42. Tương Ưng tụ lạc chủ, Kinh 1288-1297

42. TƯƠNG ƯNG TỤ LẠC CHỦ [1]

KINH 1288. GIÁ-LA-CHÂU-LA [2]

 [227a2] Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có thôn trưởng Giá-la-châu-la-na-la [3] đi đến chỗ Phật. Sau khi chào hỏi úy lạo xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, tôi nghe các vị kỳ cựu trong hàng ca vũ kịch [4] ngày xưa nói như vầy: ‘Nếu các con hát ở trước mọi người, ca múa, diễn hài, trình diễn các thứ ca kỹ, làm cho mọi người vui cười hoan lạc; và nhờ nghiệp duyên này, nên sau khi thân hoại mạng chung sinh lên cõi trời Hoan hỷ.’ [5] Còn ở trong pháp Cù-đàm này thì nói như thế nào?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Thôi, chớ nên hỏi nghĩa này.”

Ba lần như vậy, nhưng ông vẫn hỏi thỉnh không thôi.

Phật nói với thôn trưởng;

“Nay Ta hỏi ông, cứ tùy theo ý ông mà đáp. Xưa kia ở nơi thôn này chúng sanh không lìa tham dục, bị sự ràng buộc của tham dục buộc; không lìa sân nhuế, bị sự ràng buộc của sân nhuế buộc; không lìa ngu si, bị sự ràng buộc của ngu si buộc. Những con hát kia ở trước mọi người trình diễn ca múa, kỹ nhạc, và diễn hài làm cho mọi vui cười hoan lạc. Vậy này thôn trưởng, ngay những người vui cười hoan lạc kia, há không phải đang làm tăng trưởng sự trói buộc của tham dục, sân nhuế, và si mê đó sao?”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Đúng vậy, thưa Cù-đàm.”

“Này thôn trưởng, thí như có người dùng giây trói ngược, rồi có người trong một thời gian dài với ác tâm  muốn làm cho người này chẳng đạt được ý nghĩa lợi ích, không được an ổn, không được an lạc, nên thường dùng nước nhỏ lên trên sợi dây trói. Người há không bị trói càng lúc cang xiết chặt hơn sao?”

Thôn trưởng nói:

“Đúng vậy, thưa Cù-đàm.”

Phật nói với:

“Này thôn trưởng, xưa kia chúng sanh cũng lại như vậy. Không xa lìa sự trói buộc của tham dục, sân nhuế, và si; duyên vào những cuộc giải trí vui cười, hoan lạc, làm tăng thêm sự trói buộc ấy.”

Thôn trưởng nói:

“Thật vậy, thưa Cù-đàm, những con hát này đã làm cho mọi người vui cười hoan lạc, nhưng càng làm tăng thêm sự trói buộc cho tham dục, sân nhuế, và si mê mà thôi. Vì nhân duyên này mà khi thân hoại mạng chung được sinh về đường thiện, điều này không thể có được.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu nói với các con hát xưa kia có thể làm cho mọi người vui cười, hoan lạc, và vì nhờ nghiệp duyên này mà sinh về cõi trời Hoan hỷ, đây là tà kiến. Nếu người nào là tà kiến, có thể sinh về hai đường: hoặc là đường địa ngục, hoặc là đường súc sanh.”

Lúc nghe nói những lời này, thôn trưởng Giá-la-châu-la-na-la buồn thương rơi lệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với thôn trưởng:

“Cho nên, trước đây ba [227b] lần hỏi, Ta không đáp, và nói với thôn trưởng thôi, chớ hỏi nghĩa này.”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, tôi không vì những lời nói của Cù-đàm mà thương khóc rơi lệ. Tôi tự mình nghĩ, tại sao từ trước đến giờ mình lại để cho những sở kiến ngu si, không minh bạch, không lương thiện của bọn nghệ sỹ kia lừa dối rằng: ‘Nếu các con hát ở trước mọi người, ca múa,… cho đến được sinh về cõi trời Hoan hỷ.’ Bây giờ, tôi lại nghĩ, làm sao các nghệ sỹ ca múa, diễn kịch có thể sinh về cỡi trời Hoan hỷ được?

“Thưa Cù-đàm, từ nay tôi xin từ bỏ cái nghề nghệ sỹ ác bất thiện kia, xin nương về Phật, nương về pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo.”

Phật dạy:

“Lành thay, thôn trưởng! Đây là điều chân thật.”

Thôn trưởng Giá-la-châu-la-na-la sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh lễ sát chân Phật, rồi vui vẻ ra về.

KINH 1289. CHIẾN ĐẤU HOẠT [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có vị thôn trưởng sống về nghề chiến đấu, [7] đi đến chỗ Phật cung kinh thăm hỏi, sau khi thăm hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, tôi nghe các vị tôn túc kỳ cựu sống về nghề chiến đấu ngày xưa nói như vầy: ‘Nếu sống về nghề chiến đấu, mình mặc giáp dày, tay cầm binh khí sắc bén, dẫn đầu tướng sỹ, và có khả năng cùng phương tiện bẻ gãy mọi âm mưu oán địch; nhờ vào nghiệp báo này, mà sinh về cõi trời Tiễn hàng phục.’ [8] Còn ở trong pháp của Cù-đàm, nghĩa này như thế nào?”

Phật nói với vị thôn trưởng sống về chiến đấu:

“Thôi, chớ nên hỏi nghĩa này.”

Ba lần hỏi lại như vậy, ba lần Phật cũng bảo thôi, nhưng ông vẫn cứ hỏi không thôi.

Phật nói với thôn trưởng:

“Bây giờ, Ta hỏi ông, cứ tùy theo ý ông mà trả lời.

“Này thôn trưởng, theo ý ông thì sao, nếu sống về nghề chiến đấu, mình mặc giáp dày, tay cầm binh khí sắc bén, dẫn đầu tướng sỹ, và có khả năng cùng phương tiện bẻ gãy mọi âm mưu oán địch, người này trước đó há không khởi lên tâm làm thương tổn, sát hại; muốn bắt trói, xiềng xích, đâm chém, sát hại đối với kẻ khác sao?”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Đúng vậy, Bạch Thế Tôn!”

Phật nói với thôn trưởng:

“Sống làm nghề chiến đấu phạm ba thứ ác tà: Hoặc về thân, hoặc miệng, hoặc ý. Vì nhân duyên ba thứ ác tà này, mà sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sinh về cõi trời Tiễn hàng phục thuộc đường thiện, điều này không thể xảy ra.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Các vị tôn túc kỳ cựu sống về nghề chiến đấu ngày xưa thấy như vầy, nói như vầy: ‘Nếu sống về nghề chiến đấu, mình mặc giáp trụ, tay cầm binh khí sắc bén, xông lên trước đối địch, và có khả năng cùng phương tiện bẻ gãy mọi âm mưu oán địch, nhờ vào nhân duyên này này, mà sinh về cõi trời Tiễn hàng phục.’ Thì đây là tà kiến. Người tà kiến chắc chắn sẽ sinh về hai đường: hoặc là đường địa ngục, hoặc là đường súc sanh.”

 [227c] Lúc nghe nói những lời này, thôn trưởng này buồn thương rơi lệ. Phật nói với thôn trưởng:

“Vì nghĩa này, nên trước đây ba lần Ta nói với thôn trưởng thôi đi, mà không nói cho ông nghe.”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Tôi không vì những lời nói của Cù-đàm mà thương khóc rơi lệ, mà mình tự nghĩ, các vị tôn túc kỳ cựu sống về nghề chiến đấu ngày xưa ngu si, bất thiện, không minh bạch, sống lâu dài trong sự lừa dối, nói rằng: ‘Nếu sống về nghề chiến đấu, mình mặc giáp trụ, tay cầm binh khí sắc bén, xông lên trước đối địch,… cho đến được sinh về cõi trời Tiễn hàng phục.’ Cho nên tôi thương khóc rơi lệ. Bây giờ, tôi lại nghĩ rằng các vị sống về chiến đấu, và do nhân duyên ác nghiệp, mà sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sinh về cõi trời Tiễn hàng phục, điều đó không thể xảy ra được?

