành tựu Thánh giới, nên khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi trời.”

Bốn mươi Thiên tử đều đến trước Tôn giả đại Mục-kiền-liên, mỗi người tự thuật lại sự thành tựu của chính mình, và tự xác nhận đã được quả Tu-đà-hoàn, rồi liền biến mất.

Như bốn mươi Thiên tử, cũng vậy, bốn trăm, tám trăm, mười ngàn Thiên tử cũng nói như vậy.

KINH 507. ĐỒ NGƯU NHI [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Tôn giả Tỳ-kheo Lặc-xoa-na [38] cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Sáng sớm, Tôn giả Lặc-xoa-na đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, rủ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, vào thành Vương-xá khất thực. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên im lặng nhận lời; hai Tôn giả cùng vào thành Vương-xá khất thực. Đi đến một nơi, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có điều gì suy nghĩ trong tâm, nên vui vẻ mỉm cười. Tôn giả Lặc-xoa-na thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mỉm cười, liền hỏi:

“Thường khi nào đức Phật và các đệ tử của Ngài vui vẻ mỉm cười là phải có duyên cớ. Vậy hôm nay Tôn giả vì nhân duyên gì lại mỉm cười như vậy?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Câu hỏi chưa đúng lúc. Hãy vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về trước Thế Tôn rồi hãy hỏi việc này. Lúc ấy thầy hãy hỏi, và tôi sẽ trả lời thầy.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng Tôn giả Lặc-xoa-na sau khi vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về; rửa chân, cất y bát, rồi hai vị cùng đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên.

Tôn giả Lặc-xoa-na hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Sáng nay tôi cùng với thầy ra khỏi núi Kỳ-xà-quật để đi khất thực. Đến chỗ nọ, thầy lại vui vẻ mỉm cười. Tôi liền hỏi thầy cười việc gì. Thầy nói, tôi hỏi không đúng lúc. Bây giờ tôi hỏi lại, vì nhân duyên gì mà thầy vui vẻ mỉm cười?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Giữa đường tôi thấy một chúng sanh, thân to lớn như một ngôi nhà lầu, đi giữa hư không, đang khóc lóc, kêu gào, buồn bã, đau khổ. Thấy vậy, tôi chợt nghĩ chúng sanh này mang cái thân to lớn như thế mà cũng bị buồn bã, đau khổ quá như vậy, nên tôi mỉm  [135b] cười.”

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Trong chúng Thanh văn của Ta, người có thật nhãn, thật trí, thật nghĩa, thật pháp, sẽ thấy chúng sanh này, nhất định không có gì trở ngại. Ta cũng thấy chúng sanh này nhưng không nói, sợ người không tin. Vì sao? Những điều Như Lai nói, có kẻ không tin. Kẻ ngu si ấy phải chịu khổ lâu dài.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Thời quá khứ, chúng sanh có thân to lớn kia ở tại thành Vương-xá này, làm người đồ tể giết trâu bò. Vì tội giết trâu bò nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm. Khi ra khỏi địa ngục, vì dư báo tội giết trâu bò, nên phải chịu cái thân như vậy, thường chịu những sự buồn lo đau khổ như vậy.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, những gì Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã thấy là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 508. ĐỒ NGƯU GIẢ [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Tôn giả Tỳ-kheo Lặc-xoa-na [40] cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Sáng sớm, Tôn giả Lặc-xoa-na đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, rủ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, vào thành Vương-xá khất thực. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên im lặng nhận lời; hai Tôn giả cùng vào thành Vương-xá khất thực. Đi đến một nơi, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có điều gì suy nghĩ trong tâm, nên vui vẻ mỉm cười. Tôn giả Lặc-xoa-na thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mỉm cười, liền hỏi:

“Thường khi nào đức Phật và các đệ tử của Ngài vui vẻ mỉm cười là phải có duyên cớ. Vậy hôm nay Tôn giả vì nhân duyên gì lại mỉm cười như vậy?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Câu hỏi chưa đúng lúc. Hãy vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về trước Thế Tôn rồi hãy hỏi việc này. Lúc ấy thầy hãy hỏi, và tôi sẽ trả lời thầy.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng Tôn giả Lặc-xoa-na sau khi vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về; rửa chân, cất y bát, rồi hai vị cùng đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên.

