1. Tương Ưng năm uẩn, Kinh 1-60

TỤNG I. NĂM UẨN

1. TƯƠNG ƯNG  NĂM UẨN

KINH 1. VÔ THƯỜNG [1]

 [1a6] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Các  ngươi hãy quán sát sắc vô thường [2]. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sanh ra nhàm tởm [3]. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham [4]. Sự dứt sạch hỷ tham được nói là tâm giải thoát [5].

“Cũng vậy, các  ngươi hãy quán sát thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Quán sát như vậy gọi là quán sát chân chánh. Khi đã quán sát chân chánh thì sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch hỷ tham. Sự dứt sạch hỷ tham được nói là tâm giải thoát.

 “Như vậy, Tỳ-kheo, nếu muốn tự chứng tâm giải thoát này thì có thể tự chứng, biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ [6]

“Cũng như quán sát vô thường, quán sát khổ, không, phi ngã cũng vậy.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 2. CHÁNH TƯ DUY [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Đối với sắc, các  ngươi hãy tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật sắc là vô thường. Vì sao vậy? Tỳ-kheo đối với sắc mà tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật sắc là vô thường, thì đối với sắc, dục tham được đoạn trừ. Do dục tham được đoạn trừ mà nói là tâm giải thoát.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức các  ngươi hãy tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật... thức là vô thường. Vì sao vậy? Tỳ-kheo đối với thức mà tư duy chân chánh, quán sát và biết một cách như thật... thức là vô thường, thì đối với thức, dục tham được đoạn trừ. Do dục tham được đoạn trừ mà nói là tâm giải thoát.

“Như vậy, Tỳ-kheo, nếu muốn tự chứng tâm giải thoát này thì có thể tự chứng, biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Cũng như tư duy chân chánh về vô thường; khổ, không, phi ngã cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 3. VÔ TRI (1) [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

 “Đối với sắc không biết, không rõ, [1b] không đoạn tận, không ly dục [9] thì không thể đoạn trừ khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, thì không thể đoạn trừ khổ não.

“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 4. VÔ TRI (2) [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Đối với sắc không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, tâm không giải thoát, thì không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không lìa tham dục [11], tâm không giải thoát, thì sẽ không thể nào vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Tỳ-kheo, đối với sắc nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì sẽ vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Này các Tỳ-kheo, người nào nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu lìa tham dục, tâm giải thóat, thì có thể vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức người nào nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, lìa tham dục, tâm giải thoát, thì sẽ vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 5. VÔ TRI (4) [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ai đối với sắc mà yêu thích [13], thì đối với khổ cũng yêu thích. Đối với khổ mà yêu thích, thì đối với khổ sẽ không được giải thoát, không rõ, không ly dục.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà yêu thích, thì cũng yêu thích khổ. Ai yêu thích khổ, thì đối với khổ không được giải thoát.

“Này các Tỳ-kheo, ai đối với sắc không yêu thích, thì đối với khổ cũng không thích. Ai đối với khổ không thích, thì đối với khổ sẽ được giải thoát.

“Cũng vậy, ai đối với thọ, tưởng, hành, thức không yêu thích, thì đối với khổ cũng không thích. Ai đối với khổ không thích, thì đối với khổ sẽ được giải thoát.

 “Này các Tỳ-kheo, đối với sắc không biết, không rõ, không lìa tham dục, tâm không giải thoát. Ai không giải thoát tâm tham, thì sẽ không thể đoạn trừ được khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức ai không biết, không rõ, không ly dục, tâm không giải thoát. Tham tâm không giải thoát, thì sẽ không đoạn trừ được khổ não.

“Đối với sắc, nếu người nào biết, rõ, lìa tham dục, tâm giải thoát, thì sẽ có thể đoạn trừ được khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức nếu biết, lìa tham dục, tâm giải thoát, thì có thể [1c] đoạn trừ khổ não.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 6. VÔ TRI (5) [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Đối với sắc, không biết, không rõ, không lìa tham dục, tâm không giải thoát thì sẽ không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức nếu không biết, không rõ, không lìa tham dục, tâm không giải thoát, thì sẽ không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.

“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc nếu biết, nếu rõ, nếu lìa tham dục, tâm giải thoát, thì có thể vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 7. HỶ LẠC SẮC [15]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ai yêu thích sắc, thì cũng yêu thích khổ. Ai yêu thích khổ thì đối với khổ không được giải thoát.

“Cũng vậy, ai yêu thích thọ, tưởng, hành, thức, thì cũng yêu thích khổ. Ai yêu thích khổ thì đối với khổ không được giải thoát.

“Này các Tỳ-kheo, ai không yêu thích sắc, thì sẽ không thích khổ. Ai không yêu thích khổ, thì đối với khổ sẽ được giải thoát.

“Cũng vậy, ai không yêu thích thọ, tưởng, hành, thức thì sẽ không thích khổ. Ai không thích khổ, thì đối với khổ sẽ được giải thoát.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 

Kệ tóm tắt:

Vô thường, và khổ không,

Phi ngã, chánh tư duy.

Có bốn kinh vô tri,

Cùng hỷ lạc nơi sắc. 

KINH 8. QUÁ KHỨ VÔ THƯỜNG [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc quá khứ, vị lai là vô thường huống chi là sắc hiện tại. Thánh đệ tử hãy quán sát như vầy: ‘Không hồi tưởng sắc quá khứ, không tìm cầu sắc vị lai, đối với sắc hiện tại thì nên nhàm tởm, ly dục, hướng thẳng đến diệt tận [17].’

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lại là vô thường huống chi là... thức hiện tại. Thánh đệ tử hãy quán sát như vầy: ‘Không hồi tưởng thức quá khứ, không mong cầu thức vị lai, và đối với thức hiện tại thì nên nhàm tởm, ly dục, hướng thẳng đến diệt tận.’

“Vô thường, khổ, không, phi ngã cũng lại như vậy.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo [2a] sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 9. YỂM LY [18]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta [19]. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán [20].

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.

“Thánh đệ tử quán sát như vậy thì sẽ nhàm tởm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm tởm nên không ham muốn [21], vì không ham muốn nên được giải thoát. Đối với giải thoát, trí chân thật phát sanh [22], biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 10. GIẢI THOÁT [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức chẳng phải ta. Chẳng phải ta tức chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.

“Thánh đệ tử quán sát như vậy giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, tưởng, hành, thức. Ta nói, đó cũng là sự giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu ,bi, khổ, não.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 11. NHÂN DUYÊN (1) [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các sắc, chúng cũng vô thường [25]. Vậy, các sắc được sanh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?  

“Cũng vậy, thọ tưởng, hành, thức là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các thức, chúng cũng vô thường. Vậy, các thức được sanh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?

“Như vậy, các Tỳ-kheo, sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Cái gì là vô thường thì cái đó là khổ. Cái gì khổ thì chúng chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì không phải là sở hữu của ta. Thánh đệ tử quán sát như vậy, nhàm tởm sắc, nhàm tởm thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm tởm nên không thích. Vì không thích [2b] nên giải thóat, và có tri kiến về giải thoát [26], biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần là đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 12. NHÂN DUYÊN (2) [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các sắc chúng cũng vô thường. Vậy, các sắc được sanh từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Vậy, các thức được sanh ra từ nhân và duyên vô thường làm sao có thể là thường được?

“Như vậy, các Tỳ-kheo, sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Cái gì là vô thường thì cái đó là khổ. Cái gì khổ thì chúng chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì không phải là sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán. Thánh đệ tử quán sát như vậy thì sẽ giải thoát được sắc, giải thoát được thọ, tưởng, hành, thức. Ta nói, đó cũng là giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khỏ, não như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 13. VỊ (1) [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu chúng sanh nào không nếm vị ngọt của sắc thì sẽ không nhiễm đắm sắc [29]. Vì chúng sanh nếm vị ngọt của sắc cho nên bị đắm trước.

“Cũng vậy, chúng sanh nào không nếm vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức thì chúng sanh ấy không bị đắm nhiễm thức. Vì chúng sanh nếm vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức cho nên chúng sanh ấy bị nhiễm trước vào thức.

“Này các Tỳ-kheo, nếu sắc đối với chúng sanh không phải là sự tai hại [30], thì chúng sanh ấy không nên nhàm chán sắc. Vì sắc là mối hại của chúng sanh cho nên những chúng sanh ấy nhàm chán sắc.

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức nếu không phải là mối hại thì chúng sanh ấy không nên nhàm chán thức. Vì thọ, tưởng, hành, thức là mối hại của chúng sanh, cho nên những chúng sanh ấy nhàm chán thức.

“Này các Tỳ-kheo, nếu sắc đối với chúng sanh mà không có sự xuất ly [31], thì những chúng sanh ấy không nên thoát ly sắc. Vì sắc đối với chúng sanh có sự xuất ly, cho nên những chúng sanh ấy thoát ly sắc.

“Cũng vậy, nếu thọ, tưởng, hành, thức đối với chúng sanh không có sự xuất ly, thì những chúng sanh ấy không thể thoát ly thức. Vì thọ, tưởng, hành, thức đối với chúng sanh có sự xuất ly, cho nên [2c] những chúng sanh ấy thoát ly thức.

“Này các Tỳ-kheo, nếu Ta đối với năm thủ uẩn [32] này mà không biết một cách như thật vị ngọt là vị ngọt, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly, thì Ta ở giữa Chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, đã không thể tự chứng, không được thóat, không vượt ra, không xa lìa, vĩnh viễn an trú trong sự điên đảo, cũng không thể tự mình chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác [33].

“Này các Tỳ-kheo, vì Ta đã biết năm thủ uẩn này một cách như thật rằng vị ngọt là vị ngọt, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly, nên Ta ở giữa Chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, đã có thể tự chứng, đã thoát, đã vượt ra, đã xa lìa, vĩnh viễn không an trú trong sự điên đảo, cũng có thể tự mình chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 14. VỊ (2) [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Trước kia Ta đã từng đi tìm kiếm vị ngọt của sắc [35]. Nếu khi cảm giác tùy thuận [36] vị ngọt của sắc, thì đối với vị ngọt của sắc Ta dùng trí tuệ thấy rõ như thật.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức Ta cũng đã từng đi tìm kiếm vị ngọt của chúng. Nếu khi cảm giác tùy thuận thọ, tưởng, hành, thức, thì đối với vị ngọt của thức Ta dùng trí tuệ thấy rõ như thật.

“Này các Tỳ-kheo, Ta đã từng đi tìm kiếm sự tai hại của sắc. Nếu khi cảm giác tùy thuận sự tai hại của sắc, thì đối với sự tai hại của sắc Ta dùng trí tuệ để thấy rõ như thật.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức Ta cũng đã từng đi tìm kiếm sự tai hại của chúng. Nếu khi cảm giác tùy thuận sự tai hại của thức, thì đối với sự tai hại của thức Ta dùng trí tuệ để thấy rõ như thật.

“Này các Tỳ-kheo, ta đã từng đi tìm cầu sự xuất ly sắc. Nếu khi cảm giác tùy thuận sắc, thì đối với sự xa lìa sắc Ta dùng trí tuệ để thấy rõ như thật.

“Cũng vậy, đối với sự xuất ly thọ, tưởng, hành, thức, Ta cũng đã từng đi tìm cầu chúng. Nếu khi cảm giác tùy thuận sự xuất ly thọ, tưởng, hành, thức thì đối với sự xuất ly thọ, tưởng, hành, thức Ta dùng trí tuệ để biết rõ như thật.

“Này các Tỳ-kheo, nếu Ta đối với năm thủ uẩn này mà không biết một cách như thật vị ngọt là vị ngọt, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly, thì Ta ở giữa Chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, đã không thể tự chứng, không được thoát, không vượt ra, không xa lìa, vĩnh viễn an trú trong sự điên đảo, cũng không thể tự mình chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Này các Tỳ-kheo, vì Ta đã biết năm thủ uẩn này một cách như thật rằng vị ngọt là vị ngọt, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly, nên Ta ở giữa Chư thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, đã có thể tự chứng, [3a] đã thoát, đã vượt ra, đã xa lìa, vĩnh viễn không an trú trong sự điên đảo, cũng có thể tự mình chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.  

Bài kệ tóm tắt

Quá khứ nói bốn kinh;

Yểm ly và giải thóat;

Nói hai kinh nhân duyên;

Vị ngọt cũng hai kinh.

KINH 15. SỬ [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo nọ đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ sát chân, rồi đứng sang một bên, bạch Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng [38], tu tập không buông lung. Khi tu tập không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình [39], chỉ vì để ngay trong đời hiện tại này chứng nghiệm [40] cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo kia:

“Lành thay! Lành thay, Tỳ-kheo! Ông đã khéo nói những lời này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung... cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, khéo léo suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này Tỳ-kheo, nếu để bị sai sử theo sử, tức là chết theo sử [41]. Nếu chết theo sử là bị thủ trói buộc [42]. Nếu Tỳ-kheo không bị sai sử theo sử, thì sẽ không chết theo sử. Không chết theo sử, tức là giải thoát đối với thủ.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện thệ!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ở trong pháp yếu mà Ta đã lược nói, nếu ngươi hiểu rộng nghĩa của nó thì phải như thế nào?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, sắc bị sai sử theo sử, sắc chết theo sử [43]. Sai sử theo sử mà chết theo sử thì bị thủ trói buộc.

“Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức bị sai sử theo sử, thì chết theo sử. Sai sử theo sử mà chết theo sử thì bị thủ trói buộc.

“Bạch Thế Tôn, nếu sắc không bị sai sử theo sử, thì sắc không chết theo sử. Không sai sử theo sử mà không chết theo sử thì đối với thủ được giải thoát.

“Cũng vậy, nếu thọ, tưởng, hành, thức không bị sai sử theo sử, thì không chết theo sử. Không sai sử theo sử mà không chết theo sử thì đối với thủ được giải thoát.

“Như vậy, trong pháp yếu được Thế Tôn nói tóm tắt, [3b] ý nghĩa được diễn rộng là như vậy.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay, lành thay, Tỳ-kheo! Trong pháp yếu được Ta nói tóm tắt, ý nghĩa được diễn rộng là như vậy.

“Vì sao?

“Sắc bị sai sử theo sử, sắc chết theo sử. Sai sử theo sử mà chết theo sử thì bị thủ trói buộc.

“Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức bị sai sử theo sử, thì chết theo sử. Sai sử theo sử mà chết theo sử thì bị thủ trói buộc.

“Này Tỳ-kheo, nếu sắc không bị sai sử theo sử, thì sắc không chết theo sử. Không bị sai sử theo sử mà không chết theo sử thì đối với thủ được giải thoát.

“Cũng vậy, nếu thọ, tưởng, hành, thức không bị sai sử theo sử, thì không chết theo sử. Không bị sai sử theo sử mà không chết theo sử thì đối với thủ được giải thoát.”

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia sau khi nghe đức Phật dạy xong tâm rất lạc mừng, lạy Phật rồi lui. Vị kia ở một mình nơi chỗ vắng tinh cần tu tập, sống không buông lung. Sau khi tinh cần tu tập sống không buông lung rồi, vị kia tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình… cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia thành A-la-hán, tâm được giải thoát.

KINH 16. TĂNG CHƯ SỐ [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ đi đến chỗ Phật thưa hỏi những việc như trên, nhưng có những sự sai biệt như sau:

“Cái gì bị sai sử theo sử mà chết theo sử, thì cái đó được định danh theo đó [45]. Nếu không bị sai sử theo sử mà chết theo sử, nó không được định danh theo đó.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ở trong những pháp mà Ta đã nói tóm tắt, ngươi hiểu rộng nghĩa của nó như thế nào?”

Tỳ-kheo kia bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, nếu sắc bị sai sử theo sử thì chết theo sử. Cái gì bị sai sử theo sử mà chết theo sử, nó được đnhjdanh theo đó.

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức bị sai sử theo sử thì chết theo sử. Cái gì sai sử theo sử mà chết theo sử, nó được định danh theo đó.

“Bạch Thế Tôn, nếu sắc không bị sai sử theo sử thì không chết theo sử. Nếu không bị sai sử theo sử mà chết theo sử, nó không được định danh theo đó.

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức không bị sai sử theo sử thì không chết theo sử. Nếu không bị sai sử theo sử mà chết theo sử, nókhông được định danh theo đó.

“Bạch đức Thế Tôn, trong những pháp đã được nói tóm tắt, con đã hiểu nghĩa rộng của nó như vậy. Như trên và cho đến… ‘đạt được A-la-hán, tâm đươc giải thoát.’”

KINH 17. PHI NGÃ [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo nọ rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, chấp tay bạch [3c] đức Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung. Khi tu tập không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỉ vì để ngay trong đời hiện tại này chứng nghiệm cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo kia:

“Lành thay! Lành thay, Tỳ-kheo! Ông đã khéo nói những lới này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung... cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Đúng vậy, bạch Thế Tôn.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lắng nghe, lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này Tỳ-kheo, pháp nào không thích ứng đối với ngươi [47] thì nên nhanh chóng đọan trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài [48].”

Tỳ-kheo kia bạch Phật rằng:

“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện thệ!”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với những pháp đã được nói tóm tắt, ngươi hiểu rộng ý như thế nào?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, sắc chẳng phải là thích ứng đối với con, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thích ứng đối với con, nên cần phải nhanh chóng đọan trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cho nên, bạch Thế Tôn, đối với pháp mà Thế Tôn đã nói tóm tắt con đã hiểu rộng nghĩa của nó như vậy.”

Đức Phật dạy:

“Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo, ở trong những pháp đã được nói tóm tắt của Ta, ngươi đã hiểu nghĩa rộng của nó. Vì sao? Vì sắc chẳng phải là thích ứng đối với ngươi, nên cần phải nhanh chóng đọan trừ. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thích ứng đối với ngươi, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài.”

Sau khi vị Tỳ-kheo kia nghe những lời dạy của Phật, tâm rất lạc mừng, lạy Phật rồi lui; một mình ở chỗ vắng, siêng năng tu tập, sống không buông lung. Sau khi siêng năng tu tập, sống không buông lung,  ngươi tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỉ vì để ngay trong đời này chứng nghiệm cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia thành bậc A-la-hán, tâm được giải thóat.

KINH 18. PHI BỈ [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên hữu, [4a] lễ Phật rồi đứng sang một bên, bạch Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung. Khi tu tập không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỉ vì để ngay trong đời này chứng nghiệm cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo kia:

“Lành thay! Lành thay, Tỳ-kheo! Ông đã khéo nói những lời này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung... cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, khéo léo suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Nếu có pháp nào chẳng phải là thích ứng với các ngươi, và cũng chẳng phải là thích ứng của người khác, thì hãy nhanh chóng đoạn trừ pháp ấy [50]. Đoạn trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài.”

Tỳ-kheo kia, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện thệ, con đã hiểu.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với pháp đã được Ta nói tóm tắt, ngươi hiểu nghĩa rộng của nó như thế nào?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, sắc chẳng phải là con, chẳng phải là thích ứng của con [51], cũng chẳng phải là thích ứng của người khác. Pháp này cần nhanh chóng đọan trừ. Đọan trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là con, chẳng phải là thích ứng của con, cũng chẳng phải là thích ứng của người khác. Pháp này cần nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cho nên đối với những pháp mà Như lai đã nói tóm tắt, con đã hiểu được nghĩa rộng của nó như vậy.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Đối với những pháp đã được Ta nói tóm tắt, ngươi đã hiểu nghĩa rộng của nó. Vì sao? Này Tỳ-kheo, sắc chẳng phải là ta, chẳng phải là thích ứng của ta, cũng chẳng phải là thích ứng của người khác. Pháp này cần nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là ta, chẳng phải là thích ứng của ta, cũng chẳng phải là thích ứng của người khác. Pháp này cần nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài.”

Sau khi vị Tỳ-kheo kia nghe những lời dạy của Phật, tâm rất lạc mừng, lạy Phật rồi lui; một mình ở chỗ vắng, siêng năng tu tập, sống không buông lung, cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia thành bậc A-la-hán, tâm được giải thoát.

KINH 19. KẾT HỆ [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên hữu, lễ Phật rồi đứng sang một bên, [4b] bạch Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung. Khi tu tập không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo kia:

“Lành thay! Lành thay, Tỳ-kheo! Ông đã khéo nói những lới này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung... cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, khéo léo suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Tỳ-kheo, pháp bị trói buộc bởi kết sử, ngươi hãy nhanh chóng đoạn trừ [53]. Đọan trừ pháp ấy để được lợi, được ích, được an lạc lâu dài.”

