37. Tương Ưng Bà-kỳ-xá, Kinh 1109-1124

37. TƯƠNG ƯNG BÀ-KỲ-XÁ [1]

KINH 1109. TRÌ YẾT-GIÀ [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già, [3] nước Chiêm-bà.

Bấy giờ, là ngày thứ mười lăm của tháng, vào lúc bố-tát, Thế Tôn ngồi trước đại chúng. Khi trăng vừa mới mọc, lúc ấy ở trong chúng có Tôn giả Bà-kì-xá, [4] nghĩ như vầy: “Bây giờ, ta muốn ở trước Thế Tôn, đọc kệ khen về thí dụ mặt trăng.” Nghĩ vậy xong, Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, làm lễ Phật rồi chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thê, con có điều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Muốn nói thì cứ nói.”

Tôn giả Bà-kì-xá liền ở trước Phật nói kệ:

Như trăng treo hư không ,

Trong sáng không mây che;

Ánh sáng trong vằng vặc,

Chiếu khắp cả mười phương.

Như Lai cũng như vậy,

Trí tuệ soi thế gian;

Công đức nổi tiếng thơm,

Lan tỏa khắp nơi nơi.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ xong, các Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả nói đều rất hoan hỷ.

KINH 1110. KIÊU-TRẦN-NHƯ [5]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già, tại nước Chiêm-bà. Bấy giờ, Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như, sống lâu nơi a-luyện-nhã thanh vắng, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, áp mặt lên chân Phật mà nói rằng:

“Lâu quá con không gặp Thế Tôn, Lâu quá con không gặp Thiện thệ!”

Khi ấy, Tôn giả Bà-kì-xá đang ở trong chúng hội, nghĩ như vầy: “Bây giờ, ta sẽ đến trước mặt Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như khen ngợi bằng thí dụ Thượng tọa.” Nghĩ vậy xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, làm lễ Phật, rồi chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có điều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Muốn nói gì thì cứ nói.”

Lúc ấy, Tôn giả Bà-kì-xá liền nói kệ:

Thượng tọa của Thượng tọa, [6]

Tôn giả Kiều-trần-như;

Đã độ, đã vượt qua,

Được an lạc, chánh thọ.

Sống nơi A-luyện-nhã,

Hằng vui nơi viễn ly;

Đệ tử hằng xứng hợp

Chánh pháp Đại sư dạy.

Tất cả đều tỏ bày,

Chánh thọ, không phóng dật;

Sức đức lớn  ba minh,

Trí tha tâm sáng tỏ.

Thượng tọa Kiều-trần-như,

Hộ tài sản Phật pháp;

Bằng cung kính tăng thượng,

Cúi đầu lễ chân Phật.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ xong, các Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả nói đều rất hoan hỷ.

KINH 1111. XÁ-LỢI-PHẤT [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già, tại nước Chiêm-bà. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng với các Tỳ-kheo hội họp tại nhà cúng dường. [329c] Tôn giả  thuyết pháp cho họ, cú-vị đầy đủ, biện tài đơn giản, dễ hiểu, ưa nghe; thông suốt không gián đoạn, hiển bày nghĩa sâu. Các Tỳ-kheo này chuyên thích đến nghe; một lòng lắng nghe, tôn kính ghi nhớ. Lúc ấy, Tôn giả Bà-kì-xá đang ngồi giữa pháp hội, tự nghĩ: ‘Ta sẽ ở trước mặt Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ tán thán.’ Nghĩ vậy xong, liền đứng dậy chấp tay bạch:

“Tôn giả Xá-lợi-phất, tôi có điều muốn xin nói.”

Xá-lợi-phất bảo:

“Tuỳ sở thích mà nói.’

Tôn giả Bà-kì-xá liền nói kệ:

Khéo nói pháp tóm lược,

Khiến ai cũng hiểu rộng;

Ngài Ưu-bà-đề-xá, [8]

Giữa đại chúng tuyên dương.

Đang lúc ngài nói pháp,

Giọng tuyệt vời từ cổ, [9]

Âm thanh thật đáng yêu,

Tiếng thư thả điều hoà.

Ai nghe cũng ưa thích,

Chuyên nhớ không dời đổi.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá những lời này, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói, đều rất hoan hỷ.

KINH 1112. NA-GIÀ SƠN [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại thành Vương Xá, gần núi Na-già [11] cùng với năm trăm Tỳ kheo câu hội, đều là bậc A-la-hán các lậu đã diệt tận, việc cần làm đã làm xong, đã lìa bỏ các gánh nặng, đã đạt được lợi mình, đoạn trừ các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên quan sát tâm của đại chúng, thấy tất cả đều đã giải thoát tham dục. Khi ấy Tôn giả Bà-kì-xá ở giữa đại chúng, nghĩ như vầy: ‘Bây giờ, ta nên ở trước Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng nói kệ tán thán.’ Nghĩ vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có diều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Tuỳ sở thích mà nói.”

Lúc ấy, Tôn giả Bà-kì-xá liến nói kệ:

Vô thượng sĩ, Đạo Sư ,

Trụ sườn núi Na-già;

Cùng năm trăm Tỳ-kheo,

Thân kính phụng Đạo Sư.

Tôn giả Đại Mục-liên,

Thần thông thấu rõ hết;

Quán sát tâm đại chúng,

Thảy đều lìa tham dục.

Độ đầy đủ như vậy,

Mâu-ni qua bờ kia,

 [330a]Mang thân này sau chót.

Nay con cúi đầu lễ.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá những lời này, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói, đều rất hoan hỷ.

KINH 1113. HOÀI THỌ [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. [13] Bấy giờ, Phật kiết hạ an cư cùng với năm trăm Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán các lậu đã diệt tận, việc cần làm đã làm xong, đã lìa các bỏ gánh nặng, dứt trừ hữu kiết, chánh trí, tâm khéo giải thoát; chỉ trừ một Tỳ-kheo, là Tôn giả A-nan, được Thế Tôn ký thuyết, ngay trong đời hiện tại Tôn giả sẽ đắc vô tri chứng. [14]

Bấy giờ, ngày mười lăm, [15] vào giờ tự tứ, [16] Thế Tôn trải toà ngồi trước đại chúng, rồ bảo các Tỳ-kheo:

“Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, mang thân sau cùng, làm Đại Y sư, nhổ những gai nhọn. Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, mang thân sau cùng, là Vô thượng Y sư, nhổ những gai nhọn. Các Thầy là con, từ miệng Ta sinh ra, từ pháp hoá sinh, được gia tài pháp. Hãy để Ta tự tứ. [17] Chớ để cho thân khẩu ý Ta có điều đáng hiềm trách.”

Lúc ấy Tôn già Xá-lợi-phất ở giữa đại chúng đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn vừa nói rằng: ‘Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, mang thân cuối cùng, là Đại Y sư, nhổ những mũi nhọn. Các Thầy là con, sinh ra từ miệng Ta, được hoá sinh từ pháp, được gia tài pháp. Hãy để Ta tự tứ. Chớ để cho thân, khẩu, tâm ý [18] Ta có điều đáng hiềm trách.’