Tôn giả Lặc-xoa-na hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Sáng nay tôi cùng với thầy ra khỏi núi Kỳ-xà-quật để đi khất thực. Đến chỗ nọ, thầy lại vui vẻ mỉm cười. Tôi liền hỏi thầy cười việc gì. Thầy nói tôi hỏi không đúng lúc. Bây giờ tôi hỏi lại, vì nhân duyên gì mà thầy vui vẻ mỉm cười?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên trả lời Tôn giả  [135c] Lặc-xoa-na:

“Giữa đường tôi thấy một chúng sanh gân với xương liền nhau, toàn thân bẩn thỉu, hôi hám đáng tởm, bị quạ, diều, kéc, kên kên, dã can, chó đói theo mổ ăn, hoặc móc nội tạng từ xương sườn ra ăn, cực kỳ đau đớn, kêu la, gào thét. Tôi thấy vậy tâm liền nghĩ: Chúng sanh đã mang cái thân như vậy, sao lại còn chịu sự thống khổ vô ích như vậy?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Trong chúng Thanh văn của Ta, người có thật nhãn, thật trí, thật nghĩa, thật pháp, sẽ thấy chúng sanh này, nhất định không có gì trở ngại. Ta cũng thấy chúng sanh này nhưng không nói, sợ người không tin. Vì sao? Những điều Như Lai nói, có kẻ không tin. Kẻ ngu si ấy phải chịu khổ lâu dài.

“Này các Tỳ-kheo, chúng sanh kia thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, là đệ tử của người đồ tể giết trâu bò. Vì tội giết trâu bò nên đọa vào địa ngục, trải qua trăm ngàn năm chịu vô lượng khổ. Vì dư báo tội giết trâu bò, nên ngày nay phải chịu cái thân này, và phải tiếp tục chịu đau khổ vô ích như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 509. ĐỒ DƯƠNG GIẢ [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Tôn giả Tỳ-kheo Lặc-xoa-na [42] cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Sáng sớm, Tôn giả Lặc-xoa-na đi đến chỗ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, rủ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, vào thành Vương-xá khất thực. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên im lặng nhận lời; hai Tôn giả cùng vào thành Vương-xá khất thực. Đi đến một nơi, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có điều gì suy nghĩ trong tâm, nên vui vẻ mỉm cười. Tôn giả Lặc-xoa-na thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mỉm cười, liền hỏi:

“Thường khi nào đức Phật và các đệ tử của Ngài vui vẻ mỉm cười là phải có duyên cớ. Vậy hôm nay Tôn giả vì nhân duyên gì lại mỉm cười như vậy?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Câu hỏi chưa đúng lúc. Hãy vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về trước Thế Tôn rồi hãy hỏi việc này. Lúc ấy thầy hãy hỏi, và tôi sẽ trả lời thầy.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng Tôn giả Lặc-xoa-na sau khi vào thành Vương-xá khất thực xong, trở về; rửa chân, cất y bát, rồi hai vị cùng đi đến chỗ Phật,  [136a] cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên.

Tôn giả Lặc-xoa-na hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Sáng nay tôi cùng với thầy ra khỏi núi Kỳ-xà-quật để đi khất thực. Đến chỗ nọ, thầy lại vui vẻ mỉm cười. Tôi liền hỏi thầy cười việc gì. Thầy nói tôi hỏi không đúng lúc. Bây giờ tôi hỏi lại, vì nhân duyên gì mà thầy vui vẻ mỉm cười?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Lặc-xoa-na:

“Giữa đường tôi thấy một chúng sanh to lớn, toàn thân không có da bao bọc, chỉ là một khối thịt, đi trong hư không, bị quạ, diều, kéc, kên kên, dã can chó đói rượt theo cấu xé để ăn; hoặc moi nội tạng ra khỏi xương sườn để ăn, thống khổ bức bách, kêu la, gào thét. Tôi liền nghĩ: chúng sanh này đã phải mang cái thân như vậy, mà sao còn phải chịu sự đau đớn vô ích như vậy?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Trong chúng Thanh văn của Ta, người có thật nhãn, thật trí, thật nghĩa, thật pháp, sẽ thấy chúng sanh này, nhất định không có gì trở ngại; Ta cũng thấy chúng sanh này nhưng không nói, sợ người không tin. Vì sao? Những điều Như Lai nói, có ke không tin. Kẻ ngu si áy phải chịu khổ lâu dài.

