19. Tương Ưng thánh đạo, Kinh 716-768

19. TƯƠNG ƯNG THÁNH ĐẠO [1]

KINH 716. NHẬT XUẤT [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Như khi mặt trời mọc có tiền tướng của nó, là minh tướng, ánh sáng ban đầu. Cũng vậy, Tỳ-kheo tận cùng biên tế khổ, cứu cánh biên tế khổ, có tiền tướng là chánh kiến. Chánh kiến này có thể phát khởi lên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Vì nhờ phát khởi định chánh thọ, nên Thánh đệ tử tâm chánh giải thoát tham dục, sân nhuế, ngu si. Với tâm khéo giải thoát như vậy, Thánh đệ tử đạt được chánh tri kiến, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không tái sanh kiếp sau.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 717. VÔ MINH [3]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Vô minh làm tiền tướng nên sanh ra các pháp ác bất thiện. Rồi theo đó sanh ra vô tàm, vô quý. Vô tàm, vô quý đã sanh ra rồi, theo đó sanh ra tà kiến. Tà kiến đã sanh ra rồi, có thể khởi lên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.

“Nếu khởi lên minh làm tiền tướng sanh ra cac pháp thiện, theo đó sanh ra tàm quý. Tàm quý đã sanh ra rồi thì có thể sanh ra chánh kiến. Chánh kiến đã sanh ra rồi, theo thứ tự khởi lên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Chánh định đã khởi lên rồi, Thánh đệ tử sẽ được chánh giải thoát tham dục, sân nhuế, ngu si. Như vậy, Thánh đệ tử khi đã được chánh giải thoát rồi thì sẽ được chánh tri kiến, tự biết ‘Ta, sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh vào đời sau.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 718. VÔ MINH (2) [4]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu, Tỳ-kheo, các pháp ác bất thiện sanh khởi, tất cả đều do vô minh làm gốc, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh khởi. Vì sao? Vì vô minh là vô tri, không biết như thật đối với pháp thiện, pháp bất [198c] thiện; không biết như thật có tội, không có tội, pháp thấp, pháp cao, nhiễm ô, không nhiễm ô, phân biệt, không phân biệt, duyên khởi, không duyên khởi. Vì không biết như thật nên khởi lên tà kiến; khi đã khởi tà kiến rồi, khởi lên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.

“Nếu các pháp thiện sanh, tất cả đều do minh làm gốc, minh tập, minh sanh, minh khởi. Vì minh, biết như thật đối với pháp thiện, bất thiện; tất cả đều biết như thật về tội, không tội, thân cận, không thân cận, pháp thấp, pháp cao, ô uế, bạch tịnh, có phân biệt, không phân biệt, duyên khởi, không duyên khởi. biết như thật, đó là Chánh kiến. chánh kiến hay khởi lên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi đã khởi lên chánh đnh rồi, Thánh đệ tử sẽ được chánh giải thoát tham, nhuế, si; khi tham, nhuế, si đã giải thoát rồi, Thánh đệ tử sẽ được chánh tri kiến, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 719. KHỞI [5]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu người xuất gia hay tại gia mà khởi lên việc tà, [6] thì Ta sẽ không nói đến. Vì sao? Vì nếu người xuất gia hay tại gia mà còn khởi lên việc tà, không vui thích Chánh pháp. Những gì là việc tà? Đó là tà kiến… cho đến tà định.

“Nếu là người xuất gia hay tại gia mà khởi lên việc chánh, Ta sẽ tán thán. Vì sao? Vì người khởi lên việc chánh, là người vui thích Chánh pháp, thiện xảo nơi Chánh pháp. Những gì là việc chánh? Đó là chánh kiến… cho đến chánh định. Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tại gia cùng xuất gia,

Mà khởi lên việc tà;

Người kia không vui thích

Chánh pháp tối vô thượng.

Tại gia cùng xuất gia,

Mà khởi lên việc chánh;

Thì tâm luôn vui thích,

Chánh pháp tối vô thượng.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 720. CA-MA [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tỳ-kheo Ca-ma [8] đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, gọi là dục; thế nào là [199a] dục? “

Phật bảo Ca-ma:

“Dục là năm công năng của dục. Những gì là năm? Sắc được thấy bới mắt, đáng yêu, đáng thích ý, đáng nhớ, khiến nuôi lớn dục lạc. Cũng vậy, thanh, hương, vị, pháp; khi xúc biết (đối tượng) đáng yêu, vừa ý, đáng nhớ, khiến nuôi lớn dục lạc. Đó gọi là dục. Nhưng chúng không phải là dục. Được tham đắm bởi người kia, nó mới được gọi là dục.“

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Năm sắc tạp thế gian,

Tự chúng phi ái dục.

Cái giác tưởng tham dục,

Là dục của con người.

Các sắc thường ở đời,

Hành giả đoạn tâm dục.

Tỳ-kheo Ca-ma bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, có con đường đưa đến đoạn trừ ái dục này không?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Có tám Chánh đạo, có thể đoạn trừ ái dục, đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Ca-ma nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 721. A-LÊ-SẮT-TRA [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên là A-lợi-sắc-tra [10] đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, gọi là cam lồ; [11] thế nào gọi là cam lồ?”

Phật bảo A-lê-sắc-tra:

“Cam lồ là một danh thuyết của giới, [12] nhưng Ta vì người đã đoạn tận hữu lậu mà hiện nói danh từ này.”

Tỳ-kheo A-lê-sắc-tra bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có con đường dẫn đến tu tập, tu tập nhiều, sẽ được pháp Cam lồ không?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Có, đó là tám chi Thánh đạo: từ chánh kiến… cho đến chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 722. XÁ-LỢI-PHẤT [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, gọi là các tư cụ căn bản cho chánh tam muội [14] của Hiền Thánh; thế nào là các tư cụ căn bản cho chánh tam muội của Hiền thánh?”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Đó là bảy chi Thánh đạo, là căn bản, là các tư cụ cho chánh tam-muội của Hiền Thánh. Những gì là bảy? Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này Xá-lợi-phất, sau khi lấy bảy đạo chi này làm tác nghiệp căn cơ [15] rồi, tâm được chuyên nhất; đó gọi là những tư cụ căn [199b] bản cho chánh tam-muội Hiền thánh.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 723 -725. TỲ-KHEO [16]

Tôi nghe như vầy:

Như ba kinh trên, cũng vậy ba kinh Phật hỏi các Tỳ-kheo cũng nói như vậy.

KINH 726. ÚY [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Sự sợ hãi của con không mẹ. Sự sợ hãi của con có mẹ. Đó là điều mà kẻ phàm ngu si không học, nói đến. Nhưng không hiểu gì về sự sợ hãi của con không mẹ, sự sợ hãi của con có mẹ.