Tỳ-kheo kia, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện thệ, con đã hiểu.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với pháp đã được Ta nói tóm tắt, ngươi hiểu nghĩa rộng của nó như thế nào?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

 “Bạch Thế Tôn, sắc là pháp bị kết sử trói buộc [54]. Pháp bị kết sử trói buộc này, nên nhanh chóng đọan trừ. Khi đã đọan trừ rồi, sẽ được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức là pháp bị kết sử trói buộc. Pháp bị kết sử trói buộc này, nên nhanh chóng đoạn trừ. Khi pháp kia đã được đoạn trừ rồi, thì sẽ được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cho nên đối với những pháp đã được đức Thế Tôn nói tóm tắt, con đã hiểu được nghĩa rộng của nó.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Đối với những pháp đã được ta nói tóm tắt, ngươi đã hiểu được nghĩa rộng của nó. Vì sao? Vì sắc là pháp bị kết sử trói buộc, pháp bị kết sử trói buộc này, nên nhanh chóng đoạn trừ. Khi đã đoạn trừ rồi, sẽ được lợi, được ích, được an lạc lâu dài. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức là pháp bị kết sử trói buộc; pháp bị kết sử trói buộc này, nên nhanh chóng đoạn trừ. Khi pháp kia đã được đoạn trừ rồi, sẽ được lợi, được ích, được an lạc lâu dài.”

Sau khi vị Tỳ-kheo kia nghe những lời dạy của Phật, tâm rất lạc mừng, lạy Phật rồi lui; một mình ở chỗ vắng, siêng năng tu tập, sống không buông lung, cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia thành bậc A-la-hán, tâm được giải thóat.

KINH 20. THÂM KINH

Thâm kinh cũng nói như vậy [55].

KINH 21. ĐỘNG DAO [56]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên hữu, lễ Phật rồi đứng sang một bên, bạch Phật rằng:

“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung. Khi tu tập [4c] không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo kia:

“Lành thay! Lành thay Tỳ-kheo! Ông đã khéo nói những lời này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung... cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, khéo léo suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này Tỳ-kheo, người nào dao động thì sẽ bị Ma trói. Nếu người nào không động thì sẽ giải thóat khỏi Ba-tuần. [57]”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn. Con đã hiểu, bạch Thiện thệ.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với pháp đã được Ta nói tóm tắt, ngươi hiểu nghĩa rộng của nó như thế nào?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, khi bị sắc làm dao động [58] thì bị Ma trói buộc. Nếu không dao động thì giải thoát khỏi Ba-tuần. Cũng vậy khi thọ, tưởng, hành, thức làm dao động thì bị Ma trói buộc. Nếu không dao động thì giải thoát khỏi Ba tuần. Cho nên đối với những pháp đã được đức Thế Tôn nói tóm tắt, con đã hiểu được nghĩa rộng của nó.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Đối với những pháp đã được Ta nói tóm tắt, ngươi đã hiểu được nghĩa rộng của nó. Vì sao? Khi nào bị sắc làm dao động, thì bị Ma trói buộc. Nếu không động, thì giải thoát khỏi Ba tuần. Cũng vậy khi bị thọ, tưởng, hành, thức làm dao động, thì sẽ bị Ma trói buộc. Nếu không động, thì giải thoát khỏi Ba tuần… cho đến ‘tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Tâm được giải thoát, thành bậc A-la-hán.

KINH 22. KIẾP-BA SỞ VẤN [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Kiếp-ba [60], đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Như lời đức Thế Tôn đã dạy, ‘Tỳ-kheo tâm khéo được giải thoát.’ Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo tâm khéo được giải thoát?” [61]

Bấy giờ, Thế Tôn nói với Kiếp-ba rằng:

“Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể hỏi Như-lai về tâm khéo giải thoát. Lành thay, Kiếp-ba! Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này Kiếp-ba, hãy quán sát biết rõ những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì sắc ái liền được trừ. Khi sắc ái đã được trừ rồi, thì tâm khéo giải thóat. [5a] Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều vô thường. Khi đã quán sát chân chính về vô thường rồi, thì thức ái liền được trừ. Khi thức ái đã được trừ rồi, thì Ta nói là tâm khéo giải thoát.

“Này Kiếp-ba, Tỳ-kheo có tâm khéo giải thoát như vậy, Như lai nói là tâm khéo giải thoát. Vì sao? Vì ái dục đã được đọan trừ. Người nào ái dục đã được đoạn trừ, thì Như lai gọi người đó là tâm khéo giải thoát.”

Sau khi Tỳ-kheo Kiếp-ba nghe những lời dạy của đức Phật, tâm rất lạc mừng, lạy Phật rồi lui.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Kiếp-ba, sau khi nhận lãnh những lời Phật dạy rồi, một mình ở chỗ vắng chuyên cần tinh tấn tư duy, sống không buông lung… cho đến ‘… tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Tâm khéo giải thoát, thành bậc A-la-hán.

KINH 23. LA-HẦU-LA SỞ VẤN (1) [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong rừng trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá. Bấy giờ,  La-hầu-la đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để cho ở nơi thân có thức này của con cùng trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn?” [63] 

Đức Phật dạy La-hầu-la:

“Lành thay! Lành thay! Phải chăng ngươi hỏi Như lai rằng: ‘Biết như thế nào, thấy như thế nào để cho nơi thân có thức này của con cùng tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn?’”

La-hầu-la bạch Phật rằng:

“Đúng vậy, bạchThế Tôn.”

Phật dạy La-hầu-la:

“Lành thay! Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này La-hầu-la, hãy quán sát, những gì thuộc về các sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau [64]; nên bằng tuệ bình đẳng [65] mà quán sát như thật như vậy. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc xấu, hoặc tốt; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó đều chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau; nên bằng tuệ bình đẳng quán sát như thật như vậy.

“Như vậy, này La-hầu-la, Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy. Người nào biết như vậy, thấy như vậy, ở nơi thức thân này cùng ở trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộc là ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn.

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo như vậy ở nơi thức-thân này cùng [5b] trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộc là ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, Tỳ-kheo đó được gọi là người đoạn ái dục, chuyển diệt các kiết sử, chân chánh hiện quán mạn, đoạn tận khổ biên.” [66]

La-hầu-la sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 24. LA-HẦU-LA SỞ VẤN (2) [67]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương-xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo La-hầu-la:

“Tỳ-kheo biết như thế nào, thấy như thế nào để cho trong thân thức này của ta cùng trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có các kết sử trói buộc là ngã, ngã sở kiến, ngã mạn?”

La-hầu-la bạch Phật rằng:

“Thế Tôn là chủ các pháp, là vị dẫn đường, là người che chở. Lành thay, Thế Tôn! Hãy vì các Tỳ-kheo mà diễn nói nghĩa này. Các Tỳ-kheo, sau khi đã được nghe những lời Phật dạy, sẽ hoan hỷ phụng hành.”

Phật bảo La-hầu-la:

“Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.”

La-hầu-la bạch Phật:

“Thưa vâng, con xin vâng lời.”

Phật bảo La-hầu-la:

“Hãy quán sát những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau; nên dùng tuệ bình đẳng quán sát như thật như vậy. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ đó chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau; nên dùng tuệ bình đẳng quán sát như thật như vậy.

“Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, trong thức thân này cùng trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộc là ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn.

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo như vậy trong thức có thân này cùng trong tất cả những tướng dạng thuộc cảnh giới bên ngoài không có kết sử trói buộc là ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, Tỳ kheo ấy sẽ siêu việt nghi tâm, xa lìa các tướng, tịch tịnh giải thoát. Đó gọi là Tỳ-kheo đoạn trừ ái dục, chuyển diệt các kết sử, vhân chánh hiện quán mạn, đoạn tận khổ biên.”

La-hầu-la sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 

Kệ tóm tắt

Sử, tăng chư số,

Phi ngã, phi bỉ,

Kết phược, động dao,

Kiếp-ba sở vấn,

Cùng La-hầu-la,

Hai kinh sở vấn.

KINH 25. ĐA VĂN [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ đi đến chỗ Phật, làm lễ Phật, [5c] rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Như Thế Tôn nói ‘Đa văn.’ Vậy thế nào là đa văn?” 

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Nay ngươi muốn hỏi Ta về nghĩa của đa văn phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Tỳ-kheo, nên biết, nếu nghe pháp mà đối với sắc phát sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh [69], thì đó gọi là đa văn. Cũng vậy nếu nghe pháp mà đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì gọi đó là đa văn. Này Tỳ-kheo, đó gọi là đa văn mà Như lại nói.”

Tỳ-kheo kia sau khi nghe những lời Phật dạy, phấn khởi lạc mừng, làm lễ mà lui.

KINH 26. THIỆN THUYẾT PHÁP [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Như Thế Tôn nói ‘Pháp sư.’Vậy thế nào gọi là Pháp sư [71]?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Nay ngươi muốn biết những gì mà Như lai đã nói về nghĩa Pháp sư phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Nếu người nào nói pháp mà đối với sắc khiến sanh ra yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh [72], thì đó gọi là Pháp sư. Nếu người nào nói pháp mà đối với thọ, tưởng, hành, thức khiến sanh yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh, thì gọi đó là Pháp sư. Đó cũng gọi là những gì mà Như lai đã nói về Pháp sư.”

Tỳ-kheo kia sau khi nghe những lời Phật dạy, phấn khởi lạc mừng, lạy Phật mà lui.

KINH 27. HƯỚNG PHÁP [73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt làm lễ, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Như đức Thế Tôn nói ‘pháp tùy pháp hành [74].’ Vậy thế nào là pháp tùy pháp hành?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Nay ngươi muốn biết pháp tùy pháp hành phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Này Tỳ-kheo, đối với sắc mà hướng đến yểm ly, ly dục, diệt tận, gọi đó là pháp tùy pháp hành [75]. Cũng vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức mà hướng đến yểm ly, ly dục, diệt tận, thì đó gọi là pháp tùy pháp hành.”

Tỳ-kheo kia sau khi nghe những lời Phật dạy, phấn khởi lạc mừng, lạy Phật mà lui.

KINH 28. NIẾT-BÀN [76]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. [6a] Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nọ đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, như Thế Tôn nói ‘chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại. [77]’ Vậy, thế nào là Tỳ-kheo chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Nay ngươi muốn biết về sự ‘chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại’ phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với sắc mà sanh tâm yểm ly, ly dục, diệt tận, không khởi lên các lậu, tâm giải thoát chân chánh, đó gọi là Tỳ-kheo chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại [78]. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà sanh tâm yểm ly, ly dục, diệt tận, không khởi lên các lậu, tâm giải thoát chân chánh, đó gọi là Tỳ-kheo chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại.”

Tỳ-kheo kia sau khi nghe những lời Phật dạy, phấn khởi lạc mừng, lạy Phật mà lui.

KINH 29. TAM-MẬT-LY-ĐỀ VẤN THUYẾT PHÁP SƯ [79]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Tam-mật-li-đề [80] đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật rằng:

“Như Thế Tôn nói ‘thuyết pháp sư.’ Vậy, thế nào gọi là thuyết pháp sư?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Nay ngươi muốn biết về nghĩa thuyết pháp sư phải không? “

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Nếu Tỳ-kheo nào, đối với sắc mà nói yểm ly, ly dục, diệt tận, đó gọi là thuyết pháp sư. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà nói yểm ly, ly dục, diệt tận, thì đó gọi là thuyết pháp sư.”

Tỳ-kheo kia sau khi nghe những gì Phật dạy, phấn khởi lạc mừng, lạy Phật mà lui.

Kệ tóm tắt

Đa văn, thiện thuyết pháp,

Hướng pháp và Niết bàn.

Tam-mật-ly-đề hỏi:

Thế nào, Thuyết pháp sư?

KINH 30. THÂU-LŨ-NA (1) [81]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ  Xá-lợi-phất ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Lúc ấy có con của một trưởng giả tên là Thâu-lũ-na [82], hằng ngày du hành đến núi Kỳ-xà-quật, và ghé chỗ  Xá-lợi-phất, sau khi chào đón thăm hỏi rồi, ngồi qua một bên, nói với Xá-lợi-phất rằng:

“Có một số Sa môn, Bà-la-môn đối với sắc vốn vô thường, biến dịch, không an ổn mà nói rằng, ‘Ta hơn, ta bằng, ta kém.’ [83] Tại sao số Sa môn, [6b] Bà-la-môn này lại có ý tưởng như vậy, mà không thấy cái chân thật? Cũng vậy, một số Sa môn, Bà-la-môn đối với thọ, tưởng, hành, thức vốn vô thường, biến dịch, không an ổn, mà nói là: ‘Ta hơn, ta bằng, ta kém.’ Tại sao số Sa môn, Bà-la-môn này lại có ý tưởng như vậy, mà không thấy cái chân thật?

“Có một số Sa môn, Bà-la-môn đối với sắc vốn vô thường không an ổn, biến dịch mà nói rằng, ‘Ta hơn, ta bằng, ta kém.’ Vậy, do quan điểm gì mà họ không thấy cái chân thật? Cũng vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức vốn vô thường, biến dịch, không an ổn, mà nói rằng, ‘Ta hơn, ta bằng, ta kém.’ Vậy, do quan điểm gì mà họ không thấy cái chân thật? Này Thâu-lũ-na, ý ông thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

“Thâu-lũ-na, nếu là vô thường, thì có phải là khổ không?”

Đáp:

“Là khổ.”

“Thâu-lũ-na, nếu vô thường là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Ý ông thế nào? Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy rằng sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.”

“Này Thâu-lũ-na, ý ông thế nào, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

“Nếu là vô thường, thì có phải là khổ không?”

Đáp:

“Là khổ.”

“Này Thâu-lũ-na, thức nếu là vô thường là khổ, thì chúng là pháp biến dịch. Ý ông thế nào? Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy rằng thức là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.”

“Này Thâu-lũ-na, nên biết rằng, sắc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngòai; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ sắc ấy đều không phải là ngã, không phải khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ ấy không phải là ngã, không phải khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh tâm yểm ly, ly dục, giải thoát, giải thoát tri kiến, biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần là đã làm xong, biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi  Xá-lợi-phất nói kinh này xong, Thâu-lũ-na, con trưởng giả, xa lìa được trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Bấy giờ, Thâu-lũ-na, con trưởng giả, thấy pháp, chứng đắc pháp, không do từ ai khác, ở trong chánh pháp được vô sở úy, từ nơi chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, quỳ gối chấp tay, bạch  Xá-lợi-phất rằng:

“Nay con đã được độ. Từ hôm nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, làm ưu-bà-tắc. [6c] Từ hôm nay cho đến suốt đời con, luôn thanh tịnh quy y Tam bảo.”

Thâu-lũ-na con trưởng giả sau khi nghe những gì  Xá-lợi-phất dạy rồi, phấn khởi lạc mừng, làm lễ mà lui.

KINH 31. THÂU-LŨ-NA (2)

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương-xá. Bấy giờ  Xá-lợi-phất ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Lúc ấy có con của một trưởng giả tên là Thâu-lũ-na, hằng ngày du hành đến núi Kỳ-xà-quật, và ghé chỗ  Xá-lợi-phất, sau khi chào đón thăm hỏi rồi, ngồi qua một bên.

Bấy giờ,  Xá-lợi-phất nói với Thâu-lũ-na:

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà không biết như thật về sắc, không biết như thật sự tập khởi của sắc, không biết như thật sự diệt tận của sắc, không biết như thật con đường đưa đến sự diệt tận của sắc [84];Thâu-lũ-na, nên biết rằng, Sa-môn, Bà-la-môn này không thể đoạn trừ sắc. Cũng vậy, nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; không biết như thật về sự tập khởi của chúng, không biết như thật về sự diệt tận của chúng, không biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của chúng, họ không thể đoạn trừ chúng.

“Này Thâu-lũ-na, Sa-môn, Bà-la-môm nào biết như thật về sắc, biết như thật về sự tập khởi của sắc, biết như thật về sự diệt tận của sắc, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc,; Thâu-lũ-na, nên biết rằng, Sa-môn, Bà-la-môn này có thể đoạn trừ sắc. Cũng vậy, Thâu-lũ-na, Sa-môn, Bà-la-môn nào biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, biết như thật về sự tập khởi của chúng, biết như thật về sự diệt tận của chúng, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của chúng; Thâu-lũ-na, nên biết rằng, Sa-môn, Bà-la-môn này đcó thể đoạn trừ chúng.

“Này Thâu-lũ-na, ý ông thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu là vô thường, thì có phải là khổ không?”

Đáp:

“Là khổ.”

 Xá-lợi-phất bảo:

“Nếu sắc là vô thường, là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.”

“Này Thâu-lũ-na, cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu là vô thường, thì có phải là khổ không?”

Đáp:

“Là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy chúng là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.”

“Này Thâu-lũ-na, nên biết, sắc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; [7a] tất cả sắc không là ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, Thánh đệ tử đối với sắc nên sanh tâm yểm ly, ly dục, giải thoát, giải thoát sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não.

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng không phải là ngã, không phải khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, Thánh đệ tử đối với chúng nên sanh tâm yểm ly, ly dục, giải thoát, giải thoát sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não.”

Thâu-lũ-na sau khi nghe những gì từ  Xá-lợi-phất dạy rồi, phấn khởi lạc mừng, làm lễ mà lui.

KINH 32. THÂU-LŨ-NA (3) [85]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương-xá. Bấy giờ  Xá-lợi-phất ở trong núi Kỳ-xà-quật.

Lúc ấy có con của một trưởng giả tên là Thâu-lũ-na, hằng ngày du hành đến núi Kỳ-xà-quật, và ghé chỗ  Xá-lợi-phất, sau khi chào đón thăm hỏi rồi, ngồi qua một bên.

Bấy giờ,  Xá-lợi-phất nói với Thâu-lũ-na:

“Sa-môn, Bà-la-môn nào không biết như thật về sự sắc, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, không biết như thật về sự diệt tận của sắc, không biết như thật về vị ngọt của sắc, không biết như thật về sự tai hại của sắc, không biết như thật về sự xuất ly của sắc; vị ấy sẽ không thể siêu việt sắc. Cũng vậy, Sa-môn, Bà-la-môn nào không biết như thật về sự thọ, tưởng, hành, thức; không biết như thật về sự tập khởi của chúng, không biết như thật về sự diệt tận của chúng, không biết như thật về vị ngọt của chúng, không biết như thật về sự tai hại của chúng, không biết như thật về sự xuất ly của chúng, Sa-môn, Bà-la-môn này sẽ không thể siêu việt chúng.

“Sa-môn, Bà-la-môn nào biết như thật về sự sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc; Sa-môn, Bà-la-môn này có thể vượt qua khỏi sắc. Cũng vậy, Sa-môn, Bà-la-môn nào biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, về sự tập khởi của chúng, về sự diệt tận của chúng, về vị ngọt của chúng, về sự tai hại của chúng, về sự xuất ly của chúng, Sa-môn, Bà-la-môn này có thể siêu việt khỏi chúng.

“Này Thâu-lũ-na, ý ông thế nào, sắc là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

“Vậy vô thường là khổ phải không?”

Đáp:

“Là khổ.”

“Này Thâu-lũ-na, nếu sắc là vô thường là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Thánh đệ tử ở trong đó có nên thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.”

“Này Thâu-lũ-na, ý ông thế nào, cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.

“Vậy vô thường là khổ phải không?”

Đáp:

“Là khổ.

“Này Thâu-lũ-na, nếu vô thường là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Thánh đệ tử ở trong đó có nên cho là có ngã, khác ngã, ở trong nhau không?”

Đáp:

“Không.

“Này Thâu-lũ-na, nên biết rằng, sắc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả những thứ sắc này không phải là ngã, không phải khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng không phải là ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Đó gọi là biết như thật.

“Này Thâu-lũ-na, Thánh đệ tử đối với năm thủ uẩn này nên quán sát chân chánh là chẳng phải ngã, chẳng phải sở hữu của ngã. Quán sát chân chánh như vậy trong thế gian không có gì để chấp thủ. Khi không có gì để chấp thủ, thì sẽ không có gì để chấp trước. Khi đã không có gì để chấp trước, thì sẽ tự đạt được Niết-bàn: ‘Sự sanh của đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nũa.’”