“Bạch Thế Tôn,  chúng con không thấy thân, khẩu,  và tâm ý của Thế Tôn có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Thế Tôn, với người không thể điều phục có thể khiến điều phục, người không tịch tĩnh có thể khiến tịch tĩnh, người không an nghỉ [19] có thể khiến an nghỉ, người không bát-niết-bàn có thể khiến Bát-niết-bàn. Như Lai biết đạo, Như Lai nói đạo, Như Lai hướng đạo. Các đệ tử  sau đó thành tựu, tùy thuận đạo tôn sùng đạo, vâng theo lời dạy của Đạo Sư. sống đúng như những lời chỉ dạy, chánh hướng hân lạc, chân như thiện pháp. Đối với Thế Tôn con không thấy thân hành, khẩu hành, ý hành có điều gì đáng hiềm trách. Nay đối trước Thế Tôn, xin chỉ cho con các tội được thấy, được nghe, được nghi, hoặc thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách?”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Ta không thấy Thầy có các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách. [330b] Vì sao? Xá-lợi-phất, thầy trì giới, đa văn, thiểu dục, tri túc, tu hạnh viễn ly, tinh cần phương tiện, chánh niệm, chánh thọ, trí tuệ nhanh nhạy, [20] trí tuệ sáng suốt sắc bén, trí tuệ giải thoát, trí tuệ yểm ly, trí tuệ lớn, trí tuệ rộng, trí tuệ sâu, trí tuệ không ai bằng, thành tựu trí tuệ bảo; [21] khai thị, chỉ giáo, soi sáng, hoan hỷ; và thường cũng tán thán việc khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ, mà vì chúng sanh thuyết pháp chưa từng mỏi mệt. Thí như Thái tử thứ nhất của Chuyển luân Thánh vương đáng thọ lễ quán đảnh; nhưng chưa quán đảnh mà đang ở vào nghi pháp quán đảnh, như pháp của vua cha, những gì người đã chuyển cũng sẽ theo đó mà chuyển. Nay Thầy cũng như vậy, là trưởng tử của Ta, gần được thọ quán đảnh, nhưng chưa quán đảnh mà đang ở vào nghi pháp. Những gì Ta đã chuyển, Thầy cũng theo đó chuyển, và đạt được vô sở khởi; diệt tận các hữu lậu, tâm khéo giải thoát. Cũng vậy, đối với Thầy, Ta không thấy có các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu con không có các tội được thấy, được nghe, được nghi,  và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách; vậy thì năm trăm Tỳ-kheo này có không các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách?”

Phật đáp:

“Đối với năm trăm Tỳ-kheo này, Ta cũng không thấy các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì năm trăm Tỳ-kheo này đều là A-la-hán, các lậu đã diệt tận, những việc cần làm đã làm xong, đã bỏ gánh nặng, đoạn các kết sử, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Trừ một Tỳ-kheo, đó là Tôn giả A-nan, Ta ký thuyết cho A-nan đối trong hiện pháp sẽ đắc vô trí chứng. Cho nên, năm trăm Tỳ-kheo, Ta không thấy có các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, năm trăm Tỳ-kheo này đã không có các tội được thấy, được nghe, được nghi, và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách hết. Vậy trong đây có bao nhiêu Tỳ-kheo được tam minh? Có bao nhiêu Tỳ-kheo được câu giải thoát? Có bao nhiêu Tỳ-kheo được tuệ giải thoát?”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Trong năm trăm Tỳ-kheo này, chín mươi Tỳ-kheo được tam minh; chín mươi Tỳ-kheo được câu giải thoát; những vị còn lại được tuệ giải thoát. Này Xá-lợi-phất, những Tỳ-kheo này đã lìa khỏi mọi chao động, không có ai là vỏ ngoài, mà đều là lõi thật cứng chác.”

Khi ấy Tôn giả Bà-kì-xá ở giữa hội chúng tự nghĩ: “Nay Ta sẽ ở trước Thế Tôn và hội chúng nói kệ tán thán sự tự tứ.” Nghĩ vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại [330c] y phục, lễ Phật, gối phải quỳ sát đất chấp tay Bạch:

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có điều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Cứ nói theo những gì muốn.”

Lúc ấy, Bà-kì-xá liền nói kệ:

Ngày mười lăm thanh tịnh,

Chúng kia năm trăm người;

Đoạn trừ tất cả kết,

Đại Tiên diệt tận hữu.

Thanh tịnh tập thân cận,

Thanh tịnh rộng giải thoát;

Không còn thọ các hữu,

Sanh tử đã đoạn hẳn.

Việc cần làm đã làm,

Tận trừ tất cả lậu;

Mây ngũ cái đã trừ,

Nhổ rễ gai ái dục.

Sư tử không sợ hãi,

Xả tất cả hữu dư;

Giết kẻ thù là hữu,

Siêu việt cảnh hữu dư.

Các oán địch hữu lậu,

Thảy đều đã tiềm phục.

Giống như Chuyển luân vương,

Bao dung [22] các quyến thuộc,

Tâm từ rộng tuyên hoá,

Mọi thần dân vâng theo.

Đã hàng  phục oán địch,

Làm Đạo Sư vô thượng.

Tâm kính tín phụng thờ,

Ba minh, diệt lão, tử;

Là chơn tử của pháp,

Không lo lắng dao động.

Nhổ sạch gai phiền não.

Kính lễ đâng Nhật Thân.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1114. BẤT LẠC [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá.

Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tướng [24] ở chỗ hoang dã, nơi ở của cầm thú. [25] Tôn giả Bà-kì-xá xuất gia chưa lâu mà có những oai nghi như vầy: sống nương vào thành ấp, làng xóm. Sáng sớm, choàng y, ôm bát vào thành ấp, làng xóm đó khất thực, khéo bảo vệ thân mình, giữ gìn các căn môn, nhiếp tâm cột niệm. Ăn xong, trở về trú xứ, cất y bát, rửa chân xong, vào thất tọa thiền, giây lát xả thiền. Không chấp đắm khất thực, nhưng vị kia [26] không tuỳ thời giáo thọ, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như sống trong chỗ thâm sau, chung quanh bị che kín.

Rồi, Tôn giả Bà-kì-xá suy nghĩ: “Ta không được lợi, khó được, chứ không phải dễ được! Ta không được tuỳ thời giáo thọ, giáo giới, [331a] nên tâm không an lạc, giống như sống trong chỗ thâm sâu, chung quanh bị che kín. Nay ta nên nói kệ tán thán sự nhàm chán của mình.” Nó liền nói kệ:

Dẹp bỏ vui, không vui,

Cùng tất cả giác tham; [27]

Không gầy dựng xòm giềng, [28]

Ly nhiễm là Tỳ-kheo.

Với sáu giác tâm tưởng, [29]

Rong ruỗi nơi thế gian;

Che dấu ác bất thiện,

Không thể lột bỏ vỏ.

Nơi tâm vui ô uế,

Đó không là Tỳ-kheo.

Trói buộc bởi hữu dư, [30]

Cùng thấy, nghe, hiểu, biết.