“Này các Tỳ-kheo, có ba sự sợ hãi của con không mẹ, [18] mà phàm phu ngu si, không học đã nói. Những gì là ba? Này các Tỳ-kheo, khi có binh biến loạn lạc xảy ra, tàn hại đất nước, bị sóng cuốn theo dòng, con thất lạc mẹ, mẹ thất lạc con. Đó gọi là sự sợ hãi của con không mẹ thứ nhất, mà kẻ phàm ngu si, vô học nói.

“Lại nữa, này Tỳ-kheo, khi có hỏa hoạn lớn bất chợt xảy ra, thiêu đốt thành ấp, xóm làng; dân chúng chạy loạn khắp nơi, mẹ con thất lạc nhau. Đó gọi là sự sợ hãi của con không mẹ thứ hai mà kẻ phàm ngu si, vô học đã nói.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, có một lúc trong núi có mưa to, nước lớn đổ ra, làm tràn nập xóm làng, dân chúng lánh chạy khắp nơi, mẹ con thất lạc nhau. Đó gọi sựï sợ hãi của con không mẹ thứ ba, mà kẻ phàm ngu si, vô học đã nói.

“Song tất cả những sự sợ hãi này là sự sợ hãi của con có mẹ, mà kẻ phàm ngu si, vô học lại nói là sự sợ hãi của con không mẹ. Khi có binh biến loạn lạc xảy ra, tàn hại đất nước; mọi người bôn ba lưu lạc, mẹ con thất lạc nhau. Có khi mẹ con gặp lại nhau. Đó là sự sợ hãi của con có mẹ thứ nhất mà kẻ phàm ngu si, vô học nói là sự sợ hãi của con không mẹ. Lại nữa, khi hỏa hoạn lớn bất chợt xảy ra, thiêu đốt thành ấp, làng xóm, dân chúng chạy loạn khắp nơi, mẹ con thất lạc nhau. Có khi mẹ con gặp lại nhau. Đó là sự sợ hãi của con có mẹ thứ hai mà kẻ phàm ngu si, vô học nói là sựï sợ hãi của con không mẹ. Lại nữa, khi ở trong núi có mưa to, nước lớn đổ ra, làm tràn ngập xóm làng, dân chúng lánh chạy khắp nơi, mẹ con thất lạc nhau. Có khi mẹ con gặp lại nhau. Đó là sự sợ hãi của con có mẹ thứ ba mà kẻ phàm ngu si, vô học nói là sựï sợ hãi của con không mẹ.

“Này Tỳ-kheo, có ba thứ sợ hãi của con không mẹ mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo vô thượng đã ký thuyết. Những gì là ba? Này Tỳ-kheo, khi người con già, không có người mẹ nào có thể nói: ‘Con, con đừng già, để mẹ sẽ thay con!’ Hoặc khi người mẹ già, cũng không có [199c] người con nào bảo: ‘Mẹ, mong mẹ chớ già! Con già thay cho!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con không mẹ thứ nhất mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo vô thượng đã ký thuyết.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, khi người con bị bệnh, người mẹ không thể nói: ‘Con, đừng bệnh! Mẹ sẽ thay con!’ Hoặc khi mẹ bị bệnh, con cũng không thể báo: ‘Mẹ, đừng bệnh, để con bệnh thay mẹ!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con không mẹ thứ hai mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo vô thượng đã ký thuyết.

“Lại nữa, khi người con chết, người mẹ không thể nói: ‘Con, đừng chết! Nay mẹ sẽ thay con!’ Hoặc khi người mẹ chết, người con cũng không thể bảo: ‘Mẹ, đừng chết! Con sẽ thay mẹ!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con không mẹ thứ ba mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo vô thượng đã ký thuyết.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Có đạo lộ nào, có hành trì nào để tu tập, tu tập nhiều, dẫn đến đoạn trừ được ba thứ sợ hãi của con có mẹ ở trước và, đoạn trừ được ba thứ sợ hãi của con không mẹ ở sau không?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Có đạo lộ, có hành trì dẫn đến đoạn trừ được ba sự sợ hãi này. Những gì là đạo lộ? Những gì là hành trì mà tu tập, tu tập nhiều, dẫn đến đoạn trừ được ba thứ sợ hãi của con có mẹ ở trước và, đoạn trừ được ba thứ sợ hãi của con không mẹ ở sau? Đó là Thánh tám chi: Chánh kiến, Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 727. THỌ [19]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có ba thọ, là vô thường, hữu vi, do tâm duyên sanh. Những gì là ba? Đó là lạc thọ, khồ thọ, không lạc không khổ thọ.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế tôn, có đạo lộ, có hành trì nào để tu tập, khi tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba thọ này không?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Có đạo lộ, có hành trì để tu tập, khi tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba thọ này. Những gì là đạo lộ, là hành trì để tu tập, khi tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba thọ này? Phật bảo tiếp các Tỳ-kheo:

“Đó là tám chi Thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 728. TAM PHÁP [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở đời có ba điều không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ. Những gì là ba? Đó là già, bệnh, chết. [200a] Ba điều này không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ. Ở thế gian nếu không có ba điều không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ này, sẽ không có Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian; thế gian cũng chẳng có pháp được thuyết, sự giáo giới, giáo thọ của Như Lai. Vì thế gian có ba điều không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ này, nên Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian; thề gian biết có pháp được thuyết, sự giáo giới, giáo thọ của Như Lai.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Có đạo lộ, có hành trì để tu tập, tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba điều không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ này không?”

Phật bào các Tỳ-kheo:

“Có đạo lộ, có hành trì để tu tập, tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba điều không đáng vui, không đáng yêu, không đáng nhớ này. Những gì là đạo lộ, là hành trì để tu tập, tu tập nhiều, sẽ dẫn đến đoạn trừ ba điều không đáng vui, không đáng, yêu, không đáng nhớ này? Đó là Thánh đạo tám chi: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 729. HỌC [21]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ta sẽ nói về học [22] và vô học. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ. Thế là nào học? Học thành tựu chánh kiến, học thành tựu chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là học. Những gì là vô học? Vô học thành tựu chánh kiến, Vô học thành tựu chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chanh niệm, chánh định. Đó gọi là vô học.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như Học và Vô học, cũng vậy Đại sĩ và Chánh sĩ cũng nói như vậy.

KINH 730. LẬU TẬN [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

 “Ta sẽ nói về Thánh lậu tận. Sao gọi là Thánh lậu tận? Là vô học thành tựu chánh kiến,… cho đến không còn học thành tựu chánh định. Đó gọi là bậc Thánh lậu tận.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 731. BÁT THÁNH ĐẠO PHẦN [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về Tám chi Thánh đạo. Những gì là tám? Đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 732. TU [25]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ta sẽ nói về sự tu tập tám [200b] chi Thánh đạo. Hãy lắng nghe và, suy nghĩ kỹ. Tu tập tám chi Thánh đạolà thế nào? Tỳ-kheo tu tập chánh kiến, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Tu chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đều y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Đó gọi là tu tám Thánh đạo.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 733. TU (2) [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về Tỳ-kheo đã tu tập tám chi Thánh đạo trong quá khứ, sẽ tu tập tám chi Thánh đạo trong vị lai.” chi tiết cho đến, Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 734. THANH TỊNH [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo, chánh kiến thanh tịnh, trắng tinh, không có các lỗi lầm, xa lìa các phiền não; chánh kiến chưa xuất hiện sẽ không xuất hiện, trừ phi có sự điều phục của Phật [28]… cho đến chánh định cũng nói như vậy.

