47. Tương Ưng ngoại đạo, Kinh 1346-1360 HẾT

47. TƯƠNG ƯNG NGOẠI ĐẠO [1]

KINH 1346. UẤT-ĐÊ-CA [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có xuất gia ngoại đạo tên là Uất-đê-ca [3] đi đến chỗ Phật,  cùng Thế Tôn chào hỏi, an úy xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, thế nào, Cù-đàm, thế gian hữu biên chăng?”

Phật nói với Uất-đê-ca:

“Điều này không xác định.”

Uất-dể-ca bạch Phật:

“Thế nào Cù-đàm, thế gian vô biên chăng? Vừa hữu biên vửa vô biên chăng? Chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên chăng?”

Phật nói với Uất-đê-ca:

“Điều này không xác định.”

Uất-đê-ca bạch Phật:

“Thế nào Cù-đàm, tôi hỏi, ‘Thế gian hữu biên chăng?’ Được trả lời, ‘Không xác định.’ Tôi hỏi, ‘Thế gian vô biên chăng? Thế gian vừa hữu biên vửa vô biên chăng? Chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên chăng?’ Được trả lời, ‘Không xác đinh.’ Thưa Cù-đàm, vậy những pháp nào có thể được xác định.”

Phật nói với Uất-đê-ca:

“Là bậc Tri giả, Trí giả, Ta vì các đệ tử mà xác định đạo, để cho chân chánh diệt tận khổ, rốt ráo biên tế khổ.”

Uất-đê-ca bạch Phật:

“Như thế nào Cù-đàm vì các đệ tử mà xác định đạo, để cho chân chánh diệt tận khổ, rốt ráo biên tế khổ. Tất cả thế gian, hay chỉ vì một phần ít, từ đạo này mà xuất?”

Bấy giờ Thê tôn im lặng không đáp. Qua hai, ba lần hỏi, Phật cũng hai, ba lần im lặng không đáp.

Lúc ấy, Tôn gia A-nan đang cầm quạt đứng hầu sau Phật. Tôn giả nói với [348a] xuất gia ngoại đạo Uất-đê-ca:

“Ban đầu ông đã hỏi nghĩa này. Nay lại hỏi theo cách nói khác, cho nên Thế Tôn không ký thuyết. Này Uất-đê-ca, nay tôi sẽ vì ông  mà nói thí dụ. Phàm người trí mà nghe thí dụ thì sẽ hiểu. Ví như quốc vương có thành lũy bao quanh bốn bề kiên cố; đường giao thông bằng phẳng, và chỉ có một cửa. Người đứng giữ cửa lại là một người thông minh, sáng suốt, thường khéo đoán xét. Bên ngoài có người đến, nếu người đáng vào thì cho phép vào; người không đáng vào thì không cho phép. Khắp chu vi vòng thành, muốn tìm cửa thứ hai cũng không thể được. Ngay đến lỗ ra vào của chó mèo cũng không, huống chi là cửa thứ hai! Người giữ cửa thành kia cũng không cần biết rõ người vào kẻ ra là ai, nhưng người này biết tất cả mọi người ra hay vào chỉ từ cửa này, chứ không phải nơi nào khác. Cũng vậy, Thế Tôn tuy không dụng tâm để biết rõ tất cả chúng sanh thế gian, hay chỉ một phần ít, từ con đường này xuất. Nhưng biết chúng sanh hết khổ, cứu cánh biên tế khổ, tất cả đều từ đạo này mà xuất.”

Sau khi xuất gia ngoại Uất-đê-ca nghe những gì Phật nói, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

KINH 1347. PHÚ-LÂN-NI [4]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có Tôn giả Phú-lân-ni, [5] ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Lúc ấy có các xuất gia ngoại đạođi đến chỗ Tôn giả Phú-lân-ni, cùng nhau thăm hỏi khích lệ, rồi ngồi xuống một bên, hỏi Tôn giả Phú-lân-ni:

“Tôi nghe Sa-môn Cù-đàm chủ trương đoạn diệt, phá hoại sự hữu. Có truyền dạy như vậy chăng? Nay xin hỏi Tôn giả Phú-lân-ni, có đúng như vậy không?”

Phú-lân-ni nói với các xuất gia ngoại đạo:

“Tôi không biết điều đó. Không có trường hợp Thế Tôn dạy chúng sinh đoạn diệt, phá hoại hữu, khiến trở thành vô sở hữu. Theo tôi hiểu như vầy: ‘Thế Tôn dạy có những chúng sanh chấp có ngã, ngã mạn, tà mạn. Thế Tôn đã dạy, khiến họ đoạn diệt những thứ đó.”

Lúc ấy, các xuất gia ngoại đạo nghe những gì Tôn giả Phú-lân-ni nói, không hài lòng. Họ bèn chỉ trích,  rồi  ra về.  Sau khi các ngoại đạo đi rồi, Tôn giả Phú-lân-ni đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, ngồi xuống một bên, đem những điều các xuất gia ngoại đạo đã nói, bạch đầy đủ lên Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, con đã đáp lại những điều ngoại đạo nói như vậy, là không mắc vào tội hủy báng Thế Tôn chăng? Là nói đúng pháp, nói như những gì Phật dạy, nói như pháp, nói tùy thuận pháp, [348b] không bị các nhà luận nghĩa hiềm trách đó chăng?”

Phật nói với Phú-lân-ni:

“Như những gì ngươi đã nói, không hủy báng Như Lai, không mất thứ tự, như Ta ký thuyết; nói pháp như pháp, nói tùy thuận pháp, không bị các nhà luận nghị hiềm trách. Vì sao? Này Phú-lân-ni, vì trước tiên, các chúng sanh đã có ngã mạn, tà mạn; tà mạn bức bách, tà mạn tập khởi, không hiện quán tà mạn, [6] rối loạn như ruột chó, như vòng móc sắt, như cỏ rối, qua lại rong ruỗi đời này sang đời khác, đời khác sang đời này, rong ruỗi tới lui không thể lìa xa.

“Này Phú-lân-ni, tất cả chúng sanh đối với tà mạn, nếu ai vĩnh viễn diệt tận không còn sót, tất cả những chúng sanh đó lúc nào cũng an ổn, khoái lạc.”

Phật nói kinh này xong, Tỳ kheo Phú-lân-ni nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1348. CÂU-CA-NA [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả A-nan-đà sáng sớm đến bờ sông Tháp-bổ, [8] cởi y để bên bờ, xuống nước rửa tay chân, rồi trở lên bờkhóac một y, lau chùi thân thể. Lúc ấy cũng có xuất gia ngoại đạo tên Câu-ca-na [9]  đến bên sông. Tôn giả A-nan-đà nghe tiếng đi, liền ho đánh tiếng. Câu-ca-na xuất gia ngoại đạo nghe có tiếng người, nên hỏi:

“Ai đấy?”

Tôn giả A-nan-đà đáp:

“Sa-môn.”

Câu-ca-na xuất gia ngoại đạo nói:

“Sa-môn nào?”

Tôn giả A-nan-đà đáp:

“Sa-môn họ Thích.”

Câu-ca-na xuất gia ngoại đạo nói:

“Tôi có điều muốn hỏi. Tôn giả có rảnh giờ để giải đáp cho không?”

Tôn giả A-nan-đà đáp:

“Tùy ý cứ hỏi, nếu biết thì tôi sẽ đáp.”

Câu-ca-na hỏi:

“Thế nào A-nan-đà, Như Lai sau khi chết có còn chăng?”

A-nan-đà đáp:

“Thế Tôn đã nói, điều này không xác định.”

Lại hỏi:

“Như Lai sau khi chết không còn chăng? Sau khi chết vừa có vừa không chăng? Chẳng phải có, chẳng phải không chăng?”

A-nan-đà đáp:

“Thế Tôn đã noi, điều này không xác định.”

Ngoại đạo Câu-ca-na nói:

“Thế nào, thưa Tôn giả A-nan-đà, khi tôi hỏi, ‘Như Lai sau khi chết còn chăng?’ Ngài đáp: ‘Không xác định.” Khi tôi hỏi: ‘Sau khi chết không còn, sau khi chết vừa còn vừa không còn, sau khi chết chẳng phải còn, chẳng phải không còn chăng.’ Ngài đáp: ‘Không xác định.’ Thế nào, A-nan-đà, có phải vì không biết, không thấy chăng?”

A-nan-đà đáp:

“Chẳng phải không biết, chẳng phải không thấy, mà là biết tất cả, thấy tất cả.”

Lại hỏi Tôn giả A-nan-đà:

“Biết gì? Thấy gì?”

A-nan-đà đáp:

“Thấy chỗ có thể thấy, thấy chỗ sinh khởi, thấy chỗ đoạn tận triền phược. Đó là biết, [348c] đó là thấy. Ta biết như vậy, thấy như vậy, sao nói là không biết, không thấy?”

Câu-ca-na ngoại đạo lại hỏi:

“Tôn giả tên gì?”

Tôn giả A-nan-đà đáp:

“Tôi tên là A-nan-đà.”