“Thưa Cù-đàm, từ nay tôi xin từ bỏ các nghiệp ác, xin nương về Phật, nương về pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Đây là điều chân thật.”

Thôn trưởng sống về chiến đấu sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ rồi lui.

KINH 1290. ĐIỀU MÃ [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có thôn trưởng luyện ngựa [10] đi đến chỗ Phật cung kính thăm hỏi, rồi ngồi xuống một bên.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với thôn trưởng luyện ngựa: [11]

“Người luyện ngựa có bao nhiêu cách?”

Thôn trưởng đáp rằng:

“Thưa Cù-đàm, có ba cách. Những gì là ba? Một là mềm mỏng, hai là cứng rắn, ba là vừa mền mỏng vừa cứng rắn.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu dùng ba cách này mà vẫn không điều khiển được ngựa nữa, phải làm sao?”

Thôn trưởng nói:

“Thì phải giết nó.”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, Bậc Điều Ngự Trượng Phu phải dùng bao nhiêu pháp để điều ngự con người [12] ấy?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Ta cũng dùng ba pháp để điều ngự con người. Những gì là ba? Một là mền mỏng, hai là cứng rắn, ba là vừa mềm mỏng vùa cứng rắn.”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, nếu dùng ba pháp mà không điều phục được con người cần điều ngự thì phải làm như thế nào?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu dùng ba pháp mà vẫn không điều phục được, phải giết con người đó. Vì sao? Vì không để cho pháp của Ta bị khuất nhục.”

Trưởng thôn luyện ngựa bạch Phật rằng:

“Trong pháp của Cù-đàm, sát sinh là bất tịnh. Vậy trong pháp của Cù-đàm là không cho sát hại. Nhưng hôm nay Cù-đàm lại nói rằng; ‘Người nào không thể điều phục được, cần phải giết?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Như những lời ông đã nói, trong pháp của Như Lai, sát sinh là bất tịnh. Như Lai không thể sát hại. Này thôn trưởng, nhưng khi Ta dùng ba pháp để điều ngự [228a] con người, mà con người ấy không điều phục được, Ta sẽ không nói đến nữa, không dạy dỗ, không giáo giới nữa. Này thôn trưởng, Như Lai khi điều ngự con người, mà không nói đến người đó nữa, không giáo thọ, không giáo giới cho nữa, đó há không phải là sát hại sao?”

Thôn trưởng luyện ngựa bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, nếu khi điều ngự con người, mà không nói đến người đó nữa, không giáo thọ, không giáo giới cho nữa, thật sự đã sát hại người đó rồi. Cho nên từ nay tôi xin từ bỏ nghiệp ác, xin nương về Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Đây là điều chân thật.”

Phật nói kinh này xong. Thôn trưởng luyện ngựa sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ mà lui.

KINH 1291. HUNG ÁC [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có một thôn trưởng Hung Ác [14] đi đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Vì không tu pháp gì, nên sinh sân nhuế đối với người khác; do sinh sân nhuế, nên miệng nói lời ác; người ta vì vậy mà gọi nó là Ác Tánh?” [15]

Phật nói với thôn trưởng:

“Vì không tu chánh kiến nên sinh ra sân nhuế đối với người khác. Do sinh ra sân nhuế nên miệng nói ra lời ác. Người ta vì vậy mà gọi nó là Ác Tánh. Vì không tu chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nên sanh ra sân nhuế đối với người khác. Do sinh ra sân nhuế, nên miệng nói ra lời ác. Người ta vì vậy gọi nó là Ác Tánh.”

Lại hỏi Thế Tôn:

“Phải tu tập pháp gì để không sân nhuế đối với người khác. Do không sân nhuế, nên miệng nói ra lời thiện; người ta vì vậy đặt tên là Hiền Thiện?” [16]

Phật nói với thôn trưởng:

“Vì tu chánh kiến, nên không sân nhuế đối với người khác; do không sân nhuế, nên miệng nói ra lời thiện, người ta vì vậy đặt tên là Hiền Thiện. Vì tu tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nên không sân đối với người khác. Do không sân nhuế nên miệng nói ra lời thiện, người ta vì vậy đặt tên là Hiền Thiện.”

Thôn trưởng Hung Ác bạch Phật:

“Kỳ thay Thế Tôn, Ngài khéo nói những lời này. Vì tôi không tu chánh kiến, nên sinh ra sân nhuế đối với người khác. Do sinh ra sân nhuế, nên miệng nói ra lời ác. Người ta vì tôi mà đặt tên là Ác Tánh. Vì tôi không tu chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nên sinh ra sân nhuế đối với người khác. Do đã sinh ra sân nhuế, nên miệng nói ra lời ác. Nngười ta vì vậy mà gọi tôi là Ác Tánh. Cho nên [228b] từ nay tôi sẽ từ bỏ sân nhuế thô bạo.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Đây là điều chân thật.”

Sau Một thới, Phật nói kinh này xong, thôn trưởng hung ác, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ mà lui.

KINH 1292. MA-NI CHÂU KẾ [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có thôn trưởng Ma-ni Châu-kế, [18] đi đến chỗ Phật đãnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, trước đây quốc vương có tập họp các đại thần, cùng nhau bàn luận rằng: ‘Thế nào, Tỳ-kheo Sa-môn Thích tử tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu, là tịnh hay bất tịnh?’ [19] Trong các đại thần có người nói: ‘Sa-môn Thích tử được phép tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu.’ Lại có vị nói: ‘Không được phép tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu.’

“Bạch Thế Tôn, vị nói Sa-môn Thích tử được phép tự nhận và cất chứa vàng bạc của báu, là do nghe từ Phật hay là tự ý họ nói ra? Họ nói ra những lời này là tùy thuận pháp hay là không tùy thuận, là lời nói chân thật hay là lời nói hư vọng? Những lời nói như vậy không bị rơi vào chỗ đáng bị chỉ trích chăng?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Đó là những lời nói chẳng phải chân thật, chẳng phải pháp, chẳng phải tùy thuận, đáng bị bị chỉ trích. Vì sao? Vì Sa-môn Thích tử mà tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu, là bất thanh tịnh. Cho nên, nếu người nào tự nhận và cất chứa vàng bạc của báu cho mình, chẳng phải là pháp Sa-môn, chẳng pháp pháp của dòng Thích tử.”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Kỳ thay, Thế Tôn, Sa-môn Thích tử mình nhận và chứa vàng bạc của báu, là chẳng phải pháp Sa-môn, chẳng phải pháp của dòng Thích tử. Đây là lời nói chân thật.

“Bạch Thế Tôn, vị nói lời này làm tăng trưởng thắng diệu. Con cũng nói như vầy: ‘Sa-môn Thích tử không được tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu.’”

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu Sa-môn Thích tử mà nhận và cất chứa vàng bạc, trân báu cho là thanh tịnh, năm dục công đức ắt phải thanh thịnh!”

Thôn trưởng Ma-ni Châu-kế, sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ làm lễ mà lui.

Đức Thế Tôn, sau khi biết thôn trưởng Ma-ni Châu-kế đi rồi, nói với Tôn giả A-nan:

“Những Tỳ-kheo hiện đang trú trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, hãy gọi tập họp tất cả tại nhà ăn.”

Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đi khắp vườn Trúc, Ca-lan-đà, thông báo cho các Tỳ-kheo hiện còn đang ở đây, tập trung đến nhà ăn. Khi các Tỳ keo đã tập trung rồi, Tôn giả đến bạch Thế Tôn:

“Các Tỳ-kheo đã [228c] tập họp tại nhà ăn rồi. Xin Thế Tôn biết thời.”

Bấy giờ, Thế Tôn đi đến nhà ăn ngồi trước đại chúng, và nói với các Tỳ-kheo:

“Hôm nay có thôn trưởng Ma-ni Châu-kế đi đến chỗ Ta, nói như vầy: ‘Trước đây quốc vương có tập họp các đại thần, cùng nhau bàn luận rằng: Sa-môn Thích tử tự mình nhận và cất chứa vàng bạc của báu, có phải là thanh tịnh không? Trong đó có vị nói là thanh tịnh, có vị nói là không thanh tịnh. Vậy nay xin hỏi Thế Tôn, vị nói thanh tịnh là được nghe từ Phật nói hay tự mình nói dối.’ Như đã nói đầy đủ ở trên. Thôn trưởng Ma-ni Châu-kế, sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ làm lễ mà lui.