Với người giác ngộ dục, [31]

Nơi kia không còn nhiễm.

Người không nhiễm như vậy,

Đó gọi là Mâu-ni.

Đại địa và hư không,

Các sắc tượng thế gian;

Chúng là pháp biến diệt,

Vắng lặng tự quyết định.

Tu tập lâu pháp khí ,

Mà được tam-ma-đề;

Không xúc, không dối nịnh,

Tâm này rất chuyên chú.

Thánh Niết-bàn từ lâu,

Cột niệm đợi thời diệt. [32]

Khi Tôn giả nói kệ tự nhàm chán, xa lìa; tâm tự khai giác đối với những điều không vui, sau khi đã khai giác rồi thì tâm an trụ hoan hỷ.

KINH 1115. THAM DỤC [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả A-nan-đà sáng sớm choàng y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, cùng đồng hành với Tôn giả Bà-kì-xá. Khi ấy Tôn giả Bà-kì-xá thấy một cô gái rất xinh đẹp, tức thì tâm tham dục khởi lên. Tôn giả Bà-kì-xá suy nghĩ:  “Hôm nay ta gặp bất lợi, bị khổ, không được vui. Nay ta đã gặp thiếu nữ xinh đẹp này, tâm tham dục sinh khởi. Bây giờ để sinh tâm yểm ly, ta hãy làm bài kệ.”

Nghĩ vậy rồi liền nói kệ:

Bị tham dục che khuất,

Hừng hực thiêu tâm ta.

Xin Tôn giả A-nan,

Diệt lửa tham cho tôi.

Vì tâm từ thương xót,

Xin phương tiện dạy tôi.

Tôn giả A-nan nói kệ đáp:

Vì tưởng kia điên đảo,

Hừng hực thiêu tâm người.

 [331b] Dứt bỏ tưởng tịnh đẹp,

Nó nuôi lớn tham dục.

Hãy tu quán bất tịnh,

Thường nhất tâm chánh thọ;

Diệt nhanh lửa tham dục,

Chớ để thiêu tâm ta.

Quán sát rõ các hành,

Khổ, không, cùng phi ngã;

Buộc niệm chánh quán thân,

Tu tập nhiều yểm ly.

Tu tập nơi vô tướng,

Diệt kết sử kiêu mạn;

Đạt được hiện quán mạn,

Rốt ráo tận khổ biên.

Sau khi Tôn giả A-nan nói những lời này, Bà-kì-xá nghe những gì Tôn giả nói, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1116.  XUẤT LY [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có gia chủ thỉnh Phật và chúng Tăng về nhà họ thọ thực. Tất cả đều đi đến nhà đó, chỉ có Tôn giả Bà-kì-xá vì gặp ngày trực, ở lại giữ tinh xá, nên để dành phần ăn. 

Bấy giờ, có nhiều bà vợ và con gái của gia chủ ra khỏi tụ lạc, đi đến tinh xá. Bà-kì-xá thấy các thiếu nữ có dung mạo xinh đẹp, liền khởi tâm tham dục. Ngay lúc ấy, Tôn giả lại nghĩ: “Hôm nay ta bất lợi, không được lợi, bị khổ, không được vui. Thấy thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp kia, liền khởi lòng tham dục. Bây giờ, ta phải làm kệ yểm ly.” Nghĩ xong, liền nói kệ:

Ta đã được xuất ly,

Xuất gia, sống không nhà;

Tham dục đuổi theo ta,

Như bò nhớ lúa mạ.

Phải như con đại tướng,

Sức mạnh cầm cung lớn;

Bắn phá trận trùng điệp,

Một người diệt cả nghìn.

Nay từ đấng Nhật Thân,

Trực tiếp nghe giáo thuyết,

Hướng thẳng đạo Niết-bàn,

Tâm quyết trụ an lạc.

Không buông lung như vậy,

Trụ chánh thọ tịch diệt;

Đối tâm ta, không gì

Huyễn hoặc, lừa dối được.

Quyết định quán sát rõ,

An trụ nơi chánh pháp.

Dù cho vô số lượng,

Muốn đến mê hoặc ta.

Những ác ma như vậy,

Không thể gặp được ta.

 [331c] Khi Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ xong, tâm được an trụ.

KINH 1117. KIÊU MẠN [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Bà-kì-xá tự cho trí tuệ của mình có khả năng nói hay, rồi đối với những đồng phạm hạnh thông minh khác sinh tâm kiêu mạn. Sau đó liền tự tâm nghĩ: “Ta bất lợi, sẽ không được lợi, bị khổ, không được vui. Ta tự cho mình có trí tuệ, mà đối với những đồng phạm hạnh thông minh khác tỏ khinh mạn. Bây giờ ta nên nói kệ sinh lòng yểm ly.“ Tôn giả liền nói kệ:

Cù-đàm, [36] chớ kiêu mạn,

Trừ mạn sạch không còn;

Chớ khởi giác tưởng mạn,

Chớ thối lùi sinh hối.

Đối người chớ che dấu, [37]

Mạn hại, rơi địa ngục. [38]

Chánh thọ để trừ ưu,

Thấy đạo, trụ chánh đạo.

Tâm này được hỷ lạc,

Thấy đạo, tự giữ gìn,

Chớ ỷ vô ngại biện;

Thanh tịnh trừ chướng cái.

Đoạn trừ tất cả mạn,

Khởi tất cả minh xứ;

Chánh niệm nơi tam minh,

Thần túc, tha tâm trí.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ sinh lòng yểm ly rồi, tâm được thanh tịnh.

KINH 1118. BẢN DỤC CUỒNG HOẶC [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Bà-kì-xá ở giảng đường Lộc Tử Mẫu, vướn phía Đông nước Xá-vệ, một mình tư duy sống không phóng dật, chuyên tu tự nghiệp, chóng được tam minh, tự thân tác chứng. Lúc này, Tôn giả Bà-kì-xá tự nghĩ: ‘Ta một mình ở chỗ vắng tư duy, sống không phóng dật, chuyên tu tự nghiệp, để được tam minh, tự thân tác chứng. Bây giờ, ta nên nói kệ tán thán tam minh, liền nói kệ:

Xưa, tâm dục cuồng hoặc, [40]

Đi khắp nhà, khắp  xóm;

Du hành, gặp thấy Phật,

Dạy ta pháp thù thắng.

Đấng Cù-đàm thương xót,

Vì ta nói Chánh pháp.

Nghe pháp, được tịnh tín,

Xả phi gia, xuất gia.

Nghe Ngài nói pháp rồi,

An trụ nơi pháp giáo;

Cần tinh tấn buộc niệm,

Bền chí, luôn chịu đựng.

 [332a]Nhanh chóng được tam minh,

Đã làm điều Phật dạy.

Thế Tôn khéo hiển bày,

Đấng Nhật chủng diễn nói,

Vì chúng sanh mù lòa,

Mở cửa xuất yếu kia.

Khổ khổ và nhân khổ,

Khổ diệt hết, tác chứng.