“Chánh kiến thanh tịnh, trắng tinh, không có các lỗi lầm, xa lìa các phiền não; chánh kiến chưa xuất hiện thì xuất hiện…” cho đến chánh định cũng nói như vậy. [29]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như trừ phi có Phật điều phục, cũng vậy trừ phi cóThiện Thệ điều phục cũng nói như trên.

KINH 735. TỤ [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nói tụ bất thiện tức chỉ cho năm triền cái. Đó là chánh thuyết. Vì sao? Tụ chỉ thuần bất thiện, đó là năm triền cái. Những gì là năm? Đó la tham dục, sân nhuế, thụy miên, trạo hối, và nghi cái.

“Nói tụ thiện, tức chỉ cho Thánh đạo tám chi. Đó là chánh thuyết. Vì sao? Tụ chỉ thuần đầy pháp thiện, đó là Thánh đạo tám chi. Những gì là tám? Đó là chánh kiến, chánh chi, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, [200c] chánh niệm, chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 736. BÁN [31]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong tinh xá Sơn cốc, [32] thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả A-nan một mình ở nơi chỗ vắng, suy nghĩ như vầy: “Một nửa phạm hạnh này chnhs là thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng [33]… cho đến Phật bảo A-nan:

“Phạm hạnh viên mãn, thuần nhất thanh tịnh này chính là thiện tri thức. Vì sao? Vì Ta là thiện tri thức nên khiến cho các chúng sanh tu tập chánh kiến, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả… cho đến tu chánh định , y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 737. BÀ-LA-MÔN [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-nan sáng sớm đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Bấy giờ có Bà-la-môn Sanh Văn, [35] đi xe ngựa trắng, cùng với đoàn tùy tùng số đông thanh niên, đi ngựa trắng, xe trắng, dàm ngựa trắng, roi trắng, đầu đội mão trắng, dù lọng trắng; tay cầm phất trắng, mặc y phục trắng, đeo anh lạc trắng, dùng hương trắng thoa mình, tùy tùng đều mặc đồ trắng. Họ ra khỏi thành Xá-vệ, muốn vào rừng để truyền dạy đọc tụng. Mọi người trông thấy vậy đều bảo: ‘Xe đẹ thay, xe đẹp thay! Đó là xe của Bà-la-môn.’

Sau khi thấy Bà-la-môn, cùng với các quyến thuộc và mọi thứ, tất cả đều màu trắng như vậy rồi, Tôn giả vào thành khất thực. Sau đó trở về tinh xá cất y bát, rửa chân xong, Tôn giả đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm nay, con đắp y mang bát vào thành Xa-vệ khất thực, thấy Bà-la-môn Sanh Văn đi xe ngựa trắng, cùng quyến thuộc và mọi thứ, tất cả đều màu trắng, được mọi người khen rằng: ‘Xe đẹ thay, xe đẹp thay! Đó là xe của Bà-la-môn.’ Thế nào, Thế Tôn, trong Chánh pháp luật, đó là xe của người đời, hay là xe của Bà-la-môn?”

Phật bảo A-nan:

“Đó là xe của người đời, chứ chẳng phải xe pháp luật của Ta, hay xe của Bà-la-môn. Này A-nan, xe Chnh pháp luật của Ta, xe của Trời, xe của Bà-la-môn, xe lớn, là có khả năng chinh phục quân ma phiền não. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ nói cho ngươi nghe.

“Này A-nan, xe Chánh pháp luật là gì, xe cõi Trời, xe Bà-la-môn, cỗ xe lớn, có khả năng chinh phục quân ma phiền não? Đó là tám chi Chánh đạo: Chánh kiến… cho đến chánh định. [201a] A-nan, đó gọi là xe Chánh pháp luật, xe cõi Trời, xe bà-la-môn, cỗ xe lớn, có khả năng chinh phục quân phiền não.”

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tín, giới là cái ách,

Tàm quý là vòng cổ;

Chánh niệm khéo hộ trì,

Là người đánh xe giỏi.

Xả, tam-muội: càng xe,

Trí, tinh tấn: bánh xe;

Nhẫn, vô trước: giáp sắt,

An ổn, đi đúng pháp.

Tiến thẳng không thối lui,

Không có gì lo sợ;

Người trí ruổi chiến xa,

Dẹp kẻ thù vô trí.

KINH 738. TÀ [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy xa lìa tà kiến. Hãy đoạn trừ tà kiến. Nếu tà kiến mà không thể đoạn trừ được, Ta đã không bao giờ nói hãy xa lìa tà kiến. Vì tà kiến có thể đoạn trừ được, nên Ta nói Tỳ-kheo hãy xa lìa tà khiến. Nếu không xa lìa tà kiến, tà kiến sẽ tạo ra cái khổ phi nghĩa, không lợi ích. Cho nên Ta nói hãy xa lía tà kiến. Cũng vậy tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định cũng nói như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, khi xa lìa tà kiến rồi, hãy tu tập chánh kiến. Nếu chánh kiến là không thể tu, Ta đã không bao giời nói tu tập chánh kiến. Vì tu tập chánh kiến là có thể tu, nên Ta nói Tỳ-kheo hãy tu tập chánh kiến. Nếu không tu tập chánh kiến, nó tạo ra cái khổ phi nghĩa không lợi ích. Vì không tu tập chánh kiến, nó tạo ra cái khổ phi nghĩa, không lợi ích, cho nên Ta nói hãy tu tập chánh kiến, vì mục đích lợi ích, luôn được an lạc. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy tu tập chánh kiến.” Cũng vậy, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định cũng nói như vậy.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 739. BỈ NGẠN [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Văn đi đến chỗ Phật, cùng diện kiến thăm hỏi, ủy lạo. Sau khi thăm hỏi ủy lạo xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, nói là chẳng phải bờ bên kia, cùng bờ bên kia. Vậy, thế nào là chẳng phải bờ bên kia, và thế nào là bờ bên kia?”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Tà kiến là chẳng phải bờ bên kia. [201b] Chánh kiến là bờ bên kia. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định là chẳng phải bờ bên kia. Chánh kiến là bờ bên kia; cũng vậy chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là bờ bên kia.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Người đời thật ít ai

Vượt qua bờ bên kia.

Hết thảy các thế gian,

Quanh quẩn dạo bờ này.