“Này các Tỳ-kheo, trong khi quốc vương, đại thần cùng nhau hội họp bàn luận, thôn trưởng Ma-ni Châu-kế này nói như sư tử rống ở trước mọi người là: ‘Sa-môn Thích tử không được phép tự mình nhận và cất chứa vàng bạc, của báu.’

“Này các Tỳ-kheo, từ hôm nay các ngươi cần cây thì xin cây, cần cỏ thì xin cỏ, cần xe thì xin xe, cần người giúp việc thì xin người giúp việc. Cẩn thận chớ nên vì mình mà nhận lấy vàng bạc, và các thứ vật báu.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 1293. VƯƠNG ĐẢNH [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở bên ao Yết-già [21] tại nước Chiêm-bà. Bấy giờ có thôn trưởng Vương Đảnh [22] đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Bấy giờ, Thế Tôn nói với thôn trưởng Vương Đảnh:

“Hiện nay chúng sanh chạy theo hai khuynh hướng. Những gì là hai? Một là thích đắm vào năm dục, thuộc dạng phàm phu, thấp kém, hèn hạ [23] Hai là tự làm khổ mình một cách sai lầm không có bất cứ ý nghĩa lợi ích nào!

“Này thôn trưởng, có ba hạng người thích hưởng thụ dục lạc, thuộc hàng phàm phu, người thường, thấp kém, hèn hạ. Cũng có ba hạng người tự làm khổ mình một cách sai lầm không có bất cứ ý nghĩa lợi ích nào,

“Này thôn trưởng, những gì là ba hạng người thích hưởng thụ dục lạc, thuộc hàng phàm phu, người thường, thấp kém, hèn hạ? Có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách gom chứa tài vật một cách phi pháp, không mang lại an vui cho chính mình, cũng chẳng phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến thuộc, bạn bè tgân thuộc; cũng không tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sinh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ nhất hưởng thụ dục lạc ở thế gian.

“Lại nữa, này thôn trưởng, có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách đúng pháp chứ không phải phi pháp, gom chứa tài vật để tự cung cấp mọi sự vui sướng cho chính mình, phụng dưỡng cho cha mẹ, và cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ làm, bà con quyến thuộc, bạn bè quen biết; nhưng không tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, [229a] để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sinh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ hai hưởng thụ dục lạc.

“Lại nữa, này thôn trưởng, có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách đúng pháp tìm cầu tài vật chứ không phi pháp, để tự cung cấp mọi sự vui sướng cho chính mình, cung phụng cho cha mẹ, và cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến thuộc, bạn bè quen biết, cũng tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sinh lên cõi trời, đó gọi là hạng người thứ ba hưởng thụ dục lạc.

“Này thôn trưởng, Ta không nói một chiều rằng mọi hưởng thụ dục lạc đều như bằng nhau, mà Ta nói trong những người hưởng thụ dục lạc có người thuộc hạng thấp kém, có người thuộc hạng trung bình, có người thuộc hạng hơn người.

“Thế nào là hạng thấp kém hưởng thụ dục lạc? Là loại lạm chiếm bất hợp pháp,… cho đến chẳng cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sinh lên cõi trời. Ta gọi đó là hạng thấp kém hưởng thụ dục lạc.

“Thế nào là hạng trung bình hưởng thụ dục lạc? Là loại người hưởng thụ dục lạc bang cách đúng pháp chứ không phải phi pháp mà tìm cầu tài vật… cho đến chẳng mong đời sau sinh lên cõi trời. Ta gọi đó là hạng trung bình thứ hai hưởng thụ dục lạc.

“Thế nào là hạng người, Ta nói hơn người, trong hưởng thụ dục lạc? Là loại người đúng pháp tìm cầu tài vật,… cho đến đời sau sinh lên cõi trời. Ta gọi đó là hạng hơn người thứ ba hưởng thụ dục lạc.  

“Thế nào là ba hạng người tự làm khổ chính mình? Đó là khổ phi pháp, bất chính, phi nghĩa lợi, vô ích. Có một hạng người tự làm khổ bằng cách sống khắc khổ. Ban đầu mới phạm giới, ô nhiễm giới, họ tu đủ cách khổ hạnh, nổ lực tinh tấn  trụ ở một chỗ, nhưng trong đời hiện tại họ chẳng thể xa lìa được nhiệt não bức bách, chẳng được pháp hơn người, chẳng trụ vào được an lạc, tri kiến thắng diệu. Này thôn trưởng, đó gọi là hạng người thứ nhất tự làm khổ mình bằng cách sống khắc khổ.

“Lại nữa, tự làm khổ bằng cách sống khắc khổ. Ban đầu chẳng phạm giới, chẳng ô nhiễm giới, nhưng tu đủ cách khổ hạnh cũng chẳng nhờ vậy mà ngay trong hiện tại xa lìa được nhiệt não bức bách, chẳng được pháp hơn người, chẳng trụ vào được an lạc, tri kiến thắng diệu. Đó gọi là hạng người thứ hai tự làm khổ mình bằng cách sống khắc khổ.

“Lại nữa, tự làm khổ bằng cách sống khắc khổ. Ban đầu chẳng phạm giới, chẳng ô nghiễm giới, nhưng tu đủ cách khổ hạnh tinh tấn, mà ngay trong hiện tại chỉ chút ít [24] xa lìa được nhiệt não bức bách, được pháp hơn người, trụ vào an lạc, tri kiến thắng diệu. Đó gọi là hạng người thứ ba tự làm khổ mình bằng cách sống khắc khổ.

“Này thôn trưởng, Ta không nói tất cả những người tự mình làm khổ bằng cách sống khắc khổ đều giống nhau, mà Ta đã nói trong những kẻ tự làm khổ, có người thuộc hạng thấp kém, có người thuộc hạng trung bình, có người thuộc hạng hơn người.

“Thế nào là tự làm khổ thuộc hạng thua kém? Tự làm khổ, ban đầu mới phạm giới, [229b] mới làm ô nhiễm giới,… cho đến chẳng được tri kiến thắng diệu, trụ an lạc. Ta nói đó là tự làm khổ thuộc hạng thấp kém.

“Thế nào là tự làm khổ thuộc hạng trung bình? Tự làm khổ, ban đầu chẳng phạm giới, chẳng ô nhiễm giới,… cho đến chẳng được tri kiến thắng diệu, trụ vào an lạc, Ta gọi đó là tự làm khổ thuộc hạng trung.

“Thế nào là tự làm khổ thuộc hạng hơn người? Tự làm khổ, bằng cách sống khắc khổ, ban đầu chẳng phạm giới, chẳng ô nhiễm giới,… cho đến được chút ít tri kiến thắng diệu, trụ an lạc. Ta gọi đó là tự làm khổ thuộc hạng hơn người.

“Này thôn trưởng, đó là ba hạng người tự làm khổ mình. Sự khổ này phi pháp, không chân chánh, không nghĩa lợi, không hữu ích gì.

“Này thôn trưởng, có đạo lộ, có sự thực hành đưa [25] đến ba hạng phương tiện tùy thuộc hưởng thụ dục lạc, của hàng phàm phu dung thường, thấp kém hèn hạ; đưa đến phương tiện tự làm khổ chính mình; mà sự khổ này phi pháp, không chân chánh, không nghĩa lợi, không hữu ích gì. 

“Thế nào là đạo lộ, sự thực hành đưa đến phương tiện hưởng thọ dục lạc, tự làm khổ chính mình?