“Này các Tỳ-kheo, chúng sanh kia vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, đã làm nghề giết dê. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ, và nay người ấy phải chịu cái thân như vậy. Vì dư báo tội này, nên ngày nay phải tiếp tục chịu đau khổ như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã thấy là như thật, không khác. Các ngơi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 510. ĐỒ DƯƠNG ĐỆ TỬ [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thơi, Phật ở tại thành Vương-xá … cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp:

“Giữa đường thấy một chúng sanh thân to lớn, không có da bao bọc, giống như một đống thịt đi giữa hư không…” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm đệ tử của người giết dê. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ, nay người ấy phải chịu cái thân này, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 511 . ĐỌA THAI [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thơi, Phật ở tại thành Vương-xá, … cho đến “giữa đường thấy một chúng sanh thân to lớn không da, giống như một đống thịt đi giữa hư không”  [136b]cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này này thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, phá thai. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo này nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 512. ĐIÊU TƯƠNG SĨ [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thơi, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân thể to lớn mọc đầy lông; lông như cây kim lớn, mỗi cây kim đều có lửa cháy, đốt ngược lại thân thể, đau buốt tận xương tủy … cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm nghề luyện voi. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trài qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo này nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Giống như người luyện voi, cũng vậy người luyện ngựa, luyện trâu bò, dèm siểm ngời, và đủ các thứ khổ bức hiếp người, lại cũng như vậy.

KINH 513. HIẾU CHIẾN [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thơi, Phật ở tại thành Vương-xá … cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân thể to lớn mọc đầy lông; lông bén nhọn như dao, rực lửa, trở lại cắt đứt chính thân thể họ, đau đớn tận xương tủy… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, ưa thích chiến tranh, dùng đao kiếm chém giết người. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục này nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 514. LIỆP SƯ [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân thể to lớn mọc đầy lông; lông tua tủa như tên, tất cả đều bốc lửa, trở lại đốt cháy chính toàn thân thể họ, đau đớn  [136c] tận xương tủy… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, đã từng làm thợ săn, bắn giết cầm thú. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục này nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 515. SÁT TRƯ [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân thể to lớn mọc đầy lông; lông bén nhọn như chỉa như mâu, tất cả đều bốc lửa cháy trở lại thiêu đốt chính tòan thân thể nó, đau đớn tận xương tủy… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, là kẻ đồ tể giết heo. Vì tội này nên đọa vào địa ngục trải qua trăm ngàn năm, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục này nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ. ”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 516. ĐOẠN NHÂN ĐẦU [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thơi, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân thể to lớn, không có đầu, hai bên có mắt, trước ngực có miệng, thân thể thường chảy máu, các loài trùng rúc rỉa, đau đớn tận xương tủy… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, ưa cắt đầu người. Vì tội này nên ở trong trăm ngàn năm đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là như thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như chặt đầu người, nắm đầu người cũng như vậy.

KINH 517. ĐOÀN ĐỒNG NHÂN [50]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh dịch hoàn như cái lu nước, [51] ngồi thì xoạc chân lên trên, đi thì phải vác lên vai… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm thợ đúc đồng, làm đồ giả, gạt người. [52] Vì tội này  [137a] nên đọa vào địa ngục. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chơn thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như người thợ đúc đồng, cũng vậy người cân lường dối trá, kẻ thôn chủ, kẻ chủ chợ cũng lại như vậy.