Nơi Chánh pháp luật này,

Nếu ai khéo tùy thuận;

Thì có thể vượt bờ,

Bờ sanh tử khó vượt. [38]

Sau khi Bà-la-môn Sanh Văn nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 740-742 [39]

Ba kinh này cũng vậy: Có Tỳ-kheo nghe Tôn giả A-nan hỏi Phật, hỏi các Tỳ-kheo cũng nói như trên.

KINH 743. CHÁNH BẤT CHÁNH TƯ DUY [40]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến pháp ác bất thiện chưa sanh, khởi sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và tăng trưởng, như nói về không chánh tư duy. [41] Các Tỳ-kheo, không chánh tư duy, tà kiến chưa khởi khiến khởi, đã khởi rồi tái sanh khiến tăng trưởng. Cũng vậy, tà chí, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, cà niệm, tà định cũng nói như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào khiến pháp ác bất thiện chưa sanh, không sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi khiến cho diệt, như nói về chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, chánh tư duy, tà kiến chưa sanh, khiến không sanh; đã sanh rồi, khiến cho diệt. Như tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định cũng nói như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 744. CHÁNH BẤT CHÁNH TƯ DUY (2) [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong nội pháp Ta không thấy một pháp nào khiến pháp thiện chưa sanh, không sanh; pháp thiện đã sanh rồi, khiến cho thối thất như đã nói về không chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, không chánh tư duy, chánh kiến chưa sanh, khiến cho không sanh; chánh kiến đã sanh rồi, khiến cho thối thất. Cũng vậy, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, [201c] khiến cho không sanh; đã sanh rồi, khiến cho thối thất.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào khiến pháp thiện chưa sanh, khiến cho sanh; pháp thiện đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như đã nói về chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, chánh tư duy, chánh kiến chưa sanh, khiến cho sanh; chanh kiến đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng. Cũng vậy, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh khiến cho sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 745. CHÁNH BẤT CHÁNH TƯ DUY (3) [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào khiến pháp ác bất thiện chưa sanh, nó làm cho sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, nó khiến tái sanh và làm tăng trưởng; pháp thiện chưa sanh, nó làm cho không sanh; đã sanh rồi khiến thối thất, đó là không chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, không chánh tư duy, tà kiến chưa sanh, khiến cho sanh, đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng; chánh kiến chưa sanh, không cho sanh; đã sanh rồi, khiến thối thất. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định chưa sanh, khiến cho sanh; đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng; chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, không cho sanh; đã sanh rồi, khiến thối thất.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào là pháp ác bất thiện chưa sanh, nó khiến cho sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, nó khiến cho diệt; pháp thiện chưa sanh, nó khiến cho sanh; pháp thiện đã sanh rồi, nó khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như nói về chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, chánh tư duy, sẽ khiến cho tà kiến chưa sanh, không sanh; tà kiến đã sanh rồi, khiến cho diệt; chánh kiến chưa sanh, khiến cho sanh; chánh kiến đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định chưasanh, khiến không sanh; đã sanh rồi, khiến cho diệt; chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, khiến sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 746. THIẾN ÁC TRI THỨC [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong ngoại pháp, Ta [202a] không thấy một pháp nào khiến cho pháp ác bất thiện chưa sanh nó lại làm cho sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, nó khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như nói về ác tri thức, ác bạn đảng, ác tùy tùng. Các Tỳ-kheo, ác tri thức, ác bạn đảng, ác tùy tùng khiến cho tà kiến chưa sanh, khiến cho sanh; tà kiến đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định chưa sanh khiến cho sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong ngoại pháp, Ta không thấy một pháp nào khiến cho pháp ác bất thiện chưa sanh, nó làm cho không sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, nó khiến cho diệt, như nói về thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tuỳ tùng. Các Tỳ-kheo, thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng khiến cho tà kiến chưa sanh, nó làm cho không sanh; tà kiến đã sanh rồi, nó khiến diệt. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định chưa sanh, không cho sanh; đã sanh rồi, khiến diệt.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 747. THIỆN TRI THỨC [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong ngoại pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến cho pháp thiện chưa sanh, khiến sanh; pháp thiện đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như đã nói về thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng. Các Tỳ-kheo, thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng khiến cho chánh kiến chưa sanh, nó làm cho sanh; chánh kiến đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng. Cũng vậy, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, khiến sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 748. THIẾN ÁC TRI THỨC (2) [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong ngoại pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến cho pháp ác bất thiện chưa sanh, nó khiến sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, nó khiến tái sanh và làm tăng trưởng; pháp thiện chưa sanh, nó làm cho không sanh; pháp thiện đã sanh rồi, nó khiến cho diệt, như đã nói về ác tri thức, ác bạn đảng, ác tùy tùng. Các Tỳ-kheo, ác tri thức, ác bạn đảng, ác tùy tùng khiến cho tà kiến chưa sanh, khiến sanh; tà kiến đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng; hay chánh kiến chưa sanh, không cho [202b] sanh; chánh kiến đã sanh, khiến thối thất. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định chưa sanh, khiến sanh; đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng; chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, khiến không sanh; đã sanh rồi, khiến thối thất.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong ngoại pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến cho pháp ác bất thiện chưa sanh, khiến sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, khiến diệt; hay pháp thiện chưa sanh, khiến sanh; pháp thiện đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như đã nói về thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng. Các Tỳ-kheo, thiện tri thức, thiện bạn đảng, thiện tùy tùng khiến cho tà kiến chưa sanh, không sanh; Tà kiến đã sanh rồi khiến diệt; hay chánh kiến chưa sanh, khiến sanh; chánh kiến đã sanh, khiến tái sanh và làm tăng trưởng. Cũng vậy, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định chưa sanh, khiến không sanh; đã sanh rồi khiến cho diệt; hay chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định chưa sanh, khiến sanh; đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 749. CHÁNH BẤT CHÁNH TƯ DUY (4) [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến pháp ác bất thiện chưa sanh, nó khiến cho sanh; đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng; pháp thiện chưa sanh, không cho sanh, đã sanh rồi khiến thối thất, như đã nói về không chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, không chánh tư duy khiến tà kiến chưa sanh, sanh; tà kiến đã sanh rồi khiến tái sanh và làm tăng trưởng; chánh kiến chưa sanh, không cho sanh; chánh kiến đã sanh rồi, khiến thối thất.