“Này thôn trưởng, do bị dục tham làm chướng ngại, hoặc tự muốn hại, hoặc muốn hại kẻ khác, hoặc muốn hại cả hai, hiện tại và đời sau mắc tội báo này, tâm luôn lo khổ. Vì bị sân nhuế, ngu si làm chướng ngại, hoặc tự muốn hại, hoặc muốn hại kẻ khác, hoặc muốn hại cả hai, hiện tại và đời sau mắc tội báo này, tâm luôn lo khổ. Nếu xa lìa chướng ngại của dục tham, không muốn phương tiện tự hại, hại người, hại cả hai, hiện tại, đời sau khỏi mắc tội báo này, khiến tâm, tâm pháp luôn luôn thọ hỷ lạc. Cũng vậy nếu xa lìa chướng ngại của sân nhuế, ngu si, không muốn phương tiện tự hại, hại người, hại cả hai, hiện tại, đời sau khỏi mắc tội báo này, khiến tâm, tâm pháp ï luôn luôn hưởng hỷ lạc. Ở trong ngay hiện tại xa lìa nhiệt não bức bách, không cần đợi thời tiết, gần gũi Niết-bàn, mà ngay trong thân này thể duyên tự mình mà giác tri.

“Này thôn trưởng, như pháp hiện tại này vĩnh viễn xa lìa nhiệt não bức bách, không cần đợi thời tiết, gần gũi Niết-bàn, mà ngay trong thân này duyên tự mình giác tri, đó là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến,… cho đến chánh định.”

Khi đức Thế Tôn nói pháp này, thôn trưởng Vương Đảnh xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Thôn trưởng Vương Đảnh sau khi thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, thâm nhập vào pháp, thoát nghi không nhờ người khác, ở trong Chánh pháp luật mà được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nay con đã được độ, xin nương về Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo. [229c] Từ nay đến hết đời con xin làm Ưu-bà-tắc”

Sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ mà lui.

KINH 1294. KIỆT ĐÀM [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật du hành giữa những người Lực sỹ, [27] đến ở rừng Anh vũ Diêm-phù, [28] trú xứ của Uất-tì-la. Bấy giờ có thôn chủ Kiệt-đàm [29] nghe tin Sa-môn Cù-đàm du hành giữ những người Lực sỹ, đến ở rừng Anh vũ Diêm-phù, trú xứ của Uất-tì-la. Ngài nói về sự tập khởi của khổ và sự tiêu diệt của khổ hiện tại. [30] Ông nghĩ, ‘Ta nên đến chỗ Sa-môn Cù-đàm kia. Nếu ta đến thì chắc Sa-môn Cù-đàm sẽ vì ta mà nói về sự tập khởi của khổ, và sự tiêu diệt của khổ hiện tại.’ Sau đó ông liền đến thôn Uất-tì-la và đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, tôi nghe Thế Tôn thường vì người nói về sự tập khởi của khổ và sự tiêu diệt của khổ hiện tại. Lành thay! Thế Tôn vì tôi nói về sự tập khởi của khổ và sự tiêu diệt của khổ hiện tại.”

Phật nói v ới thôn trưởng:

“Nếu Ta nói về sự tập khởi của khổ, và sự tiêu diệt thuộc khổ quá khứ; ông có thể hoài nghi điều đó, hoặc tin hoặc không tin, đồng ý hoặc không đồng ý, vừa ý hay không vừa ý, hoặc thích hay chẳng thích: Nay ông có khổ chăng? Nếu Ta nói về khổ vị lai, ông có thể hoài nghi điều đó, hoặc tin hoặc không tin, đồng ý hoặc không đồng ý, vừa ý hay không vừa ý, hoặc thích hay chẳng thích: Nay ông có khổ chăng?  Nay Ta sẽ nói về sự tập khởi của khổ, và sự tiêu diệt của khổ hiện tại.

“Này thôn trưởng, tất cả những khổ phát sanh mà chúng sanh có, thảy đều do dục làm gốc: dục phát sinh, dục tập khởi, dục hiện khởi, dục làm nhân, dục làm duyên mà khổ phát sinh.”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Thế Tôn nói pháp quá sơ lược, không phân biệt rộng rãi, nên tôi có chỗ không hiểu. Lành thay, Thế Tôn! Xin trình bày đầy đủ hơn cho chúng tôi được hiểu.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Bây giờ Ta hỏi ông, cứ theo ý ông mà đáp. Này thôn trưởng, ý ông thế nào, nếu chúng sanh ở thôn Uất-tì-la này hoặc bị trói, hoặc bị đánh, hoặc bị khiển trách, hoặc bị giết, tâm ông có khởi buồn thương khổ não không?”

Thôn trưởng bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, cũng không nhất thiết là vậy! Nếu mọi người sống ở thôn Uất-tì-la này đối với họ mà tôi có dục, có tham, có ái, có niệm, không thân cận nhau; gặp khi họ hoặc bị trói, hoặc bị đánh, hoặc bị trách, hoặc bị giết, tôi sẽ cảm thấy buồn thương khổ não. Còn nếu những người kia đối với họ mà tôi không có dục, không có tham, không có ái, không có niệm, không thân cận gũi nhau; khi gặp họ bị trói, đánh, trách, giết, làm sao tôi có thể sinh lòng buồn thương khổ não được?”

Phật nói với thôn trưởng:

 [230a] “Cho nên, ông phải biết, mọi cái khổ của chúng sanh được phát sinh, tất cả chúng đều do từ dục làm gốc: dục phát sinh, dục tập khởi, dục hiện khởi, dục là nhân, dục là duyên mà sinh ra các thứ khổ.

“Này thôn trưởng, ý ông thế nào? Nếu ông cùng cha mẹ nuôi [31] mà không gặp [32] nhau, có sinh lòng tham dục thương nhớ không?”

Thôn trưởng nói:

“Bạch Thế Tôn, không!”

“Này thôn trưởng, ý ông thế nào? Nếu hoặc thấy, hoặc nghe cha mẹ nuôi, ông có sinh lòng dục thương nhớ không?”

Thôn trưởng nói:

“Bạch Thế Tôn, có vậy!”

Lại hỏi:

“Này thôn trưởng, ý ông thế nào? Nếu cha mẹ nuôi kia bị vô thường biến khác ông có sinh lòng buồn thương khổ não không?”

Thôn trưởng nói:

“Bạch Thế Tôn, có vậy! Nếu cha mẹ nuôi bị vô thường biến khác, tôi sẽ khổ đến gần chết được, đâu phải chỉ buồn thương khổ não!”

Phật nói với thôn trưởng:

“Cho nên ông phải biết, nếu các chúng sanh có được cái khổ phát sinh, tất cả đều do ái dục làm gốc: dục phát sinh, dục tập khởi, dục nổi dậy, dục là nhân, dục là duyên mà sinh ra các thứ khổ.”

Thôn trưởng nói:

“Kỳ thay! Thế Tôn đã khéo nói thí dụ về cha mẹ nuôi như vậy. Tôi có cha mẹ nuôi, nhưng sống tại nơi khác. [33] Hằng ngày tôi sai người  thăm hỏi, vấn an sức khỏe thế nào. Khi họ đi chưa về tôi đã lấy làm lo lắng khổ sở, huống chi là lại bị vô thường mà không lo lắng khổ đau sao được!”

Phật nói với thôn trưởng:

“Cho nên, Ta nói mọi lo khổ của chúng sanh, tất cả đều do dục làm gốc rễ: dục phát sinh, dục tập khởi, dục hiện khởi, dục là nhân, dục là duyên mà sinh ra lo khổ.”

Phật nói với thôn trưởng tiếp:

“Nếu có bốn ái niệm, mà bị vô thường biến khác, sẽ phát sinh ra bốn ưu khổ. Nếu có một hoặc hai, ba ái niệm bị vô thường biến khác, sẽ phát sinh một hoặc hai, ba ưu khổ.

“Này thôn trưởng, nếu tất cả đều không có ái niệm thì sẽ không có trần lao ưu khổ.”

Rồi Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu không có ái niệm thế gian,

Thì không lo trần lao ưu khổ;

Tiêu diệt hết tất cả ưu khổ,

Giống như hoa sen không dính nước.