KINH 518. BỔ NGƯ SƯ [53]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh lấy cái lưới đồng hoặc sắt tự quấn vào thân mình, lửa luôn luôn cháy đỏ trở lại đốt thân người đó, đau đớn tận xương tủy, đi giữa hư không… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm người bắt cá. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chơn thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như người bắt cá, cũng vậy bắt chim, lưới thỏ lại cũng như vậy. [54]

KINH 519. BỐC CHIÊM NỮ [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh [56] trên đầu có cái cối sắt, hừng hực lửa đỏ, xoay lại nghiền tán đầu của người đó, đi giữa hư không, chịu vô lượng khổ… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, là người nữ làm thầy bói đoán tướng, [57] chuyên hành nghề bói toán, dối gạt, mê hoặc người để mưu cầu tiền của. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chơn thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 520. BỐC CHIÊM SƯ [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh thân tự chuyển động xoay như gió xoáy, đi giữa hư không…cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, làm người bói toán mê hoặc nhiều người để mưu cầu tiền của. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ.  [137b] Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chơn thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 521. HÁO THA DÂM [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại thành Vương-xá… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên giữa đường thấy một chúng sanh lưng gù đi lom khom, [60] bộ dạng như sợ hãi, đồ mặc toàn thân đều bốc lửa, trở lại đốt thân, đi giữa hư không… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Vương-xá này, ưa làm việc tà dâm. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải chịu cái thân như vậy, và phải tiếp tục chịu đau khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chơn thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 522. MẠI SẮC [61]

Toâi nghe nhö vaày:

Một thời, Phật ở trong vườn Lôc dã, Tiên nhơn trú xứ, nước Ba-la-nại. Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Tôn giả Lặc-xoa-na vào buổi sáng sớm cùng vào thành Ba-la-nại khất thực. Giữa đường Tôn giả Mục-kiền-liên có điều gì suy nghĩ trong tâm, nên vui vẻ mỉm cười. Tôn giả Lặc-xoa-na thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Thường khi đức Thế Tôn và các đệ tử của Ngài vui vẻ, mỉm cười là có duyên cớ. Vậy hôm nay Tôn giả vì nhân duyên gì lại mỉm cười như vậy?”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bảo Tôn giả Lặc-xoa-na:

“Câu hỏi chưa đúng lúc. Chúng ta hãy đi khất thực xong, khi trở về trước Thế Tôn, thày hãy hỏi việc này.”

Bấy giờ, cả hai vị vào thành khất thực. Sau khi ăn xong, trở về, rửa chân, cất y bát, rồi cả hai cùng đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên.

Khi ấy, Tôn giả Lặc-xoa-na hỏi Tôn giả Mục-kiền-liên:

“Sáng nay giữa đường vì lý do gì thầy lại vui vẻ mỉm cười? “

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp Tôn giả Lặc-xoa-na:

“Giữa đường tôi thấy một chúng sanh to lớn, toàn thân đầy máu mủ, hôi hám, bẩn thỉu, đi giữa hư không, bị chim, quạ, chó sói, chó đói rượt theo cấu xé để ăn; kẻ ấy khóc lóc, kêu gào. Tôi liền nghĩ: Chúng sanh này phải mang cái thân như vậy, mà sao còn phải chịu sự thống khổ như vậy, đau khổ thay!”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Ta cũng thấy chúng sanh này nhưng không nói, sợ người không tin. Vì sao? Những điều Như Lai nói, có kẻ không tin. Kẻ ngu si ấy phải chịu khổ lâu dài.