Tám Thánh đạo lìa  khổ,

An lạc đến Niết-bàn;

Nghĩa thiện, cú vị thiện,

Phạm hạnh tuyệt vô thượng;

Thế Tôn khéo hiển bày,

Niết-bàn cứu chúng sanh.

KINH 1119. TỨ PHÁP CÚ [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói bốn pháp cú. [42] Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà giảng nói. Những gì là bốn?

Pháp Hiền Thánh khéo nói ,

Đây là điều thứ nhất.

Ái ngữ chẳng phải không,

Đây là điều thứ hai.

Nói thật chẳng hư vọng,

Đây là lời thứ ba;

Thuyết pháp không nói khác, [43]

Đây là điều thứ tư.

“Này các Tỳ-kheo, đó gọi là nói bốn cú pháp.”

Khi ấy, Tôn giả Bà-kì-xá ở giữa hội chúng nghĩ thầm: ‘Thế Tôn ở giữa bốn chúng nói bốn cú pháp. Ta phải dùng bốn cách để khen ngợi, xưng tán, và tùy hỷ.’ Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục lễ Phật, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có điều muốn nói.”

Phật dạy:

“Tùy theo sở thích mà nói.”

Lúc ấy, Tôn giả Bà-kì-xá liền nói kệ:

Nếu ai khéo nói pháp,

Với mình không khổ não;

Cũng không khủng bố người,

Đó gọi là khéo nói.

Ai nói lời ái ngữ,

Nói làm người hoan hỷ,

Người không cho là dữ,

Thì đó là ái thuyết.

Nói thật, biết cam lồ, [44]

Nói thật, biết vô thượng.

Nói pháp, nói nghĩa thật,

Chỗ chánh sĩ kiến lập.

Như pháp Phật đã nói,

Đạo Niết-bàn an ổn;

Diệt trừ tất cả khổ,

Đó gọi khéo nói pháp.

Phật nói kinh này xong. Các tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1120. NA-GIÀ SƠN TRẮC [45]

 [332b]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trên sườn núi Na-già, tại thành Vương Xá, cùng với một nghìn Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán, đã diệt tận hữu lậu, việc cần làm đã làm xong, đã lìa các gánh nặng, đã được lợi mình, đoạn trừ các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Bấy giờ, Tôn giả Bà-kì-xá đang ở giữa nghĩa địa trong rừng Lạnh [46], tại thành Vương Xá, suy nghĩ rằng: ‘Nay Thế Tôn đang ở trên sườn  núi Na-già, tại thành Vương Xá cùng với một nghìn Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán, đã diệt tận hữu lậu, việc cần làm đã làm xong, đã lìa các gánh nặng, đã được lợi mình, đoạn trừ các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Nay, ta nên đến đó tán thán Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng.’ Nghĩ vậy xong, Tôn giả Bà-kì-xá liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Đấng Đạo Sư vô thượng,

Trên sườn núi Na-già;

Nghìn Tỳ-kheo quyến thuộc,

Phụng sự đức Như Lai.

Pháp Đại sư rộng nói ,

Đạo Niết-bàn thanh lương;

Chuyên nghe pháp thanh bạch,

Mà đáng Chánh giác nói.

Đấng Chánh giác tôn kính,

Ở ngay giữa đại chúng;

Là Đại long đức rợp,

Là Thượng thủ Tiên nhơn.

Nổi kín mây công đức,

Mưa khắp chúng Thanh văn.

Con từ nghỉ trưa dậy,

Đến phụng sự Đại sư.

Đệ tử Bà-kì-xá,

Cúi đầu xin đảnh lễ.

“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có điều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Tuỳ những gì ngươi nói, đừng suy nghĩ trước.”

Lúc ấy, Bà-kì-xá liền nói kệ:

Ba-tuần khởi ác mọn,

Ngầm chế khiến diệt ngay.

Thường ngăn chận các ma,

Khiến tự hiểu biết lỗi.

Quán sát mở trói buộc,

Phân biệt pháp thanh bạch;

Sáng soi như nhật nguyệt,

Làm Vua các dị đạo.

Chứng ngộ khỏi trí siêu xuất,

Diễn nói pháp đệ nhất.

Ra các dòng phiền não,

Diễn thuyết vô lượng đạo.

Xác lập nơi cam lộ,,

Kiến đế, pháp chơn thật;

 [332c]Tùy thuận đạo như vậy,

Khó gặp Thầy như vậy.

Kiến lập đạo cam lồ,

Kiến đế, sùng viễn ly;

Thế Tôn khéo thuyết pháp,

Trừ ấm cái cho người.

Thấy rõ đối các pháp,

Theo học để điều phục.

Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ này rồi, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói, đều rất hoan hỷ.

KINH 1121. BẠT TIỄN [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc Uyển, tại trú xứ các Tiên nhơn, nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về pháp tương ưng bốn Thánh đế. Đó là: Đây là Khổ Thánh đế, đây là Khổ tập Thánh đế, đây là Khổ diệt Thánh đế, đây là Khổ diệt đạo tích Thánh đế.

Khi ấy, Tôn già Bà-kì-xá ở giữa hội chúng tự nghĩ: ‘Nay ta nên đến trước Thế Tôn tán thán về ví dụ nhổ mũi tên.’ Nghĩ như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chấp tay bạch Phật:

“Dạ Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện thệ, con có điều muốn nói.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Tuỳ sở thích mà nói.”

Lúc ấy, Tôn giả Bà-kì-xá liền nói kệ:

Con nay kính lễ Phật,

Thương xót mọi chúng sanh;

Thứ nhất nhổ tên nhọn,

Biết rõ trị các bệnh.

Thầy thuốc Ca-lộ-y, [48]

Thầy thuốc Ba-hầu-la; [49]

Và thầy Chiêm-bà-kỳ, [50]

Thầy Kỳ-bà [51] chữa bệnh.

Hoặc có bệnh hơi khỏi,

Gọi là trị bệnh hay;

Sau đó bệnh phát lại,

Bệnh kéo dai đến chết.

Đại y vương, Chánh giác,

Khéo cho thuốc chúng sanh;

Trừ các khổ, rốt ráo,

Không còn thọ các hữu.

Cho đến trăm nghìn thứ,

Na-do-tha số bệnh;

Phật điều chữa trị hết,

Rốt ráo thoát khỏi khổ.

Các thầy thuốc nếu họp,

Con ắt sẽ bảo họ;

Được thuốc pháp cam lồ,

Tuỳ sở thích mà uống.

Đệ nhất nhổ tên nhọn,

Biết rõ các thứ bệnh;

Tối thượng trong chữa trị,

Con đảnh lễ Cù-đàm.

 [333a]Sau khi Tôn giả Bà-kì-xá nói những lời này, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả Bà-kì-xá nói, đều rất hoan hỷ.

KINH 1122. NI-CÂU-LUẬT TƯỞNG [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng [53] ở nơi hoang dã, chỗ ở của cầm thú, bị bệnh thật là nặng. Tôn giả Bà-kì-xá là người nuôi bệnh, chăm sóc, cung phụng. Nhưng Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng vì bệnh tật nặng quá, nên đã bát-niết-bàn. Khi ấy Tôn giả Bà-kì-xá tự nghĩ: ‘Hòa thượng của ta Niết-bàn là hữu dư Niết-bàn hay là vô dư Niết-bàn? Nay ta nên tìm cầu tướng này.’