“Này các Tỳ-kheo, ở trong nội pháp, Ta không thấy một pháp nào có thể khiến cho pháp ác bất thiện chưa sanh, khiến không sanh; pháp ác bất thiện đã sanh rồi, khiến cho diệt; hay pháp thiện chưa sanh, khiến cho sanh; pháp thiện đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng, như nói về chánh tư duy. Các Tỳ-kheo, chánh tư duy khiến cho tà kiến chưa sanh, không sanh; đã sanh rồi, khiến cho diệt; chánh kiến chưa sanh, khiến cho sanh; đã sanh rồi, khiến tái sanh và làm tăng trưởng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như đã nói về tà kiến và chánh kiến. Cũng vậy bảy kinh nói về tà tư duy, chánh tư duy; tà ngữ, chánh ngữ; tà nghiệp, chánh nghiệp; tà mạng, chánh mạng; tà phương tiện, chánh tinh tấn; tà niệm, chánh [202c] niệm; tà định, chánh định cũng nói như trên. Như tám kinh nói về nội pháp, cũng vậy, tám kinh nói về ngoại pháp cũng nói như vậy.

KINH 750. PHI PHÁP THỊ PHÁP [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có pháp sai và pháp đúng [49]. Hảy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Những gì là pháp sai, là pháp đúng? Tà kiến là pháp sai; chánh kiến là pháp đúng… cho đến tà định là pháp sai; chánh định là pháp đúng.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như Phi pháp và Thị pháp. Cũng vậy, Phi luật và Chánh luật, Phi Thánh và Thị Thánh, Bất thiện pháp và Thiện pháp, Phi tập pháp và Tập pháp, Phi thiện tai pháp và Thiện tai pháp, Hắc pháp và Bạch pháp, Phi nghĩa và Chánh nghĩa, Ty pháp và Thắng pháp, Hữu tội pháp và Vô tội pháp, Ưng khử pháp và Bất khử pháp, kinh nào cũng đều nói như trên.

KINH 751. ĐOẠN THAM [50]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cù-sư-la tại Câu-diệm-di. Bấy giờ Tôn giả A-nan cũng ở tại đó. Lúc ấy có Bà-la-môn đi đến chỗ Tôn giả cùng thăm hỏi và khích lệ nhau. Sau khi thăm hỏi và khích lệ nhau xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Tôn giả A-nan:

“Tôi có điều muốn hỏi, Tôn giả có rảnh rỗi để ký thuyết cho không?”

A-nan đáp rằng:

“Theo những gì ông hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Bà-la-môn hỏi:

“Vì sao xuất gia tu phạm hạnh ở chỗ Sa-môn Cù-đàm?”

A-nan đáp:

“Này Bà-la-môn, vì muốn cắt đứt.”

Lại hỏi:

“Cắt đứt những gì?”

Đáp rằng:

“Cắt đứt tham dục, cắt đứt sân nhuế, ngu si.”

Lại hỏi:

“Tôn giả A-nan, có đạo lộ nào, co hành trì nào có thể dẫn đến cắt đứt tham dục, sân nhuế, ngu si không?”

A-nan đáp rằng:

“Có, đó là tám chi Thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”

Bà-la-môn nói:

“Tôn giả A-nan, tốt đẹp thay đạo lộ này, tốt đẹp thay hành trì, khi tu tập, tu tập nhiều có thể cắt đứt những thứ tham dục, nhuế, si ấy.”

Tôn giả A-nan nói pháp này, Bà-la-môn sau khi nghe những gì Tôn giả nói, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Như cắt đứt tham, nhuế, si; cũng vậy, điều phục tham, nhuế, si và đắc Niết-bàn, cùng yểm ly và chẳng đến Niết-bàn, cùng nghĩa Sa-môn và nghĩa Bà-la-môn, cùng giải thoát và cắt đứt khổ, cùng cứu cánh khổ biên và chánh thức hết khổ, kinh nào cũng đều nói như trên.

KINH 752. TÀ CHÁNH [51]

 [203a] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có tà, có chánh. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Những gì là tà? Là tà kiến… cho đến tà định. Những gì là chánh? Là chánh kiến… cho đến chánh định.

“Thế nào là chánh kiến? Là nói: Có bố thí, có chú thuyết, có trai tự, [52] có thiện hành, có ác hành, có quả báo thiện ác hành, có đời này, có đời khác, có cha mẹ, có chúng sanh hóa sanh, [53] có A-la-hán thiện đáo, [54] thiện hướng, [55] tự tri tự tác chứng đời này và đời khác, thành tựu và an trú, tự biết ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không tái sanh đời sau.’ [56] 

“Thế nào là chánh tư duy? Tư duy xuất yếu, tư duy vô nhuế, tư duy bất hại. [57]

“Thế nào là chánh ngữ? Xa lìa nói dối, xa lì hai lưỡi, xa lìa ác khẩu, xa lìa lời phù phiếm.

“Thế nào là chánh nghiệp? Lìa sát, đạo, dâm.

“Thế nào là chánh mạng? Cầu y phục, ẩm thực, ngọa cụ thuốc thang đúng như pháp, chứ không phải không như pháp.

“Thế nào là chánh tinh tấn? Dục, tinh tấn, phương tiện, xuất ly, tinh cần, kham năng, luôn thực hành không lùi bước.

“Thế nào là Chánh niệm? Nhớ nghĩ không dối không hư, luôn tùy thuận.

“Thế nào là Chánh định? Trụ tâm không loạn, kiên cố nhiếp trì, tĩnh chỉ, nhất tâm chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 753. QUẢNG THUYẾT BÁT THÁNH ĐẠO [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Thế nào là chánh kiến? Chánh kiến có hai: có chánh kiến thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, [59] chuyển hướng cõi thiện. [60] Có chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ. [61]

“Thế nào là chánh kiến hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện? Thấy rằng: Có bố thí, có chú thuyết… cho đến biết thế gian có A-la-hán, không tái sanh đời sau. [62] Đó gọi là chánh kiến thế tục thuộc về thế gian, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Thế nào là chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo, tương ưng với tư duy vô lậu, ở nơi pháp mà tuyển trch, phân biệt, suy cầu, giác tri, hiệt huệ, [203b] quán sát tỏ ngộ. Đó gọi là chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh tư duy? Chánh tư duy có hai loại: có chánh tư duy thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh tư duy thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh tư duy thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.? Chánh tư duy với tư duy xuất yếu, tư duy vô nhuế, tư duy bất hại; đó gọi là chánh tư duy thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Thế nào là chánh tư duy thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo, tâm pháp tương ưng với tư duy vô lậu, phân biệt, tự quyết, ý giải, suy tính, lập y. Đó gọi là chánh tư duy thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh ngữ? Chánh ngữ có hai loại: Có chánh ngữ thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh ngữ thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh ngữ thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành? Lời nói đúng, xa lìa lời nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, lời nói phù phiếm. Đó gọi là chánh ngữ thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành.