 [137c] “Chúng sanh này vào thời quá khứ, ở tại thành Ba la nại này, là người nữ buôn bán nhan sắc để sanh sống. Bấy giờ có Tỳ-kheo đến chỗ Phật Ca-diếp xuất gia. Người con gái ấy đem lòng không trong sạch mời vị Tỳ-kheo. Tỳ-kheo này trực tâm, không hiểu được ý cô, nên cô gái nổi giận, lấy nước bất tịnh tạt vào mình Tỳ-kheo. Vì tội này nên đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Nay vì dư báo tội này, nên người ấy phải mang thân này và tiếp tục chịu đau khổ như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chân thật không khác. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 523. SÂN NHUẾ ĐĂNG DU SÁI [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lôc dã, chỗ Tiên nhơn trú xứ, nước Ba-la-nại… cho đến “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh [63] thân hình to lớn, toàn thân lửa cháy, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào, chịu đau đớn khổ não… cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở thành Ba la nại là đệ nhất phu nhân của Tự Tại Vương, [64] khi cùng ngủ với nhà vua, bỗng nổi lòng sân hận, lấy dầu thắp đèn rưới lên người nhà vua. Vì tội này nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy, là chân thật không sai. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 524. TẮNG TẬT BÀ-LA-MÔN [65]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, chỗ Tiên nhơn trú xứ, nước Ba-la-nại… cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh toàn thân bẩn thỉu, bôi đầy phẩn uế, và cũng ăn phẩn uế, đi giữa hư không, hôi hám khổ não, khóc lóc kêu gào…” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở thành Ba la nại làm thầy Bà-la-môn của Tự Tại Vương. vì tâm tật đố nên khi thỉnh chúng Thanh văn Phật Ca-diếp thọ trai, ông đã lấy phẩn uế bôi lên trên thức ăn, thử xúc não chúng Tăng. Vì tội này nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 525. BẤT PHÂN DU [66]

 [138a] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà nước Xá-vệ…  cho đến Tôn giả Mục-kiền-liên nói, “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh to lớn, trên đầu đội một cái vạc bằng đồng lớn sôi sùng sục, trào ra rưới khắp thân thể, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào…” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia ở chỗ Phật Ca-diếp, làm Tỳ-kheo tri sự. Có nhiều thí chủ đem dầu đến cúng cho các Tỳ-kheo. Bấy giờ, có nhiều khách Tỳ-kheo, vị tri sự này không chia dầu đúng thời, đợi cho các Tỳ-kheo khách đi rồi mới chia. Vì tội này nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 526. ĐẠO THỦ THẤT QUẢ [67]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ... cho đến Tôn giả Đai Mục-kiền-liên nói, “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh, thân to lớn, có hòn sắc nóng ra vào từ thân, đi trong hư không, bị đau đớn bức bách, khóc kêu gào...” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia trong pháp Phật Ca-diếp, làm Sa-đi giữ vườn trái của chúng Tăng, trộm bảy trái đem dâng cho Hòa thượng. Do tội ấy cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo! Như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi phải nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 527. ĐẠO THỰC THẠCH MẬT [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ.... cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói, “Ở giữa đường tôi thấy một chúng sanh thân hình to lớn, lưỡi rộng dài, thấy có búa bén lửa đỏ rực, búa này cắt lưỡi người ấy, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào...” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia làm Sa-di trong pháp Phật Ca-diếp, dùng búa cắt đường phèn cúng dường chúng Tăng,  [138b] đường phèn dính trên lưỡi búa, lấy cắp ăn. Do tội ấy cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo! Như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi phải nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 528. ĐẠO THỦ NHỊ BÍNH [69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ... cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói, ở giữa đường ta thấy một chúng sanh thân hình to lớn, có hai cái vòng sắt ở hai bên hông, bốc lửa xoay vần trở lại thiêu đốt thân họ, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào... cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia làm Sa-di trong pháp Phật Ca-diếp, đem bánh ngọt cúng dường chúng Tăng, cắp lấy hai cái bánh kẹp vào nách. Do tội ấy cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng, nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

Này các Tỳ-kheo! Như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các Thầy phải nên ghi nhớ.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 529. TỲ-KHEO [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà nước Xá-Vệ…  cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói, “Ở giữa đường tôi thấy một chúng sanh thân hình to lớn, dùng một lá sắt quấn vào thân, áo quần, chăn mền, giường nằm đều là sắt nóng, tất cả đều bị đốt cháy hừng hực, ăn hòn sắt nóng, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào…” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở thành Xá-vệ, xuất gia làm Tỳ-kheo trong pháp Phật Ca-diếp, vì chúng Tăng khất y thực, cúng dường Tăng, còn dư liền tự mình thọ dùng. Vì tội này nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như Tỳ-kheo, cũng vậy Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng lại như vậy.