Sau khi Tôn già Bà-kì-xá cúng dường xá-lợi Tôn già Ni-câu-luật Tưởng xong, mang y bát đi về thành Vương Xá. Lần lượt đến thành Vương Xá, cất y bát, rửa chân xong, rồi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Nay con lễ Đại sư,

Đẳng chánh giác không giảm; [54]

Ở trong hiện pháp này,

Đoạn tất cả lưới nghi.

Tỳ-kheo ở khoáng dã,

Mạng chung bát-niết-bàn,

Oai nghi nhiếp các căn,

Đức lớn nêu ở đời,

Được Thế Tôn đặt tên,

Gọi Ni-câu-luật Tưởng.

Nay con hỏi Thế Tôn,

Vì con, nói công đức

Vị bất động giải thoát,

Siêng năng cần phương tiện.

Con là họ Thích-ca,

Đệ tử pháp Thế Tôn;

Ngoài ra còn muốn biết,

Những điều Đạo nhãn nói.

Chúng con đang ở đây,

Tất cả đều muốn nghe.

Thế Tôn là Đại sư,

Cứu thế gian vô thượng.

Đại Mâu-ni trừ nghi,

Trí tuệ đã đầy đủ.

Đạo nhãn thần chiếu khắp,

Ánh sáng hiển bốn chúng.

Giống như Thiên-đế Thích,

Sáng chói Tam Thập Tam.

Các tham dục nghi hoặc,

Đều từ vô minh khởi.

Nếu được gặp Như Lai,

Thì diệt mất không còn.

Đạo nhãn thần Thế Tôn,

Là tối thượng thế gian.

Diệt trừ lỗi chúng sanh,

Như gió thổi  bụi bay;

 [333b]Tất cả các thế gian,

Bị phiền não che khuất.

Còn lại đều không có,

Mắt sáng như của Phật.

Tuệ quang chiếu khắp cả,

Khiến đồng đại tinh tấn.

Cúi xin đấng Đại trí,

Nên vì chúng ký thuyết.

Phát âm thanh vi diệu,

Chúng con một lòng nghe.

Diễn nói lời dịu dàng ,

Các thế gian nghe khắp;

Giống như nóng, khát, bức,

Tìm kiếm nước mát mẻ.

Như Phật, biết không giảm,

Chúng con cũng mong biết.

Tôn giả Bà-kì-xá lại nói kệ:

Nay nghe đấng vô thượng,

Ký thuyết công đức kia;

Không uổng tu phạm hạnh,

Con nghe rất hoan hỷ.

Nói tùy thuận như thuyết,

Đệ tử thuận Mâu-ni;

Cắt dây dài sinh tử,

Và dây trói hư, huyễn.

Vì nhờ gặp Thế Tôn,

Nên đoạn trừ các ái;

Qua khỏi bờ sinh tử,

Không còn thọ các hữu.

Phật nói kinh này xong. Tôn giả Bà-kì-xá nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ ra về. [55]

KINH 1123. TÁN THƯỢNG TỌA [56]

 [259a5]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có các Thượng tọa Tỳ kheo, sống y chỉ bên cạnh Phật như Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên, Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ, Tôn giả Đà-la-phiêu Ma-la Tử, Tôn giả Bà-na-ca-bà-sa, Tôn giả Da-xá-xá-la-ca-tì-ha-lợi, Tôn giả Phú-lưu-na, Tôn giả Phân-đà-đàn-ni-ca. Như các Thượng tọa này, các Thượng tọa Tỳ kheo khác cũng sống y chỉ ở bên Phật.

Lúc đó Tôn giả Bà-kì-xá [57] đang ở tại giảng đường Lộc Tử mẫu trong vườn phía Đông của nước Xá-vệ. Tôn giả Bà-kì-xá tự nghĩ: “Hôm nay Thế Tôn đang trú trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ cùng với các Thượng tọa Tỳ kheo sống y chỉ bên cạnh Phật. Nay ta nên đi đến chỗ Thế Tôn, nói kệ khen ngợi từng Thượng tọa Tỳ kheo một.” Suy nghĩ như vậy xong, Bà-kì-xá liền đi đếnchỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, nói kệ:

Tỳ kheo Tối Thượng tọa ,

Đã đoạn các tham dục;

Vượt khỏi các thế gian,

Tích tụ của tất cả.

Trí sâu, ít nói năng,

Dõng mãnh, siêng phương tiện;

Đạo đức sạch sáng ngời:

Con nay cúi đầu lạy.

Đấng hàng phục ma oán,

Xa lìa nơi đám đông;

Không bị năm dục trói,

Thường sống trong rừng vắng;

Rỗng trong, ít ham muốn:

Con nay cúi đầu lạy.

Thắng tộc Giá-la-diên,

Thiền tư không phóng dật,

Nội tâm vui chánh thọ,

Trong sạch trừ bụi nhơ,

Tuệ biện hiển nghĩa sâu:

Cho nên con cúi lạy.

Đấng đạt thần thông tuệ,

Vượt mọi thứ thần thông;

 [259b]Trong sáu thứ thần thông,

Tự tại không sợ hãi;

Là thần thông tối thắng:

Cho nên con cúi lạy.

Chúng sanh nơi năm đường,

Cho đến cõi Phạm thế;

Trời, người tưởng ưu liệt,

Trong nghìn đại thiên giới,

Mắt tịnh thiên thấy hết:

Cho nên con cúi lạy.

Sức phương tiện tinh cần,

Đoạn trừ tập khởi ái;

Xé toạc lưới sanh tử,

Tâm thường vui chánh pháp;

Lìa các tưởng hy vọng,

Vượt qua bờ bên kia;

Trong sạch, không bụi nhơ:

Cho nên con cúi lạy.

Thoát ly mọi sợ hãi,

Xả tài vật, không dính;

Biết đủ, không nghi hoặc,

Hàng phục giặc ma oán;

Quán niệm thân thanh tịnh:

Cho nên con cúi lạy.

Không có các thế gian,

Rừng gai góc phiền não;

Trừ hẳn kết phược sử,

Dứt nhơn duyên ba cõi;

Tinh luyện diệt các cấu,

Rốt cùng sáng hiện bày;

Nơi rừng lìa khỏi rừng:

Cho nên con cúi lạy.

Dứt giả trá, si, nhuế,

Điều phục các ái hỷ;

Ra khỏi mọi kiến xứ,

Không cửa nhà nương tựa;

Thanh tịnh không vết nhơ:

Cho nên con cúi lạy.

Tâm kia chuyển tự tại,

Kiên cố không khuynh động;

Trí tuệ đại đức lực,

Khuất phục ma khó phục;

Đoạn trừ kết vô minh:

Cho nên con cúi lạy.

Đại nhơn, trừ tối tăm,

Đấng Mâu-ni tịch tĩnh,

Chánh pháp không cáu bợn,

Ánh sáng tự hiện chiếu,

Soi khắp mọi thế giới,

Cho nên gọi là Phật.