Câu ca-na ngoại đạo nói:

“Lạ thay! Đệ tử của Đại Sư mà ta được cùng luận nghị. Nếu ta biết Tôn gỉa này là Tôn gỉa A-nan-đà thì tôi đã không dám mở lời hỏi.”

Nói những lời này xong, ông liền bỏ đi.

KINH 1349.  CẤP CÔ ĐỘC [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Độc ngày nào cũng đến viếng thăm Thế Tôn, đảnh lễ và phục vụ. Gia chủ tự nghĩ: ‘Ta đến quá sớm. Thế Tôn và các Tỳ kheo còn đang tọa thiền, tư duy. Thôi, ta nên đi qua trú xứ của các ngoại đạo.’ Gia chủ đi vào tinh xá ngoại đạo, cùng họ chào đón, thăm hỏi khích lệ, rồi ngồi xuống một bên. Lúc ấy ngoại đạo kia hỏi:

“Gia chủ, Ông thấy Sa-môn Cù-đàm thấy thế nào, thấy những gì?”

Gia chủ đáp:

“Tôi cũng không biết Thế Tôn thấy thế nào, và Thế Tôn thấy những gì.”

Các ngoại đạo nói:

“Ông hày nói cái thấy của chúng Tăng. Chúng Tăng thấy như thế nào, chúng tăng thấy những gì?” [11]

Gia chủ đáp:

“Tôi cũng chẳng biết thế nào là cái thấy của chúng Tăng, chúng tăng thấy những gì.”

Ngoại đạo lại hỏi Gia chủ:

“Nay hãy nói cái thấy của chính Ông? Cái thấy của chính Ông là gì?”

Gia chủ đáp:

“Các Ông mỗi người hãy tự nói chỗ thấy của mình, rồi tôi sẽ nói chỗ thấy của tôi cũng không khó.”

Khi đó có một ngoại đạo nói như vầy:

“Gia chủ, tôi thấy tất cả thế gian là thường, đó là chơn thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Gia chủ, tôi thấy tất cả thế gian là vô thường, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Gia chủ, thế gian vừa thường vừa vô thường, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Thế gian phi thường phi vô thường, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Thế gian hữu biên, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Thế gian vô biên, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Lại có người nói:

“Thế gian vừa hữu biên vừa vô biên.”

Lại có người nói:

“Thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.”

Lại có người nói:

“Mạng tức là thân.”

Lại có người nói:

“Mạng khác thân khác.”

Lại có người nói:

“Như Lai sau khi chết là còn.”

Lại có người nói:

“Như Lai sau khi chết là không còn.”

Lại có người nói:

“Như Lai sau khi chết vừa có vừa không.”

Lại có người nói:

“Như Lai [349a] sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không, đó là chân thật, ngoài ra đều là hư vọng.”

Các ngoại đạo nói với Gia chủ:

“Chúng tôi mỗi người đều trình bày sở kiến của mình, vậy Ông nên nói sở kiến của Ông.”

Gia chủ đáp:

“Sở kiến của tôi là, với những gì là tồn tại, là hữu vi, tư lương, duyên khởi. [12] Nếu thật sự là pháp hữu vi do tư lương, duyên khởi thì chúng là vô thường; mà vô thường là khổ. Biết như vậy rồi, đối với tất cả sở kiến đều vô sở đắc. Như sở kiến của các ông cho thế gian là thường, đó là chơn thật, ngoài ra là hư vọng. Sở kiến này nếu là tồn tại, nó là hữu vi do tư lương duyên khởi. Nếu là tồn tại, hữu vi, do tư lương duyên khởi thì nó vô thường, mà vô thường là khổ. Cho nên các ông thân cận với cái khổ, chỉ chịu khổ, sống mãi trong khổ, chìm sâu vào trong khổ.

“Cũng vậy, các ông cho rằng: ‘Thế gian là vô thường, đó là chơn thật, ngoài ra đều là hư vọng.’ Chúng có lỗi như vậy. Hay: ‘Thế gian thường vô thường, phi thường, phi vô thường, thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian hữu biên vô biên, thế gian phi hữu biên phi vô biên; mạng tức là thân, mạng khác thân khác; Như Lai sau khi chết có, Như Lai sau khi chết không, Như Lai sau khi chết vừa có cừa không, Như Lai sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không, đó là chơn thật, ngoài ra đều là hư vọng.’  Đều nói như trên.”

Có một ngoại đạo nói với Gia chủ Cấp Cô Độc:

“Như những gì Ông đã nói: ‘Nếu có sở kiến gì, đó là tồn tại hữu vi do tư lương duyên khởi, đó là pháp vô thường.’ Nếu vô thường là khổ. Vậy sở kiến của Gia chủ cũng thân cận khổ, chịu khổ, sống khổ, vào sâu trong khổ.”

Gia chủ đáp:

“Trước kia tôi chẳng đã nói: ‘Sở kiến thật sự là pháp hữu vi, do tư lương duyên khởi, thảy đều vô thường, mà vô thường là khổ. Khi đã biết khổ rồi, ta đối với sở kiến ấy vô sở đắc’ đó sao?”

Các ngoại đạo nói:

“Đúng như thế! Thưa Gia chủ!”

Bấy giờ Gia chủ Cấp Cô Độc sau khi ở nơi tịnh xá ngoại đạo khuất phục dị luận, kiến lập chánh luận, ở trong chúng ngoại đạo rống lên tiếng rống sư tử, ông đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, ngồi xuống một bên, đem cuộc đàm luận với ngoại đạo thuật lại hết lên Thế Tôn.

Phật nói với Gia chủ Cấp Cô Độc:

“Lành thay! lành thay! Hãy nên tuỳ lúc hàng phục các ngoại đạo ngu si mà kiến lập chánh luận.”

Phật nói kinh này xong. Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ đảnh lễ mà lui.

KINH 1350. TRƯỜNG TRẢO [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có tu sỹ ngoại đạo là Trường Trảo [14] đến chỗ Phật, cùng Thế Tôn chào hỏi an úy xong, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, tôi không chấp nhận mọi sở kiến.” [15]

Phật nói với:

“Này Hỏa chủng, [16] Ông nói không chấp nhận mọi sở kiến, vậy sở kiến này cũng chẳng chấp nhận luôn chăng?”

Trường Trảo ngoại đạo nói:

“Đã nói không chấp nhận mọi sở kiến thì cái sở kiến này cũng không chấp nhận.”

Phật nói với Hỏa Chủng:

“Biết như vậy, thấy như vậy thì sở kiến này đã đoạn, đã xả, đã lìa, các sở kiến khác không còn tương tục, không khởi, không sinh. Này Hỏa chủng, nhiều người có cùng sở kiến như Ông. Nhiều người cũng thấy như vậy, nói như vậy, Ông cùng với họ giống nhau. Này Hỏa chủng,  nếu Sa-môn, bà-la-môn nào xả bỏ các kiến chấp kia, các kiến chấp khác không khởi, hàng Sa-môn, Bà-la-môn này rất ít có ở thế gian.

“Này Hỏa chủng, y cứ vào ba loại kiến. Những gì là ba? Có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi chấp nhận tất cả.’ Lại có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi không chấp nhận tất cả.’ Lại có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần.’

“Này Hỏa Chủng, nếu chủ trương chấp nhận tất cả, kiến chấp này cùng sinh với tham, chẳng phải không tham; cùng sinh với nhuế, chẳng phải không nhuế; cùng sinh với si, chẳng phải không si; ràng buộc, chẳng lìa ràng buộc; phiền não, chẳng thanh tịnh; ái lạc, chấp thủ, nhiễm trước sinh. Hay nếu có kiến chấp như vầy: ‘Ta không chấp nhận tất cả’, kiến chấp này chẳng cùng sinh với tham, chẳng cùng sinh với nhuế, chẳng cùng sinh với si; thanh tịnh, không phiền não; lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; không ái lạc, không chấp thủ, không nhiễm trước sinh.

“Này Hỏa Chủng, hay nếu có kiến chấp như vầy: ‘Ta chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần.’ Vậy nếu chấp nhận thì câu hữu với tham, ... cho đến sinh nhiễm trước; còn nếu không chấp nhận thì ly tham... cho đến không sinh nhiễm trước.

“Đa văn Thánh đệ tử kia hãy học: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta chấp nhận tất cả,’ thì sẽ bị hai hạng người chê trách và cật vấn. Những gì là hai?  Là người không chấp nhận tất cả, và người một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận. Họ sẽ bị hai hạng người này chê trách. Vì bị chê trách nên bị cật vấn. Vì bị cật vấn nên bị hại. Kiến chấp kia vì bị chê trách, bị cất vấn, bị phá hại nên họ xả bỏ kiến chấp đó, còn những kiến chấp khác thì không còn sinh trở lại. Cũng vậy, đoạn kiến, xả kiến, ly kiến, các kiến khác, không còn tương tục, không khởi, không sinh.