KINH 530. GIÁ THỪA NGƯU XA [71]

 [138c] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà nước Xá-Vệ… cho đến Tôn giả Mục-kiền-liên nói, “Ở giữa đường tô thấy một chúng sanh to lớn, mang trên cổ chiếc xe sắt đang cháy, chặt đứt gân cổ, tiếp đến chân tay, gân quấn quanh cổ nó, đi trên đất sắt nóng, đi giữa hư không, khóc lóc kêu gào…” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, đánh xe bò để sanh sống. Vì tội này nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên người ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo, như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi cần nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy,

KINH 531. MA-MA-ĐẾ [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ... cho đến Tôn giả Đai Mục-kiền-liên nói, “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh, thân to lớn, lưỡi rộng dài, bị các cây đinh sắt nóng đóng vào lưỡi, đi trong hư không, bị đau đớn bức bách, khóc kêu gào ...” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia làm Tỳ-kheo trong pháp Phật Ca-diếp, làm Ma-ma-đế, [73] quở trách các Tỳ-kheo rằng: Này các trưởng lão! Các ông nên đi khỏi chỗ này, ở đây đạm bạc không thể cung cấp được, mỗi người tùy ý tìm nơi sung túc, đầy đủ cơm áo, giường chiếu thuốc men, chữa bệnh, chắc có thể đầy đủ không thiếu. Các Tỳ-kheo ở trước đó đều bỏ đi, còn khách Tăng nghe thế cũng không đến. Do tội ấy cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo! Như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi phải nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 532. ÁC KHẨU HÌNH DANH [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ.... cho đến Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói, “Tôi ở giữa đường thấy một chúng sanh thân hình to lớn, hình tướng như Tỳ-kheo, quấn tấm sắt làm y phục, toàn thân bị thiêu đốt, cũng lấy bát sắt đựng viên sắt nóng để ăn...” cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia làm Tỳ-kheo trong pháp Phật Ca-diếp, làm Ma-ma-đế, bằng ác khẩu hình dung  [139a] tên các Tỳ-kheo, hoặc nói đây là ông trọc xấu xa, đây là ông tác phong xấu, đây là ông y phục xấu. Do những lời nói ác như vậy khiến cho các Tỳ-kheo ở trước đó bỏ đi, các Tỳ-kheo chưa đến không muốn đến. Do tôi này cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo! Như những gì Đại Mục-kiền-liên đã thấy là chân thật không sai. Các ngươi phải nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 533. HÁO KHỞI TRANH TỤNG [75]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ.... cho đến Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh này thời quá khứ ở nước Xá-vệ, xuất gia làm Tỳ-kheo trong pháp Phật Ca-diếp, ưa thích tranh cãi, làm rối loạn chúng Tăng, lắm mồm mép, làm mất sự hòa hợp. Các Tỳ-kheo ở trước chán bỏ đi, người chưa đến không muốn đến. Do tội ấy cho nên bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Nay vì dư báo địa ngục nên vị ấy phải mang cái thân này, và tiếp tục chịu khổ.

“Này các Tỳ-kheo! Như Đại Mục-kiền-liên là thấy chân thật không sai. Các ngươi phải nên ghi nhớ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 


 [1] Ấn Thuận Hội biên, Tụng vi. Đệ tử sở thuyết, 29. Tương ưng Mục-kiền-liên. Gồm các kinh Đại chánh 501 (cuối quyển 18) – 534 (nửa đầu quyển 19).

 [2] Đại chánh, kinh 501. Pāli, S.21.1 Kolito. Xem thêm, S.40.1-6 Savitakka.

 [3] Hán: tức hữu giác hữu quán 息有覺 有觀.

 [4] Bản Cao-li: tam 三. Theo nội dung, đây sữa lại là nhị 二.

 [5] Han: đắc Phật pháp phần 得佛法分.

 [6] Đại chánh, kinh 502. Pāli, S.40.9 Animitto.

 [7] Thánh trụ 聖住; an trú của bậc Thánh, hay đời sống của Thánh giả. Có ba trụ, Pāli: tayo vihārā dibbo vihāro, brahmavihāro ariyo vihāro, thiên trụ, phạm trụ và thánh trụ.