Che mờ mọi ánh sáng

Của địa thần, không thiên,

Thiên tử Tam thập tam,

Cho nên gọi là Phật.

Qua sinh tử hữu biên,

Siêu việt vượt mọi loài;

Nhu nhuyển khéo điều phục,

Chánh giác đệ nhất giác;

 [259c]Đoạn tận mọi kết phược,

Hàng phục các ngoại đạo;

Đập tan bọn ma oán,

Đắc Vô thượng Chánh giác;

Lìa trần diệt các cấu:

Cho nên con cúi lạy.

Khi Tôn giả Bà-kì-xá nói kệ khen ngợi, các Tỳ kheo lắng nghe những lời này, tất cả đều hoan hỷ.

KINH 1124. BÀ-KỲ-XÁ TÁN PHẬT [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Bà-kì-xá đang ở tại giảng đường Lộc Tử mẫu trong vườn phía Đông nước Xá-vệ, bị bệnh nặng nguy khốn. Tôn giả Phú-lân-ni là người chăm sóc bệnh nhân, cung cấp phục vụ.

Khi ấy Tôn giả Bà-kì-xá nói với Tôn giả Phú-lân-ni:

“Thầy hãy đến chỗ Thế Tôn, chuyển lời tôi bạch Thế Tôn rằng: ‘Tôn giả Bà-kì-xá đảnh lễ sát chân Thế Tôn, kính thăm hỏi Thế Tôn ít bệnh, ít não, và sống khinh lợi, an vui chăng?’ Lại nói tiếp: Bà-kì-xá ở tại giảng đường Lộ Tử Mẫu trong vườn phía Đông, đang bị bệnh nặng nguy khốn, muốn được gặp Thế Tôn, nhưng không đủ sức để đến chỗ Phật, Lành thay! Thế Tôn, cúi xin mở lòng thương xót đến chỗ của Bà-ký-xá ở giảng đường Lộc Tử mẫu tại vườn phía Đông.”

Tôn giả Phú-lân-ni nhận lời, đi đến Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, Tôn giả thưa:

“Tôn giả Bà-kì-xá ở giảng đường Lộc Tử Mẫu trong vườn phía Đông bị bệnh nặng nguy khốn, muốn được gặp Thế Tôn nhưng không đủ sức đi đến diện kiến Ngài. Lành thay! Thế Tôn, cúi xin vì thương xót đến chỗ Tôn giả Bà-kì-xá ở giảng đường Lộc Tử mẫu trong vườn phía Đông.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Tôn giả Phú-lân-ni biết Phật đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng lên đảnh lễ sát chân Phật rồi đi.

Chiều hôm ấy sau khi từ thiền tịnh dậy, Thế Tôn đến Tôn giả Bà-kì-xá. Tôn giả Bà-kì-xá từ xa trông thấy Thế Tôn, muốn vịn giường mà đứng dậy. Thế Tôn thấy  Tôn giả Bà-kì-xá tựa giường muốn gượng dậy, liền bảo:

“Bà-kì-xá, chớ nên khinh động.”

Thế Tôn liền ngồi xuống, hỏi Tôn giả Bà-kì-xá:

“Những bệnh khổ của ngươi có bình hoà, dễ chịu đựng không? Sự đau nhức nơi thân tăng hay giảm.” Nói đầy đủ như kinh Diệm-ma-ca ở trước ... cho đến …những bệnh khổ của con có cảm giác càng tăng thêm chứ không thuyên giảm.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Bây giờ Ta hỏi ngươi, tùy ý mà trả lời [360a] Ta. Ngươi đã được tâm không nhiễm, không đắm, không nhơ, giải thoát, lìa các điên đảo, phải không?”

Bà-kì-xá bạch Phật:

“Tâm con không nhiễm, không đắm, không nhơ, giải thoát, lìa các điên đảo.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Làm sao ngươi có được tâm không nhiễm, không đắm, không nhơ, giải thoát, lìa các điên đảo?”

Bà-kì-xá bạch Phật:

“Con đối với sắc quá khứ được nhận thức bởi măt, tâm không luyến tiếc; đối với sắc vị lai, không mơ tưởng; đối với sắc hiện tại không đắm nhiễm. Con ở nơi sắc quá khứ, vị lai, hiện tại được nhận thức bởi mắt, đã dứt sạch niệm tham dục, ái lạc, vô dục, diệt tận, tịch diệt, tịch tĩnh, viễn ly, giải thoát. Tâm đã giải thoát, cho nên không nhiễm, không đắm, không nhơ, lìa các điên đảo, an trụ chánh thọ. Cũng vậy, với tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đối với pháp quá khứ được nhận thức bởi ý, tâm không luyến tiếc; đối với sắc vị lai, không mơ tưởng; đối với sắc hiện tại không đắm nhiễm. Trong pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, niệm tham dục, niệm ái lạc không còn nữa, vô dục, diệt tận, tịch diệt, tịch tĩnh, viễn ly, giải thoát. Tâm đã giải thoát, cho nên không nhiễm, không đắm, không nhơ, lìa các điên đảo, an trụ chánh thọ. Xin đức Thế Tôn hôm nay ban cho con điều lợi ích tối hậu, nghe con nói kệ.”

Phật bảo Bà-kì-xá:

“Nên biết đúng lúc.”

Tôn giả Bà-kì-xá ngồi ngay ngắn, buộc niệm ở trước, và nói kệ:

Nay con ở trước Phật,

Cúi đầu cung kính lạy.

Đấng đã đắc giải thoát,

Trong tất cả nmọi pháp.

Biết rõ các tướng pháp,

Tin sâu, vui chánh pháp.

Thế Tôn, Đẳng Chánh Giác,

Thế Tôn là Đại Sư.

Thế Tôn hàng ma oán,

Thế Tôn Đại Mâu-ni;

Diệt trừ tất cả sử,

Tự độ các sanh loại.

Thế Tôn đối thế gian,

Giác tri tất cả pháp.

Thế gian ắt không có

Ai biết pháp hơn Phật.

Ở trong cõi Thiên, Nhơn,

Cũng không ai bằng Phật.

Cho nên hôm nay con,

Lễ bậc Đại Tinh Tấn,

Cúi lễ Tối Thượng Sỹ,

Đã nhổ gai ái dục.

Đây là lần cuối cùng

Con được thấy Thế Tôn.

Cúi lễ đấng Nhật Chủng,

Đêm nay  con niết-bàn.

 [260b] Chánh trí buộc chánh niệm,

Nơi thân hư hoại này;

Các dư lực còn lại,

Từ đêm nay diệt hẳn.

Ba cõi không còn nhiễm,

Vào Vô dư Niết-bàn.

Cảm thọ khổ và vui,

Cũng không khổ không vui;

Từ nhân duyên xúc sinh,

Hôm nay ắt đoạn tận.

Khổ thọ và lạc thọ,

Cũng không khổ không vui;

Từ nhân duyên xúc sinh,

Hôm nay đều biến tri.