“Thế nào là chánh ngữ thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo, trừ tà mạng, niệm tưởng xa lìa bốn ác hành của miệng và các ác hành khác của miệng, xa lìa các ác hành ấy; vô lậu, viễn ly, không dính trước, giữ chặt, nhiếp trì không phạm; không vượt qua thời tiết, không vượt qua giới hạn. Đó gọi là chánh ngữ thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh nghiệp? Chánh nghiệp có hai loại: Có chánh nghiệp thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh nghiệp thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh nghiệp thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện? Xa lìa sát, đạo, dâm. Đó gọi là chánh nghiệp thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Thế nào là chánh nghiệp thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo, trừ tà mạng, nhớ đến ba ác hành nơi thân, và các thứ ác hành khác nơi thân; vô [203c] lậu, viễn ly, không dính trước, giữ chặt, nhiếp trì không phạm; không vượt qua thời tiết, không vượt qua giới hạn Đó gọi là chánh nghiệp thuộc về xuất thế gian, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh mạng? Chánh mạng có hai loại: Có chánh mạng thuộc thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.Có chánh mạng thuộc xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, bất thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh mạng thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện? Tìm cầu y, thực, ngọa cụ, thuốc thang theo bệnh đúng như pháp, chứ chẳng phải không như pháp. Đó gọi là chánh mạng thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Thế nào là chánh mạng thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo; đối với các tà mạng, vô lậu không thích đắm trước cố thủ, giữ gìn không phạm, không vượt qua thời tiết, không vượt qua giới hạn. Đó gọi là Chánh mạng thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn có hai loại: Có chánh tinh tấn thuộc thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh tinh tấn thuộc xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh tinh tấn thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện? Dục, tinh tấn, phương tiện siêu xuất, xác lập vững chắc, có khả năng tạo tác tinh tấn; nhiếp thọ tâm pháp, luôn luôn không dừng nghỉ. Đó gọi là chánh tinh tấn thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Thế nào là chánh tinh tấn thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo; tâm pháp tương ưng với ức niệm vô lậu, dục, tinh tấn, phương tiện siêu xuất, xác lập vững chắc, có khả năng tạo tác tinh tấn; nhiếp thọ tâm pháp, luôn luôn không dừng nghỉ. Đó gọi là chánh tinh tấn thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là Chánh niệm? Chánh niệm có hai loại: Có chánh niệm thuộc thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh niệm thuộc xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh niệm thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành? Hoặc niệm, hoặc tùy niệm, hoặc trùng niệm, hoặc ức niệm, không quên lãng, không hư. Đó gọi là chánh niệm thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến [204a] đường lành.

“Thế nào là chánh niệm thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo; tâm pháp tương ưng với tư duy vô lậu, hoặc niệm, hoặc tùy niệm, hoặc trùng niệm, hoặc ức niệm, không quên lãng, không hư. Đó gọi là chánh niệm thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh định? Chánh định có hai: Có chánh định thuộc thế tục, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Có chánh định thuộc xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh định thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành? Tâm trụ không loạn, không động, nhiếp thọ, tĩnh chỉ, chánh định, nhất tâm. Đó gọi là chánh định thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành.

“Thế nào là chánh định thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo; tâm pháp tương ưng với tư duy vô lậu, an trụ không loạn không tan, nhiếp thọ, tĩnh chỉ, chánh đinhj, nhất tâm. Đó gọi là chánh định thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 754. HƯỚNG TÀ [63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo tâm hướng theo tà, trái nghịch với pháp, không vui thích nơi pháp. [64] Nếu hướng theo chánh, không trái với pháp, tâm vui thích pháp. Những gì là tà? Ttà kiến… cho đến tà định. Những gì là chánh? Chánh kiến… cho đến chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 755. TÀ KIẾN CHÁNH KIẾN [65]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hướng theo tà là trái nghịch pháp, không ưa thích pháp. Hướng theo chánh là ưa thích pháp, không trái nghịch pháp. [66]

“Thế nào là hướng theo tà là trái nghịch pháp, không ưa thích pháp? Người tà kiến, thân nghiệp như được thấy, khẩu nghiệp như được thấy; hoặc tư niệm, hoặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả không khải ái, không khả niệm, không khả ý. Vì sao? Vì kiến ấy là ác, tức là tà kiến. Tà kiến khởi lên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định. [204b] Đó gọi là hướng theo tà là trái lại với pháp, không ưa thích pháp.

“Thế nào là hướng theo chánh là ưa thích pháp, không trái nghịch pháp? Người chánh kiến, thân nghiệp như được thấy, hoặc khẩu nghiệp, hoặc tư niệm, hoặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả khải ái, khả niệm, khả ý. Vì sao? Vì kiến chân chánh, tức là chánh kiến. Chánh kiến khởi lên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chanh niệm, chánh định. Đó gọi là hướng theo chánh là ưa thích pháp, không trái nghịch pháp.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 756. TÀ KIẾN CHÁNH KIẾN [67]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hướng theo tà là trái nghịch pháp, không ưa thích pháp. Hướng theo chánh là ưa thích pháp, không trái nghịch pháp. [68]

“Thế nào là hướng theo tà là trái nghịch pháp, không ưa thích pháp? Người tà kiến, thân nghiệp như được thấy, khẩu nghiệp như được thấy; hoặc tư niệm, hooặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả không khải ái, không khả niệm, không khả ý. Vì sao? Vì kiến ấy là ác, tức là tà kiến. Tà kiến khởi lên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định. Thí như hạt giống quả đắng đem đặt vào trong đất, tùy thời vun xới, tưới tiêu cho nó, vị đất, vị nước, vị nắng, vị gió, tất cả đều mang vị đắng. Vì sao? Vì hạt giống đắng. Cũng vậy, người tà kiến, thân nghiệp như được thấy, khẩu nghiệp như được thấy; hoặc tư niệm, hooặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả không khải ái, không khả niệm, không khả ý. Vì sao? Vì kiến ấy là ác, tức là tà kiến. Tà kiến khởi lên tà tư duy, cho đến, tà định. Đó gọi là hướng theo tà là trái nghịch pháp, không ưa thích pháp.

“Thế nào là hướng theo chánh là thích pháp, không trái nghịch pháp? Người chánh kiến, thân nghiệp như được thấy, hoặc khẩu nghiệp, hoặc tư niệm, hoặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả khải ái, khả niệm, khả ý. Vì sao? Vì kiến ấy thiện, tức là chánh kiến. Chánh kiến khởi lên chánh tư duy, cho đến, chánh định. Thí như giống mía ngọt, lúa mì, nho, đem đặt vào trong đất, tùy thời vun xới, tưới tiêu cho nó; khi nó gặp vị đất, vị nước, vị nắng, vị gió, tất cả những vị này cũng đều trở thành ngon ngọt. Vì sao? Vì hạt mầm ngọt. [204c] Cũng vậy, người chánh kiến, thân nghiệp như được thấy, hoặc khẩu nghiệp, hoặc tư niệm, hoặc ước muốn, hoặc ước nguyện, hoặc hành vi, tất cả những điều ấy đều tùy thuận đưa đến quả khải ái, khả niệm, khả ý. Vì sao? Vì kiến ấy thiện, tức là chánh kiến. Chánh kiến khởi lên chánh tư duy, cho đến, chánh định. Đó gọi là hướng theo chánh là thích pháp, không trái nghịch pháp.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như ba kinh trên, Thế gian và Xuất thế gian cũng nói như vậy, và cũng nói kệ rằng:

Không nên gần pháp xấu,

Không nên hành buông lung;

Không nên tập tà kiến,

Tăng trưởng nơi thế gian.