Thâu-lũ-na con của trưởng giả, sau khi nghe những gì  Xá-lợi-phất dạy rồi, phấn khởi lạc mừng, làm lễ mà lui. [86]

KINH 33. VÔ MINH (1) [87]

 [64b22] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ở tại núi Kỳ-xà-quật. Vào buổi chiều, sau khi xả thiền xong, Tôn giả Câu-hi-la đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng chào hỏi, và nói những lời tốt đẹp làm hài lòng, rồi ngồi qua một bên, hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tôi có những việc muốn hỏi, Nhân giả có rảnh thì giờ vì tôi mà nói cho không?”

Tôn giả [64c] Xá-lợi-phất đáp:

“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Gọi là vô minh, vậy thế nào là vô minh? Ai có vô minh này [88]?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Vô minh là không biết [89], không biết tức là vô minh. Không biết những gì? Sắc là vô thường, mà không biết như thật sắc là vô thường. Sắc là pháp họai diệt mà không biết như thật sắc là pháp hoại diệt [90]. Sắc là pháp sanh diệt mà không biết như thật sắc là pháp sanh diệt. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô thường mà không biết như thật thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô thường. Thức là pháp hoại diệt mà không biết như thật thức là pháp hoại diệt. Thức là pháp sanh diệt mà không biết như thật thức là pháp sanh diệt. Này Ma-ha Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn này mà không thấy, không biết như thật, không hiện quán [91], ngu si, mờ tối, không sáng tỏ, thì gọi là vô minh. Ai thành tựu những điều này gọi là vô minh.”

Lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Gọi là minh, vậy thế nào là minh? Ai có minh này?”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la:

“Minh là biết; biết gọi là minh.”

Lại hỏi:

“Biết những gì?”

Đáp:

“Sắc là vô thường; biết như thật sắc là vô thường. Sắc là pháp hoại diệt, biết như thật sắc là pháp hoại diệt. Sắc là pháp sanh diệt, biết như thật sắc là pháp sanh diệt. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, biết như thật thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Thức là pháp hoại diệt, biết như thật thức là pháp hoại diệt. Thức là pháp sanh diệt, biết như thật thức là pháp sanh diệt. Này Tôn giả Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn [92] này, như thật biết, thấy, sáng tỏ, có giác, có tuệ, có hiện quán, đó gọi là minh. Ai thành tựu những điều này thì gọi là người có minh.”

Sau khi hai vị chánh sĩ này, mỗi người nghe những điều được nói, tùy hỷ lẫn nhau, rời chỗ ngồi đứng dậy trở về chỗ ở của mình.

KINH 34. VÔ MINH (2) [93]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ở tại núi Kỳ-xà-quật. Vào buổi chiều, sau khi xả thiền xong Tôn giả Câu-hi-la đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng chào hỏi, và nói những lời tốt đẹp làm hài lòng, rồi ngồi qua một bên, hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tôi có những việc muốn hỏi, Nhân giả có rảnh thì giờ vì tôi mà nói cho không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Gọi là vô minh, vậy thế nào là vô minh? Ai có vô minh này?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Vô minh là không biết; không biết tức là vô minh. Không biết những gì? Không biết như thật về sắc; không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, [65a] về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc. Không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; không biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Này Ma-ha Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn này, mà không biết như thật, không biết, không thấy, không có hiện quán, ngu si, mờ tối, thì gọi là vô minh. Ai thành tựu những điều này, gọi là có vô minh.”

Lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Thế nào là minh? Ai có minh này? “

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Gọi minh là biết, biết tức là minh.”

Lại hỏi:

“Biết những gì?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Biết như thật về sắc; biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về con đường đưa đến sự đoạn tận của sắc. Biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Này Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn này, như thật biết, thấy, sáng tỏ, có giác, có tuệ, có hiện quán, thì đó gọi là minh. Ai thành tựu những điều này thì gọi là người có minh.”

Sau khi hai vị chánh sĩ này, mỗi người nghe những điều được nói, tùy hỷ lẫn nhau, rời chỗ ngồi đứng dậy trở về chỗ ở của mình.

KINH 35. VÔ MINH (3) [94]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ở tại núi Kỳ-xà-quật. Vào buổi chiều, sau khi xả thiền xong Tôn giả Câu-hi-la đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng chào hỏi, và nói những lời tốt đẹp làm hài lòng, rồi ngồi qua một bên, hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tôi có những việc muốn hỏi, Nhân giả có rảnh thì giờ vì tôi mà nói cho không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Gọi là vô minh, vậy thế nào là vô minh? Ai có vô minh này?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Không biết là vô minh. ”

“Không biết những gì? ”

“Không biết như thật về sắc. Không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc. Không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức. Không biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức. Này Ma-ha Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn này, mà không biết như thật, không thấy như thật, không có hiện quán, mờ tối, hay ngu si, thì gọi là vô minh. Ai thành tựu những điều này, thì gọi là vô minh.”

Lại hỏi:

“Gọi là minh, vậy thế nào là minh? Ai có minh này?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Biết tức là minh.”

Lại hỏi:

“Biết những gì?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Biết như thật về sắc; biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc. Biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; [65b] biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức. Này Câu-hi-la, đối với năm thủ uẩn này, biết như thật, thấy như thật, sáng tỏ, có giác, có quán, có hiện quán, thì đó gọi là minh. Ai thành tựu những điều này thì gọi là người có minh.”

Sau khi hai vị chánh sĩ này, mỗi người nghe những điều được nói, tùy hỷ lẫn nhau, rời chỗ ngồi đứng dậy về chỗ ở của mình.

KINH 36. VÔ GIÁN ĐẲNG(1) [95]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà trong thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ở tại núi Kỳ-xà-quật. Vào buổi chiều, sau khi xả thiền xong Tôn giả Câu-hi-la đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng chào hỏi, và nói những lời tốt đẹp làm hài lòng, rồi ngồi qua một bên, hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tôi có những việc muốn hỏi, Nhân giả có rảnh thì giờ vì tôi mà nói cho không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

“Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Tỳ-kheo chưa đạt được pháp hiện quán [96] mà muốn cầu pháp hiện quán, thì phải bằng phương tiện nào mà tìm cầu; phải tư duy những pháp nào?” [97]

Tôn giả Xa-lợi-phất đáp:

“Tỳ-kheo chưa đạt được pháp hiện quán, mà muốn tìm cầu pháp hiện quán, thì phải tinh cần tư duy, năm thủ uẩn là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đó là điều cần tư duy [98]. Tỳ-kheo đối với năm thủ uẩn này mà tinh cần tư duy, thì sẽ chứng được quả Tu-đà-hòan.”

Lại hỏi:

“Xá-lợi-phất, khi đã chứng được quả Tu-đà-hòan rồi, mà muốn chứng được quả Tư-đà-hàm, thì phải tư duy những pháp nào?” [99]

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Câu-hi-la, khi đã chứng được quả Tu-đà-hòan rồi, mà muốn chứng được quả Tư-đà-hàm, thì cũng phải tinh cần tư duy năm thủ uẩn này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đây là điều cần tư duy. Tỳ-kheo đối với năm thủ uẩn này mà tinh cần tư duy, thì sẽ chứng được quả Tư-đà-hàm.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la lại hỏi:

“Xá-lợi-phất, khi đã chứng được quả Tư-đà-hàm rồi, mà muốn chứng được quả A-na-hàm, thì phải tư duy những pháp nào?”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Câu-hi-la, khi đã chứng được quả Tư-đà-hàm rồi, mà muốn chứng được quả A-na-hàm, thì phải tinh cần tư duy năm pháp thủ uẩn này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đây là điều cần tư duy. Tỳ-kheo đối với năm thủ uẩn này [65c] mà tinh cần tư duy, thì cũng sẽ chứng được quả A-na-hàm. Sau khi đã chứng được quả A-na-hàm, mà muốn chứng được quả A-la-hán, cần phải tinh tấn tư duy về năm pháp thủ uẩn này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đây là điều cần tư duy. Tỳ-kheo đối với năm thủ uẩn này mà tinh cần tư duy, thì cũng sẽ chứng được quả A-la-hán.”

Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la lại hỏi Tôn giả:

“Xá-lợi-phất, khi đã chứng được quả A-la-hán rồi, thì còn phải tư duy những pháp nào nữa?”

Tôn giả Xá-lợi-phát nói:

“Ma-ha Câu-hi-la, A-la-hán lại cũng tư duy năm thủ uẩn này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì để được điều chưa được, để chứng pháp chưa chứng, để có hiện pháp lạc trú. ” [100]

Hai vị chánh sĩ nghe lẫn nhau những điều được nói, hoan hỷ ra về.

KINH 37. DIỆT [101]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Tôn giả A-nan, cùng thăm hỏi nhau, rồi ngồi qua một bên. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả A-nan:

“Tôi có điều muốn hỏi, Nhân giả có rảnh mà giải đáp cho không?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Nhân giả cứ hỏi, nếu tôi biết tôi sẽ trả lời.”

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

“A-nan, gọi là diệt, vậy thế nào là diệt? Ai có diệt này?”

Tôn giả A-nan nói:

“Xá-lợi-phất, năm thủ uẩn là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. [102] Pháp này diệt nên nói là diệt. Những gì Năm? Sắc thủ uẩn là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Đúng vậy! Đúng vậy! A-nan, như những gì thầy đã nói, năm thủ uẩn này là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt. Những gì Năm? Sắc thủ uẩn là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt.

“Này A-nan, [66a] năm thủ uẩn này, nếu không phải là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, làm sao có thể bị diệt? Này A-nan, vì năm thủ uẩn là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt.

Hai vị chánh sĩ nghe lẫn nhau những điều được nói, hoan hỷ ra về.

KINH 38. PHÚ-LƯU-NA [103]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Tôn giả A-nan ở trong vườn Cù-sư-la tại nước Câu-diệm-di [104], Bấy giờ Tôn giả A-nan nói với các Tỳ-kheo:

“Tôn giả Phú-lưu-na Di-đa-la-ni Tử [105] thường hay nói pháp sâu xa cho tôi khi còn niên thiếu, mới xuất gia [106], nói như vầy:

“A-nan, đối với pháp đã sanh khởi mà chấp là ngã, chứ không phải pháp không sanh khởi. [107] A-nan, thế nào là đối với pháp đã sanh khởi mà chấp là ta, chứ không phải pháp không sanh khởi? Sắc sanh khởi [108], sanh khởi là ta chứ không phải không sanh. Thọ, tưởng, hành, thức sanh khởi, sanh khởi là ta, chứ không phải không sanh. Cũng như người tay cầm tuẩn gương sáng, hay dùng mặt nước trong, tự nhìn vào xem thấy mặt mình sanh ra. Vì có sanh nên thấy, chứ không phải không sanh [109]. Cho nên, A-nan sắc sanh khởi, vì có sanh khởi nên chấp là ngã, chứ không phải không sanh khởi. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức sanh khởi, vì có sanh khởi nên chấp là ngã, chứ chẳng phải không sanh khởi. Thế nào A-nan, sắc là thường hay là vô thường?

“Đáp:

“ Là vô thường.”

Lại hỏi:

“ Vô thường là khổ phải không?”

Đáp:

“Là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy thì Thánh đệ tử ở trong đó có chấp ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Thưa không.”

Lại hỏi:

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

Lại hỏi:

“Vậy, vô thường là khổ phải không?”

Đáp:

“Là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy thì là đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có chấp ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Thưa không.”

“A-nan, cho nên đối với sắc hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, không khác ngã, chẳng ở trong nhau. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Cần phải biết như thật, quán sát như thật. Quán sát như vậy rồi, Thánh đệ tử đối với sắc sanh ra nhàm chán, ly dục, giải thoát: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh ra nhàm chán, ly dục, [66b] giải thoát: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, biết không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Các Tỳ-kheo, nên biết, vị Tôn giả này đối với tôi có rất nhiều lợi ích. Tôi nghe những gì từ Tôn giả ấy rồi, liền xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Từ đó tới nay, tôi thường thuyết pháp này cho bốn chúng, chứ không thuyết cho các người ngoại đạo xuất gia, Sa-môn, Bà-la-môn.”

KINH 39. XIỂN-ĐÀ [110]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở Tiên nhân đọa xứ, trong vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại. [111] Phật vào niết-bàn không bao lâu.

Bấy giờ, vào sáng sớm, trưởng lão Xiển-đà [112] khóac y cầm bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Ăn xong, thu dọn y bát, rửa chân, rồi cầm chìa khóa cửa, đi từ rừng này đến rừng khác, từ phòng [113] này đến phòng khác, từ chỗ kinh hành này đến chỗ kinh hành khác, chỗ nào cũng yêu cầu các Tỳ-kheo:

“Xin chỉ dạy tôi, nói pháp cho tôi, để cho tôi biết pháp, thấy pháp, và tôi sẽ biết như pháp, và quán như pháp [114].”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với Xiển-đà:

“Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Tất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn tịch diệt [115].

Xiển-đà thưa các Tỳ-kheo:

“Tôi đã biết sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Tất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn tịch diệt.”

Xiển-đà lại thưa:

“Nhưng tôi không thích nghe tất cả các hành đều không tịch, bất khả đắc, ly dục, ái tận, Niết-bàn. [116] Ở trong đó làm sao có ngã mà nói là biết như vậy, thấy như vậy, đó gọi là thấy pháp?”

Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Xiển-đà lại thưa:

“Ở đây, vị nào có khả năng nói pháp cho tôi, khiến tôi biết pháp, thấy pháp?”

Xiển-đà lại nghĩ: ‘Tôn giả A-nan, hiện nay đang ở trong vườn Cù-sư-la nước Câu-diệm-di, đã từng hầu hạ gần gũi đức Thế Tôn, được Phật khen ngợi; được các đồng phạm hạnh thảy đều biết đến. [117] Tôn giả ắt có thể vì ta mà nói pháp, khiến cho ta biết pháp, thấy pháp.”

Buổi sáng sớm hôm sau, Xiển-đà đắp y mang bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Ăn xong thu cất ngọa cụ, rồi mang y bát đến nước Câu-diệm-di. Ông lần hồi du hành đến nước Câu-diệm-di. Sau khi thu cất y bát và rửa chân xong, ông liền đến chỗ Tôn giả A-nan, cùng nhau thăm hỏi, và ngồi qua một bên.

Bấy giờ, Xiển-đà thưa Tôn giả A-nan:

“Một thời, các Tỳ-kheo Thượng tọa [66c] trú ở Tiên nhân đọa xứ, trong vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại. Bấy giờ, vào sáng sớm, tôi đắp y mang bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Ăn xong, thu dọn y bát, rửa chân, rồi cầm chìa khóa cửa, đi từ rừng này đến rừng khác, từ phòng này đến phòng khác, từ chỗ kinh hành này đến chỗ kinh hành khác, chỗ nào cũng yêu cầu các Tỳ-kheo: ‘Xin chỉ dạy tôi, nói pháp cho tôi, để cho tôi biết pháp, thấy pháp, và tôi sẽ biết như pháp, và quán như pháp.’ Khi ấy, các Tỳ-kheo nói pháp cho tôi rằng: ‘Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Tất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn tịch diệt.’ Tôi bấy giờ thưa các Tỳ-kheo: ‘Tôi đã biết sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Tất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn tịch diệt. Nhưng tôi không thích nghe tất cả các hành đều không tịch, bất khả đắc, ly dục, ái tận, Niết-bàn. Ở trong đó làm sao có ngã mà nói là biết như vậy, thấy như vậy, đó gọi là thấy pháp?’ Rồi suy nghĩ như vầy: ‘Ở đây, vị nào có khả năng nói pháp cho tôi, khiến tôi biết pháp, thấy pháp?’ Tôi lại nghĩ: ‘Tôn giả A-nan, hiện nay đang ở trong vườn Cù-sư-la nước Câu-diệm-di, đã từng hầu hạ gần gũi đức Thế Tôn, được Phật khen ngợi; được các đồng phạm hạnh thảy đều biết đến. Tôn giả ắt có thể vì ta mà nói pháp, khiến cho ta biết pháp, thấy pháp.’

“Lành thay, Tôn giả A-nan, nay hãy nói pháp cho tôi, khiến tôi biết pháp, thấy pháp.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với Xiển-đà:

“Lành thay! Xiển-đà, tôi rất hoan hỷ. Tôi chúc mừng Nhân giả. Nhân giả đã có thể đối trước đồng phạm hạnh không có gì che dấu, phá bỏ gai nhọn giả dối. [118] Này Xiển-đà, kẻ phàm phu ngu si không có thể hiểu sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức là vô thường; tất cả các hành đều là vô thường, tất cả các pháp đều là vô ngã, Niết-bàn là tịch diệt. Nay thầy có thể nhận lãnh pháp vi diệu hơn hết này. Thầy hãy lắng nghe. Tôi sẽ vì thầy mà nói.”

Ngay khi ấy, Xiển-đà tự nghĩ: “Nay ta rất lạc mừng, có được cái tâm thù thắng vi diệu, được tâm phấn khởi hoan hỷ. Nay ta có thể nhận lãnh được pháp vi diệu thù thắng này.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với Xiển-đà:

“Chính tôi đã từng trực tiếp nghe từ đức Phật dạy Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

“ - Người đời điên đảo nương chấp vào hai bên: hoặc là hữu, hoặc là vô [119]. Người đời thủ các cảnh giới, tâm liền phân biệt chấp trước [120]. Này Ca-chiên-diên, nếu không thọ, không thủ, không trụ, không phân biệt chấp trước ngã; khổ này khi sanh thì sanh, khi diệt thì diệt. [121] Này Ca-chiên-diên, đối với điều đó không nghi ngờ, không mê hoặc, không do [67a] ai khác mà tự mình biết, thì đó gọi là chánh kiến mà đức Như lai đã giảng nói. Vì sao? Này Ca-chiên-diên, vì nếu quán sát như thật về sự tập khởi của thế gian, thì sẽ không sanh ra kiến chấp thế gian là vô. Quán sát như thật về sự diệt tận của thế gian, thì sẽ không sanh ra kiến chấp thế gian là hữu. [122] Này Ca-chiên-diên, Như lai đã xa lìa hai bên, thuyết ở Trung đạo, rằng: cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh; nghĩa là duyên vô minh nên có hành và, cho đến sự tập khởi của sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ. Và rằng, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt; có nghĩa là vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sự diệt tận của sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ.”

Khi Tôn giả A-nan nói kinh này xong, Tỳ-kheo Xiển-đà xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Khi Tỳ-kheo Xiển-đà đã thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, khởi pháp, vượt qua khỏi mọi sự hồ nghi, không do ai khác, đối với giáo pháp của bậc Đại sư, đạt được vô sở úy; rồi cung kính chấp tay bạch Tôn giả A-nan:

“Cần phải như vậy, đồng phạm hạnh có trí, là thiện tri thức, như vậy giáo thọ, giáo giới, nói pháp. Hôm nay tôi từ chỗ Tôn giả A-nan nghe pháp như vầy: ‘Tất cả hành đều không, đều tịch diệt, bất khả đắc, ái tận, ly dục, diệt tận, Niết-bàn; tâm an lạc, hoàn toàn an trụ giải thoát, không còn quay lại, không còn thấy ngã, chỉ thấy chánh pháp.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với Xiển-đà:

“Nay, thầy đã được cái lợi tốt nhất, ở trong pháp Phật sâu xa đã đạt được tuệ nhãn của bậc Thánh.”

Lúc này hai vị chánh sĩ tùy hỷ lẫn nhau, rời chỗ ngồi đứng dậy, họ trở về chỗ ở của mình.

Bài kệ tóm tắt

Ba kinh Thâu-lũ-na,

Vô minh cũng có ba,

Hiện quán và diệt,

Phú-lưu-na, Xiển-đà.

KINH 40. ƯNG THUYẾT [123]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong xóm Tạp sắc mục ngưu [124], ở nước Câu-lưu [125].

Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Ta do tri kiến mà diệt tận các lậu [126], chứ không phải không tri kiến. Thế nào là do tri kiến mà diệt tận các lậu, chứ không phải không tri kiến? Nghĩa là: ‘Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc này, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là sự tập khởi của thức, đây là sự diệt tận của thức.’ Nếu không cần tu phương tiện, tùy thuận thành tựu, mà dụng tâm cầu mong rằng: ‘Mong ta diệt sạch được các lậu, tâm được giải thoát,’ nên biết, Tỳ-kheo kia cuối cùng không thể diệt sạch được các lậu để giải thoát. Vì sao? Vì không tu tập. Không tu tập những gì? Không tu tập niệm xứ, chánh cần, [67b] như ý túc, căn, lực, giác, đạo.