“Đa văn Thánh đệ tử kia hãy học như vầy: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tất cả không chấp nhận,’ thì sẽ bị hai hạng người chê trách và hai hạng người cật vấn. Những gì là hai? Là người chấp nhận tất cả, và người một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận. Hai hạng người chê trách và cật vấn như vậy, ‘... cho đến không tương tục, không khởi, không sinh.’

“Đa văn Thánh đệ tử kia hãy học như vầy: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận,’ thì sẽ bị hai hạng người chê trách, hai hạng người cật vấn. Những gì là hai? Là người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta chấp nhận tất cả, và không chấp nhận tất cả.’ Hai trường hợp bị trách như vậy, ‘... cho đến không tương tục, không khởi, không sinh.’

“Lại nữa, Hỏa Chủng, thân có sắc gồm bốn đại thô kệch như vậy, Thánh đệ tử nên quán vô thường, quán sinh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả. Nếu Thánh đệ tử sống mà luôn quán vô thường, quán sinh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả, sống đối thân kia sự tham dục thuộc về thân, sự nhớ tưởng về thân, cảm thọ về thân, sự nhiễm về thân,  sự đắm trước về thân vĩnh viễn diệt trừ không còn.

“Này Hỏa Chủng, có ba thứ cảm thọ. Đó là khổ thọ, lạc thọ, và không khổ không lạc thọ. Ba thứ cảm thọ này cần có nhân gì, tập gì, sinh gì, chuyển gì? Ba cảm thọ này cần có xúc là nhân, do xúc tập, xúc sinh, xúc chuyển. Mỗi mỗi xúc tập khởi, thọ tập khởi; mỗi mỗi xúc diệt tận, thọ diệt tận; vắng lặng, trong mát, vĩnh viễn hết sạch. Người kia đối với ba thọ này, biết rõ khổ, biết rõ lạc, biết rõ không khổ không lạc; biết như thật mỗi mỗi thọ hoặc tập khởi, hoặc diệt tận, hoặc vị ngọt, hoặc tai hại, hoặc xuất ly. Khi đã biết như thật rồi, đối những thọ ấy liền quán sát vô thường, quán sinh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả bỏ. Người ấy ngay nơi toàn thân mình biết như thật các cảm thọ, nơi toàn phần sinh mạng mình biết như thật các cảm thọ. Nếu người ấy sau khi thân hoại, mạng chung, ngay lúc ấy các thọ hoàn toàn chấm dứt, không còn gì nữa. Bấy giờ, người ấy nghĩ rằng: ‘Lúc biết rõ cảm thọ lạc thì thân mình cũng hoại, lúc biết rõ cảm thọ khổ, thân mình cũng hoại, ngay lúc biết rõ cảm thọ chẳng lạc chẳng khổ, thân mình cũng hoại, thảy đều thoát khổ. Đối với cái cảm thọ lạc kia lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; đối với cái ccảm thọ khổ kia lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; đối với cái cảm thọ chẳng lạc chẳng khổ kia, lìa ràng buộc, chẳng bị ràng buộc. Lìa ràng buộc gì? Lìa tham dục, sân nhuế, ngu si; lìa sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ.’ Ta nói những điều này gọi là lìa khổ.”

Vào lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất vừa mới thọ giới cụ túc nửa tháng, Tôn giả đang cầm quạt đứng sau hầu Phật. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất tự nghĩ: ‘Thế Tôn đã khen ngợi nói, ở nơi pháp này, pháp kia mà đoạn dục, ly dục, diệt tận dục, xả dục.’ Tôn giả Xá-lợi-phất tức thì đối với từng pháp này quán sát vô thường, quán [350a] sinh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả bỏ, không khởi các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, xuất gia ngoại đạo Trường Trảo xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Ông thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ pháp, thâm nhập pháp, thoát khỏi các nghi hoặc, không do người khác độ, vào trong Chánh Pháp Luật, được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ Phật, và chấp tay bạch Phật:

“Con xin được xuất gia thọ giới cụ túc ở trong chánh pháp luật, ở trong phật pháp tu các Phạm hạnh.”

Phật nói với xuất gia ngoại đạo Trường Trảo:

“Ông được xuất gia thọ cụ túc trở thành Tỳ kheo, ở trong Chánh Pháp Luật.”

Được xuất gia trở thành Thiện lai Tỳ kheo. Ông suy nghĩ lý do người thiện nam cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà... cho đến tâm thiện giải thoát đắc A-la-hán.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Truòng Trảo nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1351. XÁ-LA-BỘ [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có xuất gia ngoại đạo tên là Xá-la-bộ [18]  ở bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà; [19] giữa đồ chúng của mình, tự tuyên bố như vầy: “Pháp của Sa-môn họ Thích, ta biết hết. Trước đây ta đã biết Pháp Luật kia nhưng buông bỏ hết.”

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo sáng sớm khóac y ôm bát vào thành Vương Xá khất thực, nghe ngoại đạo tên Xá-la-bộ ở bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà, giữa đồ chúng mình tuyên bố như vầy: “Pháp của Sa-môn họ Thích, ta biết hết. Trước đây ta đã biết Pháp Luật kia nhưng buông bỏ hết.” Sau khi nghe những lời này, khất thực rồi họ trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng nay chúng con khóac y, mang bát vào thành Vương Xá khất thực, [250b] nghe xuất gia ngoại đạo tên là Xá-la-bộ ở bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà, giữa đồ chúng của mình tuyên bố như vầy: ‘Pháp của Sa-môn họ Thích, ta biết hết. Trước đây ta đã biết Pháp Luật kia nhưng buông bỏ hết.’ Lành thay! Cúi xin Thế Tôn vì thương xót Xá-la-bộ, mà đích thân đến bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà.”

Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Vào buổi chiều sau khi từ thiền tịnh dậy, Phật đi đến chỗ Xá-la-bộ bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà. Xuất gia ngoại đạo Xá-la-bộ từ xa trông thấy Thế Tôn đến, lo sửa soạn chỗ ngồi, thỉnh Phật ngồi. Sau khi Thế Tôn an tọa, Ngài nói với Xá-la-bộ:

“Ông có thật nói như vầy: ‘Pháp của Sa-môn họ Thích, ta biết hết. Sau khi đã biết hết rồi,ta  buông bỏ hết’ không?”

Lúc ấy, Xá-la-bộ im lặng không đáp.

Phật bảo Xá-la-bộ:

“Ông hãy nói đi. Vì sao im lặng? Nếu sự hiểu biết của ông đầy đủ thì Ta sẽ tùy hỷ. Nếu sự hiểu biết của ông chưa đầy đủ, Ta sẽ giúp cho ông đầy đủ.”

Xá-la-bộ vẫn im lặng. Nói như vậy hai, ba lần, nhưng cả ba lần ông cũng vẫn giữ im lặng. Lúc ấy, Xá-la-bộ có một đệ tử phạm hạnh, bạch Xá-la-bộ rằng:

“Thưa Thầy, lý ra Thầy nên đi đến Sa-môn Cù-đàm trình bày tri kiến của mình. Hôm nay Sa-môn Cù-đàm đã tự đến đây, vì sao Thầy không nói? Sa-môn Cù-đàm lại nói với Thầy: Nếu đầy đủ thì Ngài sẽ tùy hỷ; nếu không đầy đủ Ngài sẽ giúp cho đầy đủ. Vì sao Thầy im lặng mà không nói?”

Khi người đệ tử phạm hạnh khuyên, Ông vẫn lặng thinh. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-la-bộ:

“Nếu có người nói: ‘Sa-môn Cù-đàm không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác.’ Ta khéo can gián, khéo cật vấn. Khi được khéo can gián, khéo cật vấn, người kia nói lảng qua những việc khác; hoặc phẫn nộ, kiêu mạn, che dấu, phẫn hận, chống đối, không chấp nhận, không có cách gì tỏ bày; hoặc im lặng xấu hổ cúi đầu, âm thầm tự nghĩ, tự xét; như Xá-la-bộ hôm nay.

„Hoặc lại có người nói như vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm không có [20] Chánh Pháp Luật.’ Ta khéo can gián, khéo cật vấn. Người kia cũng ngồi im như Ông hôm nay.

“Hay lại có người nói: ‘Đệ tử [21] của Sa-môn Cù-đàm không phải là bậc thiện hướng. [22]’ Ta sẽ khéo can gián, khéo cật vấn. Người kia cũng ngồi im như Ông hôm nay.”

Bấy giờ, Thế Tôn ở bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà rống lên tiếng rống sư tử, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi. Lúc ấy, đệ tử phạm hạnh của Xá-la-bộ nói với Xá-la-bộ:

“Giống như trâu [250c] bị cắt đi hai cái sừng, nhốt vào trong chuồng trâu trống, nó quỳ xuống đất rống to. Thầy cũng như vậy, ở trong chúng không có đệ tử  của Sa-môn Cù-đàm thì làm sư tử rống.

“Giống như người con gái muốn nói giọng đàn ông, nhưng khi phát ra tiếng, vẫn là tiếng đàn bà. Thầy cũng như vậy, ở trong chúng không có đệ tử  của Sa-môn Cù-đàm thì làm sư tử rống.