 [8] Hán: vô tướng tâm chánh thọ 無相心正受. Pāli: animittaṃ cetosamādhiṃ, vô tướng tâm định.

 [9] Hán: thủ tướng tâm 取相心. Pāli: nimittānusāriviññāṇaṃ, thưc hồi tưởng tướng.

 [10] Đại chánh, kinh 503. Pāli, S.21.3 Ghaṭo (vò nước)

 [11]. Bản Pāli: vào buôi chiều, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc.

 [12] Hán: tịch diệt chánh thọ 寂滅正受. Pāli: santavihāra, an trú tịch tĩnh.

 [13]. Bản Pāli: Xá-lợi-phất nhìn sắc mặt mà phát biểu.

 [14] Bản Hán, hết quyển 18.

 [15] Đại chánh, kinh 504. Pāli, M.37 Cūḷataṇhāsaṅkhayasutta. Chi tiết không hoàn toàn đồng nhất. Tham chiếu No 125(19.3).

 [16] Thích Đề-hoàn Nhân 釋提桓因. Pāli: Sakko deāvnaṃ Indo, Thiên chúa của chư thiên Tavatiṃa.

 [17] Thượng diệu đường quán上妙唐觀. M 37. Sakka mời Mục-kiền-liên lên cung điện Chiến thắng (Vejayanta). No 125(19.3): Tối thắng giảng đường 最勝講堂.

 [18] Xan (khan) cấu 慳垢. Pāli: maccheramala (Cf. A. i. 105).

 [19] M  37  không có bài kệ này. No 125(19.3) cũng không.

 [20] Kiều-thi-ca 憍尸迦. Pāli: Kosiya, tên tục của Thiên đế Thích 天帝釋.

 [21] Tì-xá-diên đường quán 毘闍延堂觀, cũng gọi là cung điện Chiến thắng hay Tối thắng điện, Tối thắng giảng đường. Pāli: Vejayantavimāna, hayVejayantasabha.

 [22] Đại chánh, kinh 505. Pāli, M. 37 Cūḷataṇhāsaṅkhayasutta. Tham chiếu, kinh trên; Hán, No 125 (19.3).

 [23] Giới cách sơn 界隔山. Có lẽ hang Indasālagūha; cf. D 21, No 1(14), No 26(134).

 [24]Ái tận giải thoát. Pāli (M.i. 254): taṇhākkhayavimutti, giải thoát do tham ái đã được dứt sạch.

 [25] M 37: “không biết ông ấy có tin lời Phật hay không?”

 [26] Phân-đà-lợi trì 分陀利池, Pāli: puṇḍarīka, hoa sen trắng.

 [27] Hán: trước giới thần trú 著界神住, chỉ đắm trước nơi bốn đại chủng (hay xúc giác).

 [28] Đại chánh, kinh 506. Pāli, S.40.10 Sakko. Tham chiếu, No 125(36.5).

 [29]. Thông sắc hư nhuyển thạch 驄色虛軟石; một tảng đá rất lớn ở trên chóp đỉnh Tu-di.

 [30] Ba-lê-da-đa-la 波梨耶多羅, dịch là Trú độ thọ, hay Viên sanh thọ, loại cây san hô che mát cõi trời Tam tham thâp tam. Pāli: pāricchattaka.

 [31] Câu-tì-đà-la hương thọ 拘毘陀羅香樹, một loại cây hắc đàn. Pāli: kovidāra.

 [32] Bất hoại tịnh 不壞淨, hay bất hoại tín, chứng tịnh, trừng tịnh; bốn chi phần của vị đã chứng quả Dự lưu. Pāli: aveccappasāda.

 [33] Tăng-ca-xá thành 僧迦舍城, No 125(36.5): Tăng-ca-thi quốc. Pāli: Saṃkassa, một vương quốc bên bờ sông Hằng, Trung Ấn.

 [34]  Thiên há xứ 天下處.

 [35] Đại chánh, kinh 507.Pāli, S.55.18 Devacārika.