Trong khi Phật nói pháp này, thôn trưởng Kiệt-đàm xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh,  thấy pháp, đắc pháp, thâm nhập vào pháp, thoát khỏi mọi nghi hoặc, không nhờ vào người khác, không do người khác độ, được vô sở úy ở trong chánh pháp luật; từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chấp tay bạch Phật:

“Con đã được độ, đã siệu việt, bạch Thế Tôn! Từ hôm nay con xin nương về Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo; suốt đời con làm Ưu-bà-tắt. Xin Ngài nhớ nghĩ gia hộ con.”

Phật nói kinh này [230b] xong. Thôn trưởng Kiệt-đàm sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ làm lễ mà lui.

KINH 1295. ĐAO SƯ THỊ [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, một nghìn vị Ưu-bà-tắc, và năm trăm người xin đồ ăn dư, [35] du hành trong nhơn gian; đi khắp từ thành này sang thành nọ, từ thôn này sang thôn khác, đến trong vườn Hảo y Yêm-la, thôn Na-la, [36] nước Ma-kiệt-đề. Bấy giờ có thôn trưởng đệ tử của Ni-kiền tên là Đao Sư  Thị [37] đi đến chỗ Ni-kiền, lễ sát chân Ni-kiền, rồi ngồi xuống một bên. Lúc ấy Ni-kiền nói với thôn trưởng Đao Sư Thị:

“Ông có thể dùng ‘Tật-lê luận’ [38] bàn luận cùng với Sa-môn Cù-đàm, để làm cho Sa-môn Cù-đàm nói cũng không được, không muốn nói cũng không được, được chăng?”

Thôn trưởng thưa:

“Thưa Thầy, thế nào là luận thuyết ‘Tật-lê luận’ có thể làm cho Sa-môn Cù-đàm muốn nói cũng không được, mà không muốn nói cũng không được?”

Ni-kiền nói với thôn trưởng rằng:

“Ông hãy đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi như vầy: ‘Cù-đàm lúc nào cũng mong ước khiến cho mọi người tăng trưởng đầy đủ phước-lợi. Ngài thường có mong ước như vậy, và nói như vậy phải không?’ Nếu trả lời cho ông là không, ông nên hỏi rằng: ‘Vậy, Sa-môn Cù-đàm có khác gì với kẻ phàm ngu si?’ Nếu trả lời là ‘Có mong ươc, và có nói.’ Ông nên hỏi lại rằng: ‘Nếu Sa-môn Cù-đàm đã có mong ước và có nói như thế, vậy tại sao người dân hiện đang mất mùa đói kém, mà Ngài còn du hành trong nhơn gian dẫn theo một nghìn hai trăm năm mươi chúng Tỳ-kheo, một nghìn vị Ưu-bà-tắc, và năm trăm người ăn xin đi từ thành này sang thành nọ, từ thôn này sang thôn khác, làm hao tổn của cải người dân, giống như mưa lớn, mưa đá, chỉ có làm tổn hại chứ chẳng thêm được lợi ích nào! Những lời nói của Cù-đàm trước sau mâu thuẫn nhau, không giống nhau, không gần giống nhau, không phù hợp nhau, khác nhau.’ Thôn trưởng, như vậy, đó gọi là ‘Tật-lê luận’ sẽ làm cho Sa-môn Cù-đàm muốn nói cũng không được, không muốn nói cũng không được.”

Bấy giờ, thôn trưởng Đao Sư Thị vâng lời dạy nói với của Ni-kiền, đi đến chỗ Phật, cung kính chào hỏi. Sau khi cung kính chào hỏi xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, có phải lúc nào Ngài cũng mong ước khiến cho mọi người tăng trưởng phước-lợi  không?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Lúc nào Như Lai cũng mong ước khiến cho mọi người tăng trưởng phước-lợi và, cũng thường nói như vậy.”

Thôn trưởng nói:

“Nếu như vậy, tại sao, thưa Cù-đàm, trong khi những người dân đang bị mất mùa đói kém, mà Ngài còn đi khất thực trong nhơn gian, dẫn theo đông đảo đại chúng,… cho đến trước sau mâu thuẫn nhau, không giống nhau?”

 [230c] Phật nói với thôn trưởng:

“Ta nhớ chín mươi mốt kiếp từ trước đến nay, không thấy một người nào, mà bố thí cho Tỳ-kheo lại bị cạn kiệt, hay bị tổn giảm cả. Này thôn trưởng, ông nhìn xem hiện nay có người giàu sang, nhiều tiền của, quyến thuộc đông đảo, tôi tớ đầy nhà; nên biết, nhà ấy lâu dài ưa thích bố thí, chân thật tích chưa, [39] nên được phước lợi này. Này thôn trưởng, có tám nguyên nhân khiến cho phước lợi người tổn giảm không tăng. Những gì là tám? Đó là bị vua bức hiếp, bị giặc cướp lấy, bị lửa đốt cháy, bị nước cuốn trôi, bị tiêu hao vì dấu cất, bị kẻ nợ không trả, bị kẻ oán ghét tàn phá, bị hoang phí bởi con hư. Đó là tám nguyên nhân khiến cho tiền của khó tích tụ. Này thôn trưởng, Ta nói vô thường là nguyên nhân thứ chín. Như vậy, này thôn trưởng, ông đã bỏ đi chín nhân, chín duyên trên mà nói Sa-môn Cù-đàm phá hoại nhà người. Nếu ông không bỏ những lời nói ác, không bỏ ác kiến, cũng như gươm ném xuống nước, khi thân hoại mạng chung, ông sẽ sinh vào trong địa ngục.”

Bấy giờ, thôn trưởng Đao Sư Thị lòng đâm ra sợ hãi, toàn thân lông dựng đứng lên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hiện tại con đã hối lỗi rồi. Vì con như ngu như si, bất thiện, không hiểu biết, nên đối với Cù-đàm con đã nói ra những lời dối trá hư vọng không thành thật.”

Sau khi nghe những gì Phật dạy, thôn trưởng Đao Sư Thị hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 1296. ĐAO SƯ THỊ (2) [40]

Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Hảo Y Yêm-la, tại thôn Na-la. Bấy giờ có thôn trưởng Đao Sư Thị, trước đây là đệ tử củ Ni-kiền, đi đến chỗ Ni-kiền lễ sát chân Ni-kiền, rồi ngồi xuống một bên. Bấy giờ, Ni-kiền nói với thôn trưởng:

“Ông có thể dùng ‘Tật-lê luận’ bàn luận cùng với Sa-môn Cù-đàm, để làm cho Sa-môn Cù-đàm nói cũng không được, không muốn nói cũng không được, được chăng?”

Thôn trưởng thưa Ni-kiền:

“Thưa Thầy. thế nào là luận thuyết ‘Tật-lê luận’ có thể làm cho Sa-môn Cù-đàm muốn nói cũng không được, mà không muốn nói cũng không được?”

Ni-kiền nói với thôn trưởng:

“Ông hãy đến chỗ Sa-môn Cù-đàm nói như vầy: ‘Cù-đàm không luôn luôn muốn an ủi tất cả chúng sanh, và khen ngợi ai an ủi tất cả chúng sanh phải không?’ Nếu nói là không, ông nên nói rằng: ‘Vậy, Cù-đàm có khác gì với kẻ phàm ngu si?’ Nếu trả lời là thường muốn an ủi tất cả chúng sanh, và khen ngợi ai an ủi tất cả chúng sanh, ông nên hỏi lại rằng: ‘Nếu muốn an ủi tất cả chúng sanh, vậy thì vì sao chỉ nói pháp cho một hạng người này mà không nói pháp cho một hạng người kia?’ Hỏi như vậy, đó gọi là ‘Tật-lê luận’ sẽ làm cho Sa-môn [231a] Cù-đàm muốn nói cũng không được, không muốn nói cũng không được.”

Bấy giờ, thôn trưởng Đao Sư Thị được sự khuyến khích của Ni-kiền rồi, đi đến chỗ Phật cung kính chào hỏi. Sau khi cung kính chào hỏi xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, Ngài há không thường muốn an ủi tất cả chúng sanh, và khen ngợi nói lời an ủi tất cả chúng sanh?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Lúc nào Như Lai cũng thương xót, an ủi tất cả chúng sanh, và lúc nào cũng khen ngợi nói lời an ủi tất cả chúng sanh.”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Nếu như vậy, tại sao Như Lai chỉ nói pháp chomột hạng người này, mà không nói pháp cho một hạng người kia?”