Giả sử trong thế gian,

Người chánh kiến tăng thượng;

Dù trải trăm nghìn tuổi,

Quyết không rơi đường dữ.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 757. SANH VĂN [69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Văn đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật. Sau khi cùng Thế Tôn thăm hỏi ân cần xong, ông ngồi xuúong một bên, bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, gọi là chánh kiến; thế nào là chánh kiến?”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Chánh kiến có hai: có chánh kiến thuộc về thế tục, hữu lậu, hữu thủ, hướng đến đường lành. Có loại chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, bất thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ.

“Thế nào là chánh kiến hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện?  Người nào thấy có bố thí, có chú thuyết… cho đến biết thế gian có A-la-hán, không tái sanh đời sau. [70] Này Bà-la-môn, đó gọi là chánh kiến thế tục thuộc về thế gian, hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện.

“Bà-la-môn, thế nào là chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ? Thánh đệ tử nơi khổ tư duy khổ; nơi tập, diệt, đạo tư duy đạo, tương ưng với tư duy vô lậu, ở nơi pháp mà tuyển trạch, phân biệt, suy cầu, giác tri, hiệt huệ, quán sát tỏ ngộ. Đó gọi là chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn Sanh Văn nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

 [205a] Như Chánh kiến. Cũng vậy, Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, kinh nào cũng nói như trên.

KINH 758. TÀ KIẾN [71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có tà và tà đạo, có chánh và chánh đạo. Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là tà? Đó là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Những gì là tà đạo? Đó là tà kiến… cho đến tà định.

“Những gì là chánh? Đó là người, trời, Niết-bàn. Những gì là chánh đạo? Đó là chánh kiến… cho đến chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 759. TÀ KIẾN (2) [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có tà, có tà đạo; có chánh, có chánh đạo. Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là tà? Đó là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Những gì là tà đạo? Đó là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, lời phù phiếm, tham, nhuế, tà kiến.

“Những gì là chánh? Đó là người, trời, Niết-bàn. Những gì là chánh đạo? Đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói lời phù phiếm, không tham, không nhuế và, chánh kiến.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 760. TÀ KIẾN (3) [73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Những gì là ác thú đạo? Đó là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.” Ngoài ra đều nói như trên.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 761. THUẬN LƯU NGHỊCH LƯU [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có đường thuận dòng, có đường nghịch dòng. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là đường thuận dòng? Đó là tà kiến… cho đến tà định. Những gì là con đường nghịch dòng? Đó là chánh kiến… cho đến chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 [205b] Như thuận dòng và nghịch dòng. Cũng vậy, đường thối và đường tiến, đường xuống và đường lên, cùng ba kinh đạo Tích, cũng nói như trên.

KINH 762. SA-MÔN SA-MÔN PHÁP [75]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có Sa-môn và pháp Bà-la-môn. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì Các ngươi mà nói:

“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám chi Thánh đạo: từ thánh kiến… cho đến thánh định. Thế nào là Sa-môn? Nếu người nào thành tựu pháp này. Đó gọi là Sa-môn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 763. SA-MÔN PHÁP SA-MÔN NGHĨA [76]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có pháp Sa-môn và nghĩa Sa-môn. Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám Thánh đạo, từ chánh kiến… cho đến chánh định. Thế nào là nghĩa Sa-môn? Là tham dục đã vĩnh viễn trừ hết; sân nhuế, ngu si đã vĩnh viễn trừ hết; tất cả mọi phiền não vĩnh viễn tận trừ. Đó gọi là nghĩa Sa-môn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 764. SA-MÔN SA-MÔN QUẢ [77]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có pháp Sa-môn và quả Sa-môn. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám Thanh đạo, từ chánh kiến… cho đến chánh định. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, và quả A-la-hán.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. [78]

KINH 765 SA-MÔN PHÁP SA-MÔN QUẢ [79]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có pháp Sa-môn [80] và quả Sa-môn. [81] Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là [205c] tám chi Thánh đạo, từ chánh kiến… cho đến chánh định. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả Tu-đa-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và, quả A-la-hán.

“Thế nào là quả Tu-đà-hoàn? Đoạn trừ ba kết. Thế nào là quả Tư-đà-hàm? Đoạn trừ ba kết; tham, nhuế, si còn mỏng. Thế nào là quả A-na-hàm? Đoạn sạch hết năm hạ phần kết. Thế nào là quả A-la-hán? Đoạn trừ vĩnh viễn tham, nhuế, si; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả các thứ phiền não.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 766. SA-MÔN PHÁP SA-MÔN NGHĨA [82]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có pháp Sa-môn, Sa-môn, và nghĩa Sa-môn. [83] Hãy lắng nghe, và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói:

“Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám Thánh đạo, từ chánh kiến… cho đến chánh định. Những gì là Sa-môn? Người thành tựu pháp Sa-môn này. Những gì là nghĩa Sa-môn? Đã đoạn trừ vĩnh viễn tham dục, sân nhuế, si mê; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả các  phiền não.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 767. SA-MÔN QUẢ [84]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Có quả Sa-môn. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 768. BÀ-LA-MÔN [85]

Cũng vậy, pháp Bà-la-môn, Bà-la-môn, nghĩa Bà-la-môn, quả Bà-la-môn; pháp phạm hạnh, người phạn hạnh, nghĩa phạm hạnh, quả phạm hạnh, đều nói như trên.


 [1] Đại chánh, quyển 28. 5. Tương ưng Thánh đạo, gồm các kinh Đại chánh 748-800 (trọn quyển 28 và phần đầu quyển 29) Ấn Thuận Hội biên,  Tụng iv. Đạo phẩm. 13. Tương ưng Thánh đạo phần. Quốc dịch, quyển 25 , Tụng 5 Đạo tụng tiếp theo, 5. Tương ưng Thánh đạo, kinh số 12449-12558, chia thành 2 phẩm, Phẩm 1 gồm 100 kinh, toàn bộ quyển 25; Phẩm 2, 10 kinh, phần đầu quyển 26 Phần lớn tương đương Pāli, S.45 Maggasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, quyển 28, kinh số 748. Pāli, 45.55 (v. 31).  Yoniso.

 [3] Đại chánh, kinh 449. S 45.1 Āvijjā.

 [4] Đại chánh, kinh 750.

 [5] Đại chánh kinh 751. S 45.24 Paṭipāda.

 [6] Tà sự 邪事 Pāli: micchāpaṭipāda, sự thực hành tà vạy.