 [36] Bản Pāli: Tāvatiṃsakāyikā devatayo, chư thiên thuộc thiên chúng trời Tam thập tam.

 [37] Đại chánh, kinh 508. Pāli, S.19.1 Aṭṭhīpesi.

 [38] Lặc-xoa-na 勒叉那. Pāli: Lakkhaṇa.

 [39] Đại chánh, kinh 509. Pāli, S.19.2 Pesi (Gāvaghāṭaka).

 [40] Lặc-xoa-na 勒叉那. Pāli: Lakkhaṇa.

 [41] Đại chánh, kinh 510. Pāli, 19.4 Nicchavi (orabhika).

 [42] Lặc-xoa-na 勒叉那. Pāli: Lakkhaṇa.

 [43] Đại chánh, kinh 511. Tham chiếu các kinh trên.

 [44] Đại chánh, kinh 512. Tham chiếu các kinh trên.

 [45] Đại chánh,kinh 513. Người huấn luyện voi. Pāli, S.19.8 Sūci (sarathi).

 [46] Đại chánh, kinh 514. Pāli, S.19.9 Sūcako (người hay đâm thọc, gián điệp)

 [47] Đại chánh, kinh 515. Thợ săn. Pāli, S.19.6 Satti (māgaviko).

 [48] Đại chánh, kinh 516. Giết heo. Pāli, S.19.5 Asi (sūkariko).

 [49] Đại chánh, kinh 517. Chặt đầu người. Pāli, S.19.16 Sīsachinno-coraghāṭako (đao phủ và cai ngục).

 [50] Đại chánh, kinh 518. Người đúc đồng. S.19.10 Kumbhaṇḍa.

 [51] Hán: âm noãn như ung 陰卵如瓮, kumbhaṇḍa.

 [52] Bản Pāli: gāmakūṭako (tên lường gạt lãng xóm, phán quan tham nhũng).

 [53] Đại chánh, kinh 519.

 [54] Các kinh tương đương Pāli, S.19.3 Piṇḍa (sākuniko)

 [55] Đại chánh, kinh 520. Nữ nhân làm thầy bói. Pāli, S.19.14.

 [56] Bản Pāli: thấy một người nữ.

 [57] Hán: chiêm bốc nữ nhân 卜占女人. Pāli: maṅgulitthi ikkhamitthi.

 [58] Đại chánh, kinh 521.

 [59] Đại chánh, kinh 522. Pāli, S.19.11 Paradāriko (lấy vợ người).

 [60] Hán: ủ thân tàng hành 傴身藏行.

 [61] Đại chánh, kinh 523. Buôn bán sắc. Pāli, S.19.13 Nicchvitthī.

 [62] Đại chánh, kinh 524. Vì giận, chế dầu lên người. S.19.15 Okilinisapattaṅgāra-kokiri.

 [63] Pāli: itthiṃ uppakkaṃ okiliniṃ okiriṇiṃ, một người đàn bà bị cháy xém, bị nướng rám, bị xua đuổi.

 [64] Tự tại vương 自在王. Pāli: Kaliṅgarājañño, vua Kaliṅga

 [65] Đại chánh, kinh 525. Bà-la-môn ganh tị. S.19.12 Gūthakhādiduṭṭhabraāmaṇo, người Bà-la-môn tà ác ăn phân.

 [66] Đại chánh, kinh 526. Không chia dầu.

 [67] Đại chánh, kinh 527. Ăn trộm bảy trái cây.

 [68] Đại chánh, kinh 528. Ăn trộm đường thẻ.

 [69] Đại chánh, kinh 529. Trộm hai cái bánh.

 [70] Đại chánh, kinh 530. Pāli, S.19.17-21 Bhikkhu.

 [71] Đại chánh, kinh 531. Cỡi xe bò.

 [72]Đại chánh, kinh 532.

 [73] Ma-ma-đế 摩摩帝: chủ chùa, không rõ Pāli. Xem Tứ phần 12.

 [74] Đại chánh, kinh 533.

 [75] Đại chánh, kinh 534. Thích gây tranh cãi.