“Cũng như gà mái đẻ ra nhiều trứng, nên không thể thường xuyên ấp, điều hòa nóng lạnh, mà lại mong cho gà con dùng móng chân, dùng mỏ để mổ vỏ trứng chui ra an toàn. Nên biết, gà con kia không đủ sức để dùng móng chân, dùng mỏ mổ vỏ trứng chui ra an tòan. Vì sao? Vì gà mái kia không thể thường xuyên ấp, điều hòa nóng lạnh, nuôi lớn gà con.

“Cũng vậy, Tỳ-kheo không tinh cần tu tập, tùy thuận thành tựu, mà lại mong diệt sạch hết các lậu để giải thoát, việc này không thể có được. Vì sao? Vì không tu tập. Không tu tập những gì? là không tu niệm xứ, chánh cần, như ý túc, căn, lực, giác, đạo.

“ Tỳ-kheo tu tập, tùy thuận thành tựu, tuy không muốn diệt sạch các lậu để giải thoát, nhưng với Tỳ-kheo kia các lậu cũng tự diệt sạch, tâm được giải thoát. Vì sao? Vì nhờ đã tu tập. Tu tập những gì? Tu niệm xứ, chánh cần, như ý túc, căn, lực, giác, đạo.

“Cũng như gà mái khéo nuôi dưỡng con mình, thường xuyên ấp, điều hòa nóng lạnh, cho dù nó không muốn gà con tìm cách tự mổ vỏ trứng để ra, nhưng các con của nó cũng tự tìm đủ cách để thoát ra ngòai một cách an toàn. Vì sao? Vì gà mái thường xuyên ấp, điều hòa nóng lạnh.

“Cũng vậy, Tỳ-kheo khéo cần phương tiện, cho dù không muốn diệt sạch các lậu để giải thoát, nhưng với Tỳ-kheo này các lậu tự hết, tâm được giải thoát. Vì sao? Vì đã nhờ vào sự chuyên cần tu tập. Tu tập những gì? Tu tập niệm xứ, chánh cần, như ý túc, căn, lực, giác, đạo.

"Cũng như một người thợ khéo [127], hay học trò của người thợ khéo, tay cầm cán búa, cầm mãi không rời, dần dần trên cán búa mòn đi, hiện rõ chỗ ngón tay cầm, nhưng chỗ mòn hiện ra vì quá vi tế nên người kia không biết cán búa bị mòn.

“Cũng vậy, Tỳ-kheo tinh cần tu tập, tùy thuận thành tựu, mà không tự mình thấy biết là hôm nay lậu hết chừng mức nào, hay ngày mai lậu hết chừng mức nào; nhưng Tỳ-kheo kia biết là hữu lậu đã hết sạch. Vì sao? Vì nhờ đã tu tập. Tu tập những gì? Tu tập niệm xứ, chánh cần, như ý túc, căn, lực, giác, đạo.

“Cũng như chiếc thuyền lớn đậu bờ biển; trải qua tháng sáu mùa hè [128] bị gió xát, mặt trời nung, dây cột đứt từ từ [129]. Cũng vậy, Tỳ-kheo tinh cần tu tập, tùy thuận thành tựu, tất cả những kết, sử, phiền não, triền [130] dần dần sẽ được giải thoát. Vì sao? Vì nhờ khéo tu tập. Tu tập những gì? Tu tập niệm xứ, chánh cần, như ý túc, căn, [67c] lực, giác, đạo.”

Khi nói pháp này, thì sáu mươi Tỳ-kheo không khởi lên các lậu, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 41. TIỂU THỔ ĐOÀN [131]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo nọ trong khi đang thiền tọa tư duy, suy nghĩ như vầy: ‘Có sắc nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không? Cũng vậy, có thọ, tưởng, hành, thức nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không?’

Vào buổi chiều, sau khi Tỳ-kheo này từ thiền tọa dậy, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, trong khi con đang thiền tọa tư duy, suy nghĩ như vầy: ‘Có sắc nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không? Cũng vậy, có thọ, tưởng, hành, thức nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không?’ Nay, bạch Thế Tôn, có sắc nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không? và có thọ, tưởng, hành, thức nào là thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu không? ”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nhặt một hòn đất nhỏ, [132] hỏi Tỳ-kheo kia:

“Ngươi có thấy hòn đất trong tay Ta không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch  Thế Tôn, con đã thấy.”

Phật lại nói:

“Tỳ-kheo, ngã nhỏ bằng một ít đất như vậy cũng là bất khả đắc. Nếu ngã là khả đắc, nó là pháp thường hằng, không biến dịch, tồn tại mãi mãi.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Ta nhớ lại đời trước, trong thời dài tu phước, đã được quả báo thù thắng vi diệu, khả ái. Ta đã từng trong bảy năm tu tập tâm từ, trải qua bảy kiếp thành hoại, không tái sanh vào thế gian này. Trong bảy kiếp hoại Ta sanh lên cõi trời Quang âm, [133] trong bảy kiếp thành Ta lại sanh vào trong cung điện trống không trong cõi Phạm, làm Đại Phạm vương, thống lãnh thế giới ngàn, không ai hơn, không ai trên. Từ đó trở về sau, ba mươi sáu lần Ta lại làm Thiên đế Thích, rồi lại trăm ngàn lần làm Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh bốn thiên hạ, bằng chánh pháp mà giáo hóa và cai trị; có đầy đủ bảy báu: báu xe, báu voi, báu ngựa, báu ma-ni, báu ngọc nữ, báu đại thần chủ kho tàng, báu đại thần chủ binh. Ta có đầy đủ ngàn người con tất cả đều dõng mãnh. Ở trong bốn biển, đất đai bằng phẳng, không có những thứ gai độc; chỉ dùng chánh pháp để điều phục, chứ không dùng oai thế, hay bức bách.

“Pháp vua quán đảnh [134], có tám vạn bốn ngàn long tượng đều được dùng các thứ báu để trang sức trang nghiêm, lưới báu phủ lên, dựng cờ quý báu; ở đây tượng vương Bố-tát [135] dẫn đầu, hai buổi sáng chiều tự động hội tụ trước điện. Lúc ấy Ta nghĩ: ‘Bầy voi lớn này, mỗi ngày [68a] qua lại đạp chết chúng sanh vô số. Ta ước sao bốn vạn hai ngàn voi, cứ một trăm năm trở lại một lần.’ và sở nguyện của Ta liền được như ý. Trong tám vạn bốn ngàn voi đó, có bốn vạn hai ngàn voi cứ trăm năm đến lại một lần.

“Pháp vua quán đảnh lại có tám vạn bốn ngàn con ngựa; cũng dùng hoàn toàn vàng ròng làm dụng cụ để cưỡi, lưới vàng phủ lên. Ở đây mã vương Bà-la [136] dẫn đầu chúng.

“Pháp vua quán đảnh có tám vạn bốn ngàn cỗ xe bằng bốn loại báu như xe vàng, xe bạc, xe lưu li, xe pha lê; dùng da sư tử, da cọp, da beo, và vải tạp sắc khâm-ba-la [137] phủ lên trên; đứng đầu là xe âm thanh Bạt-cầu Tỳ-xà-da-nan-đề [138].

“Pháp vua quán đảnh thống lãnh tám vạn bốn ngàn thành, nhân dân đông đúc, an lạc, phồn vinh. Đứng đầu là thành Câu-xá-bà-đề [139].

“Pháp vua quán đảnh có tám vạn bốn ngàn cung điện bằng bốn loại báu vàng, bạc, lưu li, pha lê, ma ni; Do-ha [140] là trên hết.

“Này Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh có tám vạn bốn ngàn giường bằng bốn loại báu vàng, bạc, lưu li, pha lê; cùng các loại nệm bằng lụa quý, được trải lên trên nó bằng loại ngọa cụ ca-lăng-già [141], và đặt lên những chiếc gối đỏ.

“Lại nữa, này Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh lại có tám vạn bốn ngàn y phục, gồm bốn thứ như y ca-thi-tế [142], y sô-ma [143], y đầu-cưu-la [144], y câu-triêm-bà [145].

“Lại nữa, này Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh có tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, như nữ Sát-lị, nữ tợ Sát-lị, huống chi là những người nữ khác.

“Lại nữa, này Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh có tám vạn bốn ngàn đồ ăn, thức uống đủ các hương vị.

“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, chỉ có một người được vua chọn để hầu hạ; trong tám vạn bốn ngàn y phục báu, nhà vua chỉ mặc một y; trong tám vạn bốn ngàn giường báu, nhà vua chỉ nằm một giường; trong tám vạn bốn ngàn cung điện, nhà vua chỉ ở một cung; trong tám vạn bốn ngàn thành, nhà vua chỉ chọn ở một thành, đó là Câu-xá-bà-đề; trong tám vạn bốn ngàn xe báu, nhà vua chỉ đi có một xe đó là Tỳ-xà-da-nan-đề-cù-sa [146], để ra khỏi thành du lãm; trong tám vạn bốn ngàn ngựa báu, nhà vua chỉ cưỡi có một con, đó là Bà-la-ha, lông đuôi màu xanh biếc; trong tám vạn bốn ngàn long tượng, nhà vua chỉ cưỡi một voi, đó là Bố-tát-đà [147] để ra khỏi thành du quán.

“Này Tỳ-kheo, ở đây nhà vua nhờ những nghiệp báo gì mà có được những oai đức tự tại như vậy? Ở đây nhờ vào ba loại nghiệp báo. Những gì là ba? Một là bố thí, hai là điều phục, ba là tu đạo. Tỳ-kheo nên biết, [68b] phàm phu vì quen đắm nhiễm ngũ dục nên không biết chán và đủ; còn Thánh nhơn vì đã thành tựu được trí tuệ đầy đủ nên thường biết đủ.

“Này Tỳ-kheo, tất cả các hành, quá khứ diệt tận, quá khứ biến dịch. Các vật dụng tự nhiên kia, và tên gọi của chúng, tất cả đều hoại diệt. Cho nên này Tỳ-kheo, thôi hãy dừng lại với các hành [148] các hành! Hãy nhàm chán, đoạn trừ dục, giải thoát. 

“Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, vô thường.”

“Nếu vô thường thì khổ phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

“Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ là pháp biến dịch, vậy Thánh đệ tử ở trong đó có chấp ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay là vô thường?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, vô thường.”

“Nếu vậy, vô thường là khổ phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

“Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy Thánh đệ tử ở trong đó có chấp ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Những gì thuộc về hữu sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngòai; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau.

“Tỳ-kheo, đối với sắc nên sanh tâm nhàm tởm. Do nhàm tởm mà ly dục, giải thoát. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức nên sanh tâm nhàm tởm. Do nhàm tởm mà ly dục, giải thoát, giải thoát tri kiến: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi Tỳ-kheo kia nghe những gì đức Phật đã dạy, phấn khởi lạc mừng, làm lễ mà lui. Sau đó luôn luôn nhớ về những lời dạy với thí dụ nhúm đất, thầy một mình ở chỗ vắng vẻ, tinh tấn siêng năng tư duy, sống không buông lung. Sau khi sống không buông lung, vị ấy tư duy về lý do mà một thiện gia nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có tín tâm, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,… cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.

 Lúc ấy, Tôn giả này cũng tự biết pháp, tâm đạt được giải thoát, thành bậc A-la-hán. 

KINH 42. BÀO MẠT [149]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trú xứ A-tỳ-đà, bên bờ sông Hằng [150].

 [68c] Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cũng như nước lớn sông Hằng cuộn lên, bọt nước theo dòng chảy mà tụ lại. Nếu như người nào có mắt sáng quán sát, phân biệt thật kỹ; lúc quán sát, phân biệt thật kỹ đó, sẽ thấy rằng không có gì cả, không có gì là bền chắc, không có gì là chắc thật, không có gì là kiên cố. Vì sao? Vì trong nhóm bọt nước nổi kia không có gì là chắc thật. Cũng vậy, những gì thuộc về sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, Tỳ-kheo, hãy quán sát, tư duy, phân biệt thật kỹ, không gì là có, không gì là bền chắc, không gì là chân thật, không có gì là kiên cố; chúng như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì sắc vốn không chắc thật.

“Này các Tỳ-kheo, cũng như trời mưa lớn, bong bóng nước chợt hiện chợt mất. Nếu người nào có mắt sáng quán sát, tư duy, phân biệt thật kỹ; lúc quán sát tư duy, phân biệt thật kỹ đó sẽ thấy rằng không có cả, không gì là bền chắc, không gì là chắc thật, không gì là kiên cố. Vì sao? Vì trong bong bóng nước kia không có gì là chắc thật. Cũng vậy những gì thuộc về thọ, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, Tỳ-kheo, hãy quán sát, tư duy, phân biệt thật kỹ, không gì là có, không gì là bền chắc, không gì là chân thật, không có gì là kiên cố; chúng như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì thọ vốn không chắc thật.

 “Này các Tỳ-kheo, cũng như cuối xuân, đầu hạ, không mây, không mưa, giữa trưa trời nắng gắt, sóng nắng [151] chập chờn, người nào sáng mắt quán sát, tư duy, phân biệt kỹ; khi quán sát, tư duy, phân biệt kỹ thì sẽ thấy rằng không có gì cả, không gì là bền chắc, không gì là chắc thật, không gì là kiên cố. Vì sao? Vì trong quáng nắng kia không có gì là chắc thật. Cũng vậy những gì thuộc về tưởng, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, Tỳ-kheo, hãy quán sát, tư duy, phân biệt thật kỹ, không gì là có, không gì là bền chắc, không gì là chân thật, không có gì là kiên cố; chúng như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì tưởng vốn không chắc thật.

“Này các Tỳ-kheo, cũng như người mắt sáng muốn tìm gỗ cứng chắc, nên cầm búa bén đi vào rừng núi. Thấy một cây chuối lớn, thân dài lớn ngay thẳng, y liền đốn gốc, chặt đứt ngọn nó, lột bỏ hết bẹ, cuối cùng không có gì là chắc thật. Nếu người nào có mắt sáng, quán sát, tư duy, phân biệt; quán sát, tư duy, phân biệt thì sẽ thấy rằng không gì có cả, không gì là bền chắc, không gì là chắc thật, [69a] không gì là kiên cố. Vì sao? Vì trong cây chuối kia không có gì là chắc thật. Cũng vậy những gì thuộc về hành, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, Tỳ-kheo, hãy quán sát, tư duy, phân biệt thật kỹ, không gì là có, không gì là bền chắc, không gì là chân thật, không có gì là kiên cố; chúng như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì hành vốn không chắc thật.

“Này các Tỳ-kheo, Cũng như nhà ảo thuật, hay là học trò của nhà ảo thuật, ở giữa ngã tư đường, huyễn hóa ra binh voi, binh ngựa, binh xa, binh bộ. Ngay khi ấy có người trí mắt sáng, quán sát, tư duy, phân biệt kỹ; khi quán sát, tư duy, phân biệt kỹ, thì sẽ thấy rằng không gì là có, không gì là bền chặt, không gì là chân thật, không có gì là chắc thật. Vì sao? Vì những hiện tượng huyễn hóa kia vốn không chắc thật. Như vậy, này các Tỳ-kheo những gì thuộc về thức, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần, thì Tỳ-kheo nên quán sát, tư duy, phân biệt kỹ, và khi đã quán sát, tư duy, phân biệt kỹ thì sẽ thấy rằng không gì là có, không gì là bền chặt, không gì là chân thật, không có gì là chắc thật; chúng như bệnh hoạn, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì thức vốn không chắc thật.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói lại nghĩa này, nên nói bài kệ:

Quán sắc như bọt nước,

Thọ như bong bóng nước,

Tưởng như quáng nắng xuân,

Các hành như cây chuối,

Các thức pháp như huyễn:

Đấng Nhật thân [152] dạy vậy.

Tư duy kỹ khắp cả,

Chánh niệm khéo quán sát:

Không thật, chẳng kiên cố,

Không có ngã, ngã sở.

Trong thân khổ uẩn này,

Đại Trí phân biệt dạy,

Xa lìa ba pháp này,

Thân thành vật vất bỏ:

Thọ, hơi uẩn, và thức.

Lìa chúng, phần thân khác

Vĩnh viễn vùi gò hoang,

Như gỗ, không thức tưởng.

Thân này thường như vậy,

Huyễn dối dụ người ngu;

Như gai độc, như sát,

Không có gì chắc thật.

Tỳ-kheo siêng tu tập,

Quán sát thân uẩn này,

 [79b]Chuyên tinh luôn ngày đêm,

Chánh trí, buộc niệm lại,

Hành hữu vi ngừng nghỉ,

Vĩnh viễn chốn thanh lương.

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 43. VÔ TRI (1) [153]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Đối với sanh tử vô thỉ, vì bị vô minh che khuất, ái kết [154] buộc ràng, luân hồi trong đêm dài tăm tối, nên không biết được biên tế tối sơ [155] của khổ. Cũng như trăm thứ cỏ cây, lúa thóc mọc trên mặt đất, tất cả đều bị khô héo vì lâu ngày không mưa. Này các Tỳ-kheo, vì bị vô minh che khuất, ái kết buộc ràng, nên chúng sanh sống chết luân hồi. Ái kết không dứt, không chuẩn dứt được khổ. [156]

“Này các Tỳ-kheo, có khi nước trong biển lớn cũng khô cạn vì lâu ngày trời không mưa. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vì vô minh che khuất, ái kết buộc ràng, nên chúng sanh sống chết luân hồi. Ái kết không dứt, không chuẩn dứt được khổ.

“Này các Tỳ-kheo, có lúc, sau một thời gian lâu dài, núi chúa Tu-di [157] tất phải sụp đổ. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vì vô minh che khuất, ái kết buộc ràng, nên chúng sanh sống chết luân hồi. Ái kết không dứt, không chuẩn dứt được khổ.

“Này các Tỳ-kheo, có lúc, sau một thời gian lâu dài, quả đất này bị tan hoại. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vì vô minh che khuất, ái kết buộc ràng, nên chúng sanh sống chết luân hồi. Ái kết không dứt, không chuẩn dứt được khổ.

“Này các Tỳ-kheo, Cũng như con chó bị cột vào trụ. Khi sợi dây chưa bứt, nó lâu dài đi quanh cây trụ, chuyển động luân hồi. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vì chúng sanh ngu si không biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc, nên mãi mãi bị xoay vần qua lại, bị chuyển vần theo sắc. Cũng vậy, nếu không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức, thì sẽ mãi mãi bị xoay vần qua lại, bị chuyển vần theo thức.

“Này các Tỳ-kheo, nó bị chuyển theo sắc, chuyển theo thọ, chuyển theo tưởng, chuyển theo hành, chuyển theo thức. Vì bị chuyển theo sắc nên không thoát khỏi sắc; vì bị chuyển theo thọ, tưởng, hành, thức nên không thoát khỏi thức. Vì không thoát, nên không thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc; biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức, nên không bị chuyển theo thức. Vì không bị chuyển theo, nên thoát khỏi sắc, thoát khỏi thọ, tưởng, hành, thức. Ta nói vị ấy sẽ thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ.”

Phật nói [69c] kinh này xong. Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 44. VÔ TRI (2) [158]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh, trong sanh tử vô thỉ, vì bị vô minh che khuất, ái kết buộc ràng, luân hồi trong lâu dài, mà không biết được biên tế tối sơ của khổ.

“Này các Tỳ-kheo, cũng như con chó bị dây cột vào trụ. Dây trói không đứt, nó xoay chuyển quanh cây trụ; khi đứng, khi nằm, không rời khỏi trụ. Cũng vậy, chúng sanh phàm phu ngu muội, đối với sắc không lìa tham dục, không xa lìa ái, không lìa niệm, không xa lìa khát, luân hồi theo sắc, chuyển xoay theo sắc, khi đứng, khi ngồi, không rời khỏi sắc. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, theo thọ, tưởng, hành, thức chuyển xoay, khi đứng, khi nằm không rời khỏi thức.

“Này các Tỳ-kheo, hãy khéo quán sát tư duy tâm. Vì sao? Vì trong lâu dài tâm bị tham dục làm nhiễm ô, bị sân nhuế, ngu si làm nhiễm uế. Này các Tỳ-kheo, vì tâm nhiễm nên chúng sanh nhiễm; vì tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh [159].

“Này các Tỳ-kheo, Ta không thấy có một sắc [160] mà đa dạng như chim có sắc đốm [161], tâm mình lại còn hơn thế nữa. Vì sao? Tâm chúng sanh kia đa dạng, nên sắc cũng đa dạng. Cho nên này Tỳ-kheo, hãy tư duy quán sát rõ tâm mình. Này các Tỳ-kheo, trong lâu dài tâm bị tham dục làm nhiễm ô, bị sân nhuế, ngu si làm nhiễm uế. Này các Tỳ-kheo, vì tâm nhiễm nên chúng sanh nhiễm; vì tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh.