Phật nói với thôn trưởng:

“Bây giờ, Ta hỏi ông, ông cứ tùy ý mà đáp cho Ta.

“Này thôn trưởng, thí như có ba loại ruộng: loại ruộng thứ nhất thì màu mỡ, phì nhiêu; loại ruộng thứ hai thì trung bình; loại ruộng thứ ba thì cằn cỗi.

“Thế nào thôn trưởng, người chủ của những đám ruộng kia, trước tiên họ cày bừa, gieo giống vào đám ruộng nào?”

Thôn trưởng nói:

“Thưa Cù-đàm, trước tiên là phải cày bừa, gieo giống xuống đám ruộng màu mỡ phì nhiêu nhất.”

“Này thôn trưởng, kế đến lại phải cày bừa, gieo giống xuống đám ruộng nào?”

Thôn trưởng nói:

“Thưa Cù-đàm, kế đến cày bừa gieo giống xuống đám ruộng trung bình.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Kế đến lại phải cày bừa gieo giống xuống đám ruộng nào?”

Thôn trưởng thưa:

“Kế đến cày bừa, gieo giống xuống đám ruộng cằn cỗi xấu nhất.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Vì sao như vậy?”

Thôn trưởng thưa:

“Vì họ không muốn bỏ phế ruộng chỉ giữ lại giống mà thôi!”

Phật nói với thôn trưởng:

“Ta cũng như vậy. Như đám ruộng màu mỡ, phì nhiêu kia, các Tỳ-kheo Tỳ-kheo-ni của Ta lại cũng như vậy. Ta thường vì họ mà giảng nói Chánh pháp, lúc đầu, khoảng giữa, và sau cùng đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch, khai thị rõ ràng. Sau khi họ nghe pháp rồi, nương vào nhà của Ta, đảo của Ta, sự che chở của Ta, bóng mát của Ta, đường hướng của Ta, lúc nào cũng dùng tịnh nhãn nhìn theo Ta mà sống, và tự nghĩ như vầy: ‘Những pháp mà Phật đã nói ra, ta đều thọ trì, luôn luôn đem lại cho ta ý nghĩa lợi ích, và sống an ổn an vui.’

“Này thôn trưởng, như đám ruộng trung bình kia, các đệ tử Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di của Ta cũng lại như vậy. Ta cũng vì họ giảng nói Chánh pháp ban đầu, khoảng giữa, sau cùng đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch, khai thị rõ ràng. Sau khi họ nghe pháp xong, nương vào nhà của Ta, đảo của Ta, sự che chở của Ta, bóng mát của ta, đường hướng của Ta, mà lúc nào cũng dùng tịnh nhãn nhìn theo Ta mà sống, và nghĩ như vầy: ‘Những pháp Thế Tôn đã nói ra Ta đều thọ trì luôn luôn đem lại cho ta ý nghĩa lợi ích, sống an ổn, an lạc.’

“Này thôn trưởng, như đám ruộng xấu nhất của nhà nông kia, [231b] cũng vậy Ta vì các dị học ngoại đạo Ni-kiền tử, cũng vì họ mà nói pháp, pháp ban đầu, khoảng giữa, sau cùng đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch, khai thị rõ ràng. Song đối với những người ít nghe pháp, Ta cũng vì họ mà nói, và những người nghe pháp nhiều Ta cũng vì họ mà nói. Nhưng trong số những người này, đối với việc khéo nói pháp của Ta, đạt được một câu pháp mà biết được ý nghĩa của nó, cũng lại nhờ nghĩa lợi này mà sống an ổn an lạc mãi mãi.”

Bấy giờ, thôn trưởng bạch Phật:

“Thật là kỳ, Thế Tôn! Ngài đã khéo nói thí dụ về ba loại ruộng như vậyï.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Ông hãy lắng nghe Ta cho thí dụ khác. Như một người có ba loại đồ vật đựng nước: loại thứ nhất thì không bị thủng, không bị hư, cũng không bị thấm rỉ; loại thứ hai tuy không bị thủng, không bị hư, nhưng bị thấm rỉ; loại thứ ba thì vừa bị thủng, vùa bị hư, lại vừa bị thấm rỉ nữa.

“Thế nào, thôn trưởng, trong ba loại đồ đó người kia sẽ chọn loại nào để đựng nước sạch?”

Thôn trưởng nói:

“Thưa Cù-đàm, trước hết là nên dùng loại không bị thủng, không bị hư, không bị thấm rỉ để đựng nước.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Tiếp đến lại nên dùng loại nào để đựng nước?”

Thôn trưởng nói:

“Thưa Cù-đàm, kế đến nên đem loại không bị thủng, không bị hư, nhưng bị thấm rỉ để đựng nước.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Hai loại kia đã đầy rồi, sau cùng lại dùng loại nào để đựng nước?”

Thôn trưởng nói:

“Sau cùng phải dùng loại vừa bị thủng, bị hư, bị thấm rỉ để đựng nước thôi. Vì sao? Vì chỉ tạm thời dùng vào việc nhỏ trong chốc lát.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Giống như loại đồ của người kia không bị thủng, không bị hư, không bị thấm rỉ, các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni của Ta lại cũng như vậy. Ta thường vì họ giảng nói Chánh pháp,… cho đến luôn lôn vì nghĩa lợi, mà sống an ổn an vui.

“Giống như loại đồ thứ hai tuy không bị thủng, không bị hư, nhưng lại bị thấm rỉ, các đệ tử Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của Ta lại cũng như vậy. Ta thường vì họ giảng nói Chánh pháp,… cho đến luôn lôn vì nghĩa lợi, mà sống an ổn an vui.

“Giống như loại đồ thứ ba vừa bị thủng, bị hư, bị thấm rỉ, các đệ tử dị học ngoại đạo của Ni-kiền lại cũng như vậy. Ta thường vì họ giảng nói Chánh pháp, ban đầu, khoảng giữa, sau cùng đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, hoàn toàn thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch, khai thị rõ ràng, dù nhiều hay ít Ta cũng vì họ mà nói. Nếu đối với một câu nói pháp của Ta mà họ biết được nghĩa của nó, cũng được sống an ổn, an vui lâu dài.”

Lúc thôn trưởng Đao Sư Thị nghe những gì Phật nói, tâm sợ hãi vô cùng, lông toàn thân dựng đứng lên, liền đến trước Phật lễ sát chân, sám hối những lỗi lầm:

“Bạch Thế Tôn, con như [231c] ngu, như si, bất thiện, không hiểu biết; đối với Thế Tôn con đã nói những lời lừa dối hư trá không chân thật.”

Sau khi nghe những gì Phật dạy, thôn trương Đao SưThị hoan hỷ tùy hỷ làm lễ mà lui.

KINH 1297. ĐAO SƯ THỊ (3) [41]

Tôi nghe như vầy:

 Một thời, Phật ở trong vườn Hảo y Yêm-la tại thôn Na-la. Bấy giờ có thôn trưởng Đao Sư Thị đệ tử của Ni-kiền đi đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên. Lúc ấy Thế Tôn nói với thôn trưởng:

“Ông muốn bàn luận về những vấn đề gì? Ni-kiền Nhã-đề Tử đã nói những gì?”