Hoặc bên trong, bên ngoài,

Các cảm thọ khổ vui;

Không còn chấp thủ thọ,

Chánh trí chánh buộc tâm.

Đoạn đầu, giữa, sau cùng,

Các tụ không chướng ngại.

Các tụ đã đoạn rồi,

Biết rõ ái không còn.

Người thấy rõ chân thật,

Nói chín mươi mốt kiếp;

Trong ba kiếp không trống,

Có đấng Đại Tiên nhơn.

Còn lại trống, vô hộ,

Kiếp chỉ đầy kinh sợ;

Nên biết, Đại Tiên nhơn,

Lại xuất hiện thế gian,

An ủi các Trời, Người,

Mở mắt, dẹp bụi mờ;

Thức tỉnh các chúng sanh,

Cho biết tất cả khổ:

Khổ khổ và khổ tập,

Tịch diệt, vượt qua khổ;

Tám Thánh đạo hiền Thánh,

An ổn đến Niết-bàn.

Điều thế gian khó được,

Hiện tiền tất đã được;

Đời này, được thân người,

Chánh pháp được diễn nói.

Theo những gì mình muốn,

Trừ bẩn, cầu thanh tịnh;

Chuyên tu tự lợi mình,

Chớ để luống không  quả.

Luống không thời sinh lo,

Gần nơi địa ngục khổ.

Đối chánh pháp được nói,

Không thích, không muốn nhận;

Sẽ ở lâu sinh tử,

Bao giờ dứt luân hồi!

Trường kỳ ôm ưu não,

Như người buôn mất của.

Nay con đủ mọi tốt,

Không còn sinh, già, chết.

Luân hồi đã chấm dứt,

Không còn sinh lại nữa.

 [260c] Dòng nước sông ái, thức,

Từ nay tất cạn khô.

Đã nhổ cội rễ uẩn,

Khoen xích không tiếp nối.

Phụng sự Đại sư xong,

Việc làm đã hoàn tất,

Gánh nặng đã buông xuống,

Hữu lưu đã đoạn xong;

Không còn thích thọ sinh,

Không còn chết đáng ghét;

Chánh trí, chánh buộc niệm,

Chỉ chờ phút cuối cùng.

Voi chúa nhớ rừng hoang,

Sáu mươi thú hùng mạnh,

Một mai thoát gông xiềng,

Thong dong trong rừng núi.

Bà-kì-xá cũng vậy,

Miệng Đại sư sinh con;

Chán bỏ lìa đồ chúng,

Chánh niệm chờ thời đến.

Nay nói với mọi người,

Những ai đến tụ hội;

Nghe kệ tôi sau cùng,

Có nghĩa, được lợi ích.

Có sinh ắt có diệt,

Các hành đều vô thường.

Pháp chóng sinh, chóng tử,

Nào đáng nương cậy lâu.

Nên phải có chí mạnh,

Tinh cần cầu phương tiện;

Quán sát có sợ hãi,

Tùy thuận đạo Mâu-ni,

Mau hết khổ ấm này,

Chớ tăng thêm luân chuyển.

Đứa con từ miệng Phật,

Khen nói kệ này xong;

Xin từ biệt đại chúng,

Bà-kì-xá niết-bàn.

Vì tấm lòng từ bi,

Nói kệ vô thượng này;

Tôn giả Bà-kì-xá,

Con sinh từ pháp Phật.

Do dũ lòng bi mẫn,

Nói kệ vô thượng này;

Sau đó Bát Niết-bàn,

Tất cả nên kinh lễ.


 [1] Tương ưng Bà-kì-xá, gồm các kinh Đại chánh 1208-1221 (nửa sau quyển 45), 993-994 (quyển 36, 2 kinh đầu).  Quốc dịch, quyển 39, nửa sau,  Tụng vii. Kê. 8. Tương Bà-kỳ-xá, 2 phẩm. Ấn Thuận, 24. Tương ưng Bà-kỳ-xá, 16 kinh. Tương đương Pāli 8. Vaṅgīsasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, kinh 1028. Pāli, S. 8. 11. Gaggarā. Cf. Thera. 1252. Biệt dịch, No 100(224).

 [3]  Yết-già 揭伽. Np 100(224): Kiệt-xà trì 竭闍池. Pāli: Gaggarā pokkhaṇi.

 [4]  Bà-kỳ-xá 婆耆舍. No 100(224):bà-kì-xa 婆耆奢. Pāli: Vaṅgīsa.

 [5] Đại chánh, kinh 1029.  Pāli, S. 8. 9. Koṇḍañña. Thera. 1246-1248. Biệt dịch, No 100(225).

 [6]  Pāli: Buddhānubuddho so thero, ‘ Ngài là vị Thượng tọa giác ngộ theo sau đức Phật.’

 [7]  Đại chánh, kinh 10210. Pāli, S. 8. 10. Sāriputta. Thera. 1231-1233. Biệt dịch, No 100(226).

 [8]  Ưu-ba-đế-xá 優婆提舍; No 100(226): Ưu-ba-thất-sử 優 [03]波室駛. Pāli: Upatissa, tên của Ngài Xá-lợi-phất.

 [9]  Pāli: sāḷikāyivā nigghosa, tiếng phát ra như chim sāli.

 [10]  Đại chánh, kinh 1211. Pāli, S. 8. 10. Moggallāna. Thera. 12401251. Biệt dịch, No 100(227).

 [11]  Na-già 那伽. No 100(227): Long sơn 龍山. Bản Pāli: trong hang Đá đen (Kāḷasilā), trên sườn nui Isigili.

 [12] Đại chánh, kinh 1212.   Pāli, S. 8. 7. Pavāraṇā. Thera. 1234-1237. Biệt dịch, No 100(228); No 125(32.5); No 26(121); No. 61 ~ 63.

 [13]  Bản Pāli: Sāvatthiyaṃ.

 [14]  Vô tri chứng 無知證. Có lẽ Pāli: diṭṭheva dhamme aññaṃ sacchikarissati, sẽ chứng đắc chánh trí ngay trong hiện pháp. Nhưng bản Hán đọc là aññāṇa: vô tri (không biêt) thay vì aññā (chánh trí, chỉ quả A-la-hán).

 [15]  Hán dịch: thập ngũ nhật nguyệt (hay nguyệt nhât), để chỉ ngày thứ 15 của nửa tháng. Pāli: paṇṇarasa.

 [16]  Thực thọ 食受時. Không đoán được từ gốc. Với ý nghĩa tương tự, đoạn dưới Hán dịch là hoài thọ 懷受. No 100(228): tự tứ thời đáo自恣時
到, vào lúc tự tứ.  Pāli: pavāraṇā.

 [17] Đương hoài thọ ngã 當懷受我; Hán dịch không rõ nghĩa. Nhưng theo ngữ cảnh, đây là lời tự tứ. No 100(228): ngã kim dục tự tứ我今
 [07]欲自恣. Pāli tương đương: handa dāni, bhikkhave, pavāremi vo; na me kiñci garahatha kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā ti, ‘ Nay, này các Tỳ kheo, Ta mong các ngươi hãy nói lên; chớ để hiềm trách  Ta điều gì về thân, và khẩu.’