“Tỳ-kheo, nên biết, ngươi có thấy chim ta-lan-na [162] có nhiều màu sắc không?”

Đáp:

“Thế Tôn, đã từng thấy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, như loài chim Ta-lan-na có nhiều màu sắc, Ta nói tâm của chúng cũng có nhiều như vậy. Vì sao? Vì tâm của chim Ta-lan-na đa dạng, nên màu sắc đa dạng [163]. Cho nên này Tỳ-kheo, hãy tư duy quán sát rõ tâm mình. Này các Tỳ-kheo, trong lâu đời tâm bị tham dục làm nhiễm ô, bị sân nhuế, ngu si làm nhiễm uế. Này các Tỳ-kheo, vì tâm não nên chúng sanh não; vì tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh.

“Cũng như người thợ vẽ, hay học trò của người thợ vẽ, khéo dọn sạch đất, rồi dùng các thứ màu, theo ý mình vẽ nên các loại hình tượng khác nhau.

“Cũng vậy Tỳ-kheo, chúng sanh phàm phu ngu si, không biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc. Không biết như thật về sắc nên thích thú đắm nhiễm sắc. Vì thích thú đắm nhiễm sắc, nên lại sanh ra các sắc vị lai. Cũng vậy, phàm phu ngu si, không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức. Không biết như thật nên thích thú đắm nhiễm thức. Thích thú [70a] đắm nhiễm thức, nên lại sanh ra các thức vị lai. Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức vị lai sẽ sanh nên đối với sắc không giải thoát; đối với thọ, tưởng, hành, thức không giải thoát. Ta nói người này không giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ.

“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc. Biết như thật rồi nên không đắm nhiễm sắc. Không đắm nhiễm nên không sanh ra sắc vị lai. Biết như thật về sự thọ, tưởng, hành, thức; về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức. Biết như thật nên không nhiễm đắm thức, vì không đắm nhiễm nên không sanh ra các thức vị lai. Không thích nhiễm sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên đối với sắc sẽ được giải thoát, và đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sẽ được giải thoát. Ta nói những người này sẽ giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 45. HÀ LƯU [164]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Cũng như nước sông phát xuất từ khe núi, nước sâu chảy siết, dòng nước cuồn cuộn cuốn trôi tất cả những vật chìm nổi. Hai bên bờ sông mọc um tùm nhiều loại cỏ cây, bị dòng nước lớn cuốn rạp cả hai bên bờ. Nhiều người lội qua, số lớn bị nước cuốn trôi, theo dòng chìm đắm; gặp sóng đẩy vào gần bờ, dùng tay chộp lấy cỏ cây, nhưng cây cỏ lại bị đứt, và trở lại theo dòng nước cuốn trôi.

“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, chúng sanh phàm phu ngu muội không biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc; không biết như thật nên đắm nhiễm sắc, ở nơi sắc mà nói sắc là ngã [165], nhưng rồi sắc kia theo đó mà đoạn. Cũng vậy, không biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức,… về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly thức; không biết như thật nên đắm nhiễm thức, nói thức là ngã, nhưng rồi thức kia lại theo đó mà đoạn.

“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc; và vì đã biết như thật nên không đắm nhiễm sắc. Biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; về sự tập khởi của thức, về sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly thức; biết như thật nên không đắm nhiễm thức. Không đắm nhiễm nên tự biết như thế sẽ được Bát Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong,  không còn tái sanh đời sau nữa.’”  

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 46. KỲ LÂM [166]

 [70b] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Những pháp không thích ứng của các ngươi [167], hãy nên lìa bỏ hết. Nếu buông bỏ những pháp này rồi, các ngươi sẽ được an lạc lâu dài.

“Tỳ-kheo, những pháp nào không thích ứng của các ngươi, mà các ngươi phải nhanh chóng lìa bỏ? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phải là pháp thích ứng của các ngươi, hãy lìa bỏ hết. Nếu dứt sạch pháp này rồi các ngươi sẽ được an lạc lâu dài.

“Cũng như cây cối trong rừng Kỳ-hoàn; có người đến chặt cành lá rồi đem đi, các ngươi cũng chẳng lấy làm lo buồn. Vì sao? Vì những cây này chẳng phải ta, chẳng phải sở hữu của ta. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, những gì không là thích ứng của các ngươi, hãy lìa bỏ tất cả. Nếu xa lìa hết rồi, các ngươi sẽ được an lạc lâu dài. Những gì không phải thích ứng của các ngươi? Sắc không phải là thích ứng của các ngươi, hãy lìa bỏ hết. Nếu xa lìa rồi, các ngươi sẽ được an lạc lâu dài. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức không phải thích ứng của các ngươi, hãy nhanh chóng lìa bỏ. Nếu buông bỏ các pháp này rồi, các ngươi sẽ được an lạc lâu dài.

“Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Phật dạy:

“Tỳ-kheo, vậy vô thường là khổ phải không?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Thế Tôn, là khổ.”

Phật bảo:

“Nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy Đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?” [168]

Các Tỳ-kheo đáp:

“Thế Tôn, không.”

“Cũngvậy, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Phật bảo:

“Vô thường là khổ chăng? “

Các Tỳ-kheo đáp:

“Thế Tôn, là khổ.”

Phật bảo:

“Nếu vô thường là khổ, là pháp biến dịch, vậy Đa văn Thánh đệ tử khi ở trong đó có thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Thế Tôn, không.”

“Tỳ-kheo, cho nên, những gì thuộc về sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại; hoặc là trong, hoặc là ngoài; hoặc là thô, hoặc là tế; hoặc là tốt, hoặc là xấu; hoặc là xa, hoặc là gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Thánh đệ tử phải quán sát năm thủ uẩn này chẳng phải ngã, chẳng phải sở hữu của ngã. Lúc quán sát như vậy, trong thế gian không có gì để chấp thủ. [169] Vì không có gì để chấp thủ nên tự đạt Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo [70c] sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.    

KINH 47. THỌ [170]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Tu tập tưởng vô thường [171], tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, điệu mạn [172], vô minh. [173]

“Cũng như người làm ruộng, cuối hạ đầu thu, cày đất cho sâu, làm sạch hết cỏ. Cũng vậy, Tỳ-kheo, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Tỳ-kheo, như người cắt cỏ, tay cầm ngọn cỏ, đưa lên và dũ sạch, tất cả cỏ khô héo đều rơi rớt hết, và lấy được những cộng cỏ dài. Cũng vậy, Tỳ-kheo tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như trái am-la [174] bám lơ lửng trên cây. Một cơn gió mạnh thổi qua cành, quả rụng xuống. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như bên trong lầu gác là nơi chứa các loại gỗ ván quí, bền chắc, để gìn giữ không cho thất lạc. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như trong tất cả dấu chân của chúng sanh, dấu chân voi là lớn hơn, vì nó có thể chứa nhiều dấu chân khác. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như tất cả mọi sông ngòi ở thế gian này đều đổ vào biển cả. Biển cả là hơn hết, vì nó dung nạp tất cả. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như mặt trời xuất hiện, có thể phá tan mọi sự tối tăm của thế gian. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Cũng như Chuyển luân Thánh vương, so với các tiểu vương là tối thượng, tối thắng. Cũng vậy, tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh.

“Tỳ-kheo, làm thế nào để tu tập tưởng vô thường, tu tập nhiều, có thể dứt trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, vô minh?

“Tỳ-kheo ở chỗ đồng trống hay ở trong rừng cây, khéo tư duy chân chánh, quán sát sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức vô thường; tư duy như thế thì dứt hết tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, điệu mạn, [71a] vô minh. Vì sao? Vì nếu người nào tu tập được tưởng vô thường, thì có thể tu tập được tưởng vô ngã. Thánh đệ tử an trú ở tưởng vô ngã, tâm lìa ngã mạn, tùy thuận chứng đắc Niết-bàn.”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.  

KINH 48. ĐÊ-XÁ [175]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Đê-xá [176], cùng với một số đông Tỳ-kheo khác tập họp tại nhà ăn. Tỳ-kheo Đê-xá nói với các Tỳ-kheo:

“Thưa các Tôn giả, tôi không thể phân biệt rõ pháp. [177] Tôi không thích tu phạm hạnh nữa, chỉ thích ngủ nghỉ nhiều, và hoài nghi pháp.”

Bấy giờ trong chúng có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

“Thế Tôn, Tỳ-kheo Đê-xá, nhân lúc chúng tăng tập họp tại nhà ăn, đã nói lên những lời như vầy: ‘Tôi không thể phân biệt rõ pháp. Tôi không thích tu phạm hạnh nữa, chỉ thích ngủ nghỉ nhiều, và hoài nghi pháp.’”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo Đê-xá này là kẻ ngu si, không gìn giữ các căn, ăn uống không có chừng mực; đầu đêm, cuối đêm, tâm không tỉnh thức, giải đãi biếng nhác, không nổ lực tinh tấn, không khéo quán sát tư duy pháp thiện. Tỳ-kheo này mà có thể phân biệt rõ pháp, tâm thích tu phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ, và ở trong chánh pháp mà xa lìa mọi sự nghi hoặc, việc này không thể xảy ra. Tỳ-kheo giữ gìn các căn, ăn uống chừng mực; đầu đêm, cuối đêm, tỉnh thức tinh tấn, quán sát pháp lành; Tỳ-kheo có thể phân biệt rõ pháp, ưa tu phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ, tâm không hoài nghi pháp, điều này có thể xảy ra.”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy đến nói Tỳ-kheo Đê-xá rằng Đạo sư cho gọi.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, xin vâng.”

Sau khi lễ sát chân Phật, Tỳ-kheo kia đến chỗ Đê-xá bảo rằng:

“Trưởng lão Đê-xá, đức Thế Tôn cho gọi thầy.”

Đê-xá vâng lời, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Tỳ-kheo Đê-xá:

“Này Đê-xá, có thật ngươi cùng với nhiều Tỳ-kheo tụ tập tại nhà ăn và tuyên bố những lời như vầy: ‘Thưa các trưởng lão, tôi không thể phân biệt rõ pháp, tôi không thích tu Phạm hạnh, mà chỉ thích ngủ nghỉ nhiều, và còn hoài nghi pháp’?”

Đê-xá bạch Phật:

“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn.”

Phật hỏi Đê-xá:

“Bây giờ Ta hỏi ngươi, hãy trả lời tùy ý.

“Ý Ngươi nghĩ sao? Nếu đối với sắc mà không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa niệm tưởng, không [71b] lìa khát, và sắc này nếu biến đổi hoặc khác đi, ngươi nghĩ thế nào, ngươi có sanh ra buồn lo, khổ não không?”

Đê-xá bạch Phật:

“Đúng vậy, bạch Thế Tôn. Nếu đối với sắc mà chẳng lìa tham, chẳng lìa dục, chẳng lìa ái, chẳng lìa niệm tưởng, chẳng lìa khát vọng, và sắc này nếu biến đổi hoặc khác đi, quả thật con sẽ khởi lên buồn lo, khổ não. Thế Tôn, thật như vậy, không khác.”

Phật bảo Đê-xá:

“Lành thay! Lành thay! Đê-xá, cần phải thuyết pháp như vậy, về sự không ly tham dục.

“Này Đê-xá đối với thọ, tưởng, hành, thức mà chẳng lìa tham, chẳng lìa dục, chẳng lìa ái, chẳng lìa niệm tưởng, chẳng lìa khát; khi thức này nếu biến đổi hoặc khác đi, ý ngươi nghĩ sao, ngươi có sanh ra buồn lo, khổ não không?”

Đê-xá bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy, đối với thức mà chẳng lìa tham, chẳng lìa dục, chẳng lìa niệm tưởng, chẳng lìa khát vọng; khi thức này nếu biến đổi hoặc khác đi, thật sự con sẽ khởi lên buồn lo và khổ não. Thưa Thế Tôn, thật như vậy, không khác.”

Phật bảo Đê-xá:

“Lành thay! Lành thay! Đê-xá, cần phải thuyết pháp như vậy, về sự không ly tham dục đối với thức.”

Phật nói với Đê-xá:

“Ý ngươi nghĩ sao? Nếu đối với sắc mà lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa niệm tưởng, lìa khát; sắc này nếu biến đổi hoặc khác đi, ngươi có sanh ra buồn lo, khổ não không?”

Đê-xá bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không. Thật như vậy, không khác.”

“Ý ngươi nghĩ sao? Đối với thọ, tưởng, hành, thức lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa niệm tưởng, lìa khát; thức này nếu biến đổi hoặc khác đi, ngươi có sanh ra buồn lo, khổ não không?”

Đê-xá bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không. Thật như vậy, chẳng khác.”

Phật bảo Đê-xá:

“Lành thay! Lành thay! Đê-xá, bây giờ Ta sẽ nói thí dụ, người trí sẽ nhờ thí dụ mà hiểu được. Như hai người bạn cùng đi trên một con đường, một người biết rành đường, một người không rành đường. Người không biết nói với người biết như vầy: ‘Tôi muốn đến thành phố kia, thôn ấp kia, làng xóm kia, hãy chỉ đường cho tôi đến đó.’ Khi ấy, người rành đường liền chỉ đường cho người kia, nói rằng: ‘Anh đi theo con đường này, và sẽ thấy hai con đường ở phía trước; bỏ bên trái đi theo lối phải tới trước, và sẽ gặp hầm hố, và dòng sông. Lại bỏ bên trái, theo lối phải, sẽ gặp một khu rừng. Lại bỏ bên trái, theo lối phải, cứ như vậy, từ từ tiến bước về phía trước thì sẽ đến thành kia.’”

Phật bảo Đê-xá:

“Thí dụ này như vầy: người không biết đường là ví cho kẻ phàm phu ngu si, còn người biết đường là ví cho Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác. [71c] Hai con đường trước là chỉ cho sự hồ nghi của chúng sanh. Con đường trái là chỉ cho ba pháp bất thiện: tham, nhuế, và hại tầm [178]. Con đường bên phải là chỉ cho ba thiện tầm: xuất yếu ly dục tầm, bất sân tầm, bất hại tầm [179]. Đi về đường bên trái là chỉ cho tà kiến, tà tư duy, [180] tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, [181] tà niệm, tà định. Đi về đường bên phải là chỉ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Còn hầm hố và dòng nước là chỉ cho sân nhuế, buồn lo, che lấp. [182] Rừng cây là chỉ cho năm công đức của dục. Thành kia là chỉ cho Niết-bàn.”

Phật bảo Đê-xá:

“Phật là vị Đạo sư, vì các hàng Thanh văn mà những gì cần làm đã làm xong. Như nay, vì lòng thương xót, mong muốn mang đến sự lợi ích, an lạc; phận sự Ta đã làm xong. Hôm nay ngươi hãy làm những việc phải làm. Hãy đến dưới bóng cây, hoặc chỗ đất trống, hoặc trong hang núi, trải cỏ làm chỗ ngồi, khéo tư duy chánh niệm, tu tập không buông lung, chớ để tâm hối tiếc về sau này. Nay Ta dạy ngươi như vậy.”

Bấy giờ, Đê-xá nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 49. TRÁCH CHƯ TƯỞNG [183]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong chúng xảy ra một việc tranh cãi nhỏ. Thế Tôn vì sự cố ấy quở trách các Tỳ-kheo. Vào lúc sáng sớm, đức Phật đắp y mang bát vào thành khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài xếp y bát, rửa chân, rồi đi vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây, một mình tĩnh tọa tư duy, suy nghĩ như vầy: ‘Trong chúng vừa xảy ra một việc tranh cãi nhỏ. Ta đã quở trách các Tỳ-kheo. Nhưng trong chúng này có nhiều Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia chưa bao lâu, nếu không thấy Đại sư, có thể họ sẽ khởi tâm hối, buồn rầu không lạc. Ta luôn luôn có lòng thương xót đối với các Tỳ-kheo; nay cũng vì lòng thương xót, Ta nên trở về để nhiếp thủ đồ chúng này.”

Bấy giờ, vua trời Đại Phạm biết được ý nghĩ của Phật, như lực sĩ co duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc ông biến mất khỏi cõi trời Phạm thiên, đến trước Phật bạch:

“Thật vậy, Thế Tôn! Thật vậy, Thiện thệ! Thế Tôn đã quở trách các Tỳ-kheo vì một chút việc tranh cãi nhỏ. Ở trong chúng kia có nhiều Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia chưa bao lâu, nếu không trông thấy Đại sư, có thể họ sẽ khởi tâm hối, buồn rầu không lạc. Thế Tôn luôn luôn vì lòng thương xót, nhiếp thọ chúng Tăng. Lành thay, Thế Tôn! Hôm nay xin Ngài trở về để nhiếp thủ các Tỳ-kheo.”

Bấy giờ, Thế Tôn vì rủ lòng thương tưởng Phạm thiên, Ngài im lặng nhận lời. Khi ấy, trời Đại Phạm biết Thế Tôn đã im lặng nhận lời rồi, đảnh lễ Phật [72a] và đi nhiễu bên phải ba vòng rồi biến mất.

Vua Đại Phạm thiên đi chưa bao lâu, đức Thế Tôn trở về vườn Cấp-cô-độc, trải tọa cụ ngồi ngay thẳng, biểu hiện ra bên ngoài các tướng vi tế, [184] khiến cho các Tỳ-kheo mới dám đến hầu gặp. Các Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật với vẻ mặt đầy hổ thẹn. Sau khi đảnh lễ sát chân Phật rồi, họ ngồi qua một bên.

Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Người xuất gia có cuộc sống thấp hèn [185]; cạo tóc, ôm bát, khất thực từng nhà, cũng như bị cuẩn chú [186]. Sở dĩ như vậy, là vì muốn cầu mục đích cao thượng [187], muốn thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, tận cùng biên tế của khổ.

“Này các thiện nam, các ngươi không vì vua, giặc sai sử, không vì mắc nợ người, không vì khủng bố, không vì mất mạng mà xuất gia, mà chính vì muốn giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ. Các ngươi há không vì mục đích ấy mà xuất gia chăng?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, thật vậy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo :

“Tỳ-kheo các ngươi, vì mục đích cao thượng như vậy mà xuất gia, vậy tại sao ở đây lại còn có kẻ phàm phu ngu si khởi lòng tham dục, sanh ra nhiễm đắm quá mức, sân nhuế, hung bạo, biếng nhác yếu hèn, mất niệm, không định, các căn mê lọan?

“Cũng như người từ tối tăm mà vào tối tăm; từ mờ mịt vào mờ mịt; từ hầm phẩn ra rồi lại rơi vào hầm phẩn; dùng máu rửa máu; lìa bỏ các việc ác, rồi trở lại nắm lấy các việc ác. Ta nói những thí dụ này, Tỳ-kheo phàm phu cũng như vậy.

“Lại cũng như củi thiêu tử thi, bị ném bỏ trên gò mả, không bị tiều phu thu gom. Ta nói thí dụ này, đối với Tỳ-kheo phàm phu ngu si khởi lòng tham dục, sanh ra đắm nhiễm quá mức, sân nhuế hung bạo, biếng nhác yếu hèn, mất niệm không định, các căn tán loạn, cũng lại như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, có ba pháp bất thiện tầm [188], đó là: tham tầm, nhuế tâm, hại tầm. Ba tầm này do tưởng mà sanh khởi. Thế nào là tưởng? Tưởng có vô lượng thứ: tham tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng [189]… Các pháp bất thiện tầm từ đây sanh khởi. Này các Tỳ-kheo, tham tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng; tham tầm, nhuế tầm, hại tầm, và vô luợng thứ bất thiện, làm sao để diệt sạch rốt ráo? Hãy buộc tâm vào bốn niệm xứ, hãy an trụ nơi vô tưởng tam muội, [190] tu tập, tu tập nhiều. Pháp ác bất thiện từ đây diệt hết, dứt sạch không còn sót, là chính nhờ ở pháp này. 

“Người thiện nam, người thiện nữ có tín tâm lạc xuất gia, tu tập vô tướng tam muội; tu tập, nhiều tu tập, sẽ trụ trong cửa cam lồ, [72b] cho đến cứu cánh cam lồ Niết-bàn [191]. Ta không nói cam lồ Niết-bàn này y cứ vào ba kiến. Những gì là ba? Có một hạng chủ trương như vầy, nói như vầy: ‘Mạng tức là thân.’ Lại có hạng chủ trương như vầy: ‘Mạng khác thân khác.’ Lại nói như vầy: ‘sắc là ngã, không hai không khác, tồn tại mãi mãi, không biến đổi.’ Đa văn Thanh đệ tử tư duy như vầy: ‘Trong thế gian có pháp nào đáng để chấp thủ mà không có sai lầm tội lỗi?’ Khi tư duy rồi, họ không thấy một pháp nào khả thủ mà không có sai lầm tội lỗi cả. Nếu ta chấp thủ sắc, tức là có sai lầm tội lỗi. Nếu chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức tức có sai lầm tội lỗi. Đã biết vậy rồi, đối với các pháp thế gian không có gì để chấp thủ, vì không có gì để chấp thủ nên tự mìmh giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong,  không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.  