Thôn trưởng nói:

“Ni-kiền Nhã-đề Tử nói: Người sát sinh, tất cả đều đọa vào trong địa ngục, vì hành nhiều, nên sẽ dẫn đến nơi đó. Cũng vậy, trộm cắp, tà dâm, nói dối cũng đều đọa vào trong địa ngục, vì sống thường xuyên với nó, nên nó sẽ dẫn đến nơi đó.” [42]

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu như Ni-kiền Nhã-đề Tử nói: Người sát sinh, tất cả đều đọa vào trong địa ngục, vì hành nhiều, nên sẽ dẫn đến nơi đó, nếu vậy thì sẽ không có chúng sanh đọa vào trong địa ngục! Này thôn trưởng,  ý ông thế nào, những chúng sanh nào, bất cứ lúc nào cũng có tâm sát sinh? Lúc nào họ lại có tâm không sát sinh,… cho đến lúc nào có tâm nói dối, lúc nào có tâm không nói dối?”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn,  trong ngày đêm, con người ít khi có tâm sát sinh,… cho đến ít khi có tâm nói dối, mà phần nhiều là không có tâm sát sinh,… cho đến nói dối.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Nếu như vậy, há chẳng phải không có người đọa vào trong địa ngục sao? Như những gì Ni-kiền Nhã-đề Tử nói: Người sát sinh, tất cả đều đọa vào trong địa ngục, vì hành nhiều, nên sẽ dẫn đến nơi đó,… cho đến nói dối cũng lại như vậy.’

“Này thôn trưởng, bậc Đại Sư kia xuất hiện ở thế gian, bằng giác tưởng suy lường, nhập vào trình độ giác tưởng [43] mà an trú; ở nơi địa vị phàm phu tự đặt những điều được nói, suy lường theo ý rieng, rồi nói pháp cho các đệ tử như vầy: ‘Ai sát sinh, tất cả đều đọa vào trong địa ngục, vì đã sống thường xuyên với nó nên nó sẽ dẫn đến nơi đó,… cho đến nói dối cũng lại như vậy.’ Các đệ tử của vị ấy, nếu tin vào những lời nói ấy, cho rằng: ‘Đại Sư của ta biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, nói như vầy cho các đệ tử: ‘Nếu ai sát sinh thì tất cả đều đọa vào trong địa ngục, vì đã sống thường xuyên với nó nên nó sẽ dẫn đến nơi đó.’ Ta vốn có tâm sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối nên sẽ bị đọa vào trong địa ngục.’ Vì mắc vào tri kiến như vậy,… cho đến không bỏ được tri kiến này, nên chẳng chán cái nghiệp kia, chẳng biết hối cải nó; và đối với đời vị lai [232a] cũng chẳng bỏ được sát sinh,… cho đến chẳng bỏ được nói dối. Tâm giải thoát [44] của họ không đầy đủ, tuệ giải thoát cũng không đấy đủ. Do tâm giải thoát đã không đầy đủ, tuệ giải thoát đã khộng đầy đủ, nên đó là tà kiến hủy báng Hiền Thánh. Do nhân duyên tà kiến, nên sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh vào trong đường dữ địa ngục.

“Như vậy, này thôn trưởng, có nhân, có duyên chúng sanh bị phiền não; [45] có nhân, có duyên nghiệp của chúng sanh bị phiền não.

“Này thôn trưởng, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sỹ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời, thường vì chúng sanh mà quở trách việc sát sinh, khen ngợi việc không sát sinh; quở trách việc trộm cắp, tà dâm, nói dối, mà khen ngợi việc không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và thường đem pháp này giáo hóa, nhắc nhở lại các bậc Thanh văn làm cho tin ưa, niệm tưởng rằng: ‘Đại Sư của ta biết rõ những điều cần biết, thấy những điều cần thấy, nên quở trách việc sát sinh, khen ngợi việc không sát sinh,… cho đến quở trách việc nói dối, khen ngợi việc không nói dối. Từ trước tới nay, vì ta ngu si không có trí tuệ nên có tâm sát sinh, do đó nên nay ta tự ăn năn trách mình.’ Tuy không thể làm cho những nghiệp kia không sinh khởi nữa, nhưng nhờ vào sự ăn năn tự trách này, mà đời vị lai xa lìa được sát sinh,… cho đến xa lìa được trộm cắp, tà dâm, nói dối, và cũng được chân chánh tâm giải thoát đầy đủ, tuệ giải thoát đầy đủ. Khi tâm giải thoát, tuệ giải thoát đã đầy đủ rồi, sẽ không còn hủy báng Hiền Thánh nữa, và thành tựu được chánh khiến. Do chánh kiến nên được sinh về đường lành ở cõi trời.

“Như vậy, này thôn trưởng, có nhân, có duyên nghiệp của chúng sanh phiền não hay thanh tịnh.

“Này thôn trưởng, Thánh đệ tử đa văn kia phải học như vầy: ‘Tùy thời ngày đêm mà quán sát biết có tâm sát sinh khởi ít, và biết có tâm không sát sinh  khởi nhiều. Nếu có tâm sát sinh, sẽ ăn năn tự trách mình là chẳng đúng, bất thiện. Nếu không có tâm sát sinh, sẽ không có sự oán thù, tâm sinh tùy hỷ. Do tùy hỷ, hoan hỷ sanh. Do hoan hỷ sanh, tâm khinh an. Do tâm khanh an, tâm cảm thọ lạc. Do cảm thọ lạc, tâm định. Do tâm  định, tâm của vị  Thánh đệ tử câu hữu với từ, không còn oán hận, không còn ganh ghét, không còn sân nhuế, rộng lớn vô cùng, bao trùm cả một phương, an trụ chánh thọ. Từ hai phương, ba phương cho đến bốn phương, bốn bên trên, dưới khắp cả thế gian tâm đều câu hữu với từ, không còn oán hận, không còn ganh ghét, không còn sân nhuế, rộng lớn vô cùng, nếu khéo tu tập đầy khắp các phương, sẽ an trụ chánh thọ đầy đủ.”

Bấy giờ, Thế Tôn dùng móng tay quệt một tí đất rồi nói với thôn trưởng Đao Sư Thị [232b] rằng:

“Thế nào thôn trưởng, đất trong móng tay Ta là nhiều hay đất đại địa nhiều?”

Thôn trưởng bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, đất trong móng tay rất là ít so với đất đại địa thì vô lượng vô số.”

Phật nói với thôn trưởng:

“Như đất đã quệt ở trên là quá ít so với số đất đại địa thì vô lượng. Cũng vậy, đối với người tu tập tâm câu hữu với từ, tu tập nhiều, các nghiệp có số lượng như đất đã quệt ở trên, không thể mang đi, không thể khiến trụ. Cũng vậy, nếu dùng tâm bi để đối trị với trôm cắp, dùng tâm hỷ để đối trị với tà dâm, dùng tâm xả để đối trị với nói dối, sẽ không so sánh được.”

Trong khi Phật nói những lời này, thôn trưởng Đao Sư Thị, xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Thôn trưởng thấy pháp, đắc pháp, hiểu pháp, biết pháp, thâm nhập pháp, xa lìa các nghi hoặc, không do người khác, không theo người khác, được vô sở úy ở trong Chánh pháp luật. Từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối bên hữu sát đất, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đã được độ! Bạch Thế Tôn, con đã siêu việt! Bạch Thế Tôn, hôm nay con xin nương về Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo, suốt đời con xin làm Ưu-bà-tắc. Thí như người muốn tìm đèn sáng, lấy đuôi ngựa làm tim đèn, muốn thổi cho lửa bừng lên, nhưng cuối cùng không được sáng, cũng chỉ tự làm mệt mình chứ đèn thì không bao giờ sáng. Con cũng như vậy, muốn tìm minh trí nơi các Ni-kiền Tử ngu si, mà gần gũi với ngu si, hòa hợp với ngu si, phụng sự một cách ngu si, cũng chỉ tự làm khổ mệt mình, chứ không bao giờ được minh trí. Cho nên, hôm nay lần thứ hai con xin nương về Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo. Từ nay trở đi, đối với Ni-kiền Tử ngu si, bất thiện, không hiểu biết kia ít tín, ít kính, ít quí mến, ít nhớ nghĩn, nay xa lìa họ. Thế nên, hôm nay lần thứ ba con xin nương vế Phật, nương về Pháp, nương về Tăng Tỳ-kheo, nguyện suốt đời làm Ưu-bà-tắt, tự làm sạch tâm mình.”

Thôn trưởng Đao Sư Thị sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ mà lui.