“Giống như con dã can muốn kêu tiếng sư tử [23], nhưng khi phát ra tiếng thì vẫn là tiếng dã can. Thầy cũng như vậy, lúc không có Sa-môn Cù-đàm thì Thầy ở giữa chúng đệ tử của mình muốn làm sư tử rống.”

Sau khi đệ tử phạm hạnh của Xá-la-bộ ở trước Xá-la-bộ nói ra những lời trách cứ, hủy báng rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

 

KINH 1352. THƯỢNG TỌA [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, bên bờ ao Tu-ma-kiệt-đà trong thành Vương Xá, có xuất gia ngoại đạo tên là Thượng Tọa [25] đang ở cạnh hồ này. Ông ở trong chúng của mình tuyên bố như vầy: “Tôi nói một bài kệ, nếu ai có thể đáp được, tôi sẽ theo vị ấy tu hành phạm hạnh.”

Sáng sớm hôm ấy, có nhiều Tỳ-kheo khóac y, ôm bát vào thành Vương Xá khất thực, nghe có xuất gia ngoại đạo tên là Thượng Tọa ở cạnh bờ ao Tu-ma-kiệt-đà; vị này ở trong chúng của mình tuyên bố như vầy: “Tôi nói một bài kệ, nếu ai có thể đáp được, tôi sẽ theo vị ấy tu hành phạm hạnh.” Các Tỳ-kheo khất thực xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chn Phật, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm các Tỳ-kheo chúng con vào thành khất thực, nghe xuất gia ngoại đạo tên là Thượng Tòa ở cạnh bờ ao Tu-ma-kiệt-đà, giữa đồ chúng của mình tuyên bố như vầy: ‘Tôi nói một bài kệ, nếu ai đáp được, tôi sẽ theo vị ấy tu hành phạm hạnh.’ Cúi xin Thế Tôn vì thương xót nên đích thân đến ông ấy.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Buổi chiều hôm đó sau khi từ thiền tịnh dậy, Phật đi đến bờ ao Tu-ma-kiệt-đà. Khi xuất gia ngoại đạo Thượng Tòa từ xa trông thấy Thế Tôn, liền trải chỗ ngồi, thỉnh Phật an tọa. Thế Tôn ngồi xong, nói với xuất gia ngoại đạo Thượng Tòa rằng:

“Có thật ông đã nói những lời như vầy: ‘Tôi nói một bài kệ, nếu ai đáp được, tôi sẽ theo vị ấy tu hành phạm hạnh’  chăng? Bây giờ ông hãy nói kệ, Ta có thể đáp lại.”

Lúc ấy, ngoại đạo kia chất giường giây [26] lên thành chỗ ngồi cao, tự mình lên đó ngồi, và nói kệ:

 [251a]Tỳ-kheo sống đúng pháp,

Không khủng bố chúng sanh,

Ý lặng, hành xả ly,

Trì giới thuận đình chỉ.

Bấy giờ, Thế Tôn biết rõ tâm ngoại đạo Thượng Tòa này, Ngài liền nói kệ:

Nếu Ông tự hành theo

Những gì kệ ông nói;

Đối với ông, Ta sẽ

Xem như người hiền thiện.

Xét những gì ông nói,

Nói, làm không tương ưng.

Người giữ gìn tịnh giới:

Tĩnh lặng, tự điều phục;

Chớ khủng bố chúng sanh;

Ý tĩnh lặng, xa lìa.

Thuận điều phục, tĩnh lặng;

Tâm, miệng, thân lìa ác.

Khéo nhiếp nơi trụ xứ,

Không để cho phóng dật:

Đây gọi là tùy thuận,

Điều phục và tĩnh lặng.

Khi ấy, xuất gia ngoại đạo Thượng Tòa tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Ông liền từ trên chỗ ngồi bước xuống, chấp tay bạch Phật:

“Nay con có thể xuất gia thọ cụ túc, trở thành pháp Tỳ-kheo, ở nơi Chánh pháp Luật được chăng?”

Phật bảo xuất gia ngoại đạo Thượng Tòa:

“Nay ông có thể xuất gia thọ cụ túc, trở thành Tỳ-kheo ở trong Chánh Pháp Luật.”

Sau khi xuất gia ngoại đạo Thượng Tòa đã xuất gia và trở thành Tỳ-kheo rồi, tự suy nghĩ về lý do khiến cho người thiện nam cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà, ...  cho đến tâm thiện giải thoát, đắc A-la-hán.

KINH 1353. TAM ĐẾ [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có nhiều tu sỹ Ba-la-môn ở cạnh ao Tu-ma-kiệt-đà, tập họp lại một chỗ bàn luận như vầy: “Đây là chân lý của Bà-la-môn! [28] Đây là chân lý của Ba-la-môn!”

Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm của các xuất gia Bà-la-môn kia, Ngài đi đến bờ ao Tu-ma-kiệt-đà. Lúc ấy, các xuất gia bà-la-môn từ xa trông thấy dức Phật đang đến, liền sửa soạn chỗ ngồi cho Phật, thỉnh Phật an tọa. Phật ngồi vào chỗ ngồi xong, nói với các xuất gia Bà-la-môn:

“Các Ông tụ tập ở bờ ao Tu-ma-kiệt-đà này để bàn luận những gì?”

Xuất gia Bà-la-môn bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, số đông các tu sỹ Bà-la-môn chúng tôi tập họp nơi đây bàn luận như vầy: Đây là chân lý của Bà-la-môn! [251b] Đây là chân lý của Ba-la-môn! ”

Phật bảo các xuất gia Bà-la-môn:

“Có ba chân lý của Bà-la-môn [29] mà Ta đã tự mình giác ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, lại vì người diễn nói. Xuất gia Bà-la-môn các Ông nói như vầy: ‘Không hại tất cả chúng sanh.’ Đó là chân lý của Bà-la-môn, chẳng phải hư dối. Đối với chấn lý đó, họ không hệ lụy để nói với nhau rằng: ‘Ta hơn, rằng ta bằng, rằng ta kém.’ [30] Nhưng đối với tất cả thế gian biểu hiện lòng từ, đó gọi là chân lý thứ nhất của bà-la-môn, mà Ta đã tự giác ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, và vì người diễn nói.

“Lại nữa, Bà-la-môn nói như vầy: ‘Những gì là pháp tập khởi [31] đều là diệt pháp.’ Đó là chân lý, chẳng phải là hư vọng. ... cho đến đối với chân đế này chẳng chấp trước, và đối với tất cả thế gian mà quán sát sinh diệt. Đó gọi là chân lý thứ hai của bà-la-môn.

“Lại nữa, Bà-la-môn nói vầy: ‘Không có ta bất cứ ở đâu, bất cứ sự gì, hoàn toàn không có gì. Không có ta bất cứ ở đâu, bất cứ sự gì, hoàn toàn không có gì.’ [32]  Đó là chân lý, chẳng phải hư vọng, như trước đã nói, ... cho đến đối với chân lý kia không bị trói đắm, và đối với tất cả thế gian vô ngã như nhau. Đó gọi là chân lý thứ ba của Ba-la-môn, Ta đã tự giác ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, và vì người diễn nói.”

Bấy giờ các xuất gia Bà-la-môn đều ngồi im lặng. Thế Tôn nghĩ rằng: “Hôm nay Ta soi sáng sự ngu si của họ, tiêu diệt điều ác của họ, nhưng hiện tại trong chúng này không có một người có khả năng tự suy xét, muốn tạo nhân duyên để ở trong pháp của Sa-môn Cù-đàm tu hành phạm hạnh!”

Ngài đã biết như vậy rồi, nên từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

KINH 1354. CHIÊN-ĐÀ [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cù-sư-la, tại nước Câu-diệm-di. Bấy giờ Tôn giả A-nan cũng ở đó.

Lúc ấy có xuất gia ngoại đạo tên là Chiên-đà [34] đi đến chỗ Tôn giả A-nan, cùng thăm hỏi khích lệ nhau xong, ngồi xuống một bên. Ông hỏi Tôn giả A-nan:

“Vì lý do gì Tôn giả xuất gia tu phạm hạnh ở nơi Sa-môn Cù-đàm?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Vì muốn đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si, nên tôi xuất gia tu phạm hạnh ở nơi Sa-môn Cù-đàm.”

Chiên-đà lại hỏi:

“Vị ấy có thể nói về sự  đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si chăng?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Tôi cũng có thể nói về sự đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si.”

Chiên-đà lại hỏi:

“Ngài thấy tham dục, sân nhuế, ngu si có những sai lầm, tai hại gì mà nói đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si?”

A-nan đáp:

“Vì sự nhiễm trước tham dục, [251c] làm che mờ tâm nên hoặc tự hại mình, hoặc hại người, hoặc hại cả hai, hiện tại mắc tội, đời sau mắc tội, hiện tại, đời sau cả hai đều mắc tội; tâm người ấy lúc nào cũng cảm thấy buồn khổ. Nếu khi bị sân nhuế che mờ, ngu si che mờ thì nó tự hại mình, hại người, mình người đều hại ... cho đến lúc nào cũng có cảm giác buồn khổ.