Bài kệ tóm tắt

Ưng thuyết, tiểu thổ đoàn,

Bào mạt, hai vô tri,

Hà lưu, Kỳ lâm, thọ,

Đê-xá, trách chư tưởng. [192]

KINH 50. SINH DIỆT [193]

 [15b10]Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Những gì Năm? Sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Hãy quán sát năm thủ uẩn này là pháp sanh diệt. Nghĩa là, ‘Đây là sắc; đây là sự tập khởi của sắc; đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là sự tập khởi của… thức này, sự diệt tận của… thức này.’

“Thế nào là sự tập khởi của sắc? Thế nào là sự diệt tận của sắc? Thế nào là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức? Thế nào là sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức?

“Sự tập khởi của ái hỷ là sự tập khởi của sắc; [194] sự diệt tận của ái hỷ là sự diệt tận của sắc. Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành; sự diệt tận của xúc là sự diệt tận của thọ, tưởng, hành. Sự tập khởi của danh sắc là sự tập khởi của thức; sự diệt tận của danh sắc là sự diệt tận của thức.

“Này Tỳ-kheo, như vậy sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, đó là sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc. Như vậy sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức; đó là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 51. BẤT LẠC [195]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Những gì Năm? Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Lành thay! Tỳ-kheo không ưa sắc, không khen ngợi sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc. Lành thay! Tỳ-kheo không ưa thọ, tưởng, hành, thức, không khen ngợi… thức, không chấp thủ… thức, không đắm trước… thức. Vì sao? Tỳ-kheo không ưa sắc, không khen ngợi sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc; đối với sắc sẽ không ưa thích, tâm được giải thoát. Cũng vậy, đối với thọ, [15c] tưởng, hành, thức mà không ưa thức, không khen ngợi thức, không chấp thủ thức, không đắm rước thức; đối với thức sẽ không ưa thích, tâm được giải thoát.

“Tỳ-kheo không ưa sắc, tâm được giải thoát. Cũng vậy, Tỳ kheo không ưa thọ, tưởng, hành, thức, tâm được giải thoát, không sanh không diệt, bình đẳng an trú xả với chánh niệm chánh trí.

“Tỳ-kheo này đã biết như vậy, thấy như vậy rồi, kiến chấp liên hệ biên tế quá khứ [196] vĩnh viễn diệt tận không dư tàn. Khi kiến chấp liên hệ biên tế quá khứ vĩnh viễn diệt tận không dư tàn, kiến chấp liên hệ biên tế vị lai cũng vĩnh viễn diệt tận không dư tàn. Khi kiến chấp liên hệ biên tế vị lai cũng vĩnh viễn diệt tận không dư tàn, kiến chấp liên hệ biên tế quá khứ và biên tế vị lai cũng diệt tận không dư tàn, không còn gì ngăn che. Khi đã không còn gì ngăn che, trong các thế gian đều không có gì để chấp thủ. Không chấp thủ nên cũng không có gì để mong cầu. Không có gì để mong cầu, nên tự mình chứng ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những điều cần làm đã làm xong,  không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 52. PHÂN BIỆT (1) [197]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Có năm thủ uẩn. Những gì Năm? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Thế nào là sắc thủ uẩn? Những gì là sắc, tất cả chúng đều là bốn đại, và sắc do bốn đại tạo; đó gọi là sắc thủ uẩn. Lại nữa, sắc kia là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Nếu sắc thủ uẩn này vĩnh viễn bị đoạn trừ không dư tàn, rốt ráo xả ly, diệt tận, ly dục, tịch diệt, các sắc thủ uẩn khác không tương tục, không xuất hiện, không khởi lên; đó gọi là vi diệu, cũng gọi là tịch tĩnh, cũng gọi là xả ly tất cả hữu dư, ái tận, vô dục, diệt tận, Niết-bàn.

“Thế nào là thọ thủ uẩn? Đó là sáu thọ thân. Những gì là sáu? Thọ phát sanh do xúc con mắt; thọ phát sanh do xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là thọ thủ uẩn. Lại nữa, thọ thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

“Thế nào là tưởng thủ uẩn? Đó là sáu tưởng thân. Nhũng gì là sáu? Tưởng phát sanh do xúc con mắt; cho đến, tưởng phát sanh do xúc của ý. Đó gọi là tưởng thủ uẩn. Lại nữa, tưởng thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

“Thế nào là hành thủ uẩn? Đó là sáu tư thân. Nhũng gì là sáu? Tư phát sanh do xúc con mắt; cho đến, [16a]  tư phát sanh do xúc của ý. Đó gọi là hành thủ uẩn. Lại nữa, hành thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

Thế nào là thức thủ uẩn? Đó là sáu thức thân. Nhũng gì là sáu? Thức thân con mắt; cho đến ý thức thân, đó gọi là thức thủ uẩn. Lại nữa, thức thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

“Này các Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này mà dùng trí tuệ tư duy, quán sát, phân biệt, nhẫn thọ, đó gọi là tùy tín hành, siêu thăng, ly sanh [198], vượt qua khỏi địa vị phàm phu. Nếu chưa đạt được quả Tu-đà-hoàn, mà nửa chừng không chết, thì chắc chắn sẽ đạt được quả Tu-đà-hoàn.

“Này các Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này, mà bằng tăng thượng trí tuệ, tư duy quán sát, nhẫn thọ, đó gọi là tùy pháp hành, siêu thăng, ly sanh, vượt qua khỏi địa vị phàm phu. Nếu chưa đạt được quả Tu-đà-hoàn, mà nửa chừng không chết, thì chắc chắn sẽ đạt được quả Tư-đà-hoàn.

“Này Tỳ-kheo, đối với pháp này nếu bằng trí tuệ chân chánh mà quán sát [199] như thật, ba kết được biết rõ là hoàn toàn đoạn trừ [200]; đó là, thân kiến, giới thủ, nghi. Tỳ-kheo, đó gọi là quả Tu-đà-hoàn, sẽ không rơi vào đường ác, quyết định thẳng đến Chánh giác [201], bảy lần sanh qua lại giữa Trời-người, cuối cùng sẽ cứu cánh biên tế của khổ.

“Này Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này nếu bằng trí tuệ chân chánh mà quán sát như thật, tâm sẽ không khởi lên lậu hoặc, đó gọi là A-la-hán. Khi các lậu đã sạch rồi, những gì cần làm đã làm xong, trút bỏ gánh nặng, đạt được mục đích của mình [202], các kết sử hữu [203] dứt sạch, chánh trí, tâm đạt được giải thoát.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 53. PHÂN BIỆT (2) [204]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Đó là, sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Kẻ phàm phu ngu si không học, không trí tuệ, vô minh, đối với năm thủ uẩn sanh ra ngã kiến buộc vào, khiến cho tâm bị buộc vào mà sanh ra tham dục.

“Này Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử có trí tuệ, có minh, đối với năm thủ uẩn này không bị buộc chặt bỡi ngã kiến, khiến tâm bị trói buộc dính mắc, mà khởi lên tham dục.

“Vì sao kẻ phàm phu ngu si không học, không trí tuệ, không sáng suốt, đối với năm thủ uẩn, bị ngã kiến trói buộc, [16b] khiến cho tâm bị trói buộc dính mắc mà sanh ra tham dục? Này Tỳ-kheo, kẻ phàm phu ngu si không học, không trí tuệ, không sáng suốt, thấy rằng sắc là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau. Cũng vậy, thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Những kẻ phàm phu ngu si không học, không trí tuệ, không sáng suốt như vậy, đối với năm thủ uẩn nói là ngã và bị trói buộc vào, làm cho tâm bị trói buộc mà sanh ra tham dục.

“Vì sao Thánh đệ tử, có trí tuệ, sáng suốt, không cho là ngã trói buộc, khiến kết buộc tâm mà sanh tham dục? Không thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Cũng vậy, đối với thọ tưởng, hành, thức không thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong ngã. Như vậy, Thánh đệ tử, có trí tuệ, sáng suốt, đối với năm thủ uẩn không thấy ngã trói buộc, để khiến trói buộc tâm mà sanh ra tham dục. Nếu những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, nên quán sát đúng tất cả chúng đều là vô thường. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc là quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, thì cũng nên quán sát đúng tất cả chúng đều là vô thường.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 54. PHÂN BIỆT (3) [205]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Đó là, sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Này Tỳ-kheo, nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương có ngã, tất cả y trên năm thủ uẩn này mà chủ trương có ngã. Những gì Năm? Các Sa-môn, Bà-la-môn ở nơi sắc thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Cũng vậy, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Như vậy, kẻ phàm phu ngu si không học, chấp ngã, vô minh, phân biệt quán mà sát như vậy, không lìa ngã sở [206]. Do không lìa ngã sở, nhập vào các căn [207]. Khi nhập vào các căn rồi thì sẽ sanh ra xúc. Sáu xúc duyên vào những gì được xúc, phàm phu ngu si không học sanh ra khổ lạc, từ đó phát sanh ra cái này và những cái khác, đó là sáu xúc thân. Những gì là sáu? Xúc nhập xứ của mắt; xúc nhập xứ của tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

“Này Tỳ-kheo, có ý giới, pháp giới, vô minh giới được chạm bởi vô minh xúc, phàm phu ngu si không học nói là hữu, nói là vô, nói là vừa hữu vừa vô, nói là chẳng phải hữu chẳng phải vô, nói là ta hơn hết, nói là tương tợ, ta biết, ta thấy.

“Lại nữa, này Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử, khi trụ vào sáu xúc nhập xứ mà có thể nhàm chán xa lìa vô minh, có thể sanh ra minh. Người đó đối với vô minh mà ly dục, sanh ra minh, chẳng hữu, chẳng vô, chẳng phải vừa hữu vừa vô, chẳng phải chẳng hữu, chẳng vô, chẳng phải có ta hơn, chẳng phải [16c] có ta kém, chẳng phải có ta bằng, ta biết, ta thấy. Khi biết như vậy, thấy như vậy rồi thì vô minh xúc khởi lên trước kia sẽ diệt, và minh xúc sau sẽ tập khởi.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 55. ƯU-ĐÀ-NA [208]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại giảng đường Lộc-tử-mẫu trong Đông-viên, nước Xá-vệ.

Bấy giờ, buổi chiều, sau giờ Thế Tôn từ thiền tịnh dậy, đến giảng đường, vào trong nhà giảng, trải tòa ngồi trước đại chúng. Rồi thì, Thế Tôn nói kệ ưu-đà-na:

Pháp không có tôi ta,

Cũng lại không của ta;

Ta sẽ không hiện hữu,

Của ta từ đâu sanh? [209]

Tỳ-kheo giải thoát đây,

Đoạn trừ hạ phần kết [210].

Bấy giờ, có Tỳ-kheo rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, quỳ gối phải sát đất, chấp tay bạch Phật rằng:

“Thế nào là không có tôi ta, cũng lại không của ta; cũng sẽ không có ta, của ta từ đâu sanh? Tỳ-kheo giải thoát đây, đoạn trừ hạ phần kết?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Phàm phu ngu si không học, chấp sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau; đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Đa văn Thánh đệ tử, không thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Cũng vậy, không thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau. Cũng chẳng phải là người biết, cũng chẳng phải là người thấy. Sắc này là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Sắc là khổ. Thọ, tưởng, hành, thức là khổ. Sắc là vô ngã. Thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã. Sắc này sẽ không tồn tại. Thọ, tưởng, hành, thức sẽ không tồn tại. Vì sắc này sẽ không tồn tại [211]. Thọ, tưởng, hành, thức không tồn tại. Cho nên, chẳng có ngã, chẳng có ngã sở, ngã, và cũng sẽ chẳng có ngã, ngã sở. Nếu người nào giải thoát như vậy, sẽ đoạn trừ được năm kết sử hạ phần.”

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, khi đã đoạn trừ năm kết sử hạ phần rồi, làm sao để ngay trong đời này tự biết, tự tác chứng, thành tựu và an trú với sự diệt tận các lậu, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, biết rằng: Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Phàm phu chúng sanh ngu si không học, nên ở chỗ không sợ hãi mà sanh ra sợ hãi. Phàm phu chúng sanh ngu si không học sanh ra sự sợ hãi rằng:

Không ngã, không ngã sở;

Cả hai sẽ chẳng sanh.

 [17a] “Do vin bám [212] mà có bốn trú xứ của thức [213]. Những gì là bốn? Thức trụ nơi sắc, vin bám sắc, ham muốn sắc, để tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn. Thức trụ nơi thọ, tưởng, hành, vin bám hành, ham muốn hành, để tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn. Tỳ-kheo, thức ở nơi này, hoặc đến, hoặc đi, hoặc ở, hoặc khởi, hoặc diệt, tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn. Nếu ai nói rằng lại có pháp khác, ở đó thức hoặc đến, hoặc đi, hoặc ở, hoặc khởi, hoặc diệt, tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn; đây chỉ có trên ngôn thuyết, chứ nếu hỏi đến, người ấy sẽ không biết, chỉ tăng thêm ngu si, vì đó chẳng phải là cảnh giới của nó. Vì sao? Tỳ-kheo, xa lìa tham dục đố với sắc giới, [214] triền phược của ý sanh [215] đối với sắc cũng sẽ bị đoạn trừ. Khi triền phược của ý sanh nơi sắc bị đoạn trừ rồi, thì sự vin bám của thức cũng sẽ bị đoạn trừ. [216] Khi ấy, thức không có chỗ trú, cũng không tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn trở lại. Khi triền phược của ý sanh nơi thọ, tưởng, hành giới, nếu đã lìa tham dục rồi, thì sự vin bám của thức cũng sẽ bị đoạn trừ. Khi ấy, thức không có chỗ trú, cũng không tăng tiến, sanh trưởng rộng lớn trở lại. Vì thức không chỗ trụ, nên không tăng trưởng. Vì không tăng trưởng nên không có gì để tạo tác. Vì không có gì để tạo tác cho nên được an trụ. Vì đã an trụ nên biết đủ. Vì đã biết đủ nên được giải thoát. Vì đã giải thoát nên trong các thế gian không có gì để chấp thủ. Vì không có gì để chấp thủ nên không có gì để đắm trước. Vì không có gì để đắm trước nên tự mình giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Này Tỳ-kheo, Ta nói thức không trụ Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn bên, trên, dưới, ngoại trừ ngay trong hiện tại mà muốn nhập Niết-bàn, diệt tận, tịch tĩnh, thanh lương.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 Bài kệ tóm tắt

Sanh diệt và bất lạc

Và ba kinh phân biệt

Quán sát về tham trước

Đó là Ưu-đà-na. 

KINH 56. TH [217]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nên luôn luôn tu tập phương tiện thiền tư [218], cho trong tâm mình tĩnh lặng. Vì sao? Tỳ-kheo luôn tu tập phương tiện thiền tư, trong tâm mình sẽ được tĩnh lặng, nên quán sát như thật. Thế nào là quán sát như thật? Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức, đây là sự tập khởi của… thức, đây là sự đoạn tận của… thức.

“Thế nào là tập khởi của sắc? Tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức? Phàm phu ngu si vô học đối với các thọ khổ, lạc, không khổ-không lạc, [17b] không quán sát như thật rằng đây là sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, sự xuất ly của thọ. Vì không biết quán sát như thật, nên đối với thọ lại ưa thích tham đắm mà sanh ra chấp thủ. Thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não; khối lớn đau khổ như vậy từ tập mà sanh. Đó gọi là sự tập khởi của sắc. Đó là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức.

“Thế nào là diệt tận của sắc? Diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức? Đa văn Thánh đệ tử đối với các thọ khổ, lạc, không khổ không lạc, quán sát như thật rằng đây là sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, sự xuất ly của thọ. Vì quán sát như thật nên đối với thọ sự ưa thích đắm trước bị đoạn trừ. Vì sự đắm trước đã bị đoạn trừ, nên chấp thủ cũng bị diệt. Vì thủ đã bị diệt, nên hữu cũng bị diệt. Vì hữu đã bị diệt, nên sanh cũng bị diệt. Vì sanh đã bị diệt, cho nên lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não cũng bị diệt; khối lớn đau khổ như vậy tất cả đều diệt. Đó gọi là sắc diệt. Đó gọi là thọ, tưởng, hành, thức diệt. Cho nên này Tỳ-kheo, hãy luôn luôn tu tập phương tiện thiền tư, cho tâm mình luôn tĩnh lặng. Tỳ-kheo trụ thiền tư, bên trong tâm luôn tĩnh lặng. Hãy nổ lực siêng năng phương tiện quán sát như thật.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Cũng như kinh quán sát, cũng vậy, có 12 kinh [219] tiếp theo là Phân biệt, Chủng chủng phân biệt, Tri, Quảng tri, Chủng chủng tri, Thân cận, Thân cận tu tập, Nhập, Xúc, và Chứng

KINH 57. SANH [220]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nên luôn luôn tu tập phương tiện thiền tư, cho trong tâm mình tịch lặng. Vì sao? Vì nhờ tu tập phương tiện thiền tư, trong tâm mình đã tịch lặng, để quán sát như thật. Thế nào là quán sát như thật? Quán sát như thật rằng đây là sắc; đây là sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc. Đây là thọ, tưởng, hành, thức, sự tập khởi của… thức, sự diệt tận của… thức.

“Thế nào là tập khởi của sắc? Tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức?

“Này Tỳ-kheo, phàm phu ngu si không học, không quán sát như thật về sự tập khởi của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc, nên ưa muốn sắc kia, khen ngợi yêu đắm, nên sắc sẽ tái sanh lại vào đời vị lai. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nói rộng như vậy. Khi sắc kia sanh; thọ, tưởng, hành, thức sanh, mà đối với sắc không giải thoát; đối với thọ, tưởng, hành, thức không giải thoát, Ta nói người đó sẽ không giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não; thuần khối lớn đau khổ. Đó gọi là sự tập khởi của sắc; là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức.

“Thế nào là sự diệt tận của sắc; sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức?

“Đa văn Thánh đệ tử quán sát như thật về sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, vị ngọt của sắc, sự tai hại của sắc, sự xa lìa sắc, biết như thật. [17c] Do biết như thật nên không thích sắc, không khen ngợi sắc, không ưa đắm sắc, cũng không sanh ra sắc vị lai. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nói rộng như vậy. Sắc không sanh; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, do đó đối với sắc được giải thoát, đối với thọ, tưởng, hành, thức được giải thoát. Ta nói người này giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não, thuần khối lớn đau khổ. Đó gọi là sự diệt tận của sắc; là sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức.

“Cho nên, Tỳ-kheo, nên luôn luôn tu tập phương tiện thiền tư, để bên trong tâm mình tịch lặng, và tinh tấn siêng năng phương tiện quán sát như thật.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Cũng như kinh quán sát, cũng vậy, cho đến kinh Tác chúng, gồm 12 kinh, cũng cần diễn rộng.

KINH 58. LẠC [221]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Hãy thường xuyên tu tập phương tiện thiền tư, cho nội tâm tĩnh lặng. Vì sao? Tỳ-kheo tu tập phương tiện thiền tư, cho nội tâm tĩnh lặng để quán sát như thật. Thế nào là quán sát như thật? Biết như thật đây là sắc; đây là sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức, sự tập khởi của… thức, sự diệt tận của… thức.

“Thế nào là tập khởi của sắc, tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức? Phàm phu ngu si không học, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì không biết như thật nên ưa thích đắm trước vào sắc kia, khen ngợi sắc. Vì ưa thích đắm trước sắc, khen ngợi sắc nên chấp thủ. Thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu, bi, não khổ; thuần khối lớn đau khổ như vậy sanh ra. Đó gọi là sự tập khởi của sắc; là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức.

“Thế nào là sự diệt tận của sắc? sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức? Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì biết như thật, nên không thích đắm sắc, không khen ngợi sắc. Vì không thích đắm trước, khen ngợi sắc cho nên ái lạc bị diệt trừ. Ái lạc diệt nên chấp thủ cũng diệt. Thủ diệt nên hữu diệt. Hữu diệt nên sanh diệt. Sanh đã bị diệt nên lão, bệnh, tử, ưu, bi, não, khổ cũng bị diệt; và như vậy thuần khối lớn đau khổ diệt.