 [7] Đại chánh, kinh 752. S 45.30 Uttiya (Uttika).

 [8] Ca-ma 迦摩 Bản Pāli: Uttiyo.

 [9] Đại chánh, kinh 753. S 45.7 Aññatara bhikkhu.

 [10] A-lê-sắt-tra 阿梨瑟吒 Pāli: Ariṭṭha.

 [11] Cam lộ 甘露 Pāli: amata, sự bất tử.

 [12] Hán: giới danh thuyết 界名說. Giới ở đây chỉ Niết-bàn giới Pāli: nibbānadhātuyā adhivacanaṃ.. amataṃ.

 [13] Đại chánh, kinh 754.

 [14] Hán: đẳng tam-muội 等三昧, tức chánh tam-muội hay chánh định Pāli: sammāsamādhi.

 [15] Hán: cơ nghiệp 基業.

 [16] Đại chánh, kinh 755.

 [17] Đại chánh, 758. A 3. 62 Bhaya.

 [18] Hán: vô mẫu tử úy 無母子畏 Pāli (A.. i. 178): amātāputtika bhaya.

 [19] Đại chánh, kinh 759. S 45.29 Vedanā.

 [20] Đại chánh, kinh 760. A 10 76 Abhabba.

 [21] Đại chánh, kinh761. S 45.13 Sekho.

 [22] Học 學, hay hữu học, chỉ các Thánh giả dưới quả A-la-hán Pāli: sekha.

 [23] Đại chánh, kinh 762.

 [24] Đại chánh, kinh 763.

 [25] Đại chánh, kinh 764. S 45.51 Uppāda.

 [26] Đại chánh, kinh 765.

 [27]  Đại chánh, kinh 766. S.45.16-17 Parisuddha.

 [28] Trừ phi có Phật xuất hiện.

 [29] Xem kinh Đại chánh 731.

 [30] Đại chánh, kinh 767. A 5.52 Rāsi.

 [31] Đại chánh, kinh 768. S 45.2 Upaḍḍham.

 [32] Sơn cốc tinh xá 山谷精舍; Pāli: Giribbaja. S 54. 2: ở giữa nhưng người Thích-ca, tại Nagaraka, một thị trấn của nhưng người Thích-ca.

 [33] Xem kinh Đại chánh 726.

 [34] Đại chánh, kinh 769. S 45.4 Brāhmaṇa.

 [35] Sanh Văn Bà-la-môn 生聞婆羅門 Pāli: Jānussoṇi-brāhmaṇa.

 [36] Đại chánh, kinh 770. S 45.21 Micchatta.

 [37] Đại chánh, kinh 771. S 45.34 Pāraṅgama.

 [38] Bài kệ, xem Dhp.85-86.

 [39] Đại chánh, kinh 772-774.

 [40] Đại chánh, kinh 775. S 45 76, 83 Yoniso

 [41] Bất chánh tư duy 不正思惟 Pāli: ayoniso manasikāra, không như lý tác ý.

 [42] Đại chánh, kinh 776.

 [43] Đại chánh, kinh 777. Xem các kinh Đại chánh 775, 776, 777.

 [44] Đại chánh, kinh 778. S 45 77 Kalyāṇamitta.

 [45] Đại chánh, kinh 779.

 [46] Đại chánh, kinh 780. Xem kinh Đại chánh 778.

 [47] Đại chánh, kinh 781.

 [48] Đại chánh, 782.

 [49] Hán: phi pháp, thị pháp 非法, 是法.

 [50] Đại chánh, kinh 783. S 45.5 Kimattha.

 [51] Đại chánh, kinh 784. S 45.21 Micchatta Cf S.45.8 Vibhaṅga.

 [52] Hán: thí, thuyết, trai 施, 說, 齋 Pāli: dinnaṃ, yiṭṭhaṃ, hutaṃ.

 [53] Hán: chúng sanh sanh 眾生生 Pāli: sattā opapātikā.

 [54] Hán: thiện đáo 善到 Pāli: sammaggatā, chân chánh đi (ra khỏi thế gian)

 [55] Hán: thiện hướng 善向 Pāli: sammāpaṭipannā, chân chánh hướng (đến niết-bàn)

 [56] Bản Pāli: katamā.. sammādiṭṭhi? yaṃ...dukkhe ñānaṃ, thế nào là chánh kiến? Nhận thức về khổ...

 [57] Pāli: nekkammasaṅkappo avyāpādadsaṅkappo avihiṃsāsaṅkappo, Tư duy về xuất ly, tư duy về không vô sân, tư duy bất hại.

 [58] Đại chánh, kinh 785. Cf M 117 Mahācattārīsakasutta.

 [59] Hàn: thủ 取, ở đây, Pāli: upadhi, hữu y, tức sở y của tái sanh.

 [60] Cf Pāli, M.111: atthi bhikkhave sammādiṭṭhi sāsavā puññabhāgiyā updhivepakkhā, có chánh kiến là hữu lậu, thuộc phần phước nghiệp, đưa đến hữu y.

 [61] Pāli: atthi bhikkhave sammādiṭṭhi ariyā anāsavā lokuttarā maggaṅgā, có chánh kiến thucộ bậc Thánh, vô lậu, xuất thế gian, thành phần của Đạo.

 [62] Xem kinh Đại chánh 784.

 [63] Đại chánh, kinh 786. A 10.103 Micchatta.

 [64] Pāli: micchattaṃ āgamma virādhanā hoti no ārādhanā, do đi theo tà nên nghịch ý, không phải thích ý.

 [65] Đại chánh, kinh 787. A 10.104 Bīja.

 [66] Xem kinh Đại chánh 786.

 [67] Đại chánh, kinh 788. Xem kinh Đại chánh 787.

 [68] Xem kinh Đại chánh 786.

 [69] Đại chánh, kinh 789.

 [70] Xem kinh Đại chánh 784.

 [71]

 [72] Đại chánh, kinh 791.

 [73] Đại chánh, kinh 792.

 [74] Đại chánh, kinh 793.

 [75] Đại chánh, kinh 794. S 45.36 Sāmañña.

 [76] Đại chánh, kinh 795. S 45.36 Sāmañña.

 [77] Đại chánh, kinh 796. S 45.35 Sāmañña.

 [78] Bản Hán, hết quyển 28.

 [79] Đại chánh, quyển 29, kinh số 797. Pāli, S 45.35 Sāmañña.

 [80] Sa-môn pháp 沙門法 Pāli: sāmañña.

 [81] Sa-môn quả 沙門果 Sāmaññaphala.

 [82] Đại chánh, kinh 798. Pāli, S 45.36 Sāmañña.

 [83] Sa-môn nghĩa 沙門義 Pāli: sāmaññattha, mục đích của Sa-môn.

 [84] Đại chánh, kinh 799.

 [85] Đại chánh, kinh 800. Pāli, 45 37 Brahmañaña; 30-40 Brahmacariya.