“Lại nữa, tham dục là sự mù quáng, là không có mắt, là không có trí, làm tuệ lực sút kém, làm chướng ngại, không phải là minh, chẳng phải Đẳng giác, chẳng chuyển hướng đến Niết-bàn. Sân nhuế, ngu si cũng lại như vậy. Tôi thấy tham dục, sân nhuế, ngu si có những sai lầm tai hại như vậy nên nói phải đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si.”

Chiên-đà lại hỏi:

“Ngài thấy đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si có phước lợi gì mà nói đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si ?”

A-nan đáp:

“Đoạn tham dục rồi thì không tự hại, cũng không hại người, cũng không hại cả hai. Hiện tại không mắc tội, đời sau không mắc tội; hiện tại, đời sau đều không mắc tội, tâm pháp lúc nào cũng cảm thấy hoan hỷ, an lạc. Sân nhuế, ngu si cũng như vậy, trong hiện tại lúc nào cũng xa lìa nhiệt não, không đợi thời tiết, chứng đắc ngay trong hỉện tại, duyên nơi chính mình mà thấy biết. Do những công đức lợi ích như vậy, nên tôi nói cần đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si.”

Chiên-đà lại hỏi Tôn giả A-nan:

“Có đạo, có đạo tích nào, mà tu tập, tu tập thường xuyên thì có thể đoạn được tham dục, sân nhuế, ngu si không?”

A-nan đáp:

“Có. Đó là Thánh đạo tám chi: Chánh kiến ... cho đến chánh định.”

Ngoại đạo Chiên-đà thưa Tôn giả A-nan:

“Đây là đạo hiền thiện vậy thay! Là tích hiền thiện vậy thay! Nếu tu tập, tu tập nhiều thì sẽ có khả năng đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si.”

Ngoại đạo Chiên-đà sau khi nghe Tôn giả A-nan nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

KINH 1355. BỔ-LŨ-ĐÊ-CA (1) [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, Thế Tôn vì Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết nhiều pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ xong, đức Phật im lặng. Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu đảnh lễ sát chân mà đi.

Lúc ấy, có xuất gia ngoại đạo tên Bổ-lũ-đê-ca [36] trên đường đi ngược lại. Ông hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Ngài từ đâu lại?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Này Hỏa Chủng, [252a] tôi từ chỗ Thế Tôn, nghe Đại Sư nói pháp, dạy dỗ, rồi tới đây.”

Bổ-lũ-để-ca hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Đến nay vẫn còn chưa dứt sữa, vẫn theo Đại Sư nghe thuyết pháp, thọ lãnh pháp chăng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Này Hỏa Chủng, tôi không dứt sữa, mà vẫn ở nơi Đại Sư nghe thuyết pháp, thọ lãnh pháp.”

Bổ-lũ-đề-ca nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tôi đã lìa sữa từ lâu, xả bỏ những gì thầy đã truyền dạy.”

Xá-lợi-phất nói:

“Pháp của Ông là pháp luật được diễn thuyết một cách tệ hại, được giác ngộ một cách tệ hại; chẳng phải là pháp xuất ly, chẳng phải là đạo chánh giác, là pháp hư hoại, chẳng phải pháp đáng để khen ngợi, chẳng phải pháp đáng để y chỉ.

“Lại nữa, vị thầy kia không phải là bậc Đẳng Chánh Giác, cho nên ông nhanh chóng lìa bỏ sữa, lìa bỏ giáo pháp của thầy. Ví như con bò sữa, cộc cằn hung dữ, dịch sữa lại ít. Nghé con bú sữa xong vội vã bỏ đi. Cũng vậy, pháp luật như vậy được diễn thuyết một cách tệ hại, được giác ngộ mọt cách tệ hại; chẳng phải là pháp xuất ly, chẳng phải là đạo chánh giác, là pháp hư hoại, chẳng phải pháp đáng để khen ngợi, chẳng phải pháp đáng để y chỉ.

“Lại nữa, vị thầy ấy không phải là bậc Đẳng Chánh Giác, cho nên Ông nhanh chóng lìa bỏ giáo pháp của thầy ông đã dạy. Pháp mà tôi có là Chánh Pháp Luật, là thiện giác, là xuất  ly, là đạo chánh giác, chẳng hoại, đáng để khen ngợi, đáng để y chỉ.

“Lại nữa, Đại Sư của tôi là bậc Đẳng Chánh Giác, cho nên từ lâu tôi được uống dòng sữa của Ngài, được nghe Đại Sư dạy dỗ chánh pháp. Ví như con bò sữa không cộc cằn hung dữ, lại có nhiều dịch sữa. Nghé con  cùa nó uống sữa lâu mà không chán. Pháp của tôi cũng vậy, là Chánh Pháp Luật ... cho đến từ lâu tôi đã được nghe và lãnh thọ giáo pháp.”

Khi ấy, Bổ-lũ-đê-ca nói với Xá-lợi-phất:

“Tôn giả chóng được thiện lợi nơi Chánh Pháp Luật ... cho đến từ lâu đã được nghe và lãnh thọ giáo pháp.”

Xuất gia ngoại đạo Bổ-lũ-để-ca nghe những gì Xá-lợi-phất nói xong, hoan hỷ, tùy hỷ, lên đường mà đi.

 

KINH 1356. BỔ-LŨ-ĐÊ-CA (2) [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ xuất gia ngoại đạo Bổ-lũ-đê-ca đi đến chỗ Phật. Sau khi cùng Thế Tôn chào hỏi an úy xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, hôm trước có nhiều xuất gia ngoại đạo Sa-môn, Bà-la-môn tập họp ở giảng đường Vị tằng hữu [38] bàn luận như vầy: ‘Trí tuệ của Sa-môn Cù-đàm như cái nhà trống, [39] không thể ở giữa chỗ đông người kiến lập luận nghị: Điều này nên, điều này không nên; điều này hợp, điều này không hợp. Như con bờ đui đi ngoài bờ ruộng không vào trong ruộng. Sa-môn Cù-đàm cũng lại như vậy, không có điều gì [252b] nên, không nên; không có điều gì hợp, không hợp.’ ”

Phậy bảo Bổ-lũ-đê-ca:

“Sự bàn luận của các ngoại đạo này nói ‘nên hay không nên; hợp hay không hợp’,  trong chánh Pháp Luật như trò đùa của trẻ con. Ví như người tám, chín mươi tuổi, tóc bạc, răng rụng, làm trò đùa như trẻ con, dùng đất bùn nặn ra các thứ hình voi, ngựa. Mọi người đều nói: ‘Đây là bé con già tuổi.’ Cũng vậy, này Hỏa Chủng, các thứ luận thuyết cho rằng: ‘Nên không nên, hợp không hợp’ đối với Thánh Pháp Luật như trò đùa của trẻ con. Nhưng ở trong đó không có gì cho Tỳ-kheo cần nỗ lực cả.”

Bổ-lũ-để-ca bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, ở nơi nào có điều mà Tỳ-kheo cần nỗ lực?”

Phật bảo ngoại đạo:

“Cái gì không thanh tịnh khiến cho thanh tịnh; đó là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực.  Không điều phục khiến họ điều phục; đó là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực. Không định khiến cho họ được chánh định; đó là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực. Không giải thoát khiến họ được giải thoát; đó là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực. Không đoạn khiến cho đoạn, không biến tri khiến cho biến tri, không tu khiến cho tu, không đắc khiến cho đắc; đó là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực.

“Thế nào là không thanh tịnh khiến thanh tịnh? Giới chưa thanh tịnh làm cho giới thanh tịnh. Thế nào là chưa điều phục làm cho điều phục? Các căn mắt, các căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý chưa điều phục khiến điều phục đầy đủ; đó gọi là không điều phục khiến họ điều phục. Thế nào là không định khiến họ được chánh định? Tâm không chánh định khiến cho được chánh định. Thế nào là không giải thoát khiến được giải thoát? Tâm không giải thoát tham dục, sân nhuế, ngu si khiến được giải thoát. Thế nào là không đoạn khiến đoạn? Vô minh, hữu ái không đoạn khiến đoạn. Thế nào là không biến tri khiến biến tri? Đối với danh sắc không biến tri khiến biến tri. Thế nào là không tu khiến cho tu? Đối với chỉ quán không tu khiến tu. Thế nào là không đắc khiến đắc? Đối Niết-bàn chưa đắc khiến đắc. Đây gọi là chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực.”

Bổ-lũ-để-ca bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, đây là mục đích mà Tỳ-kheo cần nỗ lực; đây là sự kiên cố mà chỗ Tỳ-kheo cần nỗ lực; tức là tận trừ các hữu lậu.”