“Thế nào là đa văn Thánh đệ tử biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, và về sự tập khởi của… thức, về sự diệt tận của… thức, về vị ngọt của… thức, về sự tai hại của… thức, về sự xa lìa… thức? Vì đã biết như thật về chúng, nên không thích đắm… thức kia, không khen ngợi… thức. Vì không thích đắm… thức nên ái lạc diệt. Ái diệt, nên thủ diệt. Thủ diệt nên hữu diệt. Hữu diệt nên sanh cũng bị diệt. Sanh diệt nên lão, bệnh, tử, ưu, bi, não, [18a] khổ diệt, như vậy thuần khối lớn đau khổ tất cả đều diệt. Này Tỳ-kheo, đó gọi là sự diệt tận của sắc; là sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Tỳ-kheo nên thường xuyên tu tập phương tiện thiền tư để cho nội tâm được tĩnh lặng.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Cũng như kinh quán sát, cũng vậy, cho đến kinh Tác chúng, gồm 12 kinh, cũng cần diễn rộng.

KINH. 59 LỤC NHẬP XƯ SỨ [222]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nên thường xuyên tu tập phương tiện thiền tư, để cho nội tâm được tĩnh lặng, thì mới quán sát như thật. Thế nào là quán sát như thật? Biết như thật đây là sắc; đây là sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc; và về đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là sự tập khởi của… thức, là sự diệt tận của… thức.

“Thế nào là sự tập khởi của sắc? sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức? Do duyên mắt và sắc nên thức của mắt sanh; ba sự hòa hợp sanh xúc; duyên xúc sanh thọ, duyên thọ sanh ái, cho đến thuần khối lớn đau khổ sanh. Đó gọi là sự tập khởi của sắc. Duyên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Do duyên ý và pháp, thức của ý sanh; ba sự hòa hiệp sanh xúc, duyên xúc sanh thọ, duyên thọ sanh ái. Như vậy, cho đến thuần khối lớn đau khổ sanh. Đó gọi là sự tập khởi của sắc, là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức.

“Thế nào là sự diệt tận của sắc? sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức? Do duyên mắt và sắc nên thức của mắt sanh; ba sự hòa hợp sanh xúc. Khi xúc diệt thì thọ diệt, cho đến thuần khối lớn đau khổ diệt. Duyên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Do duyên ý và pháp, thức của ý sanh; ba sự hòa hợp sanh xúc. Khi xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt… cho đến thuần khối lớn đau khổ diệt. Đó gọi là sự diệt tận của sắc là sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Cho nên này các Tỳ-kheo, nên thường xuyên tu tập phương tiện thiền tư, để cho nội tâm được tĩnh lặng.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Cũng như kinh quán sát, cũng vậy, cho đến kinh Tác chúng, gồm 12, cũng cần diễn rộng.  

Bài kệ tóm tắt

Thọ và sanh và lạc,

Cũng nói lục nhập xứ,

Mỗi một mười hai thứ,

Kinh thiền định tam muội.

KINH 60. KỲ ĐẠO [223]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về con đường dẫn đến sự tập khởi của hữu thân [224], và về con đường dẫn đến sự diệt tận của hữu thân.

“Thế nào là con đường dẫn đến sự tập khởi của hữu thân? Phàm phu ngu si không học, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, [18b] về sự xuất ly sắc. Vì không biết như thật, nên ưa thích sắc, khen ngợi sắc, đắm trước sắc, trụ vào sắc. Vì đã ưa thích sắc, khen nợi sắc, đắm trước sắc, trụ vào sắc, nên yêu thích chấp thủ. Thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não; thuần khối lớn đau khổ như vậy được sanh ra. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nói rộng như vậy. Đó gọi là con đường dẫn đến sự tập khởi của hữu thân. Tỳ-kheo, nên biết, con đường dẫn đến sự tập khởi của hữu thân, chính là con đường dẫn đến sự tập khởi của khổ.

“Thế nào là con đường dẫn đến sự diệt tận của hữu thân? Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì đã biết như thật nên đối với sắc không ưa, không khen, không đắm, không trụ. Vì không ưa, không khen, không đắm, không trụ nên ái lạc sắc kia diệt. Ái lạc diệt, thì thủ cũng diệt; thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não, thuần khối lớn đau khổ như vậy diệt. Cũng như sắc, đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân. Con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân này cũng là con đường đưa đến sự diệt tận của khổ. Cho nên nói là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như kinh Đương thuyết, 2 kinh Hữu và Đương tri cũng vậy. [225]

(tiếp theo từ kinh số 61 đến kinh 112)

 


 [1] Tham chiếu Pāli, S. 22. 12-14. Aniccam.

 [2] Sắc vô thường 色無常. Pāli: rūpaṃ aniccaṃ.

 [3] Hán: yểm li 厭離. Pāli: nibbindati, chán ghét, ghét bỏ.

 [4] Hán: hỷ tham tận 喜貪盡. Pāli: varajjati/ virāga, không còn mê đắm, ly nhiễm, ly tham.

 [5] Pāli: virāgā vimuccati. vimuttasmiṃ vimuttam iti ñāṇaṃ hoti, do ly tham mà được giải thoát. Khi giải thoát, có nhận thức là đã giải thoát.

 [6] Phát biểu của vị đã chứng quả A-la-hán: ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, tự tri bất thọ hậu hữu 我生已盡, 梵行已立, 所作已辦, 自知不受後有. Pāli: khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karanīyaṃ nāparam itthatayāti pajānāti.

 [7] Tham chiếu, S. 22. 15-17. Yad aniccam.

 [8] Pāli, S. 22. 24. Parijānaṃ.

 [9] Hán: bất tri, bất minh, bất đoạn, bất ly dục 不知, 不明, 不斷, 不離欲. Pāli: anabhijānam aparijānaṃ avirājayaṃ appajahaṃ, không thắng trí, không biến tri, không ly tham, không xả trừ.

 [10] S. 35. 27. Parijānanā

 [11] Ly dục tham, các đoạn trên: ly dục. Pāli: viraja, ly nhiễm. Đồng nghĩa với virāga, ly tham.

 [12] S. 22. 29. Abhinandanaṃ (hoan hỷ), và phần cuối 22.24. Parijānaṃ (biến tri).

 [13] Hán: ái hỷ 愛喜. Pāli: abhinandati, hoan hỷ, chào mừng, hoanh nghinh.

 [14] S. 35. 27, Parijānanā.

 [15] S. 22. 29 Abhinandanaṃ.

 [16] S. 22. 9-11. Atītānāgatapaccupanna

 [17] Hán: chánh hướng diệt tận 正向滅盡. Pāli: nirodhāya paṇipanno, tu tập hướng đến sự diệt tận (đối với sắc...).

 [18] Gần giống kinh số 2 trên. S. 22. 15. Yad aniccam.

 [19] Pāli: yad dukkhaṃ tad anattā; yad anattā taṃ netaṃ mama, nesoḥam asmi, na meso attā’ti, cái gì khổ cái đó không phải là tự ngã. Cái gì không phải là tự ngã, cái đó không phải là của tôi, cái đó, nó không phải là tôi; nó không phải là tự ngã của tôi.

 [20] Pāli: evam etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ, điều đó cần được thấy rõ một cách như thực bằng trí tuệ chân chính như vậy.

 [21] Bất lạc 不樂; tức chỗ khác nói là ly dục, hay ly tham. Pāli: virāga.

 [22] Giải thoát giả chân thật trí sanh 解脫者真實智生. Pāli:vimuttasmiṃ vimuttam iti ñāṇaṃ hoti, khi giải thoát, biết rằng ta đã giải thoát. Xem kinh 1 trên.

 [23] Gần giống kinh số 2 và số 9. Pāli: S. 22. 15 Yad aniccam.

 [24] S. 22. 18. Hetu (nhân).

 [25] Pāli: yo pi hetu yo pi paccayo rūpassa uppādāya so pi anicco, cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sự sinh khởi của sắc, cái đó cũng vô thường.

 [26] Giải thoát tri kiến, xem kinh 9 trên.

 [27] Gần giống kinh 11 trên. Pāli, S. 22. 19-20. Hetu.

 [28] Pāli, S. 22. 28. Assāda.

 [29] Pāli: no cedaṃ bhikkhave rūpassa assādo abhavissa na yidaṃ sattā rūpasmiṃ sārajjeyyuṃ, nếu (trước đó) đã không tồn tại vị ngọt của sắc, thì các chúng sanh không thể tham đắm nơi sắc.

 [30] Hán: hoạn 患. Pāli: adīnavo, tai họa, sự nguy hiểm.

 [31] Xuất ly 出離; cũng nói là xuất yếu ; Pāli: nissaraṇa, sự thoát ly, thoát ra khỏi chỗ nguy hiểm.

 [32] Thọ ấm 受陰. Pāli: upādānakkhanda.

 [33] Pāli: (…) sattā sadevakā lokā samārakā sabrahmakā sassamaṇabrāhamaṇiyā pajāya sadevamanussāya nissaṭā visaṃyuttā vippamuttā vimariyādikatena cetasā vaharanti, (do biết rõ nên) các chúng sanh ấy, đối với thế giới này bao gồm Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cùng với trời và người, mà được thoát ly, tách ra khỏi, tự tại, an trú với tâm không bị câu thúc.

 [34] Gần giống kinh 13 trên. Pāli, S. 22. 26-27. Assāda.

 [35] Ư sắc vị hữu cầu hữu hành 於色味有求有行. Pāli: rūpassa assādapariyesanaṃ acariṃ, Ta đã đi để tìm cầu vị ngọt của sắc.

 [36] Tùy thuận giác 隨順覺. Pāli: yad rūpassa assādo tad ajjhagamaṃ, Ta (đã) tiếp cận vị của sắc.

 [37] Pāli, S. 22. 36. Bhikkhu; tham chiếu S. 22. 63-65. Upādiyāmano.

 [38] Độc nhất tĩnh xứ 獨一靜處. Pāli: eko vūpakaṭṭho, cô độc, cách biệt người đời.

 [39] Tín gia phi gia xuất gia 信家非家出家. Pāli: agārasmā anagāruyaṃ pabbajjati, từ bỏ gia đình, ra đi sống không gia đình.

 [40] Hiện pháp tác chứng 現法作證. Pāli: diṭṭhe va dhamme sayaṃ abhiññā sacchikitvā, ngay trong đời nay, bằng thắng trí, tự mình thể nghiệm.

 [41]. Nhược tùy sử sử giả tức tùy sử tử 若隨使使者即隨使死. Cf. Pāli: yaṃ kho bhikkhu anuseti tam anumīyati, nó tiềm phục theo cái gì thì nó chết  theo (suy lường theo) cái đó. Pāli: anuseti, nghĩa đen: nằm theo, tiềm phục, tùy miên; danh từ phát sinh là anusaya: tùy miên, chỉ phiền não tiềm phục (tùy tùng miên phục). Bản Hán hiểu anuseti là do động từ sevati: phục vụ, nên dịch là tùy sử hay sai sử. Pāli: anumīyati. Sớ giải: anumarati, chết theo. Nhưng cũng có thể giải giải thích do động từ mā: anumīyati, được suy lường.

 [42]. Tùy sử tử giả tắc vi thủ sở phược 隨使死者則為取所縛. Pāli, yam anumīyati tena saṃkhaṃ gacchati, nó suy lường theo cái gì, nó được định danh theo cái đó. Xem thêm cht. 9 kinh 16 dưới.

 [43] Pāli: rūpam... anuseti tam anumīyati, nó tiềm phục sắc, nó suy lường theo sắc.

 [44] S. 22. 35. Bhikkhu.

 [45] Tăng chư số 增諸數; nghĩa không rõ. Pāli, thành cú: saṃkhaṃ gacchati, nghĩa đen: đi đến chỗ tính toán; nghĩa bóng: được định danh, hay được định nghĩa. Tham chiếu S. 22. 35: yam anuseti tena saṃkhaṃ gacchati: nó tiềm phục theo cái gì thì nó được định danh theo cái đó. Xem thêm cht. 6 kinh 15 trên.

 [46] S. 22. 68. Anattā, 69. Anattaniya.

 [47] Phi nhữ sở ưng chi pháp 非汝所應之法. Có lẽ Pāli: na-tumhākam, cái không phải của các ngươi. Xem cht. 14 kinh 18 dưới.

 [48] Pāli: taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati, đoạn trừ pháp ấy sẽ dẫn đến lợi ích và an lạc.

 [49] S.22. 33-34. Na-tumhākam (không phải của các ngươi, so sánh dẫn Pāli cht. 14 dưới).

 [50] Pāli: yaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha, này các Tỳ-kheo, cái gì không phải là của các người, hãy loại bỏ cái ấy.

 [51] Pāli: na hi no etaṃ bhante attā vā attaniyam, bạch Thế Tôn, cái đó không phải là tự ngã của con, cũng không phải là sở thuộc của tự ngã của con.

 [52] S. 22. 70. Rajanīyasaṇṭhitaṃ (sự cấu thành, hay tồn tại, bị ô nhiểm).

 [53] Pāli: yaṃ kho bhikkhu rajanīyasaṇṭḥitaṃ tatra te chando pahātabbo, Tỳ-kheo, cái gì là môi trường cho sự ô nhiễm, người phải đoạn trừ sự ham muốn nơi cái ấy.

 [54] Pāli: rūpaṃ kho rajanīyasaṇṭhitaṃ, sắc là môi trường để bị tham nhiễm.

 [55] Nguyên văn trong bản Hán; theo đó, còn một kinh tên là “Thâm kinh” với nội dung hoàn toàn như kinh trên.

 [56] S. 22. 63. Upādiyamāna; S.22. 64. Maññmāna.

 [57] Pāli: upādiyamāno baddho mārassa anupādiyamano mutto pāpimāto, khi chấp thủ thì bị Ma trói chặt. Khi không chấp thủ thì thoát khỏi Ba-tuần (Ác ma).

 [58] Pāli: rūpaṃ upādiyamāno, khi chấp thủ sắc.

 [59] Những câu hỏi của Kiếp-ba.S. 22. 124-125. Kappo.

 [60] Kiếp-ba 劫波. Pāli: Kappo.

 [61] Câu hỏi của Kappa trong bản Pāli giống như của Rāhula, xem cht. 27 kinh tiếp theo.

 [62] S. 22. 91. Rāhulo.

 [63] Pāli: kathaṃ nu kho bhante jānato kathaṃ passato imasmiñ ca saviñīaṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṃkāramānānusayā na honti, Bạch Thế Tôn, do biết như thế nào, thấy như nào mà trong thân có thức này cùng với các tướng bên ngoài không tồn tại các tùy miên tác thành ngã, ngã sở và ngã mạn?

 [64] Phi ngã, bất dị ngã, bất tương tại 非我, 不異 我, 不相在. Pāli: n’etaṃ mama n’eso’ ham asmi na m’ eso attā, cái này không phải của tôi, nó không phải là tôi; nó không phải là tự ngã của tôi.

 [65] Bình đẳng huệ 平等慧. Pāli: sammappañāya, bằng chánh trí, hay nhận thức chân chánh.

 [66] Hán: đoạn ái dục, chuyển khứ chư kết, chánh vô gián đẳng, cứu cánh khổ biên 斷愛欲轉去諸結正無間等究竟苦邊: Pl. abhisamaya (hiện quán); Cf. M. i. 12: acchecchi taṇhaṃ, vivattayi saṃyojanaṃ, sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā, cắt đứt ái, hủy diệt kết sử, chân chánh hiện quán mạn, đoạn tận khổ biên. Sớ giải: trong A-la-hán đạo (arahattamaggo), do sở hành mà quán chiếu mạn rồi do kiến mà đoạn trừ mạn, tức là kiến hiện quán (dassnābhisamayā) và đoạn hiện quán (pahānābhisamayā) đối với mạn (māna).

 [67] Pāli, S.22. 92. Rāhulo.

 [68] Không thấy Pāli tương đương.

 [69] Xem cht. 5 kinh 26 dưới.

 [70] Pāli, S. 22. 115-116. Kathika.

 [71] Pháp sư 法師. Pāli: dhammakathiko.

 [72] Pāli: rūpassa ce bhikkhu nibbidāya virāgāya nirodhāya dhammaṃ deseti, nếu vị ấy nói pháp dẫn đến sự yểm ly, ly tham, diệt tận đối với sắc.

 [73] Pāli, S. 22. 39-41. Anudhamma.

 [74] Pháp thứ pháp hướng 法次法向, hướng đến pháp và thứ pháp, hay tu tập hướng theo tính tuần tự của pháp; tức pháp tùy pháp hành. Pāli: dhammānudhamma-paṭipanno, thực hành pháp và tùy pháp; thực hành tùy thuận theo pháp. Tập dị 6: “Thế nào là pháp tùy pháp hành? Sự xuất ly được dẫn sinh bởi như lý tác ý, các pháp thiện thù thắng được phát sanh bởi viễn ly, tu tập vững chắc, tinh cần không gián đoạn; như vậy gọi là pháp tùy pháp hành.” Sớ giải Pāli: pháp được hành trì theo thứ tự, theo tuần tự, là pháp tùy pháp hành (dhammānudhammapaṭipannaṃ… anulomadhammaṃ pubbabhāpaṭipadaṃ).

 [75] Pāli: rūpassa ce… nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti, là sự thực hành dẫn đến sự yểm ly, ly tham, diệt tận đối với sắc.

 [76] Pāli, tham chiếu các kinh S. 22. 155-116 Kathika, 33. 154. Kathika

 [77] Đắc kiến (hiện) pháp niết bàn 得見法涅槃. Xem cht. 11 dưới.

 [78] Pāli: rūpassa ce nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti, diṭṭhadhamme nibbānapatto, do yểm ly, ly tham, diệt tận đối với sắc mà giải thoát không chấp thủ, đó là chứng đắc Niết-bàn ngay trong hiện tại.

 [79] Pāli, tham chiếu S. 22. 115. Kathika.

 [80] Tam-mật-li-đề 三蜜離提; Pāli: Samiddhi ?

 [81] Pāli, S. 22. 49. Soṇa.

 [82] Thâu-lũ-na  輸屢那. Pāli: Soṇo gahapatiputto.

 [83] Pl.: seyyoham assmī’ti, sadisoham asmī’ti, hīnoham asmī’ti.

 [84] Hán: sắc diệt đạo tích 色滅道跡. Pāli: rūpanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ, sự thực hành dẫn đến diệt tận của sắc.

 [85] Tham chiếu kinh 30, cht.83 trên.

 [86] Bản Hán, Đại Chánh, hết quyển 1.

 [87] Trong ấn bản Cao-li, kinh này là số 256, quyển 10. Đại chánh chọn tạng Cao-li làm để bản nên cũng vậy. Theo bài kệ tóm tắt ở cuối kinh 262 quyển 10, thì các kinh từ số 256-262 là tiếp theo kinh Thâu-lũ-na, thuộc phẩm V. Trưởng lão Ấn Thuận, Hội biên, đưa các kinh này lên quyển 2 cho đúng với kệ tóm tắt. Phật quang Đại tạng, Quốc dịch nhất thiết kinh (Nhật bản) cũng làm như vậy; và thảy đều đánh số lại, từ kinh 33-39. Bản dịch Việt cũng theo cách sắp xếp hợp lý này. Kinh 33, tương đương Pāli, S. 22. 126-128. Samudayadhamma, 129-130. Assāda.

 [88] Pl.: kittāvatā ca avajjāgato hotī’ ti, “cho đến mức nào được gọi là vô minh?”

 [89] Hán: bất tri 不知. Pāli: nappajānati, không nhận thức sâu sắc.

 [90] Pāli: samudayadhammaṃ rūpaṃ… vayadhammaṃ rūpaṃ, sắc là pháp tập khỡi, là pháp băng hoại.

 [91] Vô gián đẳng 無間等; Pāli:abhisamayā; xem cht. 30 kinh 23 trên.

 [92] Nguyên hán: thọ ấm 受陰.

 [93] Đại, kinh 257. Pāli, S.22. 133-135. Koṭṭhika.

 [94] Đại, Kinh 258. Pāli, S. 22. 131-134. Samudaya.

 [95] Đại, Kinh 259. Pāli, S. 22. 122. Sīla, 123. Sutavanta. No 125(34.1)

 [96] Vô gián đẳng 無間等. Theo nội dung của kinh, đây chỉ giai đoạn tu tập trước khi chứng Dự lưu; do đó, có thể gọi là giai đoạn hiện quán Thánh đế. Cf. S. ii. 134: dhammābhisamayo. Sớ giải: paññāya saccāni abhíametvā, do tuệ mà chứng nghiệm (hiện quán) các Thánh đế.