 [18] Trong bản Pāli, chỉ tự tứ những điều liên hệ thân và khẩu, kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā.

 [19] Hán: tô tức, xem cht, kinh…

 [20]  Khen ngợi các trí tuệ của Xá-lợi-phất: tiệp tật trí tuệ, minh lợi trí tuệ, xuất yếu trí tuệ, yểm ly trí tuệ, đại trí tuệ, quảng trí tuệ, thâm trí tuệ, vo tỷ trí tuệ, trí bảo thành tựu  捷智明智出智厭智慧大智慧廣智慧深智慧無比智慧智寶成就. So sánh Pāli:  paṇḍitapañño, mahāpañño, putthupañño, hāsapañño, javanapañño,  tikkhapañño, nibbedhikapañño.

 [21]  Tống Nguyên Minh đọc là thật. Ấn Thuận, Quốc dịch, Phật quang đều đọc là bảo 寶.

 [22] Hán: hoài thọ. Cf. No 100(228): “Như Chuyển luân vương, với quần thần vâyquanh.”

 [23] Đại chánh, kinh 1213. Pāli, S. 8. 2. Arati. Thera. 1214-1218. Biệt dịch, No 100(229).

 [24]  Ni-câu-luật Tướng 尼拘律相. Bản Cao-ly đọc là tướng. Tống Nguyên Minh đọc là tưởng. Pāli: Nigrodhakappa, Hoà thượng của Vaṅgīsa.

 [25]  Bản Pāli: Āḷaviyaṃ Āggāḷave cetiye, trong miếu Āggāḷava, ở Āḷavi. Bản Hán hiểu Āḷavi là danh từ chung chứ không phải địa danh.

 [26]  Chỉ Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng. Trong bản Pāli, đoạn này nói, Nỉgodhakappa sau khi khất thực về, vào thất, đóng cửa cho đến chiều hôm sau. Vì vậy, Vaṅgīsa buồn ràu, vì khômng được Thầy quan tâm giáo giợi.

 [27]  Tham giác 貪覺. Pāli: gehasikaṃ vitakkaṃ, tầm tư thế tục.

 [28]  Hán: ư lân vô sở tác 於鄰無所作. Pāli: vanathaṃ na kareyya kuhiñca, không tạo rừng tham ái bất cứ ở đâu.

 [29] Sáu giác tâm tưởng 六覺心想.So Pāli: saṭṭhi nissitā savitakkā, puthū janatāya adhammaṃ niviṭṭā. y chấp nơi 60 loại tầm cầu , phàm phu bị dính chặt vào phi pháp.  Theo sớ giải, với sáu cảnh, mỗi cảnh có 10 tầm cầu phi pháp.

 [30]  Hữu dư 有餘; đây chỉ hữu dư y, phiền nào làm sở y cho thọ sinh. Pāli: upadhi janā gadhitāse, chúng sinh bị trói chặt vào hữu y.

 [31]  Pāli: vinodaya chandam, đã đoạn dục.

 [32]  Pāli: santaṃ padaṃ ajjhagamā muni paṭicca parinibbuto kaṅkhati kālan’ti, ‘ đã đi đên con đương tịch tĩnh, đấng Mâu-ni y trên Niêt-bàn mà chờ mệnh chung.

 [33] Đại chánh, kinh 1214.  Pāli,  S. 8. 4. Ānanda. Biệt dịch, No 100(230); No 125(35.9).

 [34]  Đại chánh, kinh 1215. Pāli, S. 8. 1. Nikkhanta. Thera. 1209-1213. Biệt dịch, No 100(250).

 [35]  Đại chánh, kinh 1216. Pāli, S. 8. 3. Pesalā-atimaññanā. Thera. 1219-1222. Biệt dịch, No 100(251).

 [36] Pāli, Sớ giải, đây chỉ đệ tử của Gotama (gotamāti gotamabuddhasāvakattā).

 [37] Cf. Pāli: makkhena makkhitā pājā, chúng sanh được che đậy bởi phú tàng (ngụy thiện).

 [38] Sát mạn: “bị sát hại bởi mạn. No 100(252: “Tất cả chúng sanh bị gay hại bởi mạn nên đọa địa ngục.” Pāli: mānahatā nirayaṃ papatanti, những người hành kiêu mạn đọa địa ngục. Mānahata,  bị sát hại bởi mạn.

 [39] Đại chánh, kinh 1217. Quốc dịch, phẩm 2. Pāli, S. 8. 12. Vaṅgīsa. Thera. 1253-1262. Biệt dịch, No 100(252).

 [40]  Pāli: kāveyyamattā … pubbe,  khi xưa, ta đam mê làm thơ.

 [41] Đại chánh, kinh 1218. Pāli, S. 8. 5. Subhāsitā. Thera. 1227-1230; Sn. 3. 3. Subhāsita-sutta, Biệt dịch, No 100(253).

 [42]  Bốn pháp cú 四法句. Pāli: catūhi aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā, lời được khéo nói gồm có bốn chi.

 [43]  Pāli: dhamma bhāṇe nādhammaṃ taṃ, nói pháp chứ không phải phi pháp.

 [44] Pāli: saccaṃ ve amatā vācā, lời nói thật là noiứ nói (dân đến) bất tử (cam lộ).

 [45]  Đại chánh, kinh 1219. Pāli, S. 8.8. Parosahassa. Thera. 1238-1245. No 100(253).

 [46] Hàn lâm.

 [47]  Đại chánh, kinh 1220. Biệt dịch, No 100(254).

 [48]  Ca-lộ-y 迦露醫.

 [49]  Ba-hầu-la  波睺羅.

 [50]  Chiêm-bà-kỳ 瞻婆耆.

 [51]  Kỳ-bà 耆婆.

 [52]  Đại chánh, kinh 1221. Pāli, Thera. 1263-1279; Sn. 2. 12. Vaṅgīsa-sutta (Nigrodhakappa). Biệt dịch, No 100(255).

 [53] Ni-câu-luật Tưởng 尼拘律想. No 100(255): Ni-cù-đà-kiếp-ba 尼瞿陀劫波. Pāli: Nigrodhakappa.

 [54]  Bản Cao-ly đọc là diệt 滅. TNM: đọc là giảm. No 100(255): “Đấng giải tuệ vô lượng.” Sn. tr. 60: satthāramanopaññā.

 [55] Bản Hán, hết quyển 45.

 [56] Đại chánh, quyển 36, kinh 993. Quốc dịch, quyển 40, “8. Tương ưng Bà-kỳ-xá”, phẩm 2, tiếp theo. Ấn Thuận, “24, Tương ưng Bà-kỳ-xá” tiếp theo, kinh 15. Phật quang, quyển 46, kinh 1206. Tương đưong Pāli, không thấy. Biệt dịch, No 100(256).

 [57] Bà-kỳ-xá 婆耆舍. Pāli: Vaṅgīsa, biện tài đệ nhất.

 [58] Đại chánh, kinh 994. Biệt dịch, No 100(257).