Sau khi nghe những gì Phật dạy, xuất gia ngoại đạo Bổ-lũ-đê-ca hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

KINH 1357. THI-BÀ (1) [40]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ có xuất gia ngoại đạo tên là Thi-bà [41] đến chỗ Phật. Sau khi cùng Thế Tôn  chào đón thăm hỏi an úy, ông ngồi xuống một bên, bạch [252c] Phật:

“Thưa Cù-đàm, thế nào là học? Gọi là học, vậy thế nào là học?”

Phật bảo Thi-bà:

“Học những gì hãy học, nên gọi là học.”

Thi-bà bạch Phật:

“Học những gì?”

Phật bảo Thi-bà:

“Tùy thời học tăng thượng giới, học tăng thượng tâm, học tăng thượng tuệ.”

Thi-bà bạch Phật:

“Tỳ-kheo A-la-hán mà các lậu đã tận, những việc làm đã xong, đã trút bỏ các gánh nặng, chóng được tự lợi, tận trừ những kết sử của hữu, bằng chánh trí mà khéo giải thoát, bấy giờ vị ấy lại còn phải học những gì nữa?”

Phật bảo Thi-bà:

“Nếu Tỳ-kheo A-la-hán mà các lậu đã tận ... cho đến chánh trí khéo giải thoát, lúc bấy giờ giác tri tham dục vĩnh viễn sạch hết không còn, giác tri sân nhuế, ngu si vĩnh viễn sạch hết không còn, nên không còn tạo lại các điều ác, lúc nào cũng thực hành các điều lành. Thi-bà, đó gọi là học những gì cần học.”

Xuất gia ngoại đạo Thi-bà sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.

KINH 1358. THI-BÀ (2) [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ xuất gia ngoại đạo Thi-bà [43] đi đến chỗ Phật. Sau khi cùng Thế Tôn thăm hỏi an úy xong, ông ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, có một số xuất gia Bà-la-môn quan điểm như vầy, nói như vầy: ‘Tất cả những gì được giác tri bởi con người, tất cả những thứ ấy đều là nhân đã được tạo tác từ trước. [44] Tu các khổ hạnh khiến cho các nghiệp quá khứ sạch hết, không còn tạo ra nghiệp mới, đoạn các nhân duyên, không còn các lậu trong đời vị lai. Vì các lậu đã hết nên nghiệp hết. Vì nghiệp hết nên hết khổ. Khổ hết nên rốt rát biên tế của khổ.’  Ở đây quan điểm của Cù-đàm là như thế nào?”

Phật bảo Thi-bà:

“Sa-môn, Ba-la-môn kia thật sự nói một cách mơ hồ, không suy xét, không cân nhắc, ngu si, không khéo léo, không biện biệt. Vì sao? Hoặc khổ khởi lên do gió mà chúng sanh giác tri, hoặc khởi do đờm, hoặc khởi từ nước dãi, hoặc khởi từ đẳng phần, [45] hoặc do tự hại, hoặc do kẻ khác hại, hoặc do thời tiết khí hậu. Người tự hại kia, hoặc nhổ tóc, hoặc nhổ râu, hoặc thường đứng giơ tay, hoặc ngồi xổm trên đất, hoặc nằm giữa tro đất, hoặc nằm trên chông gai, hoặc nằm trên cái chày, hoặc nằm trên ván, hoặc nằm trên đất trét phân trâu, hoặc nằm trong nước, hoặc một ngày tắm rửa ba lần, hoặc đứng một chân, thân xoay chuyển theo mặt trời. Họ siêng năng thực hành mọi thứ khổ như vậy. Này Thi-bà, đó gọi là tự hại. Còn khổ do hay kẻ khác hại là, hoặc bị người khác dùng tay, đá, dao, gậy, các thứ hại thân. Đó gọi là kẻ khác làm hại.

“Này Thi-bà, [253a] hoặc bị thời tiết làm hại, như mùa đông thì thật lạnh, mùa xuân thì thật nóng, mùa hạ vừa nóng vừa lạnh. Đó là bị thời tiết hại. Những điều này thật có ở thế gian, chẳng phải hư vọng. Này Thi-bà, thế gian có những thực tế này như bị gió làm hại ... cho đến bị thời tiết, khí hậu làm hại. Chúng sanh kia giác tri như thật. Ông cũng tự có những tai họa này: gió, đờm, nước dãi, thời tiết làm hại, ... cho đến biết thời tiết làm hại như vậy, được giác tri như thật như vậy.

“Này Thi-bà, Sa-môn, Bà-la-môn nào nói rằng: tất cả những gì người ta tri giác được đều là nhân đã được tạo từ trước, đó là bỏ việc thực tế ở thế gian mà nói theo sự nhận thấy hư vọng của chính mình.

“Này Thi-bà, có năm nhân năm duyên sinh tâm ưu khổ. Những gì là năm? Nhân bởi tham dục triền phược, duyên bởi tham dục triền phược mà sinh tâm pháp ưu khổ. Nhân bởi sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi triền phược; duyên bởi sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi triền phược sinh tâm pháp ưu khổ. Này Thi-bà, đó là là năm nhân, năm duyên sanh tâm ưu khổ?

“Này Thi-bà, có năm nhân, năm duyên không sanh tâm ưu khổ. Những gì là năm? Nhân tham dục trói buộc, duyên tham dục trói buộc sinh tâm ưu khổ; lìa tham dục trói buộc, không khởi tâm ưu khổ. Đây gọi là năm nhân, năm duyên không khởi tâm ưu khổ, ngay hiện tại không bị thiêu đốt, không đợi thời tiết, thông suốt những gì được thấy, duyên nơi chính mình mà giác tri.

“Này Thi-bà, lại có pháp hiện tại không bị thiêu đót, không đợi thời tiết, đó là tám chi Thánh đạo, chánh kiến ... cho đến chánh định.”

Lúc nói pháp này, xuất gia ngoại đạo Thi-bà xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Thi-bà thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, thâm nhập pháp, lìa hồ nghi, không do người khác, vào trong chánh Pháp luật, đắc vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay con có thể xuất gia, thọ cụ túc, trở thành Tỳ-kheo ở trong chánh Pháp Luật  chăng?”

Phật bảo Thi-bà:

“Nay người được xuất gia…” Nói như trên, ... cho đến tâm thiện giải thoát, đắc A-la-hán.

 

KINH 1359. THƯƠNG CHỦ [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Hảo-y am-la [47] tại thôn Na-la. Bấy giờ tại thôn Na-la có Thương Chủ [48] xuất gia ngoại đạo, đã một trăm hai mươi tuổi, các căn suy yếu, được các trưởng giả, Bà-la-môn, cư sỹ thôn Na-la tôn trọng, cúng dường như bậc A-la-hán.

Thương Chủ [253b] xuất gia ngoại đạo kia trước đây có một người thân, mệnh chung sinh về cõi trời. Ông ở cõi trời kia nhìn thấy Thương Chủ xuất gia ngoại đạo, nghĩ rằng: “Ta muốn muốn đến bảo Thương Chủ xuất gia ngoại đạo đến chỗ Thế Tôn, tu hành phạm hạnh. Sợ ông ta không nghe theo lời ta. Nay ta nên đến đó, bằng ý luận [49] khiến cho hỏi.”

Sau đó vị trời này hiện thân xuống thôn Na-la, đi đến chỗ Thương Chủ xuất gia ngoại đạo kia và nói kệ rằng:

Sao là ác tri thức,

Hiện tướng thiện tri thức?

Sao là thiện tri thức,

Đồng một thể như mình?

Vì sao cầu đoạn trừ?

Làm sao lìa thiêu đốt?

“Này Tiên nhân, nếu ông đem ý luận này hỏi những người kia, ai có thể giải rõ, nói nghĩa kia và đáp được cho ông thì ông nên theo người ấy xuất gia tu phạm hạnh.”

Thương Chủ xuất gia ngoại đạo nhận những lời mách bảo của vị trời nọ, bèn đi đến chỗ Phú-la-na Ca-diếp, đem ý của bài kệ này hỏi Phú-lan-na Ca-diếp. Phú-lan-na Ca-diếp còn không thể hiểu được huống chi là có thể đáp lại.

Sau đó Thương chủ xuất gia ngoại đạo đi đến chỗ Mạt-ca-lê-cù-xá-lợi Tử, San-xà-gia-tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa-chỉ-xá-khâm-ba-la, Ca-la-câu-đà Ca-chiên-diên, Ni-càn-đà-nhã-đề Tử, đều đem ý của bài kệ này để hỏi, tất cả đều không thể đáp.

Khi đó Thương chủ xuất gia ngoại đạo nghĩ rằng: “Ta đem ý luận bài kệ này hỏi các bậc thầy xuất gia, tất cả đều không đáp được. Nay ta lại muốn cầu xuất gia, hiện tại ta tự có tiền của, chẳng bằng trở về nhà hưởng thụ ngũ dục.” Lại suy nghĩ: “Nay ta hãy đến Sa-môn Cù-đàm. Nhưng các vị ngươi Sa-môn, Bà-la-môn kỳ cựu như Phú-la-na Ca-diếp v.v... đều không thể đáp, mà Sa-môn Cù-đàm xuất gia tuổi trẻ, sao có thể thấu tỏ được. Nhưng ta nghe bậc tiên túc nói: ‘Chớ khinh người xuất gia tuổi trẻ mới học. Hoặc có Sa-môn xuất gia tuổi trẻ oai đức lớn.’  Hôm nay ta sẽ đến Sa-môn Cù-đàm, đem ý luận tâm niệm này để hỏi.”