 [97] S.22. 122, Koṭṭhika hỏi: sīlavātavuso sāriputta bhikkhunā katame dhammā yoniso manasikātabbā, Tỳ-kheo có giới cần tư duy như lý về những pháp nào?

 [98] Thị sở ưng xứ 是所應處. Pāli: yoniso manasi katabbā, cần phải tư duy một cách như lý.

 [99] Pāli, Koṭṭhika hỏi: sotāpannena... bhikkhunā katame dhammā yoniso katabbā, Tỳ-kheo đã chứng quả Dự lưu cần tư duy như lý những pháp nào?

 [100] Bốn tư duy thắng tiến (Cf. Du-già 86, tr. 779b15): 1. Để đắc pháp chưa đắc, chỉ quả Tu-đà-hoàn; 2. Lãnh hội pháp chưa lãnh hội, chỉ Tư-đà-hàm; 3. Chứng pháp chưa chứng, chỉ A-la-hán; 4. Hiện pháp lạc trụ: A-la-hán không còn gì phải học nữa, nhưng luôn luôn tu tập tứ thiền để có hiện pháp lạc trú. Cf. Pāli: ime dhammā bhāvitā bahulīkatā diṭṭhadhammasukhavihārā ceva saṃvattanti satisampajaññā cāti, những pháp này được phát triển, được thực hiện thường xuyên sẽ đưa đến hiện pháp lạc trú, có chánh niệm và chánh trí.

 [101] Đại, Kinh 260.Không thấy Pāli tương đương.

 [102] Cf. S. iii.25: rūpaṃ kho ānanda aniccaṃ sankhatam paṭiccasamuppadaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ, sắc là vô thường, được tạo tác, do duyên khởi, là pháp diệt tận, là pháp hủy hoại, là pháp xả ly, là pháp tiêu diệt.

 [103] Đại, kinh 261. Pāli, S. 22. 83. Ānando.

 [104] Câu-diệm-di quốc Cù-sư-la viên 拘睒彌國瞿師羅園. Pāli: Kosambī Ghositārāma.

 [105]. Phú-lưu-na Di-đa-la-ni Tử 富留那彌多羅尼子. Pāli: Puṇṇa Mantā.

 [106] Văn Hán dịch hàm hồ, không xác định chủ ngữ và vị ngữ: 富留那彌多羅尼子年少初出家時 (…), cần thêm những từ thích hợp để rõ nghĩa. Xemlời A-nan tự nói ở đoạn cuối kinh. Cf. S 22. 83 (iii. 105): (...) mantāniputto amhākaṃ navaṃ bahūpakāro hoti, Mantāputta giúp ích chúng tôi những người mới xuất gia rất nhiều.

 [107] Sanh pháp kế thị ngã, phi bất sanh 生法計是我, 非不生. Pāli: upādāya asmi ti hoti, no anupādāya, do chấp thủ mà nói rằng ‘tôi hiện hữu,’ chứ không phải không chấp thủ. Bản Hán, đọc là uppādāya (sanh khởi), thay vì upādāya (chấp thủ).

 [108]  Hán: sắc sanh 色生. Pāli: rūpaṃ upādāya, do chấp thủ sắc. Xem cht. 27 trên.

 [109] Pāli: (...) upādāya passeyya no anupādāya, (như người nhìn vào gương sáng), do chấp thủ mà thấy, không chấp thủ thì khong thấy.

 [110] Đại, Kinh 262. Pāli, S. 22. 90. Channo.

 [111] Ba-la-nại quốc, Tiên nhân trụ xứ, Lộc dã uyển 波羅奈國仙人住處鹿野苑. Pāli: Bāraṇasiyaṃ Isipatane Migadāye.

 [112] Xiển-đà 闡陀. Pāli: Channo.

 [113] Hán: phòng 房, nên hiểu là tăng xá. Pl.:vihāra.

 [114] Pāli: yathāhaṃ dhammaṃ passeyyan ti, tôi có thể như vậy mà quán sát pháp.

 [115] Pāli: sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā.

 [116] Pāli (S. III. 134): atha ca me sabbasaṅkhārasamathe sabbūpadhipaṭinissage taṇhakkhaye virāge nirodhe nibbāne cittaṃ na pakkandati nappasīdati na satiṭṭhati nādhimuccati, nhưng, trong sự tĩnh chỉ của hết thảy hành, trong sự xả bỏ sanh y, trong sự diệt tận tham ái, trong ly dục, tịch diệt, Niết-bàn, tâm của tôi không thăng tiến, không lắng tịnh, không an trú, không được thắng giải thoát.

 [117] Pāli, thành cú: sambhāvito viññūnaṃ sabrahmacārīnam, được ác đồng phạm hạnh có trí tôn kính.

 [118] Nói như vậy, vì Xiển-đà (tức Xa-năc) trước nổi tiếng ngoan cố khó bảo (ác tánh bất thọ nhân ngữ; Pl.: dubbacajātiko) đến mức bị phạt phạm-đàn (brahmadaṇḍa) tức bị mặc tẫn.

 [119] Hữu vô有無. Pāli: atthitā natthitā, tồn tài, không tồn tại, hay hữu thể và vô thể.

 [120] Pāli: upayupādānābhivinisesavinibandho, bị buộc chặt vào thành kiến và chấp thủ phương tiện.

 [121]. Pāli: dukkham eva uppajjamānaṃ uppajjati, dukkham nirujjhamānaṃ nirujjhati, na kaṅkhati na vicikicchati, khổ này khi đang sanh thì nó sanh; khi đang diệt thì khổ diệt; vị ấy không hoài nghi, không do dự.

 [122] Pāli: lokasamudayaṃ kho kaccāna yathābhūtaṃ sammappaññāya passato yā loke natthitā sā na hoti; lokaniradhaṃ... yā loke atthitā sā na hoti, nếu bằng trí tuệ chân chánh mà quán sát như thực sự tập khởi của thế gian, thì đối với thế gian, không có ý niệm về vô. Quán sát sự tịch diệt của thế gian... không có ý niệm về hữu.

 [123] Đại, kinh 263. Pāli, S. 22. 101. Vāsijaṭa.

 [124] Tạp sắc mục ngưu tụ lạc 雜色牧牛聚落; nghĩa đen: xóm nuôi bò vện (đốm). Có lẽ dịch nghĩa từ Pāli: Kammāsadhamma, một thị trấn ở nước Kuru mà Phật hay dừng chân. Trong bản Hán, dhamma (pháp), được đọc là damma: huấn luyện, do đó dịch là chăn nuôi. Bản Pāli tương đương, S 22. 101: Sāvatthinidānam, nhân duyên ở Xá vệ.

 [125] Câu-lưu quốc 拘留國. Pāli: kuru.

 [126] Pāli: jānato ahaṃ bhikkhave passato āsavānaṃ khyaṃ vadāmi, “Ta nói, này các Tỳ-kheo, do biết, do thấy, các lậu bị diệt tận.”

 [127] Công xảo sư 工巧師. Pāli: palagaṇḍa: thợ đẻo đá, thợ xây dựng.

 [128] Hạ lục nguyệt 夏六月. Pāli: vassamāsāni udake pariyādāya, các tháng mùa mưa ở trên nước.

 [129] S 22. 101: mùa mưa thuyền ở trên nước, đến mùa đông, thuyền mắc cạn. Giây nhợ các thứ dần dần bị đứt.

 [130] Các từ chỉ phiền não: kết hay kết phược (Pāli: samyojana), sử hay tùy miên (Pāli: anusaya), phiền não (kilesa), triền hay triền phược (Pāli: pariyuṭṭhāna). Bản Pāli chỉ kể samyojana.

 [131] Nắm đất nhỏ. Đại, kinh 264. Pali, S. 22. 96 Gomaya (phân bò); 97. Nakkhasikhā (móng tay)

 [132] Tiểu thổ đoàn 小土摶. Pāli: S. 22. 96: gomaya: cục phân bò; S. 22. 97: parittaṃ nakkhasikhāya paṃsuṃ, lấy một ít bụi bằng đầu móng tay.

 [133] Quang âm thiên. Pl.: Ābhassara.

 [134] Chỉ vào một tiền kiếp của Phật. Quán đảnh vương 灌頂王,. Pāli: rājā muddhāvasitto.

 [135] Bố-tát tượng vương 布薩象王 . Pāli: Uposatha-nāgarāja.

 [136] Bà-la mã vương 婆羅馬王. Pāli: Valāhaka-assa-rāja.

 [137] Khâm-bà-la 欽婆羅. Pāli: kambala, vải bằng lông thú.

 [138] Bạt cầu Tì-xà-da-nan-đề 跋求毗闍耶難提. Pāli: Vejayanta, cỗ xe Chiến thắng của Đế Thích, phát ra âm thanh khủng khiếp (Pāli: bakkula, Hán âm là bạt-cầu). Xem thêm cht. 66 dưới.

 [139] Câu-xá-bà-đề 拘舍婆提. Pāli: Kusāvtī.

 [140] Do-ha 由訶; phiên âm của vyūha: trang nghieâm. Pāli: Mahā-vyūha-kūṭāgāra, đại lâu các Trang nghiêm.

 [141] Ca-lăng-già 迦陵伽. Pāli: kadaliṅga: một loại sơn dương.

 [142] Ca-thi-tế y 迦尸細衣 . Pāli: koseyya, vải lụa (quyến).

 [143] Xô-ma y 芻摩衣. Pāli: khoma, vải gai.

 [144] Đầu-cưu-la y 頭鳩羅衣. Pāli: dukūla, vải gai vàng (hoàng ma).

 [145]. Câu-triêm-bà y 拘沾婆衣; không rõ vải gì. Hoặc Pāli: kojava, thảm lông dê. Bốn loại vải theo bản Pāli: khoma, koseyya, kambala, kappāsika.

 [146] Tì-xà-da-nan-đề Cù-sa 毘闍耶難提瞿沙. Pāli: Vejayanta-ghosa (? Âm thanh Chiến thắng), xem cht. 58 trên.

 [147] Tức voi Bố-tát nói trên.

 [148] Vĩnh tức chư hành 永息諸行. Pāli: alam eva sabbasaṅkhāresu nibbindatum, thôi đủ tồi, hãy nhàm tởm hết thảy các hành.

 [149] Bọt nước. Đại, kinh 265. Pāli, S. 22. 95. Pheṇa.

 [150] A-tỳ-đề-đà xứ Hằng hà 阿毘陀處恒河側. Pāli: ayujjhāyaṃ viharati gaṅgāya nadiyā tire.

 [151] Nguyên Hán: dã mã 野馬 (ngựa đồng); Pāli: marīcikā, quáng nắng; chỉ ảo ảnh bất thực.

 [152] Hán: Nhật chủng tánh tôn 日種姓尊. Pāli: Ādiccabandhu, bà con với Mặt trời, chỉ dòng họ Thích, được coi là có nguồn gốc từ Mặt trời.

 [153] Đại, kinh 266. Pāli, S. 22. 99. Gaddula (dây trói) (1).

 [154] Ái kết 愛結. Pāli: taṇhasaṃyojana.

 [155] Bản tế 本際. Pāli: pubbā koṭi.

 [156] Bất tận khổ biên 不盡苦邊. Pāli: na... dukkhassa antakiriyaṃ.

 [157] Tu-di sơn vương 須彌山王. Pāli: Sineru pabbatarājā.

 [158] Đại, kinh 267. Pāli, S. 22. 100 Gaddula (2).

 [159] Pāli: cittasaṃkilesā bhikkhave sattā saṃkilissanti; cittavodānā sattā visujjhanti, tâm ô nhiễm nên chúng sanh ô nhiểm; tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh.

 [160] Nhất sắc chủng chủng 一色種種; có lẽ Pāli: ekanikāyam pi... evam cittaṃ, một bộ loại đa dạng như vậy..

 [161] Ban sắc điểu 斑色鳥. S 22. 100: tiracchānagatā pāṇā, các sinh vật thuộc động vật đingang.

 [162] Ta-lan-na điểu 嗟蘭那鳥; có lẽ phiên âm từ caraṇa, một loại tranh về đề tài “đức hạnh” (caraṇa), vẽ để khuyên đời. Pāli: caraṇam nāma cittam; bức họa màu có tên là caraṇa.

 [163] Pāli: caraṇaṃ nāma cittaṃ cittena cittitaṃ, bức họa craịa ấy do tâm nên có nhiều màu sắc. Trong bản Pāli, hai citta với hai nghĩa khac nhau: tranh vẽ màu và tâm. Trong bản Hán hiểu hai chữ đều là tâm cả.

 [164] Dòng sông. Đại, kinh 268. Pāli, S. 22. Nadī.

 [165] Pāli, thành cú: rūpaṃ attato samanupassati, rūpavantaṃ vā attānaṃ; attāni vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ, nó quán sắc là tự ngã, hay tự ngã có sắc, hay sắc trong tự ngã, hay tự ngã trong sắc.

 [166] Đại, kinh 269. Pāli, S. 22. 33-34. Natuṃhākaṃ (không phải của các ngươi).

 [167] Phi nhữ sở ưng pháp 非汝所應. Pāli: na-tumhākaṃ, không phải của các ngươi.

 [168] Xem cht.72 kinh 45 trên.

 [169] Pāli., thành cú: na ca kiñci loke upādiyati.

 [170] Đại, kinh 270. Pāli, S.22. 102 Aniccatā.

 [171] Vô thường tưởng 無常想. Pāli: aniccasaññā.

 [172] Điệu (trạo) mạn 掉慢. Pāli: amismāna: ngã mạn phúc cảm về cái tôi.

 [173] Pāli: kāmarāga, rūparāga, bhavarāga, avijja, asmimāna, dục ái, sắc ái, hữu ái, vô minh, ngã mạn.

 [174] Am-la quả 菴羅果. Pāli: ambapiṇḍi, quả xoài.

 [175] Đại, kinh 271. Pāli, S. 22. 84. Tisso.

 [176] Đê-xá 低舍. Pāli: Tisso bhagavato pitucchāputto, Tissa, con trai của bà cô của Thế Tôn, tức em cô cậu.

 [177] Pāli: dhammāpi maṃ na paṭibhanti, tôi không hiểu rõ các pháp.

 [178] Ba bất thiện giác 三不善覺, tức ba bất thiện tầm, tức ba sự trầm tư hay suy tầm bất thiện. Xem No 1(9) Chúng tập. Pāli: tayo akusalavitakkā. D. 33. Saṅgiti.

 [179] Ba thiện giác 三善覺, ba thiện tầm; xem No 1(9 ) Chúng tập; D. 33. Saṅgīti.

 [180] Nguyên Hán: tà chí.

 [181] Nguyên Hán: tà phưpưng tiện.

 [182] Pl.: sobbho papāto ti kodhūpāyāsā…, vực nước sâu chỉ cho phẫn nộ và ưu não.

 [183] Đại, kinh 272. Pāli, S. 22. 80. Piṇḍolyaṃ (khất thực).

 [184] Biểu hiện vi tướng表現微相. S 22. 80: tathārūpaṃ iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhasi, hiển hiện như ý hành (hiện thần thông): khiến từng nhóm hai Tỳ kheo đi đến.

 [185] Hán: ti hạ hoạt mạng 卑下活命. Pāli: antam idam jīvikānaṃ yadidam piṇdolyaṃ, đây là nghề sinh sống rất thấp, đó là nghề xin ăn.

 [186] Pāli: abhisāpāyaṃ lokasmiṃ, trong thế gian có lời nguyền rủa này.

 [187] Nguyên Hán: thắng nghĩa 勝義.

 [188] Nguyên hán: bất thiện giác 不善覺.Pl.: tayo akusalavitakkā – kāmavitakko, vyāpādavitakko, vihiṃs avitakko.

 [189] Ba bất thiện tưởng, xem No 1(9) Chúng tập. Pāli, tisso akusalasaññā - kāmasaññā, vyāpādasaññā, vihiṃsāsaññā; D. 33. Saṅgīti.

 [190] Vô tưởng tam-muội 無相三昧. Pāli: animitta samādhi, vô tướng định.

 [191] Chỉ Niết bàn bất tử.

 [192] Bản Hán, Đại chánh, hết quyển 10.

 [193] Đại, quyển 3, kinh 59. Quốc dịch nhất thiết kinh, quyển 4 kinh 96. Phật quang quyển 3, kinh 50. Hội biên, kinh 56. Pāli, S. 22. 5. Samādhi.

 [194] Pāli (S. iii.18): rūpaṃ abhinandatiabhivadati ajjhosāya tiṭṭhati, hoan hỷ sác, tán thán sắc, đắm nhiễm nơi sắc.

 [195]  Đại, kinh 60. Pāli, S. 22. 5. Samādi.

 [196]  Tiền tế 前際, biên tế phía trước, chí quả khứ tối sơ: đời trước ta hiện hữu hay không hiện hữu?

 [197]  Đại, kinh 61. Pāli, S. 22. 5. Samādhi.

 [198]  Siêu thăng ly sanh 超昇離生, cũng nói nhập chánh tanh ly sanh. Sát na đầu tiên chứng dự lưu, thể nhập bản tính của Thánh, rời khỏi bản tính chúng sanh.

 [199]  Nguyên Hán: đẳng quán 等觀, tức Pāli: samanupassati.

 [200]  Tận đoạn tri 盡斷知, hoặc nói là đoạn biến tri, hay biến tri đoạn: đoạn trừ rốt ráo, toàn diện.

 [201]  Trong bản: tam-bồ-đề 三菩提, tức Pāli: sambodhi.

 [202]  Hán: đãi đắc kỷ lợi 逮得己利.

 [203]  Hữu kết, phiền não dẫn đến tái sanh, trói buộc vào tái sanh. Pāli: bhavasaṃyojana.

 [204]  Đại, kinh 62.

 [205]  Đại, kinh 63. Pāli, S. 22. 47. Samanupassanā.

 [206]  Pāli (S.iii. 46): samaupassanā asmī ti cassa avigataṃ, quán sát như vậy thì không rời khỏi ý tưởng “Tôi hiện hữu” (ngã kiến).

 [207]  Pāli: avigata pañcanaṃ indriyānaṃ avakkanti, khi không rời, năm căn hiển hiện.

 [208]  Đại, kinh 64. Pāli, S. 22. 55. Udānaṃ.

 [209] S iii. 56: no cassaṃ no ca me siyā, nābhavissa na me bhavissati, “(trước đây) tôi đã không hiện hữu, cái của tôi có thể không hiện hữu; tôi sẽ không hiện hữu, cái của tôi sẽ không hiện hữu.” Sớ giải (SA. ii. 275): sace ahạm na bhaveyyaṃ, mama parikkhāropi na bhaveyyaṃ, “nếu tôikhông tồn tại, tư hữu của tôi cũng không tồntại.”

 [210] Hạ phần kết 下分結. Pāli: orambhāgiyāni saṃyojāni.

 [211]  Hán: hoại hữu 壞有. Pāli: rūpaṃ vibhavissati, sắc ly hữu, sẽ không tồn tại.

 [212]  Hán: phan duyên 攀緣.

 [213]  Tứ thức trú 四識住.

 [214] Sắc giới, Pli.: rūpadhātu.

 [215] Ý sanh phước 意生縛.

 [216] S. iii. 58: rāgassa pahānā vocchijatārammaṃ patiṭṭhā viññāṇaṃ na hoti, “do đoạn trừ tham, sở duyên bị cắt đứt, y xứ của thức không tồn tại.”

 [217]  Đại, kinh 65. Pāli, S. 22. 5. Samādhi (Xem các kinh 50-53); S. 22. 6. Paṭisallāna.

 [218]  Thiền tư 禪思. Pāli: paṭisallāna, sống cô độc tại một nơi thanh vắng; yển tọa, độc cư.

 [219]  Trong bản Đại, ghi là 2 kinh. Theo các bản, Phật quang, Quốc dịch và Ấn Thuận, đều đính chính là 12.

 [220]  Đại, kinh 66. Pāli, S. 22. 7. Upādāparitassanā.

 [221]  Đại, kinh 67.

 [222]  Đại, kinh 68.

 [223] Đại chánh, kinh 69. Pāli, S. 22. 44. Paṭipadā.

 [224]  Hữu thân tập thú đạo 有身集趣道. Pāli: sakkāyasamudayagāminipaṭipadā.

 [225]  Kinh này cũng được gọi là đương thuyết (sẽ nói), vì bắt đầu bằng 2 chữ như vậy. Hai kinh tiếp theo hoan toàn đồng nhất với kinh này, nên không chép. Đây lời của người truyền kinh.