 [1] Đại chánh, quyển 32, kinh số  907-916 (trừ 2 kinh đầu 905-906). Ấn Thuận Hội biên, “42. Tương ưng Tụ lạc chủ” gồm 10 kinh. Phần lớn tương đương Pāli, S. 42 Gāmanisaṃyutta. Xem thêm cht. 1 “1. Tương ưng Đại Ca-diếp.”

 [2] Đại chánh, kinh 907. Pāli, S. 42.2. Puṭo. Tham chiếu, No 100(122).

 [3] Giá-la-châu-la-na tụ lạc chủ 遮羅周羅那羅聚落主. No 100(122): kỹ nhân chủ tên Động Phát 伎人主動髮.  Pāli:phường trưởng phường ca vũ (naṭagāmaṇi) tên là Tālapuṭa.

 [4] Hán: ca vũ hý tiếu kỳ niên túc sỹ 歌舞戲笑耆年宿士. Pāli: ācariyāpācariyā nātā, sư tổ của các ca kỹ.

 [5] Hoan hỷ thiên 歡喜天; No 100(122): Quang chiếu thiên 光照天. Pāli: Pahāsā devā.

 [6] Đại chánh, kinh 908. Sống bằng nghề chiến đấu, tức chiến sĩ. Pāli, S. 42.3 Yodhājīvo.

 [7] Chiến đấu hoạt tụ lạc chủ 戰鬥活聚落主. No 100(123): thiện đấu tướng 善鬥將. Pāli: yodhājīvagāmaṇi, người cầm đầu phường võ.

 [8] Tiễn hàng phục thiên 箭降伏天. No 100(123): Tiễn trang nghiêm thiên 箭莊嚴天. Pāli: sarañjitā (sarājitā) devā.

 [9] Huấn luyện ngựa. Pāli, S. 42.5 Assa (Haya).

 [10] Điều mã tụ lạc chủ 調馬聚落主. No 100(124): thiện điều mã sư 善調馬師. Pāli: assāroho gāmiṇi.

 [11] Bản Pāli, người huấn luyện ngựa hỏi Phật với nội dung như các ca kỹ, chiến sỹ trong các kinh trên.

 [12] Nguyên Hán: điều ngự trượng phu. Pāli: purisadamma.

 [13] Đại chánh, kinh 910. Pāli, S. 42.1 Caṇḍo.

 [14] Hung ác tụ lạc chủ 兇惡聚落主. No 100(125): tụ lạc chủ tên Ác Tánh 聚落主。惡性. Pāli: Caṇḍo gāmiṇi. Sớ giải: một thôn chủ tên là Caṇḍo.

 [15] Ác tánh 惡性. Pāli: caṇḍo. hung dữ, bạo ác.

 [16] Hiền Thiện 賢善. No 100(125): Nhẫn Thiện 忍善. Pāli: sorata, nhu hòa.

 [17] Đại chánh, kinh 911. Pāli, S. 42.10  Maṇicūḷa.

 [18] Ma-ni châu kế tụ lạc chủ 摩尼珠髻聚落主. No 100(126): Như Ý Châu Đảnh Kế 如意珠頂髮. Pāli: Maṇicūḷaka

 [19] Tịnh, bất tịnh. Pāli: kappati, na kappati, hợp thức hay không hợp thức? (được phép hay không được phép?).

 [20] Đại chánh, kinh 912. No 100(127).  Pāli, S. 42.12  Rāsiyo.

 [21] Yết-già trì 揭伽池. No 100(127): Kiệt thành Kì trì ngạn 竭城祇池岸.

 [22] Vương Đảnh tụ lạc chủ 王頂聚落主. No 100(127): Vương Đảnh Phát王頂髮.Pāli: Rāsiyo gāmiṇi.

 [23] Hán:ti hạ điền xá 卑下田舍, nghĩa đen: thấp kém, thuộc về ruộng vườn. Tương đương Pāli: hīno gammo.

 [24] Nguyên bản: bất đắc 不得, trùng với loãi tự khổ thứ hai. Theo văn ý, nên sửa lải là thiểu đắc 小得, có thể đạt được một ít. Bản Pāli, có ba hạng khô hành, sống khắc khổ (tapassī lūkhajīvī): 1. Tự hành khổ nhưng không chứng thiện pháp, không đắc pháp thượng nhân, không nhập Thánh trí thù thắng. 2. Tự hành khổ, chứng pháp thiện, nhưng không đác pháp thương nhân và Thánh trí. 3. Tự hành khổ, chứng pháp thiện, đắ pháp thượng nhân và Thánh trí thù thắng.

 [25] Bản Cao ly: bất 不, chẩng đưa đến. Tống-Nguyên-Minh: thị 是: đưa đến.

 [26] Đại chánh kinh 913. S. 42.11 Bhadra. Tham chiếu, Hán, No 100 (128).

 [27] Lực sỹ nhân gian 力士人間. No 100(128): Mạt-lao thôn ấp 末牢村邑. Pāli: Mallesu, giữa những người nước Malla.

 [28] Uất-tì-la trú xứ Anh vũ diêm phù lâm 鬱鞞羅聚落鸚鵡閻浮林. No 100(128): tụ lạc Ưu-lâu-tần-loa 優樓頻螺聚落; rừng Anh vù diêm vô quả 鸚鵡閻無果林. Pāli: Uruvelakappa,  một thị trấn của người Malla.

 [29] Yết-đàm tụ lạc chủ 竭曇聚落主 (Cao ly: kiệt 竭; Minh: yết 揭.) Pāli: Bhadro gāmiṇi.

 [30] Hiện pháp khổ tập khổ một 現法苦集苦沒. Pāli: dukkhassa samudayañca atthaṅgamañca.

 [31] Hán: y phụ mẫu 依父母; nghĩa không rõ. Ngộ Từ Pháp sư giải, y phụ mẫu: chỉ người con; sau khi sinh được đưa cho người khác nuôi.  Bản Pāli, Bhadra có người con trai tên Ciravāsi. Phật hỏi: “Ông và mẹ của Ciravāsi nếu chưa thấy nhau...?”

 [32] Có thể hiểu, chưa hề biết nhau.

 [33] Bản Pāli: có con trai tên là Ciravāsi sống tại một nơi khác.

 [34] Đại chánh, kinh 914. Pāli, S. 42.9 Kulaṃ. Cf. No 100(129).

 [35] Pāli: tại Nālandā lúc đó đang có nạn. Thường có một số đông người hành khất, joặc tu sỹ các phái khác, đi theo Phật và Chúng Tỳ kheo xin đò ăn còn dư thừa.

 [36] Na-la tụ lạc Hảo y am-la viên 那羅聚落好衣菴羅園. No 100(129): Na-la-kiền-đà thành Mại điệp viên lâm 那羅健陀城賣疊園林. Pāli: Nālandāya, Pāvarikambavana.

 [37] Đao Sư Thị 刀師氏. No 100(129): Bế Khẩu Tánh 閉口姓. Pāli: Asibandhakaputta.

 [38] Tật lê luận 蒺 [卄/梨]論, nghĩa theo Hán văn, tật lê là loại cỏ gai, trái nó nhiều gai, khi bàm vào người thì rất khó gỡ. Pāli: ubhatokoṭika pañha, câu hỏi có hai đầu nhọn.

 [39] Hán: chân thật tịch chỉ 真實寂止. Tham chiếu Pāli: saccasamṃbhūtāni (tài sản ấy) được phát sanh một cách chân thật.

 [40] Đại chánh, kinh 915. Pāli, S. 42.7 Desanā. Cf. No 100 (130).

 [41] Đại chánh, kinh 916. Pāli, S. 42.8. Saṅkha. Cf. Hán, No 100(131).

 [42] Hán: đa tập hành giả tương vãng sah bĩ. Pāli (S.iv. 317): saṃbahulaṃ saṃbahulañca vi harati, tena tena nīyati, sống thường xuyên, thường xuyên với cái đó, nó bị cái đó lôi kéo đi.

 [43] Hán: giác tưởng địa 覺想地.

 [44] Ý giải thoát 意解脫, tức tâm giải thoát. Pāli: cetovimutti.

 [45] Hán: phiền năo 煩惱, ở đây được hiểu là ô nhiễm.