Bấy giờ, Thế Tôn biết được tâm niệm của Thương chủ kia, liền nói kệ:

Sao là ác tri thức,

Hiện tướng là thiện hữu?

 [253c]Trong tâm thật xấu, tởm,

Miệng nói: tôi đồng tâm;

Việc làm không vui chung.

Biết đó không phải bạn.

Miệng nói lời yêu mến,

Tâm chẳng thật tương ưng,

Việc làm cũng không đồng.

Bậc tuệ nên giác tri,

Đây là ác tri thức.

Cùng ta đồng một thể,

Sao là thiện tri thức?

Cùng ta đồng một thể,

Chẳng phải thiện hữu kia:

Buông lung không chế ngự,

Bại hoại, ôm nghi hoặc.

Suy xét tìm manh mối,

An nơi thiện tri thức,

Như con trong lòng cha,

Không phải kẻ bên ngoài:

Đó là thiện tri thức.

Vì sao cầu đoạn tận?

Sinh vào nơi hoan hỷ,

Trong mát, đáng khen ngợi,

Tu tập quả phước lợi,

Trọn tĩnh lặng, mát mẻ,

Cho nên cầu đoạn tận.

Thế nào là thiêu đốt?

Vị tịch tĩnh vắng lặng,

Biết vị viễn ly kia,

Viễn ly ác thiêu đốt,

Nếm được vị pháp hỷ,

Tịch diệt lìa lửa dục,

Đó gọi lìa thiêu đốt.

Bấy giờ, Thương Chủ xuất gia ngoại đạo tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm niệm của ta.” Ông liền bạch Phật:

“Nay con có được xuất gia tu phạm hạnh, thọ giới cụ túc, trở thành Tỳ-kheo ở trong chánh Pháp Luật của Sa-môn Cù-đàm chăng?”

Phật bảo Thương Chủ xuất gia ngoại đạo:

“Nay Ông có thể được xuất gia tu phạm hạnh, thọ giới cụ túc, trở thành Tỳ-kheo ở trong chánh Pháp Luật.”

Sau khi được xuất gia như vậy rồi ông tư duy ... cho đến tâm thiên giải thoát, đắc quả A-la-hán.

KINH 1360. TU-BẠT-ĐÀ-LA [50]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong rừng Sa-la Song thọ, sinh địa của dòng họ Lực sỹ, nước Câu-di-na-kiệt. [51] Bấy giờ Thế Tôn sắp Niết-bàn, Ngài bảo Tôn giả A-nan:

“Hãy treo giường dây giữa hai cây Sa-la đầu hướng về Bắc. Trong đêm nay Như Lai sẽ ở trong Vô dư Niết-bàn giới mà nhập bát-niết-bàn.”

Khi ấy Tôn giả A-nan vâng lời dạy treo giường dây giữa hai cây Sa-la đầu hướng về Bắc. Xong rồi, Tôn giả đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, đứng lui qua một bên, [254a] bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đã treo giường dây giữa hai cây song thọ, đầu hướng về Bắc.”

Bấy giờ, Thế Tôn đến giữa hai cây nằm trên giường dây đầu quay về hướng Bắc, nghiêng bên hông phải, hai chân chồng lên nhau, buộc niệm vào ánh sáng, chánh niệm, chánh trí.

Lúc ấy, trong nước Câu-di-na-kiệt có xuất gia ngoại đạo tên là Tu-bạt-đà-la, [52] tuổi thọ một trăm hai mươi, tuổi già, căn yếu, được người nước Câu-di-na-kiệt cung kính cúng dường như A-la-hán. Xuất gia Tu-bạt-đà-la kia nghe Thế Tôn đêm nay sẽ ở trong Vô dư Niết-bàn giới mà bát-niết-bàn, nhưng ông nghĩ, “Ta có điều hoài nghi, vẫn sống với hy vọng. Sa-môn Cù-đàm còn đủ sức có thể khai ngộ cho ta. Hôm nay ta nên đến chỗ Sa-môn Cù-đàm thưa hỏi điều hoài nghi của mình.” Ông liền ra khỏi Câu-di-na-kiệt, đi đến chỗ Thế Tôn. Trong lúc đó Tôn giả A-nan đang đi kinh hành ngoài cổng vườn. Tu-bạt-đà-la nói với Tôn giả A-nan:

“Tôi nghe nói đêm nay Sa-môn Cù-đàm sẽ ở trong Vô dư Niết-bàn giới mà bát-niết-bàn. Tôi có điều hoài nghi, vẫn sống với hy vọng. Sa-môn Cù-đàm còn đủ sức có thể khiến cho tôi giác ngộ. Nếu như A-nan không ngại khó nhọc, vì tôi đến thưa lại với Cù-đàm, xin dành chút ít thì giờ rảnh để giải đáp cho những thắc mắc của tôi.”

A-nan đáp:

“Thế Tôn đang rất mệt mỏi như vậy, chớ nên làm bức Thế Tôn!”

Qua ba lần Tu-bạt-đà-la nài nỉ, Tôn giả A-nan cũng ba lần từ chối. Tu-bạt-đà-la nói:

“Tôi nghe các bậc xuất gia lão túc Đại sư thủa xưa nói rằng, lâu lắm mới có Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian này như hoa Ưu-đàm-bát. Nhưng hiện tại trong đêm nay Như Lai sẽ trong Vô dư Niết-bàn giới mà bát-niết-bàn. Đối với pháp, hôm nay tôi có chút nghi, vẫn sống với tín tâm, vì Sa-môn Cù-đàm còn đủ sức có thể làm cho tôi giác ngộ. Nếu A-nan không ngại khó nhọc, vì tôi mà thưa với Sa-môn Cù-đàm.”

A-nan lại đáp:

“Này Tu-bạt-đà-la! Hôm nay Thế Tôn quá mệt mỏi, chớ nên bức Thế Tôn.”

Bấy giờ, Thế Tôn bằng thiên nhĩ nghe những lời qua lại giữa A-nan và Tu-bạt-đà-la, liền bảo Tôn giả A-nan:

“Đừng ngăn xuất gia ngoại đạo Tu-bạt-đà-la. Hãy để cho vào hỏi những điều nghi của ông ấy. Vì sao? Vì đây là lần cuối cùng luận nghị với xuất gia ngoại đạo, và đây là vị Thiện lai Tỷ kheo Thanh văn chứng đắc sau cùng. Đó la Tu-bạt-đà-la.”

Bấy giờ Tu-bạt-đà-la nghe Thế Tôn vì ông khai mở căn lành, vui mừng vô hạn, đến chỗ Thế Tôn cùng Thế Tôn chào đón, thăm hỏi an úy, [264b] rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, phàm nhập xứ của thế gian, tức là sáu vị Tông sư như Phú-lan-na Ca-diếp, v.v., mỗi người tự lập tông như vầy: ‘Đây là sa-môn! Đây là Sa-môn!’  Thế nào, thưa Cù-đàm! Có đúng là mỗi một phái đều có tông này chăng?”

Bấy gời Thế Tôn liền vì Tu-bạt-đa-la nói kệ:

Ta từ hai mươi chín,

Xuất gia tu thiện đạo;

Thành đạo tới ngày nay,

Trải qua năm mươi năm.

Tam muội, minh, hạnh đủ,

Thường tu tập tịnh giới:

Lìa chút đạo phần này,

Ngoài đây không Sa-môn.

Phật bảo Tu-bạt-đà-la:

“Ở trong chánh Pháp Luật, ai không được tám chánh đạo, cũng không được sơ quả Sa-môn, cũng không được đệ nhị, đệ tam, đệ tứ quả Sa-môn. Này Tu-bạt-đà-la, ở trong chánh Pháp Luật này, ai được tám chánh đạo thì được sơ quả Sa-môn, được đệ nhị, đệ tam, đệ tứ quả Sa-môn. Ngoài đây ra, ngoại đạo không có Sa-môn. Ở đây các thầy ngoại đạo kia, chỉ Sa-môn, Bà-la-môn suông mà thôi. Cho nên  nay Ta ở trong chúng, rống lên tiếng rống sư tử.”

Khi Phật nói pháp này, xuất gia ngoại đạo Tu-bạt-đà-la lìa xa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Khi ấy Tu-bạt-đà-la thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, nhập pháp, vượt qua các hồ nghi, được tín tâm không do người khác, không nhờ người độ, trong chánh Pháp Luật đắc vô sở úy. Từ chỗ ngồi đứng lên, ông sửa lại y phục, gối phải sát đất, bạch Tôn giả A-nan:

“Tôn giả được thiện lợi, Tôn giả có được Đại sư, được làm đệ tử Đại sư, được mưa pháp của Đại sư rưới lên đỉnh đầu. Ngày nay nếu tôi được xuất gia thọ giới cu túc làm Tỳ kheo ở trong chánh Pháp Luật, cũng sẽ được lợi ích như vậy.”

Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, xuất gia ngoại đạo Tu-bạt-đà-la nay cầu xin xuất gia thọ giới cụ túc, làm Tỳ-kheo ở trong chánh Pháp Luật.”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tu-bạt-đà-la:

“Hãy đến đây, Tỳ-kheo, tu hành phạm hạnh.”

Ngay lúc ấy Tôn giả Tu-bạt-đà-la liền được xuất gia thọ giới cụ túc, trở thành Tỳ-kheo. Từ đó tư  duy như vậy ... cho đến tâm thiện giải thoát, đắc A-la-hán. Khi Tôn giả Tu-bạt-đà-la đắc A-la-hán, được an lạc giải thoát, đã giác tri, tự nghĩ: “Ta không nỡ nhìn Phật bát-niết-bàn. Ta sẽ bát-niết-bàn trước.” Khi ấy, Tôn giả Tu-bạt-đà-la bát-niết-bàn trước, sau đó Thế Tôn mới bát-niết-bàn.


 [1] Tương ưng ngoại đạo, gồm các kinh Đại chánh, kinh 965-079 (nửa sau quyể 34 và phần đầu quyển 35). Hội biên, “47. Ngoại đạo Xuất gia tương ưng.”

 [2] Đại chánh, kinh 965. Pāli, A.10.95. Uttiya. Biệt dịch, No 100(199).

 [3] Uất-đê-ca 鬱低迦. Pāli: Uttiya.

 [4].Đại chánh, kinh 966.   Pāli, A.10.83. Puṇṇiya. Skt. Pūrṇika (Píchel). Biệt dịch No 100(200).

 [5] Phú-lân-ni 富鄰尼. Pāli: Puṇṇiya.

 [6] Nguyên Hán: tà mạn bất đẳng vô gián.

 [7] Đại chánh, kinh 967. āli, A.10.96. Kokanada. Biệt dịch, No 100(201).

 [8] Tháp-bổ 榻補河. Pāli: Tappodā.

 [9] Câu-ca-na 俱迦那. Pāli: Kokananda.

 [10] Đại chánh, kinh 968. Pāli, A.10.93. Diṭṭhi. Skt. Dṛṣṭi (Píchel). Biệt dịch, No 100(202)

 [11] Pāli: kiṃdiṭṭhikā bhikkhū ti, “Các tỳ kheo có quan điểm gì?”

 [12] Hán: chân thật hữu vi tư lương duyên khởi . Tham chiếu Pāli: yaṃ  kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paticcasamuppannaṃ.., “Phàm cái gì là thật vật, được tạo thành bởi tâm tư, sinh khởi do duyên.” Lưu ý, từ Pāli bhūta, thật vật, cái tồn tại, trong bàn Hán dịch là chân thật.

 [13] Đại chánh, kinh 969. Móng tay dài. Pāli, Dīghanakha-suttanta. Skt. Dīrghânkha (Píchel). Biệt dịch, No 100(203)

 [14] Trường Trảo 長爪. Pāli: Dīghanakha, tu sỹ để móng tay dài.

 [15] Nhất thiết kiến bất nhẫn 一切見不忍. Các bản TNM không có chữ kiến. Pāli: sabbaṃ me na khamati, “Tôi không công nhận tất cả.” Phát biểu của chủ nghĩa hoài nghi, không tin bất cứ điều gì.

 [16] Hỏa chủng 火種. Pāli: Aggivessana.

 [17] Đại chánh, kinh 970. Pāli, A.3.64. Sarabha. Biệt dịch, No 100(204).

 [18] Xá-la-bộ 舍羅步. Pāli: Sarabha.

 [19] Tu-ma-kiệt-đà trì 須摩竭陀池. Cf. A.3.64: nguyên là Tỳ-kheo, xả giới theo ngoại đạo chưa bao lâu.

 [20] Bản Hán: phi…vô …, phủ định kép. Dư chữ , lược bỏ.

 [21] Bản Hán: thanh văn.

 [22] Thiện hướng 善向, hay chánh hành, người đang hướng thẳng đến giải thoát.

 [23] Trong nguyên bản: hồ thanh 狐聲.

 [24].Đại chánh, kinh 971. Biệt dịch, No 100(205).

 [25] Thượng Tọa 名上坐. Skt. Parivrājaka-Sthavira.

 [26] Hán: thằng sàng 繩床.

 [27].Đại chánh, kinh 972. Ba sự thực. Pāli, A. 4.185. Brāmaṇasacca. Biệt dịch, No 100(206), No 125(26.8).

 [28] Bà-la-môn chân đế 婆羅門真諦.

 [29] A 4. 185: cattārimāni brāhmaṇasaccāni, đây là bốn chân lý của Bà-la-môn.

 [30] Bản Hán,văn cú đảo trang khiến dễ lẫn lộn phủ định với khẳng định. Cf Pāli ibid.: so tena na samaṇo ti maññati,... na seyyoham asmīti maññati, na sadisoham asmīti maññati… api ca yadeva tattha saccaṃ anuddayāya anukampāya paṭipanno hoti: vị ấy vì vậy không nghĩ rằng mình là sa-môn…không nghĩ rằng ta hơn, ta bằng…Lại nữa do nhận thức chính xác chân lý ở đây mà vị ấy thực hành lòng thương yêu, thương xót đối với các chúng sinh.

 [31] Tập pháp 集法. Pāli, gồm hai chân đế: sabbe kāmā aniccā…sabbe bhavā aniccā…, tất cả dục là vô thường… tất cả hữu là vô thường.

 [32] Hán: Vô ngã xứ sở cập sự đô vô sở hữu. Vô ngã xứ sở cập sự đô vô sở hữu 無我處及事都無所有. Cf. Pāli ibid.: nāham kvacani kassaci kiñcana tasmiṃ na ca mama kvacani katthaci kiñcanatatthī ti: “Ta không la ai, của bất cứ ai, là bất cứ cái gì. Trong đó, không có bất cứ ai, bất cứ ở  đâu, bất cứ cái gì, là của ta.”

 [33] Đại chánh, kinh 973. Pāli, M.76. Sandaka-suttanta. Biệt dịch, No 100(207).

 [34] Chiên-đà 栴陀. Pāli: ngoại đạo xuất gia Sandaka sống trong hang Pilakkha.

 [35] Đại chánh, kinh 973. Biệt dịch, No 100(208).

 [36] Bổ-lũ-đê-ca 補縷低迦.

 [37] Đại chánh, kinh 975. Biệt dịch,  No 100(209).

 [38] Giảng đường Vị tằng hữu 未曾有講堂.

 [39] Cf. No 1(8): không xá tuệ 空舍慧; D 25: suññāgārahatā samaṇassa gotamassa paññā, trí tuệ của Sa-môn Gotama bị hủy hoại như ngôi nhà trống (bị hủy hoại vì sống ở chỗ hoang vắng).

 [40] Đại chánh, kinh 976. Pāli, xem cht. kinh 977 dưới. Biệt dịch, No 100(210).

 [41] Thi-bà 尸婆. Xem cht. kinh Đại chánh 977.

 [42] Đại chánh, kinh 977. Pāli, S. 36. 21. Sīvako. Biệt dịch, No 100(211).

 [43] Thi-bà Thi-bà 尸婆. Pāli: MoḷiyaSīvaka paribbājaka, tu sỹ bện tóc Sīvaka.

 [44]Pāli: yaṃ kiñcāyaṃ purisapuggalo paṭíaṃvedeti sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā sabbaṃ taṃ pubbekatahetū’ti: Bất cứ lạc thọ gì, khổ thọ gì, hay phi khổ phi lạc thọ gì, mà con người cảm thọ, tất cả đều là nhân được tạo tác từ trước.

 [45] Đẳng phần khởi, khởi lên do các yếu tố kể trên hợp lại.

 [46] Đại chánh, kinh 978. Biệt dịch, No 100(212).

 [47] Na-la tụ lạc Hảo-y am-la viên 那羅聚落好衣菴羅園.

 [48] Thương chủ 商主. No 100(212): Na-lị-bà-lực 那利婆力. Pāli: Nālivaṇika ?

 [49] Ý luận 意論. No 100(212): tâm trung mặc niệm 心中默念.

 [50] Đại chánh, kinh 979. Xem Trường, No 1(2), phần III. Cf. D.16 Mahāparinibbānasuttanta (ii. 149ff: Subhaddaparibbājakavatthu). Biệt dịch, No 100(213), No 100(110).

 [51] Câu-di-na-kiệt quốc Lực sỹ sinh xứ Kiên cố song thọ lâm 俱夷那竭國力士生處堅固 雙樹林. Pāli: Kusinārā upavattanaṃ Mallānaṃ sālavanaṃ.

 [52] Tu-bạt-đà-la 須跋陀羅. Pāli: Subhadda.